1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Vai trò của đường hồ chí minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống mỹ của việt nam

35 39 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai trò của đường Hồ Chí Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam
Tác giả Nhóm 2
Người hướng dẫn GVHD: Nguyễn Ngọc Diệp
Trường học Trường Đại Học Thương Mại
Chuyên ngành Quản trị kinh doanh
Thể loại bài thảo luận
Định dạng
Số trang 35
Dung lượng 373,79 KB

Cấu trúc

  • TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

  • LỜI CẢM ƠN!

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • PHẦN KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1964

    • 1. Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công (1954 – 1960)

    • 2. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền Nam (1961 – 1965)

  • HẦN I: SƠ LƯỢC VỀ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN

    • 1.1. Lịch sử hình thành:

    • 1.2. Vị trí địa lý và đặc điểm của đường Hồ Chí Minh trên biển:

    • 1.3. Phát triển tổ chức, phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển:

    • 1.3.1. Các đơn vị:

      • 1.3.2. Các phương tiện vận tải:

      • 1.3.3. Các tuyến vận trải trên biển:

      • 1.3.4. Các căn cứ, bến bãi:

  • PHẦN II: Vai trò của đường Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam

    • 2.1. Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến vận chuyển biển chiến lược, thể hiện nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Bác Hồ:

    • 2.2. Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối giữa hậu phương miền Bắc và tiền tuyến VN có vai trò quan trong trong chi viện sức người, sức của cho chiến trường VN:

    • 2.3. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo trong tổ chức, sử dụng các phương thức vận chuyển chi viện miền Nam:

    • 2.4. Đường Hồ Chí Minh trên biển phát huy cao nhân tố con người với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, mưu trí, dung cảm của thủy thủ “Đoàn tàu không số”:

  • PHẦN III: Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN

    • 3.1. Ý nghĩa

      • 3.1.1. Ý nghĩa lịch sử

        • 3.1.1.1. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:

        • 3.1.1.2. Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:

        • 3.1.1.3.  Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu tượng sức mạnh của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện lấy sức mình là chính:

      • 3.1.1.4. Đường Hồ Chí Minh trên biển là niềm tự hào của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân chủng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:

      • 3.1.2. Ý nghĩa trong phát triển kinh tế - xã hội ngày nay

    • 3.2. Bài học kinh nghiệm

      • 3.2.1. Bài học kinh nghiệm

      • 3.2.2. Vận dụng kinh nghiệm trong thời đại mới

  • KẾT LUẬN

Nội dung

Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, chuyển cách mạng miền

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết vào tháng 7 năm 1954, cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi với những thuận lợi và khó khăn mới Theo đúng cam kết trong hiệp định, vào ngày 10 tháng 10 năm 1954, lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội, và đến ngày 16 tháng 5 năm 1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp cùng tay sai cũng đã rút khỏi miền Bắc.

Kinh tế miền Bắc chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nên Đảng đã tập trung vào khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất Đến năm 1957, năng suất nông nghiệp miền Bắc đã phục hồi về mức năm 1939, nhưng quá trình cải cách cũng gặp phải nhiều sai lầm do thiếu sót trong chỉ đạo và không phản ánh đúng thực tế xã hội Từ 1958 đến 1960, sự phát triển kinh tế - văn hóa đã tạo ra những chuyển biến quan trọng, củng cố miền Bắc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Ngược lại, từ năm 1954, Mỹ đã thay thế Pháp, tìm cách biến miền Nam thành thuộc địa mới và căn cứ quân sự nhằm tấn công miền Bắc Ngày 22-7-1954, Hồ Chí Minh kêu gọi thống nhất đất nước, nhưng từ 1958, chế độ Ngô Đình Diệm gia tăng khủng bố, đưa miền Nam vào tình trạng chiến tranh, dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của quần chúng.

Sự hỗ trợ mạnh mẽ từ miền Bắc cho cách mạng miền Nam đã được tăng cường, thể hiện qua việc hình thành và mở rộng các tuyến vận tải mang tên Hồ Chí Minh, bao gồm cả đường bộ dọc theo dãy Trường Sơn (đường 559) và đường biển (đường 759) Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử cách mạng miền Nam, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng miền Nam (1961 – 1965)

Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã diễn ra tại Hà Nội, với Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng đây là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất đất nước Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu cho kế hoạch 5 năm (1961 – 1965) Trong quá trình thực hiện kế hoạch này, nhiều phong trào thi đua sôi nổi đã được triển khai, đặc biệt là phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”, được phát động bởi Hồ Chí Minh vào tháng 3 năm 1964, nhằm khích lệ tinh thần nhân dân trong bối cảnh chiến tranh ở miền Nam.

