1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến

49 25 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nỗi Buồn Đau Trong Thơ Làng Quê Việt Nam Của Nguyễn Khuyến
Tác giả Cao Thúy Hằng
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Tính
Trường học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 487,71 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do ch ọn đề tài (6)
  • 2. L ị ch s ử v ấn đề (7)
  • 3. M ục đích nghiên cứ u (9)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (9)
  • 5. Phương pháp nghiên cứ u (10)
  • 6. B ố c ụ c khoá lu ậ n (10)
  • B. PH Ầ N N Ộ I DUNG (10)
  • Chương 1. NGUYỄN KHUYẾN VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI LÀNG QUÊ (11)
    • 1.1. B ố i c ả nh th ời đạ i (11)
    • 1.2. Ti ể u s ử và con ngườ i (13)
    • 1.3 S ự g ắ n bó v ớ i làng quê c ủ a Nguy ễ n Khuy ế n (15)
  • Chương 2: THƠ LÀNG QUÊ CỦ A NGUY Ễ N KHUY Ế N – ÁM ẢNH ĐAU BUỒN, THÊ LƯƠNG (21)
    • 2.1. Đau buồn thê lương qua cả nh s ắ c làng quê (21)
      • 2.1.1. C ả nh ng ộ t ng ạt, hư ả o (21)
      • 2.1.2. C ảnh xác xơ, hiể m ho ạ vì lũ lụ t h ạ n hán (27)
    • 2.2. Đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê (32)
      • 2.2.1. Cu ộ c s ống lam lũ, đói nghèo (32)
      • 2.2.2. Cu ộ c s ố ng lo ạ n l ạc, phi đạ o lí (40)

Nội dung

Lý do ch ọn đề tài

Văn chương thời Trung đại thường mang tính quy phạm và ước lệ, nhưng mỗi tác giả lớn lại có đặc trưng riêng Tú Xương nổi bật với giọng thơ trào phúng, mỉa mai sâu cay, trong khi Nguyễn Khuyến gây ấn tượng với giọng thơ trào lộng nhẹ nhàng, phản ánh vẻ đẹp yên ả, thanh bình của làng quê Bắc Bộ Ông thể hiện sự thờ ơ với những chuyện đời thường nhưng lại ẩn chứa nỗi ưu sầu thế kỉ trong tác phẩm của mình.

Nguyễn Khuyến được xem là một trong những nhà thơ thành công nhất trong việc miêu tả quê hương và làng cảnh Việt Nam, được Xuân Diệu tôn vinh là “nhà thơ của quê hương” Các tác giả nghiên cứu khẳng định rằng thơ của ông là những bức tranh nên thơ, thanh bình, tinh tế khắc hoạ cảnh thiên nhiên thôn dã và con người hồn hậu Tuy nhiên, ẩn sau vẻ đẹp thanh bình ấy là nỗi u hoài sâu sắc về nỗi đau mất nước và sự bất lực của bản thân.

Mặc dù có những ý kiến cho rằng thơ ca thường mang tính nên thơ và thanh bình, nhưng từ một góc nhìn khác, ta nhận thấy sự đối lập với những nỗi đau sâu sắc trong tâm hồn tác giả Nhiều nhà phê bình đã thảo luận về vấn đề này, tuy nhiên, họ vẫn nhấn mạnh vẻ đẹp của thơ ca viết về quê hương, đặc biệt là trong tác phẩm của Tam nguyên Yên Đổ Qua đó, cảnh đẹp của làng quê Bắc Bộ không chỉ đơn thuần là hình ảnh nên thơ mà còn ẩn chứa những nỗi đau đớn kín đáo trước thời cuộc.

Khoá luận này tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Khuyến từ một góc nhìn mới, khám phá nỗi buồn đau trong thơ làng cảnh của ông Những ám ảnh đau buồn và thê lương trong tác phẩm phản ánh sâu sắc tâm trạng và cảm xúc của tác giả, mở ra một không gian nghệ thuật đầy chất trữ tình và triết lý.

Người viết tìm hiểu đề tài này nhằm mở rộng kiến thức văn học một cách phong phú và sâu sắc hơn, phục vụ cho công việc giảng dạy trong tương lai Đồng thời, việc nghiên cứu cũng giúp người viết rèn luyện các phương pháp nghiên cứu khoa học cho bản thân.

