PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Giáo dục Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thế hệ trẻ thông minh, sáng tạo và có kỹ năng sống Mục tiêu của Đảng và Nhà nước là đào tạo con người Việt Nam toàn diện, với đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, đồng thời trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Điều này nhằm hình thành nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước cần bắt đầu từ bậc mầm non, nhằm đạt được mục tiêu chung của giáo dục Điều 22 và Điều 23 trong các văn bản pháp luật liên quan nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục sớm, góp phần phát triển toàn diện cho trẻ em.
Mục tiêu giáo dục mầm non, theo Điều 24 của Luật Giáo dục, là giúp trẻ phát triển toàn diện về tình cảm, trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ, đồng thời hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách Phương pháp giáo dục chủ yếu thông qua các hoạt động vui chơi, tạo điều kiện cho trẻ em phát triển Trang thiết bị đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy học mầm non, hỗ trợ nội dung và phương pháp giảng dạy, từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục và đáp ứng các mục tiêu đã đề ra.
Trẻ em là nguồn nhân lực tương lai của đất nước, vì vậy đầu tư vào chất lượng giáo dục mầm non là một chiến lược lâu dài để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Nghiên cứu về sự phát triển của giáo dục mầm non đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước Nhiều quốc gia tiên tiến như Hoa Kỳ và Nhật Bản đã phát triển ngành công nghiệp sản xuất đồ chơi mang lại lợi nhuận cao Hiện nay, thị trường đồ chơi cho trẻ em rất đa dạng với nhiều mẫu mã hiện đại như xe điều khiển từ xa và đồ chơi điện tử Tuy nhiên, không phải tất cả đồ chơi đều phù hợp với nhu cầu giáo dục của trẻ em.
Theo Luật Giáo dục, hoạt động giáo dục cần tuân thủ nguyên lý "học đi đôi với hành", kết hợp giáo dục với lao động sản xuất, và lý luận phải gắn liền với thực tiễn.
Giáo dục mầm non cần sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội, theo Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội Để thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non, đồ chơi đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học Tuy nhiên, khảo sát từ Đề án số 9 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy tình trạng thiếu hụt và chất lượng đồ chơi tại các trường mầm non trên toàn quốc, điều này chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục mầm non.
Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Phước vẫn đang đối mặt với tình trạng chưa được khắc phục triệt để Nghiên cứu đã được thực hiện để xác nhận lại nhận định này.
Nhu cầu về đồ chơi cho trẻ mầm non đang ngày càng tăng cao, trong khi kinh phí nhà nước chỉ đáp ứng một phần nhu cầu này Bộ Giáo dục khuyến khích giáo viên tham gia làm đồ chơi tự tạo từ nguyên liệu mở để bổ sung thiết bị dạy học Đề án số 9 “Phát triển thiết bị dạy học tự làm giáo dục mầm non giai đoạn 2010-2015” đã được phê duyệt nhằm cải thiện tình hình này Đề án nhấn mạnh vai trò quan trọng của thiết bị dạy học trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, tuy nhiên, việc trang bị thiết bị vẫn chưa đầy đủ do số lượng trường mầm non quá lớn Những khó khăn trong việc mua sắm, bổ sung và sửa chữa thiết bị dạy học đã dẫn đến việc cần thiết phải tự làm, tự sửa chữa và cải tiến thiết bị để đáp ứng nhu cầu dạy và học hiệu quả hơn.
Bốn phần khắc phục kịp thời các thiết bị còn thiếu và bổ sung những thiết bị chưa có sẽ giúp cải thiện tình hình giáo dục Việc thay thế hoặc cải tiến các thiết bị hư hỏng, mất mát phù hợp với đặc điểm của từng địa phương và cơ sở giáo dục là rất cần thiết Đề án này không chỉ là giải pháp hiệu quả để giảm bớt gánh nặng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Các trường mầm non tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đang tích cực tham gia vào đề án tự làm đồ chơi cho trẻ Tuy nhiên, họ gặp phải nhiều khó khăn như thiếu kinh phí, thời gian, vật liệu và sự sáng tạo của giáo viên Những vấn đề này dẫn đến việc đồ chơi do giáo viên mầm non sản xuất chưa đa dạng về mẫu mã, cũng như chưa đảm bảo chất lượng và số lượng cần thiết.
Nghiên cứu này tập trung vào việc "Xây dựng bộ đồ chơi theo chủ đề cho trẻ mầm non tuổi mẫu giáo" với mục tiêu phát triển một bộ đồ chơi đáp ứng đầy đủ các tiêu chí cần thiết cho sự phát triển của trẻ nhỏ.
Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng được bộ đồ chơi theo một số chủ đề nhánh thuộc chủ đề thực phẩm cho bé yêu tuổi mẫu giáo.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu cơ sở lý luận về đồ chơi trong GDMN
+ Một số khái niệm liên quan
+ Đặc điểm, ý nghĩa, cách phân loại đồ chơi trong ngành học mầm non
+ Các nguyên tắc, vật liệu - kĩ thuật và quy trình xây dựng bộ đồ chơi theo chủ đề
- Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi mẫu giáo
- Hoạt động học tập của trẻ mẫu giáo ở trường mầm non
+ Môi trường học tập của trẻ mẫu giáo
- Mục tiêu, nội dung chương trình giáo dục mầm non tuổi mẫu giáo
- Các chủ đề ở các lớp mẫu giáo - trường mầm non
Nhiệm vụ 2 yêu cầu tìm hiểu thực trạng về việc làm và sử dụng đồ chơi liên quan đến các chủ đề thực phẩm cho trẻ em tại các trường mầm non ở thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước Việc này nhằm đánh giá cách thức giáo viên áp dụng đồ chơi trong giáo dục, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy và phát triển kỹ năng cho trẻ.
