Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh Sa mộc (Cunninghamia lanceolata (Lamb.) Hook) ở vùng Đông Bắc Bộ.Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh Sa mộc (Cunninghamia lanceolata (Lamb.) Hook) ở vùng Đông Bắc Bộ.Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh Sa mộc (Cunninghamia lanceolata (Lamb.) Hook) ở vùng Đông Bắc Bộ.Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh Sa mộc (Cunninghamia lanceolata (Lamb.) Hook) ở vùng Đông Bắc Bộ.Nghiên cứu một số cơ sở khoa học trồng rừng thâm canh Sa mộc (Cunninghamia lanceolata (Lamb.) Hook) ở vùng Đông Bắc Bộ.
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tổng quan nghiên cứu về Sa mộc trên thế giới
1.1.1 Đặc điểm phân loại, hình thái, công dụng của Sa mộc
Sa mộc (Cunninghamia lanceolata) là một loài cây thuộc họ Bụt mọc (Taxodiaceae), với chi Cunninghamia bao gồm hai loài chính: Cunninghamia lanceolata và C konishi Trong đó, C konishi có kích thước nhỏ hơn so với C lanceolata, như đã được nghiên cứu bởi Dallimore và cộng sự vào năm 1931.
Sa mộc là cây gỗ lớn, thường xanh, với tốc độ sinh trưởng nhanh và sản lượng gỗ cao, chất lượng tốt Cây có thân thẳng, tròn, có thể đạt chiều cao lên tới 50 m và đường kính tối đa 3 m, tán lá hình kim tự tháp hoặc hình nón, màu xanh đậm Vỏ cây có màu xám sẫm đến nâu sẫm hoặc đỏ nhạt, nứt không đều và có mùi thơm đặc trưng Cành cây mọc xoắn quanh thân và phân cành theo hướng ngang, trong khi lá dày, cứng và mọc thành hình xoắn ốc.
Cây có hai hàng lá thẳng hoặc cong hình lưỡi liềm, dài từ 0,8 đến 6,5 cm và rộng từ 1,5 đến 5 mm Hạt của cây có kích thước 12x8 mm, khi còn non có màu xanh, và khi chín sẽ chuyển sang màu nâu đỏ, với hình dạng trứng hoặc hình cầu Mỗi vảy trên cây chứa 3 hạt, và hạt có cánh nhỏ Cây bắt đầu ra nón từ 6-8 tuổi, thường diễn ra từ tháng 2 đến tháng 5, và nón sẽ chín từ cuối tháng 8 đến tháng 11 (Thực vật chí Trung Quốc, 1982).
Gỗ Sa mộc là loại gỗ mềm nhưng bền, có thớ thẳng và màu sắc từ trắng đến vàng nhạt, với khối lượng thể tích từ 0,4-0,5 g/cm³ Loại gỗ này được ứng dụng rộng rãi trong xây dựng, làm cột, cầu, thuyền, phương tiện vận tải, đồ gia dụng và là nguồn củi đun hiệu quả Tại Trung Quốc, gỗ Sa mộc chiếm từ 20-30% sản lượng gỗ thương mại Ngoài ra, vỏ Sa mộc được sử dụng để sản xuất tannin, trong khi cành nhỏ được chiết xuất tinh dầu để làm nước hoa Các sản phẩm từ cây Sa mộc còn có công dụng trong y học, như trị các vết thâm tím, giảm đau và chữa lành vết thương (Chang và cộng sự, 1988).
Sa mộc, với dáng đẹp và khả năng chống sâu bệnh tốt, là lựa chọn lý tưởng cho việc trồng rừng ở vùng á nhiệt đới Loài cây này thường được kết hợp trong hệ thống nông lâm với các loại cây trồng như ngô, đậu, lúa mì, khoai tây, lạc, thuốc lá và lúa nương Ngoài ra, sa mộc còn được trồng hỗn giao với các cây đa tác dụng như trẩu và sở, đồng thời cũng được sử dụng làm cây cảnh quan tại các đường phố và công viên (Chang và cộng sự, 1988).