Trong chương trình giảng dạy văn học ở THCS và THPT, Nguyễn Khuyến được lựa chọn làm tác giả tiêu biểu với các tác phẩm nổi bật như “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh”, “Bạn đến chơi nhà” và “Khóc Dương Khuê” Việc biên soạn chương trình này phản ánh rõ ràng vị trí và vai trò quan trọng của thơ Nguyễn Khuyến trong nền văn học Do đó, nghiên cứu về đề tài này là cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tác giả Nguyễn Khuyến trong nhà trường một cách có định hướng.

L ị ch s ử v ấn đề

Nguyễn Khuyến là một trong những tác gia vĩ đại, thu hút nhiều nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông từ xưa đến nay Các tác phẩm của cụ Tam, bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, đã được nhiều nhà nghiên cứu và sinh viên Ngữ văn tìm hiểu sâu sắc.

Khi lựa chọn đề tài này, tác giả đã tham khảo tài liệu từ nhiều nhà nghiên cứu khác nhau Đặc biệt, các công trình nghiên cứu và bài viết liên quan trực tiếp đến vấn đề mà khóa luận đề cập đã được xem xét kỹ lưỡng.

1 Nguyễn Huệ Chi (1992), “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

2 Bùi Văn Cường sưu tầm, biên soạn(1984), “Nguyễn Khuyến và giai thoại”,

Nxb Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, Hà Nam Ninh

3 Xuân Diệu (1979), “Thơ văn Nguyễn Khuyến”, in lần thứ hai có sửa chữa, Nxb Văn học, Hà Nội

4 Nguyễn Văn Huyền (2002), “Nguyễn Khuyến tác phẩm”, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh

5 Ngô Ngọc Ngũ Long, “Ba bài thơ thu”, trong sách “Nguyễn Khuyến – Tác phẩm và lời bình” (Nhiều tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội

6 Nhiều tác giả (2011), “Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình”, Nxb.Văn học,

7 Nhóm trí thức trẻ tuyển chọn và giới thiệu (2012), “Nguyễn Khuyến Thơ và đời”, Nxb Văn học, Hà Nội

Vũ Tiến Quỳnh (1991) đã thực hiện nghiên cứu mang tên “Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn”, được xuất bản trong cuốn sách nghiên cứu Việt Nam – Thế giới, Nxb Tổng hợp Khánh Hoà Tác phẩm này tập trung vào việc tổng hợp và phân tích các bài phê bình văn học, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận văn học Việt Nam.

9 Trần Quốc Vượng (1992), “Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội

Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX”, trong sách “Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

10 Nguyễn Thị Tính (2017), “Bàn thêm vềba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến”,

“Tạp chí nghiên cứu lí luận, phê bình và lịch sử văn học”, Nxb Toà soạn

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội

11 Hoàng Thị Thuý Linh, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Khoá luận: Nghệ thuật thể hiện phong cảnh làng quê trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến

Nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật trong thơ làng cảnh Việt Nam của Nguyễn Khuyến không phải là một chủ đề mới Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết hiện có chủ yếu tập trung vào vẻ đẹp thanh bình của làng quê Bắc Bộ.

Bài thơ và văn của Nguyễn Khuyến chứa đựng nỗi đau thầm lặng của thời đại Hoàng Hữu Yên trong cuốn "Thơ văn Nguyễn Khuyến" nhận định rằng, khi đọc tác phẩm của Nguyễn Khuyến, người ta cảm nhận được một tâm tư yêu nước sâu sắc nhưng cũng đầy bất lực trước tình hình đất nước.

Nỗi buồn đau trong thơ của Nguyễn Khuyến phản ánh những ám ảnh thê lương, ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống hàng ngày của ông Theo Trần Nho Thìn trong công trình "Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá", thiên nhiên làng quê không còn là không gian yên tĩnh, tách biệt với vật dục và thị thành, mà đã trở thành bối cảnh chứa đựng những nỗi niềm sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ.

Dựa trên những ý kiến của các bậc tiền bối, tác giả tiến hành khảo sát tác phẩm của Nguyễn Khuyến bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, với hy vọng mang đến một góc nhìn mới mẻ cho độc giả.

M ục đích nghiên cứ u

Tìm hiểu khoá luận này, người viết nhằm vào hai mục đích chính sau đây: 1-Tìm hiểu nỗi đau buồn thê lương qua cảnh sắc làng quê

2-Tìm hiểu nỗi đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê

3-Góp phần nghiên cứu, giảng dạy Nguyễn Khuyến được tốt hơn

Phương pháp nghiên cứ u

Để triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

- Phương pháp thống kê phân loại

Trong quá trình triển khai khóa luận, tác giả không áp dụng một phương pháp duy nhất mà linh hoạt kết hợp cả ba phương pháp khi cần thiết.