Trong giai đoạn 1961-1965, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã tích cực chi viện cho miền Nam, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc cách mạng Từ năm 1961, Mỹ đã chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” nhằm bình định miền Nam, với kế hoạch lập 17.000 ấp chiến lược Hai kế hoạch quân sự-chính trị chủ yếu là Stalay-Taylo (1961-1963) và Giôn xơn-Mắc Namara (1964-1965) đã được triển khai, sử dụng các chiến thuật như “trực thăng vận” và “thiết xa vận” Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong những năm 1961-1962, cách mạng miền Nam đã có bước phát triển mới, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc vào ngày 2-1-1963, thể hiện sức mạnh của đấu tranh vũ trang kết hợp với chính trị và binh vận.

Trong giai đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965, lực lượng cách mạng miền Nam đã chủ động và sáng tạo, làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ Ba trụ cột của chiến lược này, bao gồm việc xây dựng chính quyền Sài Gòn, quân đội mạnh và bình định nông thôn, đã không đạt được mục tiêu Sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã tạo ra tình trạng rối ren kéo dài trên chính trường miền Nam Phong trào học sinh, sinh viên, trí thức và các cuộc bãi công của công nhân, cùng với lực lượng biệt động, đã đóng góp quan trọng cho cuộc kháng chiến Đến đầu năm 1965, các công cụ của “chiến tranh đặc biệt” đã bị lung lay, dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của chiến lược này Thắng lợi trong việc đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” là một chiến công lớn, tạo nền tảng vững chắc cho sự tiến triển của cách mạng miền Nam.

SƠ LƯỢC VỀ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN

Lịch sử hình thành

Năm 1954, các thế lực cầm quyền Mỹ và tay sai đã xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ, với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, đồng thời tiến hành tấn công miền Bắc.

Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Tại Hà Nội, khóa II đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, nhấn mạnh rằng con đường giải phóng miền Nam phải được thực hiện qua "con đường cách mạng bạo lực."

Thực hiện chủ trương của Đảng và Quân ủy Trung ương, ngày 19-5-1959,

"Đoàn công tác quân sự đặc biệt," tiền thân của Đoàn 559, được thành lập nhằm nghiên cứu và triển khai các hoạt động chi viện quân sự cho miền Nam.

Ngày 1-6-1959, Tiểu đoàn 301 trực thuộc “Đoàn 559” ra đời, tiểu đoàn có nhiệm vụ mở tuyến vận tải xuyên Trường Sơn để chi viện vũ khí, trang bị lực lượng cho chiến trường miền Nam Đến tháng 7-1959, Tiểu đoàn 603 được thành lập có nhiệm vụ nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằng đường biển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam; Để giữ bí mật, tiểu đoàn lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”.

Cuối năm 1959, công tác chuẩn bị cho vận chuyển đã hoàn thành, nhưng chuyến thuyền đầu tiên của Đại đội 1, Tiểu đoàn 603 chở 5 tấn vũ khí và thuốc chữa bệnh không thành công do khó khăn và không an toàn Quân ủy Trung ương quyết định ngừng hoạt động của Tiểu đoàn 603 và giải thể, chuyển các đại đội về Tiểu đoàn 301 để mở đường Trường Sơn Đầu năm 1960, phong trào Đồng Khởi Bến Tre bùng nổ, nhu cầu về vũ khí và thuốc chữa bệnh trở nên cấp bách để hỗ trợ chiến trường Nam bộ Mặc dù tuyến đường bộ Trường Sơn đã hoạt động hiệu quả, nhưng vẫn chưa tiếp cận được các địa bàn chiến lược quan trọng Tổng Quân ủy chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về lực lượng vận tải biển để chi viện cho chiến trường Nam bộ và khu V.

Trong bối cảnh chưa có lực lượng vận chuyển trên biển hỗ trợ miền Nam, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Trung ương Cục miền Nam chuẩn bị bến bãi và tổ chức đưa thuyền ra miền Bắc Mục tiêu là thăm dò tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển biển và nhận vũ khí để hỗ trợ phong trào cách mạng miền Nam Từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, năm thuyền từ Nam bộ đã đến miền Bắc, và những người con trung kiên của Tổ quốc, trong đó có 18 đảng viên, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp gặp gỡ, thăm hỏi và động viên.

Những chuyến thuyền từ Nam bộ ra Bắc đã góp phần quan trọng trong việc thành lập Đoàn 759 vận tải thủy, nhằm tiếp tế vũ khí cho miền Nam Vào ngày 23-10-1961, Bộ Tổng Tư lệnh đã ban hành Quyết định số 97/QP, do Thứ trưởng Hoàng Văn Thái ký, chính thức thành lập đoàn với đồng chí Đoàn Hồng Phước làm đoàn trưởng Đoàn 759 hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Tổng Tư lệnh, với địa chỉ tại nhà số 83.