Sa mộc được trồng làm cây cảnh ở nhiều nước Châu Âu, Vương Quốc Anh và Mỹ, nhưng không thành công khi trồng thành rừng tập trung do không thích ứng với điều kiện khí hậu tại đây (FAO, 1982).
Rừng trồng Sa mộc ở các độ tuổi 34, 22 và 10 cho sinh khối lượng cành, lá khô hàng năm lần lượt là 4,88, 3,73 và 3,29 tấn/ha/năm Tổng chất dinh dưỡng trả lại đất hàng năm từ rừng này liên quan đến Carbon từ 1,12 đến 2,71 tấn/ha/năm, Nitơ từ 39,32 đến 62,04 kg/ha/năm, Kali từ 15,95 đến 22,44 kg/ha/năm, và Photpho từ 1,30 đến 1,63 kg/ha/năm Hơn nữa, dinh dưỡng trong đất có sự thay đổi từ điều kiện hạn chế đạm sang điều kiện hạn chế lân.
Nghiên cứu về khả năng hấp thụ CO2 của rừng trồng Sa mộc tại Lào cho thấy rằng rừng Sa mộc 5 tuổi có khả năng hấp thụ 3,009 tấn CO2/ha Ở tuổi 7, khả năng này tăng lên 5,581 tấn/ha, đạt 6,167 tấn/ha ở tuổi 8 và 6,687 tấn/ha đối với rừng 11 tuổi (Chen, Wang và cộng sự 2017) [41].
Trong những thập kỷ gần đây, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu thành phần hóa học của các chất chiết xuất từ Sa mộc (Zhou T và cộng sự, 2009) Tinh dầu của Sa mộc, ngay cả ở nồng độ thấp, có khả năng kháng nấm và chống lại hai loại nấm gây thối trắng.
Trametes versicolor và Irpex lacteus là hai loại nấm được nghiên cứu bởi He, Kang và Wang (2015) Chiết xuất từ Sa mộc không chỉ chứa tinh dầu mà còn có cồn thô (APE) với hàm lượng protein đạt 17,7 mg mL-1, flavonoid 2,35 mg mL-1 và phenol 0,19 mg mL-1 APE thô từ Sa mộc đã được chứng minh là một chất chống oxy hóa tự nhiên và có khả năng kháng khuẩn mạnh, nhờ vào hàm lượng protein, flavonoid và phenolics cao (Jyoti và cộng sự, 2018).
1.1.2 Nghiên cứu về đặc điểm phân bố, sinh thái, lập địa trồng rừng Sa mộc
Gần đây, cây Sa mộc đã được ghi nhận là loài thực vật du nhập tại nhiều quốc gia, chủ yếu được trồng làm cây xanh đường phố và cây cảnh trong vườn Ngoài các nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc, còn có một số nghiên cứu học thuật về việc trồng rừng Sa mộc tại New Zealand (Fung, 1993) và Brazil (Caieiras, 1982).
Sa mộc, một loài cây phân bố chủ yếu ở Trung Quốc, Việt Nam và Lào, được trồng phổ biến tại Nhật Bản Loài cây này có sự phân bố tự nhiên ở khu vực á nhiệt đới, trải dài từ vĩ độ 21°41’ đến 34°03’ Bắc.
Sa mộc phân bố chủ yếu ở lưu vực sông Dương Tử, Tần Lĩnh và khu vực phía Nam Trung Quốc, nơi có diện tích trồng trọt rộng lớn và cây phát triển nhanh Sự phân bố của sa mộc theo độ cao khác nhau ở từng khu vực: tại núi Đại Biệt ở phía Đông, sa mộc xuất hiện ở độ cao dưới 700 m; ở núi Đới Vân tỉnh Phúc Kiến, cây phân bố dưới 1.000 m; tại núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên, sa mộc có mặt từ 1.800 m trở xuống; và ở Đại Lý tỉnh Vân Nam, cây phân bố dưới 2.500 m.
Sa mộc thường phát triển tự nhiên ở những khu vực có khí hậu cận á nhiệt đới với độ ẩm cao, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15 độ C trở lên và lượng mưa dồi dào.