B ố c ụ c khoá lu ậ n

PH Ầ N N Ộ I DUNG

Chương 1: Nguyễn Khuyến và sự gắn bó với làng quê

Chương 2:Thơ làng quê của Nguyễn Khuyến – ám ảnh đau buồn, thê lương

NGUYỄN KHUYẾN VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI LÀNG QUÊ

B ố i c ả nh th ời đạ i

Tam nguyên Yên Đổ, một trong những nhà Nho lớn cuối triều Tự Đức, sống trong bối cảnh tăm tối của lịch sử Việt Nam khi Nho giáo tàn lụi Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam, chứng kiến bi kịch của triều đình nhà Nguyễn và sự trỗi dậy mạnh mẽ của phong trào yêu nước chống ngoại xâm Nguyễn Khuyến nhận thức sâu sắc về sự suy tàn của tư tưởng Nho giáo và sự bất lực của trí thức đại diện cho hệ tư tưởng này trước thực tế lịch sử Trong thời kỳ loạn lạc, khi nhà Nguyễn sụp đổ, ông không thể thực hiện những ước mơ phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân.

Năm 1858, quân Pháp bắt đầu cuộc xâm lược Việt Nam bằng việc tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), sau đó chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ vào năm 1862 và ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867 Tiếp theo, họ tiến đánh miền Bắc, với Hà Nội vào năm 1882 và kinh thành Huế vào năm 1885 Trước tình hình nghiêm trọng này, triều đình nhà Nguyễn, dưới sự lãnh đạo của vua Tự Đức, đã không thể tổ chức nhân dân chống lại sự xâm lược, dẫn đến sự đầu hàng và ký kết các hiệp ước nhường đất cho Pháp, bao gồm hiệp ước năm 1862 và 1867, cùng với hiệp ước Hasmard vào năm 1883.

Năm 1884, hiệp ước Panternot đã nhường toàn bộ lãnh thổ Việt Nam cho thực dân Pháp, sau ba mươi năm xâm lấn Trong bối cảnh đất nước hoàn toàn rơi vào tay giặc, Nguyễn Khuyến đã chọn con đường hoạn lộ, con đường duy nhất cho một trí thức phong kiến mong muốn cống hiến kiến thức để giúp đất nước.

Triều đình Huế đã để mất nước và làm tay sai cho giặc, nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước mạnh mẽ không bao giờ chịu khuất phục Họ quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại chủ quyền, và vua Hàm Nghi đã phát động chiếu Cần Vương, lãnh đạo nhân dân kháng chiến Nhiều sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, và Nguyễn Xuân Ôn đã tổ chức kháng chiến Dù một số trí thức không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng cũng kiên quyết không hợp tác với giặc, cảm thấy xót xa và trăn trở trước vận mệnh đất nước Nguyễn Khuyến là một ví dụ tiêu biểu cho những trí thức này; ông không đủ dũng khí tham gia chiến đấu nhưng cũng không thể chứng kiến sự thối nát của triều đình, vì vậy đã chọn cách cáo quan về ở ẩn, mặc dù đây có thể xem là một hạn chế của ông.

Nguyễn Khuyến, một nhà nho chính thống dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, đã ba lần đậu đầu và được Tự Đức ban cho cờ biển Trong bối cảnh Nho giáo độc tôn, ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng này suốt gần 30 năm Quan niệm trung quân, thờ vua giúp nước là điều ông luôn theo đuổi, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, ông đã chọn cách ẩn dật về quê nhà Dù vậy, Nguyễn Khuyến vẫn thể hiện tài năng xuất sắc trong cả học vấn và văn chương, để lại những giá trị to lớn cho nền văn học dân tộc Vì vậy, ông luôn được coi là một trong những tác gia lớn của văn học Việt Nam.

Nguyễn Khuyến, sống trong thời kỳ đất nước gặp nhiều bi kịch và xã hội đầy rẫy bất công, đã phản ánh chân thực những nỗi đau này trong tác phẩm của mình Bối cảnh lịch sử đã tác động sâu sắc đến các sáng tác của ông.