Lý Nam Đế (Hà Nội) làm trụ sở Cuối năm 1961, đề án công tác của đoàn đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh thông qua.

Ngày 12-2-1962, Tổng cục Chính trị có Quyết định số 09/QĐ thành lập Đảng ủy Đoàn 759 do đồng chí Phạm Thái Hòa làm Bí thư.Quyết định thành lập Đoàn 759 thể hiện tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Bộ Chính trị mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh Sự ra đời của Đoàn 759 đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển Ngày 23-10 trở thành ngày truyền thống của Đoàn 759 trước đây, Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay, đồng thời làNgày mở đường Hồ Chí Minh trên biển.

Vị trí địa lý và đặc điểm của đường Hồ Chí Minh trên biển

Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến đường vận tải quân sự bí mật do Hải quân nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam thực hiện trên Biển Đông Chính thức thành lập vào ngày 23-10-1961, tuyến đường này nhằm vận chuyển nguồn nhân lực và vũ khí từ miền Bắc Việt Nam, hỗ trợ cho Quân Giải phóng miền Nam trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Trong suốt quá trình hoạt động, đường Hồ Chí Minh trên biển đã chứng kiến hai nghìn lượt tàu thuyền vượt biển, vận chuyển hàng chục ngàn cán bộ từ Bắc vào Nam, đồng thời chi viện cho chiến trường với gần 160 nghìn tấn vũ khí và cập bến tại 19 bến bãi thuộc địa bàn.

9 tỉnh miền Nam , góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước

Trong kháng chiến chống Mỹ, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện ý chí quyết chiến và lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam, được coi là một "huyền thoại có thật" và "kỳ tích" của đất nước Đây không chỉ là phương thức chi viện quan trọng cho các chiến trường ven biển miền Nam mà còn là một sáng tạo chiến lược của Đảng về chiến tranh nhân dân trong thời kỳ Hồ Chí Minh, góp phần lớn vào Đại thắng mùa xuân năm 1975.

Phát triển tổ chức, phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển

Vào tháng 7 năm 1959, Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập Tiểu đoàn Vận tải thủy 603 với nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, hàng hóa và con người cho miền Nam, hoạt động dưới danh nghĩa “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” để bảo đảm bí mật Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Đoàn hải quân 759 được thành lập, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt Nam Đây là đơn vị tiên phong trong việc vận tải vũ khí vào chiến trường miền Nam bằng các tàu Không số, đánh dấu bước phát triển mới cho Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Đoàn 962, thuộc Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, được thành lập với nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Bến Tre và Cà Mau.

V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển. Đoàn 962 là một đầu cầu lớn tiếp nhận sự chi viện vũ khí, trang bị từ hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Vào năm 1972, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ đạo kết thúc việc vận chuyển bằng tàu vỏ sắt của Đoàn 125 và chuyển sang phương thức vận chuyển hợp pháp bằng tàu hai đáy tại Đoàn 962 Sau khi nghiên cứu việc vận chuyển bằng xuồng, ghe hai đáy trong quân khu, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đã quyết định thành lập Đoàn 950 (sau này là Đoàn 371) với sự chấp thuận của Bộ Tổng tham mưu Đoàn 950 hoạt động theo cả hai phương thức hợp pháp và bất hợp pháp, với lực lượng được huy động từ những cán bộ, chiến sĩ ưu tú của Đoàn 962 và Đoàn 125.

1.3.2 Các phương tiện vận tải:

Vào đêm 11-10-1962, tại Đồ Sơn (Hải Phòng), tàu gỗ mang tên Phương Đông 1 đã thành công trong việc chở 30 tấn vũ khí vào bến Cà Mau, đánh dấu khởi đầu cho con đường huyền thoại trên Biển Đông Để tránh sự phát hiện của địch, các tàu vận chuyển vũ khí thường được ngụy trang thành tàu đánh cá và thay đổi lộ trình liên tục Các tàu Phương Đông 2, 3 và 4 cũng lần lượt xuất phát và cập bến an toàn Ngày 17-3-1963, chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí đã thành công cập bến Bát Sát, mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong công tác vận chuyển quân sự trên biển Đến năm 1972, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ thị chuyển sang phương thức vận chuyển mới bằng tàu hai đáy, kết thúc quá trình vận chuyển bằng tàu vỏ sắt của Đoàn 125.