Sa mộc là loại cây có khả năng chịu đựng nhiệt độ lạnh đến -17°C và phát triển tốt nhất trong khoảng nhiệt độ từ 20-26°C Vào tháng 1, nhiệt độ trung bình dao động từ 0 đến 15°C, trong khi mùa hè (tháng 7, 8, 9) có thể đạt trên 30°C, thậm chí có ngày vượt quá 40°C Để sinh trưởng, Sa mộc cần nhiệt độ tối thiểu từ 15°C và thường phân bố ở những khu vực có lượng mưa từ 1.200 đến 2.000 mm (Li và cộng sự, 2020).
Nghiên cứu về Sa mộc tại Việt Nam
1.2.1 Đặc điểm phân loại, hình thái, công dụng của Sa mộc
Sa mộc, hay còn gọi là Sa mu, là loài cây gỗ lớn thuộc họ Bụt mọc (Taxodiaceae), có chiều cao trên 30 m và đường kính lên tới 200 cm Cây có thân thẳng, lá hình ngọn giáo dài từ 3-6 cm, rộng 5-6 cm, dày và cứng với mép lá có răng cưa nhỏ, xếp xoắn ốc tạo thành mặt phẳng Hệ rễ của sa mộc nông, rễ cái phát triển kém, trong khi rễ con tập trung ở tầng đất mặt từ 10-60 cm Đây là loài cây mọc nhanh, đặc biệt trong 20 năm đầu, với nhịp sinh trưởng rõ rệt vào mùa xuân (tháng 5-6) và mùa thu (tháng 9-10) Cây sa mộc 4 tuổi bắt đầu cho quả nón, hình thành từ tháng 3 và chính vào tháng 10-11.
Sa mộc là loài cây gỗ lớn thường xanh, có chiều cao lên tới 50 m và đường kính hơn 2 m Gỗ Sa mộc có màu nâu vàng, nhẹ, thớ thẳng, bền đẹp và ít bị mối mọt, thường được sử dụng trong đóng tàu thuyền, cột buồm và đồ gia dụng Giá trị thương mại của gỗ nhỏ D18 cm với giá 1.900.000 đồng/m³ Phân tích các chỉ số kinh tế, sinh thái, xã hội cho thấy Sa mộc đạt hơn 11 điểm, cao hơn mức trung bình 7,5 điểm Gỗ Sa mộc có chu kỳ kinh doanh 9 năm mang lại 20,1 triệu đồng/ha, trong khi chu kỳ 15 năm đạt 171,36 triệu đồng/ha, tăng 8,5 lần so với chu kỳ 9 năm Khi rừng Sa mộc đạt kích thước gỗ lớn D1,3",5 cm ở tuổi 20, giá trị thương phẩm lên tới 290,7 triệu đồng/ha, tăng 1,7 lần so với tuổi.
15 và tăng 14,5 lần so với tuổi 9 (Nguyễn Hữu Thiện, 2011) [17].
1.2.2 Nghiên cứu về đặc điểm phân bố, sinh thái, điều kiện gây trồng Ở Việt Nam cũng ghi nhận có phân bố tự nhiên của Sa mộc ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc và Lâm Đồng [12] [7], có phân bố từ độ cao 500- 1.800 m so với mực nước biển, mọc tự nhiên thuần loài hoặc hỗn giao với Thông đuôi ngựa (Lê Mộng Chân, Nguyễn Thị Huyên, 2000) [4].
Sa mộc đã được nhập khẩu và trồng rộng rãi tại các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, bao gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn và Quảng Ninh, theo thông tin từ Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2010).