- Tìm hiểu về Thực trạng trang bị đồ chơi trong lớp theo các chủ đề nhánh của chủ đề thực phẩm cho bé yêu
Tình hình hiện nay về việc sản xuất và sử dụng đồ chơi chủ đề “thực phẩm cho bé yêu” đang được chú trọng nhằm phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập tại các lớp mẫu giáo ở thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước Những đồ chơi này không chỉ giúp trẻ em phát triển kỹ năng nhận thức mà còn góp phần tạo ra môi trường học tập thú vị và sáng tạo Việc ứng dụng đồ chơi theo chủ đề thực phẩm còn giúp trẻ hiểu biết hơn về dinh dưỡng và thói quen ăn uống lành mạnh.
- Tìm hiểu các nhóm đồ chơi thuộc các chủ đề “thực phẩm cho bé yêu” cần thiết làm bổ sung
Nhiệm vụ 3: Xây dựng bộ đồ chơi theo một số chủ đề ở trường mầm non
- Xác định chủ đề làm đồ chơi
- Đề xuất danh mục đồ chơi
- Thực nghiệm, đánh giá và hoàn thành bộ đồ chơi.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Bộ đồ chơi theo một số chủ đề thuộc chủ đề thực phẩm cho bé yêu phục vụ cho dạy và học ở trường mầm non
Trường mầm non Hoa Hồng, Hoa Cúc, Hoạ Mi, Hoa Phượng và Hoa Đào đều nằm trên địa bàn thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, cung cấp môi trường giáo dục chất lượng cho trẻ em.
+Trưởng phòng Mầm non Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Phước
+ Cô Bùi Thị Thu Thuỷ Hiệu trưởng trường mầm non Hoa Hồng thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước
- 5 Giám khảo hội thi triển lãm đồ chơi cấp mầm non do tỉnh Bình Phước tổ chức
- 15 Khối trưởng các khối mẫu giáo
- 100 Giáo viên các lớp mẫu giáo thuộc 5 trường mầm non được chọn khảo sát
- 2 Giáo viên dạy thực nghiệm
- 25 Trẻ mầm non lớp chồi 5 trường mầm non Hoa Hồng
- Đồ chơi trong lớp theo các chủ đề thực phẩm tại các lớp mẫu giáo thuộc 5 trường mầm non được chọn khảo sát.
Giả thuyết nghiên cứu
Tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, đồ chơi theo chủ đề thực phẩm trong lớp mẫu giáo đang thiếu hụt cả về số lượng và mẫu mã Đồ chơi tự làm của giáo viên chưa đáp ứng đủ yêu cầu cần thiết Việc triển khai bộ đồ chơi theo thiết kế do nghiên cứu đề xuất sẽ giúp đáp ứng tốt hơn các tiêu chí cho đồ chơi trẻ mẫu giáo.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp nghiên cứu lý luận được áp dụng nhằm phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu, văn bản liên quan đến đồ chơi cho trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ mẫu giáo Qua đó, chúng tôi xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho đề tài nghiên cứu về bộ đồ chơi dành cho trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Trao đổi với cán bộ quản lý, bao gồm Trưởng phòng mầm non Sở Giáo dục Bình Phước và hiệu trưởng trường mầm non Hoa Hồng, nhằm nắm bắt thực trạng trang bị đồ chơi cho trẻ em.
- Phỏng vấn trực tiếp giáo viên lớp thực nghiệm về khả năng gây hứng thú của bộ đồ chơi
Bằng phiếu khảo sát, người nghiên cứu lấy ý kiến của các giáo viên để tìm hiểu về:
- Thực trạng trang bị đồ chơi theo chủ đề thực phẩm của giáo viên các trường mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước
- Thực trạng làm và sử dụng đồ chơi theo các chủ đề thực phẩm của giáo viên mầm non trên địa bàn khảo sát
Khảo sát ý kiến đánh giá của các chuyên gia giáo dục về bộ đồ chơi được nghiên cứu nhằm xác định chất lượng và khả năng thu hút sự hứng thú của bộ đồ chơi đối với trẻ mầm non.
Quan sát trực tiếp đồ chơi theo chủ đề thực phẩm trong các lớp mẫu giáo giúp đánh giá số lượng và chất lượng đồ chơi do giáo viên tự làm.
Quan sát giờ học và giờ hoạt động góc của trẻ tại các trường mầm non giúp khảo sát việc sử dụng đồ chơi theo chủ đề thực phẩm Việc này không chỉ đánh giá sự tương tác của trẻ với đồ chơi mà còn cung cấp thông tin quý giá về cách trẻ học hỏi và phát triển thông qua các hoạt động liên quan đến thực phẩm.
Nghiên cứu quan sát quá trình trẻ mầm non tương tác với bộ đồ chơi được thiết kế đặc biệt nhằm đánh giá chất lượng và khả năng thu hút sự chú ý của bộ sản phẩm này.
Phương pháp thống kê toán học
Vận dụng phương pháp thống kê toán học phân tích, xử lý số liệu thu được để:
- Nhận định thực trạng trang bị, làm và sử dụng đồ chơi ở các trường mầm non trên địa bàn khảo sát
- Đánh giá chất lượng của bộ đồ chơi do người nghiên cứu xây dựng
- Đánh giá khả năng gây hứng thú của bộ đồ chơi
Sử dụng bộ đồ chơi vào tiết dạy thực nghiệm bộ đồ chơi
Sử dụng một phần của bộ đồ chơi vừa chế tạo trong một giờ học có chủ đích về giáo dục dinh dưỡng và một giờ hoạt động góc tại trường mầm non sẽ giúp trẻ em tiếp cận kiến thức một cách sinh động và thú vị Việc kết hợp giữa học tập và chơi đùa không chỉ tạo ra môi trường học tập tích cực mà còn khuyến khích sự sáng tạo và phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ.