1.3.3 Các tuyến vận trải trên biển:

+ Tuyến tiếp giáp lãnh hải

+ Tuyến hàng hải quốc tế Ðể đáp ứng yêu cầu vận chuyển của những tàu trọng tải lớn, ngày 15-4-

Vào năm 1963, tại địa điểm khởi hành của tàu Phương Đông 1, chiếc cọc đầu tiên đã được đóng xuống, đánh dấu sự khởi đầu của việc xây dựng cầu tàu K15 (Hải Phòng), được xem là cây số 0 của đường Hồ Chí Minh trên biển.

Từ đây, các con tàu Không số của Ðoàn 125 Hải quân đã khởi hành, tiến ra biển khơi, vượt qua bão tố và sự phong tỏa nghiêm ngặt cùng sự truy đuổi của tàu chiến và máy bay Hải quân Mỹ, thực hiện nhiệm vụ vận chuyển vũ khí và hàng hóa một cách bí mật và bất ngờ đến 19 bến.

Sau sự kiện tàu 143 bị phát hiện tại Vũng Rô vào tháng 2 năm 1965, con đường vận chuyển chiến lược đã bị lộ và bị kiểm soát chặt chẽ bởi địch Do đó, đoàn tàu 795 buộc phải thay đổi phương thức hoạt động, sử dụng các đội tàu di chuyển theo nhiều tuyến đường khác nhau để đảm bảo an toàn cho vận chuyển.

Đoàn 125 đã đề xuất phương thức đưa tàu theo đường hàng hải quốc tế để đột nhập vào các bến tiếp nhận, nhưng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt sau Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 khi địch kiểm soát gắt gao các vùng biển Để ứng phó, ta đã khéo léo nhờ sự giúp đỡ của Campuchia, tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự qua cảng Xihanúcvin và thuê tàu của quân đội Hoàng gia Campuchia để tiếp tế cho chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên Từ cuối năm 1970, khi tuyến đường qua cảng Xihanúcvin bị cắt đứt, Đoàn 125 phải tìm hướng đi mới qua nhiều vùng biển xa như Đông Bắc Malaysia và vịnh Thái Lan Với ý chí kiên cường, cán bộ, chiến sĩ Ðoàn tàu Không số vẫn nỗ lực vận chuyển chi viện cho miền Nam, tham gia các hoạt động quan trọng như Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968) và phá thế phong tỏa của địch (1969-1972).

Mặc dù khởi đầu chỉ với những chiến thuyền nhỏ và thô sơ, nhưng sau đó, lực lượng tàu Không số đã phát triển mạnh mẽ với hàng trăm chiếc tàu sắt lớn, không chỉ hoạt động trong vùng biển của Việt Nam mà còn vươn ra hải phận quốc tế Những con tàu này chở vũ khí và trang bị, được nguỵ trang khéo léo, với phương thức vận chuyển linh hoạt, từ việc chọn bến bãi cho đến tận dụng địa hình và thời tiết Đoàn tàu Không số xuất phát từ nhiều bến và đi qua nhiều tuyến đường khác nhau, bất chấp sự phong tỏa và ngăn chặn của địch, luôn tìm cách giữ bí mật nhiệm vụ Việc triển khai các tuyến đường vận tải biển đã giúp vượt qua những phòng tuyến nghiêm ngặt của kẻ thù, cung cấp kịp thời vũ khí cho miền Nam Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn và bản lĩnh của Đảng, cùng ý chí độc lập, tự do của dân tộc, giúp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn nhất.

1.3.4 Các căn cứ, bến bãi:

Cầu cảng K15 (Vạn Xét) được khánh thành lần đầu tại các thôn Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng) bởi Trung đoàn công binh 83 vào ngày 15 tháng 5 năm 1964 Mặc dù ra đời sau các tuyến vận tải quân sự bí mật trên biển từ Quảng Bình vào miền Nam, K15 được xem như “Cột km số 0” của các tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, đánh dấu bước chuyển biến lớn khi các tàu sắt được đưa vào sử dụng, thay thế cho các tàu gỗ kém an toàn Trong suốt quá trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức 88 chuyến vận tải quân sự, vận chuyển 4.919 tấn vũ khí đạn dược cùng hàng nghìn tấn hàng hóa khác.

Sa Huỳnh là một làng chài cổ và bãi biển nổi tiếng ở miền Trung Trung Bộ, nổi bật với nghề đánh cá truyền thống lâu đời Nơi đây không chỉ thu hút du khách bởi vẻ đẹp tự nhiên mà còn bởi văn hóa và lịch sử phong phú gắn liền với hoạt động đánh bắt hải sản.

Đường Hồ Chí Minh trên biển tại Sa Huỳnh là một trong những điểm quan trọng tiếp nhận vũ khí, đạn dược và hàng hóa từ các chuyến tàu không số, hỗ trợ Quân giải phóng miền Nam trong chiến trường Khu V.