Ti ể u s ử và con ngườ i

Trong suốt một thế kỷ qua, tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Khuyến đã được ghi chép rộng rãi, nhưng người dân thường gọi ông bằng những tên tôn trọng như Tam nguyên Yên Đổ hoặc Hoàng Và Những danh xưng này kết hợp giữa học vị Tam nguyên – Hoàng giáp và tên làng quê hương của ông, làng Và (Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (hiện nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam Ninh) Nguyễn Khuyến sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại quê ngoại làng Hoàng.

Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông chủ yếu lớn lên tại quê cha làng Yên Đổ - Bình Lục – Hà Nam

Nhà thơ Nguyễn Khuyến, tên thật là Thắng, hiệu Quế Sơn, đã đổi tên khi thi cử thành công Tự Miễn Chi của ông mang ý nghĩa "Gắng lên", xuất phát từ chữ Khuyến.

Nguyễn Khuyến, một nhà thơ nổi tiếng, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống học hành Gia đình ông có nguồn gốc từ Can Lộc – Hà Tĩnh, di cư đến Yên Đổ đã được năm trăm năm Ông nội của ông, Nguyễn Tông Tích, là nho sinh, trong khi cha ông, Nguyễn Liễn, đã đỗ liền ba khoá tú tài và theo nghề dạy học Mẹ của ông là Trần.

Thị Thoan (1799-1874) – con ông Trần Công Trạc đã đỗsinh đồ thời Lê Mạt Trong cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm (Nguyễn Văn Huyền xuất bản năm

Mẹ của nhà thơ được miêu tả là một người phụ nữ mẫu mực trong xã hội cũ, với tính cách đoan trang, trầm tĩnh và hòa nhã Bà không chỉ thương người mà còn thành thạo mọi công việc nội trợ Suốt cuộc đời, bà chịu thương chịu khó, tận tụy phụng dưỡng bố mẹ chồng và làm lụng vất vả, thậm chí phải bán cả tư trang và may thuê để nuôi chồng con ăn học.

Thửa hưởng truyền thống của gia đình, từ bé Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người ham học hỏi, thông minh tài giỏi hơn người

Năm 17 tuổi, ông đi thi Hương với cha nhưng không đỗ, ba khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858, 1861 ông cũng đều thi trượt Đã có thời gian anh khoá

Sau khi trải qua những khó khăn trong kỳ thi, ông đã có ý định chuyển sang nghề dạy học để kiếm sống và hỗ trợ vợ chăm sóc gia đình Tuy nhiên, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn, ông đã tìm thấy hướng đi mới cho cuộc đời mình.

Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến học với cha của mình là

Tiến sĩ Vũ Văn Lý, ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (nay là Lý Nhân, Hà Nam), đã nhận được sự khuyến khích nghiêm khắc từ mẹ mình để không từ bỏ ước mơ Nhờ đó, trong kỳ thi Hương năm 1864, ông đã xuất sắc đỗ đầu.

Nguyễn Khuyến đã trải qua ba kỳ thi Hội vào các năm 1865 và 1868 nhưng không đạt Đến năm 1871, ông đã xuất sắc đỗ đầu trong cả kỳ thi Hội và thi Đình khi 37 tuổi Thành tích này giúp ông nhận được cờ biển từ vua và được biết đến với danh hiệu Tam nguyên Yên Đổ Trong triều đại nhà Nguyễn, chỉ có hai người đỗ tam nguyên, trong đó Nguyễn Khuyến là một, bên cạnh Trần Bích San Vì vậy, thành tích của Nguyễn Khuyến là minh chứng cho sự nỗ lực phi thường của ông.

Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến được bổ nhiệm làm quan tại nội các Huế, sau đó chuyển sang làm đốc học Thanh Hóa và Án sát Nghệ An Tuy nhiên, sau vài tháng, ông phải xin về quê chịu tang mẹ trong ba năm Khi mãn tang, ông trở lại kinh đô và tiếp tục đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, trong đó có Biện lý bộ Hộ.

Vào cuối năm 1883, Bố chánh Quảng Ngãi, Trực học sĩ, Phó sư, được bổ nhiệm giữ chức quyền tổng đốc Sơn Tây – Hưng Yên – Tuyên Quang Tuy nhiên, ông đã viện cớ đau mắt nặng để cáo quan và trở về làng khi mới 50 tuổi vào năm 1884.