Bộ đồ chơi đã được mang đến tham gia hội thi triển lãm đồ chơi cấp học mầm non do tỉnh Bình Phước tổ chức Sau đó, chúng tôi tiến hành khảo sát ý kiến đánh giá từ các chuyên gia giáo dục mầm non về chất lượng và khả năng thu hút sự chú ý của bộ đồ chơi đối với trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo.
Khảo sát ý kiến đánh giá của các chuyên gia về chất lượng bộ đồ chơi
Tính vệ sinh - an toàn;
Tính điển hình; Độ bền chắc;
Tính phù hợp lứa tuổi;
Tính kinh tế - tiết kiệm;
Tính thống nhất khoa học.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khách thể điều tra:
-Trưởng phòng Mầm non Sở Giáo dục và Đào tạo Tỉnh Bình Phước
- Hiệu trưởng trường mầm non Hoa Hồng
Trong nghiên cứu này, 100 giáo viên từ 5 trường mẫu giáo đã được chọn để khảo sát, đại diện cho 5 trong tổng số 10 trường mầm non công lập tại thị xã Đồng Xoài Số lớp khảo sát bao gồm 25 lớp học.
50 giáo viên thuộc trường chuẩn quốc gia; 25 lớp và 50 giáo viên thuộc trường chưa đạt chuẩn quốc gia (tỉ lệ 1:1) để khảo sát Cụ thể như sau:
+Trường MN Hoa Hồng: 13 lớp 26 giáo viên;
+Trường MN Hoa Cúc: 12 lớp 24 giáo viên;
+Trường MN Hoạ Mi: 9 lớp 18 giáo viên;
+ Trường MN Hoa Đào: 10 lớp 20 giáo viên;
+ Trường MN Hoa Phượng: 6 lớp 12 giáo viên
- 15 Khối trưởng các khối mầm, chồi, lá
- 5 Giám khảo hội thi triển lãm đồ chơi cấp mầm non do tỉnh Bình Phước tổ chức
- 25 Học sinh lớp chồi 5 trường mầm non Hoa Hồng
-2 Giáo viên dạy thực nghiệm
Phạm vi khách thể thực nghiệm:
- Hội thi triễn lãm đồ chơi cấp học mầm non tỉnh Bình Phước
Trường Mầm Non Hoa Hồng sẽ tiến hành thực nghiệm bộ đồ chơi sau khi chế tạo xong tại hội thi triển lãm Tại đây, các chuyên gia giáo dục mầm non và học sinh sẽ kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm.
Đồ chơi ở trường mầm non được chia thành hai nhóm chính: đồ chơi ngoài trời và đồ chơi trong lớp học Đồ chơi trong lớp học rất đa dạng, được phân loại theo nhiều mục đích khác nhau, có thể được sản xuất bằng công nghệ hiện đại hoặc tự làm bằng phương pháp thủ công Nghiên cứu này tập trung vào bộ đồ chơi trong lớp học, đặc biệt là những sản phẩm được làm bằng tay.
Chủ đề tại trường mầm non được lựa chọn bởi nhà trường hoặc giáo viên dựa trên chương trình khung của bộ giáo dục Trong nghiên cứu này, chủ đề thực phẩm cho trẻ em được chọn để phát triển bộ đồ chơi, bao gồm một số chủ đề nhánh liên quan đến thực phẩm, nhằm phục vụ cho nội dung giáo dục này.
- Chủ đề rau ăn củ
- Chủ đề rau ăn quả
- Chủ đề thực phẩm giàu đạm
- Chủ đề thực phẩm giàu chất béo
Trong quá trình nghiên cứu, người thiết kế chế tạo đồ chơi phù hợp với chương trình giáo dục do Bộ Giáo dục quy định Một số đồ chơi có tên giống với những món trong "danh mục thiết bị tối thiểu dành cho các lớp mẫu giáo", nhưng kỹ thuật và mẫu mã đều được người nghiên cứu tự đề xuất.
Cấu trúc luận văn
Phần II: Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng đồ chơi theo chủ đề trong giáo dục mầm non
Chương 2: Thực trạng làm và sử dụng đồ chơi theo một số chủ đề thực phẩm cho bé yêu tại một số trường mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước
Chương 3: Bộ đồ chơi theo một số chủ đề cho trẻ mầm non tuổi mẫu giáo Phần III Kết luận và kiến nghị
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỒ CHƠI THEO CHỦ ĐỀ
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỒ CHƠI TRONG GIÁO DỤC MẦM NON
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Sơ lược tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trong nghiên cứu giáo dục, nhiều đề tài tập trung vào đồ dùng và đồ chơi, đặc biệt là việc sử dụng chúng trong sinh hoạt và học tập của trẻ mầm non Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã khai thác sâu về lĩnh vực đồ chơi và các vấn đề liên quan đến việc sử dụng đồ chơi trong môi trường học tập và sinh hoạt của trẻ nhỏ.