Quy Thiện, nằm tại xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, là một trong những bến đỗ dự bị cho các chuyến tàu không số, phục vụ khi tàu gặp sự cố hoặc cần tránh trú trong bão lớn và khi bị hải quân Việt Nam Cộng hòa bao vây.

Lộ Diêu là bến cảng nằm tại Hoài Hải, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, chính thức hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1964 Bến cảng này đã đón con tàu đầu tiên chở hàng chục tấn vũ khí từ Hòn Dấu, Hải Phòng Lộ Diêu được chọn làm bến trung chuyển cho vũ khí, đạn dược và hàng hóa do các tàu không số vận chuyển từ miền Bắc vào chiến trường khu V.

Vai trò của đường Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam

Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến vận chuyển biển chiến lược, thể hiện nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Bác Hồ

Quá trình hoạch định đường lối kháng chiến của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc chi viện cho chiến trường thông qua Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Đặc biệt, vào đầu năm 1961, trước sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam, Thường trực Quân ủy Trung ương đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chi viện cho miền Nam để giành thắng lợi quyết định Đảng xác định nhiệm vụ này là trọng tâm, quyết định thành bại của cuộc chiến Sự nhận thức từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của công tác chi viện đã tạo nền tảng vững chắc cho cách mạng miền Nam Sau Hội nghị Trung ương 15, Bộ Chính trị đã chỉ đạo mở tuyến đường Trường Sơn và tuyến đường biển để chi viện cho miền Nam Việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ, mặc dù khó khăn và nguy hiểm do địa hình và sự kiểm soát của địch, đã được triển khai nhằm hỗ trợ cho chiến trường chiến lược này.

Sự nối kết và chuyển tải sức mạnh từ hậu phương đến tiền tuyến đã diễn ra hiệu quả qua con đường chi viện trên biển, đặc biệt trong bối cảnh tuyến đường Trường Sơn chưa thể tiếp cận các chiến trường xa Từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, đã có 88 chuyến tàu được tổ chức, vận chuyển 4.919,636 tấn vũ khí và hàng thiết yếu vào miền Nam, đạt 93% kế hoạch, trong đó hai năm 1962 và 1964 đạt tỷ lệ 100% Nhờ được trang bị vũ khí và kỹ thuật quân sự đầy đủ, Quân giải phóng đã mở các chiến dịch lớn như Bình Giã (1964) và Đồng Xoài (1965), đánh bại “chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã sử dụng hàng ngàn chuyến tàu, đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với 140 chuyến, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và hàng ngàn cán bộ chiến sĩ vào chiến trường Tổng cộng, tuyến chi viện - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển hơn 96.000 tấn vũ khí và hơn 170.000 lượt cán bộ chiến sĩ, khẳng định vai trò quan trọng của nó bên cạnh Đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ.

Hồ Chí Minh trên biển là một sáng tạo chiến lược quan trọng của Đảng, đóng vai trò then chốt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cứu nước của dân tộc Việt Nam Sự kiện này thể hiện khả năng nắm bắt và dự đoán đúng xu thế phát triển của cuộc kháng chiến, từ đó chủ động chuẩn bị thời cơ và lực lượng Con đường chi viện trên biển đã góp phần đáng kể vào sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của cách mạng.

Quyết định sáng tạo và táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc mở con đường vận tải quân sự chiến lược qua biển đã thể hiện nhãn quan nhạy bén của lãnh đạo Hành động này không chỉ đáp ứng khát vọng giải phóng miền Nam mà còn thể hiện quyết tâm thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối giữa hậu phương miền Bắc và tiền tuyến VN có vai trò quan trong trong chi viện sức người, sức của cho chiến trường VN

Xây dựng hậu phương chiến lược miền Bắc vững mạnh là quan điểm nhất quán của Đảng ta, nhằm hỗ trợ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Đảng xác định miền Bắc phải trở thành "nền gốc" cho sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa hậu phương và tiền tuyến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) khẳng định miền Bắc có vai trò quyết định trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, trong khi miền Nam đóng vai trò trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng chính là xây dựng hậu phương cho sự nghiệp giải phóng miền Nam Đảng đã xác định rõ vị trí, vai trò của từng miền và đưa ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp để củng cố hậu phương chiến lược, gắn kết hoạt động của miền Bắc với tiền tuyến miền Nam, thực hiện nghĩa vụ của hậu phương - căn cứ địa cách mạng của cả nước.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Bộ Chính trị đã giao cho Quân ủy Trung ương mở các tuyến đường vận chuyển chiến lược trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và đường vận tải biển, nhằm hỗ trợ miền Nam Con đường biển được khởi đầu bằng chuyến tàu đầu tiên chở 30 tấn vũ khí của Đoàn 759, xuất phát từ bến Đồ Sơn (Hải Phòng).