Quyết định cáo quan về làng của Nguyễn Khuyến là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông, thể hiện tinh thần yêu nước và nhân phẩm cao quý Ông kiên quyết từ chối danh lợi, không muốn trở thành tay sai cho giặc, đồng thời đây cũng là thời gian ông hòa mình vào cuộc sống khó khăn và thân phận mất nước của người dân quê hương.

Ngày 5 tháng 02 năm 1909 (tức ngày 15 tháng Giêng năm Kỉ Dậu) Nguyễn Khuyến đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 75 tuổi

Nguyễn Khuyến đã làm quan trong 13 năm, trong đó có ba năm chịu tang mẹ, nhưng phần lớn cuộc đời ông gắn bó với quê hương Bình Lục Sự am hiểu cuộc sống nông thôn và mối liên hệ sâu sắc với người nông dân đã góp phần quan trọng vào thành công của ông trong việc sáng tác thơ ca về nông thôn.

S ự g ắ n bó v ớ i làng quê c ủ a Nguy ễ n Khuy ế n

Vào mùa thu năm 1884, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi để tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn, tạm quên đi những nỗi niềm trăn trở Sau khi lập gia đình vào năm 1852 và không đỗ kỳ thi Hương đầu tiên, ông đã trải qua nhiều mất mát đau thương khi dịch thương hàn bùng phát, khiến anh khoá Thắng suýt mất mạng và gia đình ông lâm vào cảnh tang thương, đói rét Từ năm 1854, ông bắt đầu theo nghề dạy học để trang trải cuộc sống và học phí, dạy học ở nhiều nơi như Lạng Phong.

Nguyễn Khuyến, một nhân vật nổi bật trong lịch sử giáo dục Việt Nam, đã có 17 năm gắn bó với quê hương Nho Quan và gần 20 năm lang thang khắp nơi để dạy học và tìm thầy học Ông được sự giúp đỡ của Vũ Văn Báo tại xã Vũ Bản, nơi ông học từ Giáo thụ Phạm Mỹ và Đốc học cử nhân Trần Duy Vỹ Đặc biệt, ông được khuyên đến học với Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang Đến năm 1871, Nguyễn Khuyến đã đạt được thành công lớn khi liên tiếp đỗ đầu thi Hội và thi Đình, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của mình.

Sau 13 năm làm quan (trừ ba năm về quê chịu tang mẹ), mùa thu năm

Năm 1884, ông trở về quê Yên Đổ ở tuổi 50 và gắn bó với nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình cho đến khi qua đời ở tuổi 75.

Ông đã sống ở quê nhà hơn 40 năm, trừ thời gian làm quan và dạy học tại Hà Nội, nên rất am hiểu về cuộc sống nông thôn, từ bụi tre, bờ ao đến phong tục và con người nơi đây Mặc dù không trực tiếp làm ruộng, nhưng nhờ gắn bó với dân làng, ông nắm rõ cuộc sống của họ, như được thể hiện qua tác phẩm của Chu Văn, khi miêu tả những công việc hàng ngày của người dân và sự khác biệt giữa họ và ông, người chỉ có cây bút và kiến thức.

Bởi vậy ông mới có những vần thơ rất Việt Nam:

“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Nguyễn Khuyến là một trong những thi sĩ nổi bật của mùa thu, nổi bật với ba tác phẩm bất hủ: "Thu điếu", "Thu ẩm" và "Thu vịnh" Mặc dù trước đây đã có nhiều bài thơ miêu tả cảnh thu, nhưng những tác phẩm này của ông mang đậm dấu ấn sáng tạo và không còn phụ thuộc vào các hình thức khuôn sáo hay ảnh hưởng từ thơ Trung Hoa.

“Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu heo hắt lọt hơi may.”

(Hồng Đức quốc âm thi tập)

So với thơ của Nguyễn Khuyến, có phần chưa đặc sắc bằng:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽđưa vèo.”

Ngay cả khi tả một ngôi chùa cũ kĩ cùng với một nhà sư đơn độc, ông cũng sử dụng những hình ảnh thật đẹp:

“Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,

Sư cụ nằm chung với khói mây.”

Trong thơ Nguyễn Khuyến, hình ảnh “sương khói” rất hiếm gặp, chủ yếu tập trung vào những hình ảnh quen thuộc và chất phác gắn liền với cuộc sống nông thôn Những hình ảnh này bao gồm con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn cà, cây cải, ao cá và bờ tre, tạo nên một bức tranh chân thực về quê hương.