Nghiên cứu các cơ sở lý thuyết về đồ chơi như:
- Tác giả Phan Đông Phương đã đề xuất cụ thể những danh mục thiết bị lớp mẫu giáo 3-4 tuổi đáp ứng với yêu cầu của Chương trình GDMN mới[25]
Nhóm tác giả Phan Đông Phương, Trần Yến Mai và Nguyễn Thị Sáu đã phát triển tiêu chí đánh giá thực trạng về việc trang bị và sử dụng đồ dùng, đồ chơi, thiết bị tối thiểu trong giáo dục mầm non.
Đàm Thị Xuyến đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về đồ chơi dành cho trẻ mầm non, đồng thời hướng dẫn chi tiết cách làm một số nhóm đồ chơi từ những vật liệu đơn giản.
Nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ của trẻ em thông qua việc sử dụng các đồ chơi như:
Tác giả Nguyễn Mạnh Tuấn đã đề xuất những biện pháp hiệu quả nhằm phát triển tư duy hình học cho trẻ mẫu giáo lớn và học sinh tiểu học thông qua việc sử dụng đồ chơi.
Tác giả Trần Minh Thành đã đề xuất các biện pháp hiệu quả nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ khuyết tật trí tuệ nhẹ từ 5-6 tuổi Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng đồ chơi như búp bê, phương tiện giao thông, hộp, hạt và các con thú trong giáo dục, qua đó chứng minh vai trò thiết yếu của đồ chơi đối với sự phát triển trí tuệ của trẻ nhỏ.
Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả làm và sử dụng đồ chơi cho trẻ mầm non như:
Tác giả Lê Thị Ánh Tuyết đã đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ chơi tự tạo của giáo viên trong tổ chức hoạt động giáo dục trẻ mầm non Bà nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện nghiệp vụ tự tạo và sử dụng đồ chơi một cách hiệu quả, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong giáo dục mầm non.
- Tác giả Võ Thị Vinh đã đưa ra một số biện pháp hữu ích làm đồ chơi nhằm khắc phục điều kiện khó khăn của địa phương như:
+ Phối kết hợp phụ huynh và học sinh tham gia thu gom phế liệu để làm ĐC + Vận động hội phụ huynh tham gia làm ĐC cùng cô
+ Làm đồ chơi theo từng chủ điểm
+ Khuyến khích trẻ làm đồ chơi cùng cô [33]
- Tác giả Nguyễn Thị Hồng đã đề xuất một số biện pháp sử dụng đồ dùng, đồ chơi hấp dẫn cho trẻ làm quen với toán trẻ 5 – 6 tuổi [39]
Nghiên cứu và trình bày các thiết kế các mẫu đồ chơi thuộc các nhóm đồ chơi khác nhau như:
Tác giả Huỳnh Thị Ánh Loan đã thiết kế và chế tạo nhiều loại đồ chơi giáo dục phù hợp với trẻ mầm non, bao gồm thẻ hình ghép bóng, rối que ghép bóng, thú nhồi bông, đồ chơi phân loại thực vật, lo tô tập đếm thực vật, sách tranh nghề nghiệp và vườn hoa của em Những sản phẩm này không chỉ giúp trẻ phát triển kỹ năng mà còn hỗ trợ nội dung và mục tiêu giáo dục mầm non.
Nhóm tác giả Lương Thị Bình và Lê Thị Bích Ngọc đã sáng tạo ra những món đồ chơi độc đáo từ lá cây và hạt giống, mang đậm phong cách của các trò chơi dân gian truyền thống.
- Nhóm tác giả do Nguyễn Lăng Bình chủ biên đã hướng dẫn làm một số đồ chơi cho trẻ mầm non [11]
Nhóm tác giả Phạm Mai Chi và Phùng Thị Tường đã biên soạn tài liệu hướng dẫn về cách làm các loại đồ chơi như xếp hình, xếp chồng-tháo lắp, so hình, ném và xâu hạt, đồng thời cung cấp hướng dẫn sử dụng chúng trong các trò chơi.
- Nguyễn Thị Vân Lâm Đã biên soạn tài liệu hướng dẫn làm một số đồ chơi học tập phục vụ cho việc tổ chức trò chơi học tập [17]
Nhóm tác giả Hoàng Thu Hương, Nguyễn Thị Vân Lâm, Vũ Hồng Tậm và Vũ Xuân Hoàn đã biên soạn hướng dẫn cho trẻ em cách làm một số đồ chơi bằng giấy.
- Phạm Thị Việt Hà, Hướng dẫn làm đồ chơi bằng vật liệu thiên nhiên và tạo hình bằng vật liệu này [13]
Nhóm tác giả gồm Bùi Thị Kim Tuyến, Lê Bích Ngọc, Lương Thị Bình và Phan Thị Lan Anh đã thiết kế các mẫu đồ chơi sáng tạo từ vật liệu thiên nhiên, mang đến những sản phẩm thân thiện với môi trường và an toàn cho trẻ em.
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cho trẻ tự làm đồ chơi như:
Tác giả Vũ Thị Ngọc Minh đã đưa ra một số biện pháp tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong việc làm đồ chơi, nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục mầm non mới.
Nhóm tác giả Phùng Thị Tường, Nguyễn Thị Nga, và Vũ Ngọc Minh đã biên soạn các phương pháp hướng dẫn trẻ làm đồ chơi từ đất nặn theo chủ đề, giúp trẻ phát triển kỹ năng sáng tạo và tư duy.
Trong năm 2013, nhiều sáng kiến kinh nghiệm và đề tài của giáo viên mầm non tại tỉnh Bình Phước đã được công bố, tập trung vào nghiên cứu đồ chơi cho trẻ mầm non Các nghiên cứu này bao gồm danh mục thiết bị đồ chơi, tiêu chí đánh giá thực trạng sử dụng đồ chơi, biện pháp tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm đồ chơi, và các giải pháp cải thiện điều kiện trang thiết bị cho trẻ Ngoài ra, còn có những biện pháp sử dụng đồ chơi nhằm phát triển khả năng học tập của trẻ.