Trong Khu bảo tồn Tây Côn Lĩnh, loài Sa mộc chủ yếu phân bố tại các xã Tùng Sán, Tả Sử Choóng, Bản Nhùng, ở độ cao từ 900-1.200 m Cây tái sinh tự nhiên gặp khó khăn, với nhiều hạt nảy mầm nhưng ít cây trưởng thành Sa mộc ưa sáng và thích hợp với đất pha cát, sâu, tơi xốp, thoát nước tốt và giàu mùn, có độ pH từ 4,5-6,5, không phát triển trên đất kiềm hoặc mặn Loài cây này phát triển tốt ở vùng có lượng mưa hàng năm trên 1.500 mm, mùa khô kéo dài hơn 3 tháng, độ ẩm tương đối trên 80%, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất từ 26 đến 30°C, và nhiệt độ trung bình năm từ 15 đến 23°C, với nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối đạt -11°C, thích hợp với khu vực nhiều sương mù và khuất gió.
Nghiên cứu về đặc điểm lâm học của rừng trồng Sa mộc tại huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai cho thấy cây Sa mộc phát triển tốt ở độ cao từ 600 m trở lên, với nhiệt độ trung bình năm là 19,6°C và lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.410 mm Độ ẩm không khí dao động từ 83-87% trong suốt năm, và đất tại khu vực này có độ dày từ 37-51 cm Cây Sa mộc ra nón vào tháng 3-4 và quả chín vào tháng 10-11 Tăng trưởng đường kính thân cây trung bình ở tuổi 5 đạt 1,73 cm/năm, trong khi ở tuổi 10 là 1,67 cm/năm.
15 là 1,56 cm/năm; trong khi tăng trưởng về chiều cao lần lượt đạt: 0,91 m/năm (tuổi 5), 0,76 m/năm (tuổi 10) và 0,57 m/năm (tuổi 15) (Phạm Minh Toại, Bùi Thế Đồi, 2016) [19]
Cây Sa mộc, có nguồn gốc từ Trung Quốc, phát triển tốt ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là ở những khu vực có độ cao trên 100 m so với mực nước biển Loại cây này ưa thích đất dày trên 80 cm, đất cát vàng giàu dinh dưỡng với các yếu tố như N, P, K, Ca trao đổi và Mg, cùng với độ pH lớn hơn 4,5 Tuy nhiên, Sa mộc không thích hợp trồng ở những nơi có gió mạnh và đất khô cằn.
Trữ lượng rừng của cây Sa mộc ở tuổi 5 đạt 7,54 m³/ha với tốc độ tăng trưởng 1,51 m³/ha/năm, ở tuổi 10 là 48,71 m³/ha với tốc độ 4,87 m³/ha/năm, và ở tuổi 15 đạt 111,81 m³/ha với tốc độ 7,45 m³/ha/năm Đặc biệt, Sa mộc có khả năng tái sinh chồi, một đặc điểm lâm học quan trọng cần được nghiên cứu để phát triển mô hình rừng chồi cho loài cây này (Phạm Minh Toại, Bùi Thế Đồi, 2016).
Sa mộc hiện đang trở thành một trong những loài cây chủ lực cho trồng rừng sản xuất tại Việt Nam, với tổng diện tích khoảng 13.900 ha, chủ yếu tập trung ở phía Bắc Lào Cai là địa phương có diện tích trồng Sa mộc lớn nhất, với 3.800 ha rừng trồng thuần loài và 6.700 ha rừng trồng hỗn loài Tại Quảng Ninh, có khoảng 1.190 ha rừng trồng Sa mộc thuần loài Loài cây này được đánh giá cao về khả năng phát triển tại các tỉnh phía Bắc, đặc biệt ở những vùng có độ cao trên 800 m, đất sâu và tầng dày, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.2.3 Nghiên cứu về chọn, tạo giống Sa mộc
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, tỉnh Lào Cai đã tiến hành chọn cây trội và chuyển hóa rừng giống vào năm 2014 Tỉnh đã lập hồ sơ và được công nhận nguồn giống với mã công nhận bao gồm 6 cây trội SM.09.BH03-04, SM.09.BH06, và SM.09.BH08.
Rừng giống chuyển hóa ST.09.33 và SC.09.23, cùng với các mã SM.09.BH15, SM.09.SM01-SM05 và SM09-SM13, đã được phát triển Đặc biệt, rừng giống Sa mộc chuyển hóa cũng đã được trồng tại Yên Bái, Quảng Ninh và một số địa phương khác.