Vào ngày 19 tháng 10 năm 1962, chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam đã cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), được Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương và nhắc nhở Đoàn 759 nhanh chóng rút kinh nghiệm để tiếp tục vận chuyển vũ khí cho miền Nam Sự kiện này chứng tỏ quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về việc mở đường vận chuyển chiến lược trên biển là đúng đắn và kịp thời Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tạo ra một tuyến chi viện nhanh chóng và hiệu quả, cho phép vận chuyển những hàng hóa đặc biệt như vũ khí và thiết bị y tế quý hiếm chỉ trong khoảng 5 đến 6 ngày, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm Hơn nữa, con đường này còn đảm bảo an toàn cho hàng trăm cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc Sự kết nối Bắc - Nam qua con đường này là biểu hiện sinh động của khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Bộ tháng 10-1973), Nguyễn Thiện Thành (đi Tàu 69 năm 1964), Nguyễn Thế Bôn (đi Tàu

Trong giai đoạn từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, 88 chuyến tàu đã vận chuyển thành công 4.919.636 tấn vũ khí và hàng hóa thiết yếu đến các chiến trường, đạt tỷ lệ 93% so với tỷ lệ cho phép là 50% Nếu sử dụng người gùi thồ, cần huy động tới 196.785 người trong 6 tháng, với nhu cầu gạo lên tới 24.794.910 kg Nếu dùng ô tô, cần 1.968 xe trong 2 tháng, tiêu tốn khoảng 4.000 tấn xăng dầu Trong mùa vận chuyển 1970-1971, tuyến Trường Sơn bị tổn thất 2.842 xe (44,3%), và mùa 1971-1972 tổn thất 4.228 xe (50,7%) Để cải thiện khả năng vận chuyển, Quân ủy Trung ương đã đầu tư trang bị tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 đến 100 tấn cho Đoàn 759.

Tư lệnh đề nghị Xưởng đóng tàu III (Hải Phòng) thuộc Bộ Giao thông vận tải đảm nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt.

Vào ngày 17 tháng 3 năm 1963, tàu vỏ sắt đầu tiên do Thuyền trưởng Đinh Đạt chỉ huy và Chính trị viên Nguyễn Văn Tiến phụ trách đã vận chuyển thành công 44 tấn vũ khí, cập bến Trà Vinh an toàn.

Xưởng đóng tàu III tại Hải Phòng đã hạ thủy thành công nhiều chiếc tàu, giúp Đoàn 759 thực hiện nhiều chuyến vận chuyển hàng hóa và vũ khí bí mật cho chiến trường miền Nam vào năm 1963 Mỗi chuyến đi là một thử thách lớn với cán bộ, chiến sĩ, khi họ phải đối mặt với sóng gió và kẻ thù mà không biết thông tin về nhau Nhờ vào tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm ngặt, và tinh thần trách nhiệm cao, các chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc và giữ được bí mật.

Chỉ trong vòng 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam

Vào đêm 26/9/1963, tàu gỗ số 41 do thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy đã vận chuyển thành công 18 tấn vũ khí từ cảng Bính Động (Hải Phòng) đến khu vực đảo Phú Quý, bất chấp điều kiện thời tiết khắc nghiệt và sự tuần tra của địch Trong quá trình tiếp cận bến, tàu mắc cạn gần đồn Phước Hải, nhưng cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã quyết tâm giữ bí mật và không phá hủy tàu, thay vào đó phối hợp với lực lượng ở bến để nhanh chóng bốc dỡ vũ khí Sự bình tĩnh và mưu trí của Bí thư chi bộ Đặng Văn Thanh cùng thợ máy Huỳnh Văn Sao đã giúp bảo toàn bí mật cho chuyến đi, góp phần quan trọng vào chiến thắng của quân và dân miền Nam.

Với thành tích vận chuyển vũ khí cho chiến trường, tháng 9-1963, Đoàn

Đoàn 759 đã được Quốc hội và Chính phủ trao tặng Huân chương Chiến công hạng Hai, trong khi Tàu 41 nhận Huân chương Quân công hạng Nhất Các tàu 43, 54, 55 và 56 cũng được vinh danh với Huân chương Chiến công hạng Nhất, trong khi Tàu 42, 67 và 68 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì Vào tháng 8 năm 1963, Quân uỷ Trung ương quyết định đưa Đoàn 759 trực thuộc Quân chủng Hải quân, và đến ngày 29 tháng 1 năm 1964, Bộ Quốc phòng đã quyết định đổi phiên hiệu của Đoàn 759.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã nhanh chóng củng cố tổ chức và ổn định mọi mặt, đồng thời thực hiện cả xây dựng và vận chuyển Đoàn 125 không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tích mới.