Tác giả Nguyễn Thu Hào đã đề xuất giải pháp khuyến khích trẻ em hoạt động tích cực bằng cách xây dựng môi trường góc mở Trong nghiên cứu của mình, tác giả tập trung vào việc tìm kiếm các phương pháp và vật liệu xung quanh để tạo sự hứng thú cho trẻ trong học tập và vui chơi Bên cạnh đó, tác giả cũng hướng dẫn trẻ biết cách biến những vật liệu đơn giản thành những đồ chơi thân thiện, góp phần phát triển khả năng sáng tạo và tư duy của trẻ.
THỰC TRẠNG LÀM VÀ SỬ DỤNG ĐỒ CHƠI THEO CÁC CHỦ ĐỀ THỰC PHẨM TẠI CÁC TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƯỚC
THỰC TRẠNG LÀM VÀ SỬ DỤNG ĐỒ CHƠI THEO CÁC CHỦ ĐỀ THỰC PHẨM TẠI CÁC TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1 Thực trạng tự làm đồ chơi cho giáo dục mầm non trên cả nước nói chung Đề án “Phát triển thiết bị dạy học tự làm giáo dục mầm non và phổ thông giai đoạn 2010-2015” của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình bày thực trạng tự làm đồ chơi của bậc mầm non Nội dung chính như sau:
Trong những năm gần đây, việc đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông đã làm nổi bật vai trò quan trọng của thiết bị dạy học (TBDH) trong cải cách phương pháp giảng dạy Tuy nhiên, việc mua sắm và thay thế TBDH hàng năm đang gặp nhiều khó khăn, bao gồm vấn đề cung cấp thiết bị, kinh phí hạn chế cho việc bổ sung và sửa chữa, cũng như các phương pháp khắc phục thiết bị hư hỏng Trong bối cảnh này, giải pháp tự làm, tự sửa chữa và cải tiến TBDH đã giúp kịp thời bổ sung thiết bị còn thiếu, thay thế hoặc cải tiến những thiết bị hư hỏng, đồng thời phù hợp với đặc điểm và tình hình của từng địa phương, cơ sở giáo dục.
Thiết bị dạy học tự làm (TBDHTL) là sản phẩm do giáo viên tự chế tạo hoặc cải tiến từ thiết bị có sẵn, giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy Với nguyên lý cấu tạo và cách sử dụng phù hợp với mục tiêu bài dạy, TBDHTL mang lại hiệu quả cao và thực tiễn Nhiều giáo viên còn sáng tạo phần mềm mô phỏng thí nghiệm hóa học, vật lý, sinh học, giúp dạy những thí nghiệm khó thực hiện trong điều kiện thực tế.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tài liệu dạy học tự làm (TBDHTL), nhiều tỉnh, thành phố đã khởi xướng phong trào tự làm TBDH, biến đây thành một hoạt động giáo dục thiết thực trong các trường học Phong trào này không chỉ khơi dậy sự sáng tạo mà còn thể hiện lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên Qua đó, một lượng lớn TBDHTL đã được sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Đề án "Phát triển thiết bị dạy học tự làm giáo dục Mầm non và Phổ thông giai đoạn 2010 - 2015" nhằm xây dựng hệ thống văn bản chỉ đạo và các cơ chế chính sách để thúc đẩy việc tự làm thiết bị dạy học (TBDH) trở thành hoạt động thường xuyên trong giáo dục Mặc dù việc tự làm TBDH chưa phổ biến và đồng đều giữa các cấp học và vùng miền, đề án khuyến khích giáo viên tích cực sử dụng và phát triển TBDH, góp phần cải tiến các thiết bị hiện có Điều này không chỉ hỗ trợ phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" mà còn thực hiện phương châm giáo dục, tạo ra môi trường học tập hiệu quả hơn cho học sinh.
“Học đi đôi với hành”
Quá trình tự làm đồ chơi của giáo viên mầm non đã gặp những thuận lợi và khó khăn chung như sau:
Ở cấp học này, hoạt động tự làm thiết bị dạy học (TBDH) diễn ra thường xuyên và liên tục, cả ở vùng thuận lợi lẫn vùng khó khăn, tạo ra sự phong phú cho các đồ dùng dạy học và đồ chơi Thiết kế và thi công TBDH không yêu cầu kỹ thuật hiện đại, đồng thời vật tư nguyên liệu cũng dễ kiếm và dễ tìm.
Đội ngũ giáo viên nhiệt huyết và đam mê đã khởi xướng phong trào tự làm đồ dùng dạy học (TBDH), nhận được sự ủng hộ từ phụ huynh về nguyên liệu và kinh phí Ở bậc học mầm non, hoạt động này diễn ra hàng ngày, đặc biệt trong các dịp lễ lớn và qua các hội thi như thi làm TBDH và thi giáo viên dạy giỏi Hầu hết các TBDH được tạo ra từ nguyên vật liệu dễ kiếm, dựa trên ý tưởng của giáo viên trong quá trình tương tác với trẻ, đảm bảo tính thân thiện với môi trường.
41 kiệm và rất gần gũi, thiết thực, phục vụ hiệu quả cho việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non
- Giáo viên phải dạy trên lớp cả ngày nên thiếu thời gian cho tự làm TBDH
Hiện nay, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ giáo viên trong việc mua nguyên vật liệu, đặc biệt là đối với giáo viên mầm non ngoài biên chế Điều này dẫn đến việc nhiều giáo viên không đủ khả năng tài chính để tự tạo ra các tài liệu dạy học (TBDH).