Cây Sa mộc ra hoa vào tháng 3, quả chín tháng 10-11 Cây trồng được
Sa mộc bắt đầu ra hoa sau 8 năm và thường được thu hái từ tuổi 10 trở đi, với chu kỳ sai quả từ 3-4 năm Khi quả chín, vỏ có màu vàng nhạt hoặc nâu, một số quả có thể nứt để hạt rơi ra, hạt bên trong màu nâu đậm và cứng, nội nhũ màu trắng Sau khi thu hoạch, cần phân loại quả, những quả chưa chín được ủ thành đống cao không quá 50 cm và có thông gió, đảo mỗi ngày Quả chín được phơi dưới nắng nhẹ trong 3-5 ngày để tách hạt, sau đó hạt được hong khô ở nơi râm mát trong 2-3 ngày trước khi bảo quản Tỷ lệ thu hoạch là 30-40 kg quả cho 1 kg hạt, với 130.000-150.000 hạt/kg và tỷ lệ nẩy mầm đạt 40-50% Hạt được bảo quản khô ở nhiệt độ bình thường có thể duy trì sức sống trong 5 tháng, trong khi ở điều kiện lạnh từ 5-10 độ C có thể kéo dài đến 1 năm, tuy nhiên cần lưu ý rằng hạt Sa mộc mất sức nẩy mầm rất nhanh.
Để lấy hạt giống, nên chọn cây mẹ từ 10 năm tuổi trở lên, có hình dáng đẹp, thân thẳng và không bị sâu bệnh Quả được chọn phải to, mập và có màu vàng nhạt Sau đó, ủ quả trong bao tải từ 2 đến 3 ngày để chín đều, đồng thời thường xuyên đảo quả để đảm bảo khô đều Khi quả nứt, tiến hành phơi và đập nhẹ để tách hạt.
Nghiên cứu khảo nghiệm 9 xuất xứ Sa mộc từ cây trội ở Việt Nam và Phúc Kiến, Trung Quốc được thực hiện tại Lạng Sơn, Nghệ An và Đồng Nai, đại diện cho ba vùng khí hậu của Việt Nam Sau 6 tháng sinh trưởng, Sa mộc xuất xứ Trung Quốc cho thấy sự phát triển nhanh hơn so với xuất xứ Việt Nam, với chiều cao trung bình đạt 19,72 cm và đường kính gốc trung bình 0,38 cm, trong khi các xuất xứ Việt Nam chỉ đạt 18,94 cm và 0,17 cm Điều này cho thấy xuất xứ Sa mộc Trung Quốc 2,5 tuổi có sự phát triển vượt trội về chiều cao, đường kính gốc và đường kính tán cây so với các xuất xứ trong nước.
1.2.4 Nghiên cứu về kỹ thuật trồng, nuôi dưỡng rừng Sa mộc
1.2.4.1 Nghiên cứu về kỹ thuật trồng rừng Sa mộc
Sa mộc phát triển tốt nhất ở nơi có nhiệt độ trung bình từ 15-20 độ C, lượng mưa 1.400-1.900 mm và nhiều sương mù, với độ cao tuyệt đối từ 400 m đến 1.000 m Loại đất lý tưởng cho sa mộc là đất sâu dày, ẩm, có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến sét nhẹ, độ phì khá, ít chua và thoát nước tốt Việc trồng sa mộc có thể thực hiện theo hình thức tập trung hoặc phân tán, với hạt giống được thu hái từ rừng giống chuyển hoá Ngoài ra, sa mộc cũng có thể được trồng kết hợp để lấy gỗ lớn, gỗ nhỏ và tái sinh chồi gốc theo chu kỳ 2.
Nhận xét và đánh giá
Cây Sa mộc đã được nghiên cứu toàn diện trên thế giới và tại Việt Nam, bao gồm việc xác định tên gọi, phân loại thực vật, mô tả đặc điểm hình thái, phân bố sinh thái, giá trị sử dụng, kỹ thuật nhân giống, chọn tạo giống mới và kỹ thuật trồng rừng thâm canh.