Tuyến chi viện chiến lược trên bộ, được thành lập vào năm 1959, nhanh chóng bắt đầu nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường Tuy nhiên, những năm đầu gặp nhiều khó khăn do sự ngăn chặn quyết liệt từ địch và địa hình phức tạp, hiểm trở của phía Đông Trường Sơn Chỉ sau khi mở đường sang phía Tây Trường Sơn, hoạt động mới trở nên thuận lợi hơn.

Từ năm 1961, vận tải cơ giới qua 7 tỉnh và 17 huyện của Lào đã biến đường Trường Sơn thành tuyến vận tải chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt - Lào Đường Hồ Chí Minh trên biển, khai thông vào tháng 10-1962, nhanh chóng trở thành tuyến chi viện chủ yếu cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo Trong hai tháng, các tàu đã chuyển 111 tấn vũ khí vào Nam, hỗ trợ tích cực cho chiến dịch Xuân năm 1975, dẫn đến thắng lợi giải phóng miền Nam Mặc dù số lượng vũ khí vận chuyển còn hạn chế, nhưng đã giúp phát triển lực lượng vũ trang ở đồng bằng sông Cửu Long, củng cố vùng giải phóng và tạo ra sức mạnh chiến đấu mới Những chuyến vũ khí này đã thúc đẩy chiến tranh nhân dân, đóng góp vào nhiều chiến thắng quan trọng ở các địa bàn chiến lược, đồng thời làm thay đổi cách đánh và tương quan lực lượng giữa ta và địch.

Trong suốt cuộc kháng chiến, quân và dân ở cả hai miền Bắc-Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã thực hiện nhiệm vụ "chống Mỹ, cứu nước", bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam Con đường Hồ Chí Minh trên biển đã kết nối chặt chẽ giữa hậu phương và tiền tuyến Sự phát triển của hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa và thành công trong công tác chi viện đã khích lệ tinh thần đồng bào miền Nam vượt qua khó khăn, chiến đấu và giành thắng lợi Sự phối hợp giữa quân và dân cả nước đã tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh Đây cũng là thành quả của sự đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, trở thành truyền thống quý báu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự sáng tạo trong tổ chức, sử dụng các phương thức vận chuyển chi viện miền Nam

Phương thức vận chuyển đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh hạn chế về phương tiện và thiết bị kỹ thuật, đồng thời phải đối mặt với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và sự ngăn chặn từ đối phương Đảng ta xác định nhiệm vụ vận tải đường biển chi viện cách mạng miền Nam là chiến lược lâu dài Nhận thức rõ vấn đề này, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã nghiên cứu khả năng của phương tiện, con người, cũng như kinh nghiệm từ chuyến đi thành công từ Nam Bộ ra miền Bắc, quyết định tổ chức và sử dụng các loại tàu vận chuyển phù hợp để đưa nhân lực và vật lực từ miền Bắc vào chiến trường Nam Bộ, sau đó mở rộng ra Khu 6 và Khu 5.

Về tổ chức, Bộ Quốc phòng thành lập Đoàn 759 (23-10-1961) trên cơ sở

Tiểu đoàn 603, hay còn gọi là Tập đoàn đánh cá Sông Gianh, đã được nâng quy mô và đổi tên thành Đoàn 125 vào ngày 24-1-1964 Để hoàn thành nhiệm vụ, Đoàn 125 được tăng cường nhiều thuyền trưởng, thủy thủ và nhân viên kỹ thuật có trình độ đào tạo cơ bản, chủ yếu là đảng viên và đoàn viên Họ không chỉ có sức khỏe tốt và khả năng chịu đựng sóng gió biển mà còn sở hữu bản lĩnh cách mạng kiên cường, cùng với khả năng xử lý khôn khéo và táo bạo trong các tình huống để đạt được thắng lợi trong từng chuyến đi.

Đoàn 603 đã phát triển từ việc sử dụng thuyền gỗ buồm ban đầu sang tổ chức đội tàu gỗ gắn máy, và sau đó là tàu sắt, nhằm nâng cao sức chở và số lượng Những con tàu được cải biến thành tàu đánh cá, tàu khai thác hải sản, và cả tàu buôn nước ngoài, giúp cho các chuyến "tàu không số" của Hải quân có thể vận chuyển vũ khí qua các bãi đá ngầm và sóng gió, vượt qua sự ngăn chặn của kẻ thù, đảm bảo hàng hóa đến các bến ven biển Nam Bộ và Khu 5 một cách an toàn.