Chế độ khen thưởng hiện tại chưa rõ ràng và không tương xứng với nỗ lực và trí tuệ của giáo viên, dẫn đến việc thiếu động lực cho đội ngũ trong việc tự làm tài liệu dạy học (TBDH).
Nhận thức của các cấp quản lý giáo dục về vai trò và tác dụng của thiết bị dạy học (TBDH) trong giảng dạy, cũng như hoạt động tự làm TBDH, hiện nay vẫn còn hạn chế.
- Công tác tuyên truyền, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá chưa được quan tâm đúng mức
Công tác chỉ đạo và hướng dẫn từ các đơn vị chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với các Sở Giáo dục và Đào tạo chưa được thực hiện một cách kịp thời và cụ thể.
Hiện nay, vẫn thiếu một hệ thống văn bản pháp lý cần thiết để thiết lập cơ chế và chính sách cụ thể, nhằm tạo điều kiện và động lực cho việc phát triển cũng như duy trì các hoạt động tự làm tài liệu dạy học (TBDH) trong các cấp học và loại hình đào tạo.
Hiện nay, cả ở trung ương lẫn địa phương chưa có đơn vị chuyên trách nào nghiên cứu và phát triển tài liệu dạy học (TBDHTL) cho các cấp học Các hoạt động trao đổi chuyên môn về việc tự làm TBDH chỉ diễn ra trong phạm vi tổ bộ môn tại các trường học Trước tình hình này, Bộ Giáo dục đã đưa ra các chỉ đạo nhằm cải thiện tình trạng trên.
Khai thác và sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học (TBDH) đã được trang bị theo danh mục tối thiểu, kết hợp với việc tự làm TBDH, sẽ nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học Điều này không chỉ tạo động lực khuyến khích tư duy sáng tạo cho giáo viên và học sinh, mà còn bồi dưỡng năng lực tự học và phát triển khả năng thực hành sáng tạo.
Để xây dựng môi trường học tập thân thiện và khuyến khích sự tích cực của học sinh, cần đẩy mạnh và phát triển các hoạt động tự làm tài liệu dạy học (TBDH) thành một hoạt động sư phạm thường xuyên trong các trường mầm non và phổ thông Qua đó, các thầy cô giáo sẽ trở thành tấm gương về tự học và sáng tạo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
BỘ ĐỒ CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO THEO CÁC CHỦ ĐỀ NHÁNH THUỘC CHỦ ĐỂ THỰC PHẨM CHO BÉ YÊU
BỘ ĐỒ CHƠI CHO TRẺ MẦM NON TUỔI MẪU GIÁO THEO MỘT SỐ CHỦ ĐỀ NHÁNH THUỘC CHỦ ĐỀ “THỰC PHẨM CHO BÉ YÊU”
3.1 Các chủ đề cho bộ đồ chơi
Dựa vào mục 1.6 chương 1, người nghiên cứu xác định chủ đề sẽ làm đồ chơi là: “chủ đề thực phẩm cho bé yêu”
Từ chủ đề thực phẩm cho bé yêu có thể xây dựng thành các chủ đề nhánh như sau:
Chủ đề Chủ đề nhánh 1 Chủ đề nhánh 2
Thực phẩm cho bé yêu
Rau ăn lá Rau ăn củ Rau ăn quả Nấm Trái cây
Thực phẩm giàu bột đường Bánh
Mứt kẹo Thực phẩm giàu đạm Thực phẩm giàu đạm Thực phẩm giàu chất béo Thực phẩm giàu chất béo
Bảng 3.1 Bảng các chủ đề nhánh của chủ đề thực phẩm cho bé yêu
Từ bảng 3.1 và thực trạng chương 2 người nghiên cứu xác định các chủ đề sẽ làm đồ chơi gồm 7 chủ đề dưới đây:
CĐ thực phẩm giàu đạm
CĐ thực phẩm giàu chất béo
Dựa vào các chủ đề đã xác định tại mục 3.1 và kết quả khảo sát tại chương
2, người nghiên cứu đã xác định các chủ đề cần làm bổ sung đồ chơi là:
7 Thực phẩm giàu chất béo
Từ các chủ đề đã xác định, người nghiên cứu đề xuất danh mục các đồ chơi sẽ xây dựng cụ thể như sau:
Chủ đề Đồ chơi sẽ thực hiện
1.Rau ăn củ 1 Củ cà rốt
2 Rau ăn quả 1 Quả bí đỏ
6 TP giàu đạm 1 Cá viên - bò viên - tôm viên
7 TP giàu chất béo 1 Bơ
Bảng 3.2 Bảng danh mục các đồ chơi sẽ xây dựng
3.3.1 Thiết kế cơ sở a/ Xác định đặc điểm, vật liệu và dụng cụ cho các nhóm đồ chơi
Dựa vào việc nghiên cứu các mẫu vật thật theo từng chủ đề, người nghiên cứu sẽ quan sát và phân tích để xác định những đặc điểm chung của từng nhóm đồ chơi Qua đó, họ có thể xác định các vật liệu và dụng cụ cần thiết cho quá trình sản xuất.
Chủ đề Đặc điểm chung của từng nhóm ĐC
Xác định vật liệu – dụng cụ
1 Rau ăn củ - Củ dạng tròn( khoai tây, củ dền, củ su hào) hoặc dài (khoai lang, củ cải, củ cà rốt)
Mỗi loại củ đều mang một màu sắc đặc trưng riêng, như cà rốt có màu cam, củ cải màu trắng, củ su hào màu xanh, củ dền màu đỏ tím, củ khoai tây màu vàng, và củ khoai lang có màu hồng, tím, nâu.