Trên toàn cầu, đặc biệt là ở Trung Quốc, cây Sa mộc chiếm 30% diện tích đất lâm nghiệp và đã được trồng bởi người dân trong hơn 1.000 năm (Fan, 1987) [46] Vì vậy, nghiên cứu về cây Sa mộc đã được thực hiện một cách toàn diện trên nhiều khía cạnh.
Cây Sa mộc chủ yếu được trồng tại Lào Cai, Hà Giang và một số tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam (Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam, 2010) Nghiên cứu trong nước đã chỉ ra nhiều khía cạnh liên quan đến cây Sa mộc, bao gồm đặc điểm sinh học (Phạm Minh Toại, Bùi Thế Đời, 2016) và đánh giá phương thức trồng xen canh với các loài cây bản địa cũng như cây nông nghiệp (Lâm Phúc Cố, 1996; Hà Văn Huy).
1985) [8] [14], nghiên cứu về mô hình chặt chuyển hóa Sa mộc (NguyễnHữu Thiện, 2011) [17], nghiên cứu về đặc điểm khuyết tật trên thân cây
Nghiên cứu về cây Sa mộc tại Việt Nam vẫn còn thiếu sót, đặc biệt trong các lĩnh vực chọn giống, lập địa trồng rừng và biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh Trong khi đó, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu giống và kỹ thuật lâm sinh của cây Sa mộc, tạo nền tảng cho việc áp dụng vào các nghiên cứu trong luận án.
Cụ thể về những nội dung nghiên cứu, thảo luận được đề tài vận dụng vào nghiên cứu và bố trí thí nghiệm như sau:
1.3.1 Thí nghiệm làm đất trồng rừng
Tại Trung Quốc, một nghiên cứu từ năm 1989 đã chỉ ra rằng việc xử lý thực bì một cách toàn diện hoặc cục bộ, kết hợp với việc đào hố trồng Sa mộc có kích thước 60 cm x 60 cm, mang lại hiệu quả cao trong việc cải tạo đất.
Kích thước hố trồng cây là 60 cm x 40 cm Ở những vùng đất khô, nên thay vì đào hố, hãy đào rãnh sâu 50 cm để giữ ẩm cho đất Biện pháp này giúp tăng tỷ lệ sống của rừng trồng Sa mộc so với những nơi không xử lý thực bì và đào hố theo kích thước đã nêu.
Tại Việt Nam, Bộ NN&PTNT đã ban hành TCN 04-61-2002 về quy trình kỹ thuật trồng rừng cây Sa mộc, với quyết định số 4895/QĐ-BNN-KHCN ngày 11/11/2002, hướng dẫn kích thước hố trồng là 30 cm x 30 cm x 30 cm Tổng cục Lâm nghiệp (2007) sau đó đã điều chỉnh kích thước hố trồng thành 40 cm x 40 cm x 40 cm Dựa trên các nghiên cứu và hướng dẫn kỹ thuật này, đề tài đã xây dựng 4 công thức thí nghiệm làm đất với kích thước thay đổi ở chiều rộng và chiều ngang, giữ nguyên chiều sâu 40 cm, nhằm lựa chọn công thức làm đất hiệu quả nhất cho việc trồng rừng.
1.3.2 Thí nghiệm tuổi cây con đem trồng
Nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy cây con Sa mộc 1 năm tuổi có tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với cây con 2 năm tuổi khi được trồng trong rừng.
Tài liệu hướng dẫn “Kỹ thuật trồng một số loài cây lấy gỗ” của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2010) có đề cập đến tiêu chuẩn cây con
Sa mộc được trồng khi cây đạt từ 12-16 tháng tuổi, cao trên 25 cm, với đường kính gốc từ 0,3-0,4 cm, có sinh trưởng tốt, tán lá xanh đậm, thẳng và có 3-4 cành, không bị sâu bệnh hại và cụt ngọn Để đánh giá ảnh hưởng của tuổi cây con, nghiên cứu lựa chọn độ tuổi dao động từ 9 đến 18 tháng với 4 CTTN.