Đường Hồ Chí Minh trên biển, cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đã hình thành hai tuyến vận tải chiến lược, tạo nên hệ thống giao thông chủ đạo để chi viện kịp thời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Đây là phương pháp vận chuyển độc đáo trong lịch sử chiến tranh thế giới, ra đời trong thời điểm khó khăn nhất Trong bối cảnh địch trang bị vũ khí hiện đại, ta đã khéo léo kết hợp hoạt động bí mật và công khai, sử dụng nhiều bến đi và bến đến khác nhau, thậm chí phải đi vòng ra biển quốc tế để tránh sự phát hiện của địch Khi bị tấn công, ta đã kiên quyết đánh trả, thậm chí phải hy sinh tàu và hàng hóa để bảo mật nhiệm vụ Với tầm nhìn chiến lược của Đảng và ý chí đấu tranh của toàn dân, chúng ta đã tận dụng sức mạnh của nhân dân và sự chuẩn bị của Quân chủng Hải quân để từng bước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh bại kẻ thù.

Chỉ có Đảng, Quân đội và nhân dân Việt Nam mới có thể mở ra con đường mòn trên biển, thể hiện lòng yêu nước và ý chí phi thường Lịch sử chiến tranh thế giới chưa từng ghi nhận một con đường vận tải chiến lược độc đáo như đường Hồ Chí Minh trên biển Con đường này, cùng với đường Trường Sơn trên bộ, đã góp phần làm nổi bật truyền thống kiên cường và bất khuất của dân tộc anh hùng Việt Nam.

Đường Hồ Chí Minh trên biển phát huy cao nhân tố con người với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần chịu đựng gian khổ, mưu trí, dung cảm của thủy thủ “Đoàn tàu không số”

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã đóng góp quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, với những chiến tích vang dội Thành công này không thể không nhắc đến công lao to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ thuộc Đoàn tàu.

"Không số" thể hiện lòng trung thành vững chắc với Đảng và Nhân dân, đồng thời khẳng định ý chí kiên cường, tinh thần sáng tạo và mưu trí Họ luôn sẵn sàng hy sinh bản thân để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Để thực hiện nhiệm vụ khó khăn trong việc hình thành lực lượng vận tải quân sự đường biển, cần có bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thần chịu đựng gian khổ Quá trình này không chỉ là tìm tòi, khảo nghiệm mà còn là thử thách ý chí của cả tập thể, từ người chỉ huy đến thủy thủ, cùng với sự phối hợp giữa hậu phương và tiền tuyến Đặc biệt, trong cuộc vượt biển vào Nam, cán bộ, thủy thủ phải đối mặt với sóng gió và sự ngăn chặn của quân thù, yêu cầu sự mưu trí và dũng cảm Những con người can trường trong Đoàn tàu không số, chủ yếu là những người từ miền Nam ra Bắc và những ngư dân dày dạn kinh nghiệm, đã được đào tạo bài bản để trở thành lực lượng nòng cốt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó.

Trên những chuyến tàu “không số”, nhiều cán bộ chỉ huy và thuyền trưởng như Hồ Đắc Thạnh, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm đã thể hiện sự mưu trí và tài năng điều khiển, giúp tàu tiếp tục hành trình vào Nam và ứng phó linh hoạt với các tình huống khó khăn Họ là những tấm gương tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua bãi đá ngầm và sóng gió, đồng thời đối phó với sự phong tỏa ác liệt của quân thù, đảm bảo nhiều chuyến tàu chở vũ khí cập bến an toàn Tuy nhiên, không ít cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong những chuyến đi, như Đặng Văn Thanh và Nguyễn Phan Vinh, khi dũng cảm chiến đấu để bảo vệ bí mật con đường, để lại những tấm gương nghĩa liệt nơi biển cả mênh mông.

Thời đại Hồ Chí Minh đã hình thành nên con người Việt Nam, và chính họ đã viết nên những trang sử hào hùng của thời kỳ này Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và thành công của Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu trưng cho giá trị và phẩm chất kiên cường của người Việt Nhân tố này là yếu tố quyết định, tạo nên sức mạnh phi thường cho nhân dân Việt Nam.

Việc Nam kiên cường đối mặt và đánh bại quân xâm lược Mỹ không chỉ là niềm tự hào lớn lao mà còn là nguồn động viên mạnh mẽ cho cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu không số của bộ đội Hải quân và toàn thể Nhân dân trong cuộc chiến đấu trí và sức mạnh quyết liệt chống lại kẻ thù.

Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN

Ngày đăng: 07/12/2021, 07:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng phân công nhiệm vụ và đánh giá các thành viên. - Vai trò của đường hồ chí minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống mỹ của việt nam
Bảng ph ân công nhiệm vụ và đánh giá các thành viên (Trang 35)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w