- Xốp cách nhiệt trắng (VLDC 02)
- Màu nước, cọ vẽ (VLDC 09)
2 Rau ăn quả - Quả có hình dạng tròn
(quả cà chua, quả bí đỏ, quả cà pháo)
- Quả dạng dài ( quả bầu, quả bí, quả mướp, quả ớt)
- Các quả khác nhau có màu sắc khác nhau (cà chua, ớt màu đỏ; bầu, bí, mướp màu xanh, cà pháo màu tím
- Túi bọc thực phẩm (VLDC 20)
3 Nấm - Nấm rơm có dạng búp, màu trắng phớt đen
- Nấm rơm gồm phần thân và phần tán màu trắng
- Nấm độc gồm phần thân và phần tán
- Thân mầu trắng, tán nhiều màu sắc
4 Trái cây Có 2 dạng; quả dạng chùm
(khế, nhãn, nho, mận) Quả dạng rời (sapoche, táo, quýt, thanh long, dưa hấu, na, bưởi, xoài, măng cụt, cam, dưa gang, hồng, lê)
- Băng keo giấy hai mặt (VLDC 16)
Nhóm chưa chế biến: con cua, con tôm, con cá, con nghêu
Nhóm đã chế biến: chân giò, chả lụa, thịt kho trứng,
63 trứng ốp la, cá viên, bò viên, tôm viên, xúc xích
6 Bánh Bánh có phần vỏ, hộp: bánh bông lan, bánh mì sandwich, bánh flan, bánh chưng, bánh giò, bánh nậm, bánh in, bánh ít, bánh oản, bánh tét
Bánh không có phần giấy gói, hộp đựng: bánh bao, bánh dày, bánh kem
Mỗi loại bánh khác nhau có màu sắc khác nhau
7 Thực phẩm giàu chất béo
Bơ có phần bơ và phần vỏ hộp
Phomai có phần phomai và phần giấy gói
Kem có phần thân ốc và phần kem
- Giấy bìa (vỏ hộp thuốc tây) (VLDC 25)
Bảng 3.3 Bảng vật liệu dụng cụ làm đồ chơi theo các chủ đề thực phẩm b/ Phân tích đặc điểm của vật liệu
Sau khi xác định các vật liệu cần thiết để chế tạo đồ chơi theo chủ đề thực phẩm cho trẻ em, người nghiên cứu đã tiến hành phân tích các vật liệu này nhằm thiết kế các kỹ thuật thực hiện Chi tiết phân tích được trình bày tại phụ lục 5.
Căn cứ vào đặc điểm của các loại vật liệu, người nghiên cứu thiết kế các kĩ thuật phù hợp với các vật liệu như sau:
Kĩ thuật vẽ trên xốp bitis (KT 01)
Bạn có thể sử dụng bút bi hoặc bút xoá để vẽ hình trên bề mặt xốp, tương tự như khi vẽ trên giấy hoặc bìa Trong bộ đồ chơi này, xốp Bitis thường được cắt thành lá để tạo hình.
Kĩ thuật cắt bằng kéo trên xốp bitis (KT 02)
Khi cắt, tay nghịch cầm và đẩy xốp bitis, tay thuận cầm kéo, mở họng kéo và cắt theo các đường đã vẽ trên bề mặt xốp
Kĩ thuật dán xốp bitis (KT 03)
Khi dán xốp bitit, keo dán sắt là lựa chọn tối ưu nhất để đảm bảo độ bền và chắc chắn cho sản phẩm theo thời gian Việc sử dụng keo hai mặt không đảm bảo độ bền như mong đợi, trong khi việc sử dụng súng bắn keo có thể tạo ra những điểm dán không thẩm mỹ.
Kĩ thuật cắt, gọt xốp cách nhiệt ( KT 04) Để cắt gọt xốp đạt yêu cầu cần một số yêu cầu sau:
- Dao cắt xốp thông thường sử dụng dao lam hoặc dao rọc giấy có lưỡi mỏng và sắc để khi cắt xốp mới mịn và không bị vỡ
- Khi gọt xốp muốn tạo độ tròn, không gọt quá sâu mà gọt từng lớp mỏng
Kĩ thuật chà mịn xốp cách nhiệt (KT 05):
Dùng giấy nhám chà nhẹ trên bề mặt xốp đến khi bề mặt xốp trở nên láng mịn là được
Kĩ thuật tạo khe trên xốp cách nhiệt (KT 06):
- Dùng dũa móng tay hoặc giấy nhám để chà lên bề mặt xốp tạo độ mịn
- Gấp giấy nhám làm đôi như lưỡi dao khía từ từ trên bề mặt xốp tạo các khe
Kĩ thuật sơn màu lên xốp cách nhiệt (KT 07)
Khi sơn màu lên xốp, bạn có thể sử dụng màu nước hoặc màu bột, nhưng nên hạn chế màu bột vì dễ bị dây màu ra tay sau khi khô Tránh sử dụng sơn móng tay hoặc sơn phun có este để sơn xốp Để đạt được sản phẩm đẹp, trước khi sơn, hãy làm mịn bề mặt xốp bằng kỹ thuật chà mịn Để tăng độ bóng và độ bền cho xốp, khi pha màu, hãy cho một ít hồ dán (loại nước) vào và khuấy đều.