1.3.3 Thí nghiệm mật độ trồng
Tại Trung Quốc, Sa mộc được trồng với mật độ từ 900 đến 6.000 cây/ha, trong đó mật độ tối ưu cho năng suất cao nhất là từ 1.800 đến 2.500 cây/ha Ở Chiết Giang, mật độ trồng phổ biến là từ 3.000 đến 3.600 cây/ha Nghiên cứu tại Đài Loan cho thấy mật độ 2.500 cây/ha mang lại năng suất và hiệu quả kinh tế tốt nhất với chu kỳ khai thác 20 năm.
Tại Việt Nam, cây Sa mộc thường được trồng với mật độ khoảng 2.000 cây/ha trong các rừng thuần loài Nghiên cứu này lựa chọn 5 mức mật độ từ thấp đến cao trên tổng diện tích 1,5 ha để thực hiện thí nghiệm và theo dõi, nhằm xác định công thức mật độ tối ưu cho việc trồng rừng thâm canh.
Nghiên cứu của Fang và cộng sự (1989) chỉ ra rằng việc bón phân là cần thiết để tăng sản lượng rừng trồng, đặc biệt ở các lâm phần trong luân kỳ 2 và 3 Thí nghiệm bón phân trong giai đoạn vườn ươm cho thấy cây con phát triển tốt nhất khi đất có hàm lượng N = 210 ppm, P = 31 ppm và K = 238 ppm.
Ca = 200 ppm và S = 64 ppm; cao hơn ngưỡng này sinh trưởng của cây có thể bị ảnh hưởng do nhiễm độc [47].
Các thí nghiệm trồng Sa mộc trong chậu cho thấy cây phản ứng tích cực với đạm Việc bón Canxi, Magie và Phốt pho đã làm tăng sinh trưởng chồi cây lên 80% và đường kính tăng từ 29-34% sau 3 năm Bón phân Kali và Lân được đánh giá là rất cần thiết, đặc biệt trên đất đỏ vàng ở Trung Quốc Kết quả cho thấy, sau khi bón phân, trữ lượng gỗ tăng từ 5-10% so với đối chứng không bón.
Tại nước ta, mỗi hố trồng Sa mộc được khuyến cáo nên bón lót
100 g NPK (5:10:3) và 200 g phân hữu cơ vi sinh/gốc, bón thúc kết hợp chăm sóc lần đầu năm thứ 2 với lượng 100 g NPK (5:10:3) và 300 g phân hữu cơ vi sinh/ gốc [9]
Dựa trên những nghiên cứu trước đó, đề tài luận án chọn ra 6 CTTN bón phân cho cây con trên tổng diện tích 1,8 ha.
Nghiên cứu về đặc điểm sinh học của Sa mộc cho thấy cây có khả năng tự tỉa thưa khi trồng với mật độ dày và ít bị nhiễm bệnh qua cành chết Việc tỉa cành ở mức độ vừa phải không ảnh hưởng đáng kể đến sự sinh trưởng về đường kính, chiều cao và tiết diện ngang của rừng Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước vẫn chưa đi sâu vào vấn đề tỉa cành trong trồng rừng thâm canh Sa mộc.
Do đó, đây là một khoảng trống cần được nghiên cứu để xác định mức độ tỉa cành hợp lý áp dụng trong trồng rừng thâm canh Sa mộc
1.3.6 Thí nghiệm tỉa thưa nuôi dưỡng
Sa mộc thường bắt đầu khép tán sau 6-7 năm, dẫn đến sự cạnh tranh về dinh dưỡng Do đó, việc tỉa thưa cần thực hiện từ 9-15 năm, giảm mật độ tới 50% Ở những lập địa tốt, mật độ cuối cùng để lại là 1.500 cây/ha nhằm mục đích kinh doanh gỗ lớn, trong khi ở lập địa kém hơn, mật độ cuối cùng là 1.800-2.000 cây/ha cho gỗ trung bình.