Sau khi sơn màu, nên để trong mát khoảng trên 4 tiếng cho thật khô rồi mới bọc kiếng hoặc sử dụng sản phẩm
Kỹ thuật quấn len xốp cách nhiệt (KT 08) là phương pháp hiệu quả để tăng độ bền cho các đồ chơi làm từ xốp trắng Việc quấn len không chỉ giúp gia tăng tính chắc chắn mà còn tạo màu sắc hấp dẫn cho sản phẩm Len thường được quấn quanh hoặc qua lõi của xốp, và kỹ thuật này được áp dụng phổ biến cho các nhóm trái cây và rau củ.
Có hai cách quấn len:
Quấn len qua lõi và quấn len vòng quanh sản phẩm
Cách 1: Quấn len qua lõi:
Cần có len, kim khâu và lõi
Len: Có đủ các màu dùng để tượng trưng cho màu sản phẩm Có nhiều loại len (len gai, len thường và mút)
Kim khâu: Nên dùng kim khâu bao là loại kim có kích thước lớn có đủ độ cứng và đủ lớn để xâu len qua lỗ kim
Để tạo ra sản phẩm, sử dụng kim khâu bao hoặc một cây đũa để đục lỗ qua tâm của sản phẩm Việc quấn len thường yêu cầu quấn nhiều vòng quanh lõi, vì vậy cần đục lỗ với kích thước hợp lý để tránh đau tay và rối len Đồng thời, sau khi quấn, các sợi len cần phải phủ kín lỗ đã đục để đảm bảo tính thẩm mỹ và độ bền cho sản phẩm.
Xuyên kim qua tâm sản phẩm, quấn len đều và kín, đảm bảo không có sợi len chồng chéo hay hở xốp Trong quá trình quấn, cần sử dụng tay để sắp xếp các sợi len một cách hợp lý và quấn chặt tay.
Đối với các sản phẩm vừa nhỏ vừa dài, việc quấn len qua lõi có thể gây vỡ sản phẩm, vì vậy cần quấn len vòng quanh sản phẩm Trước khi quấn, hãy dán một ít keo hai mặt lên bề mặt xốp để giữ cho len không bị tuột Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương pháp này có thể làm giảm độ bền của sản phẩm, vì keo hai mặt sẽ mất độ dính theo thời gian, dẫn đến việc len có thể tuột ra.
Kĩ thuật nối xốp (KT 09)
Đối với sản phẩm lớn, cắt xốp thành từng phần có khoét lõi, sau đó dùng keo hai mặt để ghép lại Để tăng độ chắc chắn, sử dụng băng keo trong hoặc băng keo nhựa dán bên ngoài vị trí nối và quấn len qua lõi bình thường.
Kĩ thuật hơ lửa bề mặt xốp cách nhiệt (KT 10)
Để xử lý bề mặt xốp, bạn nên dùng ngọn lửa nhỏ từ hộp quẹt gas, tránh chạm vào phần ngọn lửa lớn để không làm miếng xốp bị đen Hơ nhanh qua bề mặt xốp để tạo ra một lớp cháy mỏng, giúp tăng độ cứng cho xốp và tạo độ nhám cho bề mặt.
Kĩ thuật bọc kiếng trong xốp cách nhiệt (KT 11)
Đồ chơi làm bằng xốp có thể trông rất giống thật, nhưng màu sơn trên bề mặt dễ bị phai khi tiếp xúc với nước và sản phẩm có thể bị vỡ Để bảo vệ bề mặt sản phẩm và ngăn ngừa việc dây màu ra tay của trẻ, chúng ta nên áp dụng kỹ thuật bọc kiếng trong.
Băng keo trong hoặc túi bọc thực phẩm
Cách 1: Dùng băng keo quấn quanh sản phẩm Quấn theo hình soắn ốc Các vòng soắn đè lên nhau một phần nhằm tăng tính bền chắc cho sản phẩm
Cách 2: Dùng giấy bọc thực phẩm kéo căng bọc bên ngoài để bảo vệ bề mặt sản phẩm và đảm bảo vệ sinh cho trẻ khi chơi
Kĩ thuật dán lót đế xốp cách nhiệt (KT 12)
Xốp là vật liệu dễ vỡ, vì vậy khi đóng gói các sản phẩm mỏng manh, nên dán một miếng bìa cứng hoặc xốp bitit dưới lớp xốp cách nhiệt để tăng cường độ bền cho sản phẩm Kỹ thuật này giúp bảo vệ hàng hóa tốt hơn trong quá trình vận chuyển.
Cắt một miếng xốp bitit hoặc bìa cứng hoặc lịch treo tường cùng hình dạng với đế sản phẩm ta được tấm đế
Dùng keo súng để dán xốp cách nhiệt với tấm đế
Kĩ thuật dán xốp cách nhiệt : ( KT 13)
Xốp trắng là vật liệu dễ cháy và có thể biến dạng hoặc bốc cháy khi nhiệt độ vượt quá 80°C Khi dán xốp, nên sử dụng các loại keo như keo hai mặt, keo sữa hoặc keo súng với lượng nhỏ Cần lưu ý rằng este có trong keo dán sắt sẽ làm xốp nóng chảy và biến dạng, vì vậy không nên sử dụng keo dán sắt để dán xốp.
Kĩ thuật se kẽm (KT 14)
Chuẩn bị khăn giấy và kẽm
Cắt khăn giấy thành các sợi
Dùng khăn giấy bọc đầu kẽm và se cành nhằm tăng kích thước, tạo độ mềm mại và đảm bảo an toàn cho sợi kẽm
Kĩ thuật se: Tay trái dùng ngón cái và ngón trỏ giữ giấy Tay phải dùng ngón cái và ngón trỏ cầm đầu kẽm và se tròn sợi kẽm