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”

Nguyễn Khuyến không chỉ là một nhà thơ tả cảnh mà còn là người thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của những người nông dân Việt Nam Ông thể hiện sự đồng cảm với cuộc sống vất vả, chịu đựng nắng mưa, và những thiên tai tàn phá, gây ra lũ lụt, nghèo khó và nợ nần chồng chất Thơ văn của ông như "lội xuống ruộng đồng", mang lại sự cảm thông chân thành với cuộc sống của dân quê.

“Ình ịch đêm qua trống các làng,

Ai ai mà chẳng rước xuân sang!”

Nguyễn Khuyến đã thực sự hòa mình vào nỗi khổ của người nông dân, thấu hiểu mọi thuận lợi và khó khăn mà họ phải đối mặt Ông luôn lo lắng trước những thiên tai có thể xảy ra, và khi mùa màng bội thu, niềm vui của ông cũng chỉ ngắn ngủi, bởi nỗi đau khi "mắc ngay nạn chuột" lại ập đến Cuộc sống của nhà nông quanh năm lo lắng, vất vả, không lúc nào được yên, với những gánh nặng nợ nần chồng chất và công việc "đầu tắt mặt tối".

“Lãi mẹ, lãi con, sinh đẻ mãi,

Chục năm, chục bẩy, tính nhiều sao?”

Nhà thơ Nguyễn Khuyến thấu hiểu nỗi vất vả của cuộc sống nông dân qua cảnh lam lũ, nhọc nhằn của việc đồng áng Ông luôn gắn bó với nghề nông và chia sẻ nỗi khổ cùng bà con Dù xuất thân từ gia đình có truyền thống khoa bảng, ông vẫn nhắc nhở các con về giá trị của lao động và sự cần mẫn mỗi khi mùa xuân đến.

“Nhi tào hoặc khả thừu ngô chi,

Bút nghiễm vô hoang đạo, thúc, sơ.”

(Ngày xuân dạy con học)

“Các con nối chí cha nên biết:

Nghiên bút đừng quên, lúa, đậu, cà.”

(Vũ Mộng Hùng dịch) (Than nợ)

Việc trở về quê hương đã giúp Nguyễn Khuyến thoát khỏi tư tưởng trung quân lỗi thời và ảnh hưởng của Nho giáo, từ đó ông kế thừa và cách tân văn chương truyền thống Ông sáng tác những tác phẩm chân thực phản ánh cuộc sống khó khăn của người dân, với những hình ảnh cụ thể và hiện thực phong phú Để đạt được điều này, Nguyễn Khuyến hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, mong muốn xóa đi những day dứt trong lòng Ông tìm thấy sự thanh thản và niềm lạc quan khi sống cùng với nỗi vất vả của người nông dân và tình cảm gắn bó trong xóm làng.

Nguyễn Khuyến gắn bó mật thiết với đời sống của người nông dân, thường xuyên hỏi han về mùa màng, gia súc, và những công việc trong nhà Ông không ngần ngại tham gia vào các hoạt động của họ, như ngồi cùng thợ thuyền trong lúc xây dựng nhà mới, thưởng thức nước chè và chia sẻ câu chuyện đời thường Sự gần gũi và thân thiện của ông với mọi người thể hiện rõ nét qua những tình huống giản dị nhưng ấm áp này.

Nguyễn Khuyến thể hiện một tâm hồn bình dân qua việc sáng tác câu đối và câu phúng điếu cho những người xung quanh như hàng xóm, bà thông gia, thợ rèn, thợ nhuộm và chị hàng thịt Những câu đối của ông không chỉ đẹp và hay mà còn chứa đựng tình cảm chân thành, đôi khi mang chút hài hước, như câu đối dành cho chị vợ anh hàng thịt để treo trong nhà.

“Tứ thời bát tiết canh chung thuỷ

Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang”

(Bốn mùa, tám tiết bền chung thuỷ

Câu đối thể hiện sự thông cảm với nỗi lòng của người góa phụ, đồng thời phản ánh nét đặc trưng trong nghề nghiệp của cặp vợ chồng qua hình ảnh "bát tiết canh, đôi bồ dục" Tác giả khéo léo kết hợp sự hóm hỉnh và chiều sâu trong ý nghĩa, tạo nên một tác phẩm đầy cảm xúc và tinh tế.

Từ xưa, nhiều thi sĩ đã viết về vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, nhưng không ít tác phẩm vẫn mang âm hưởng của thơ Đường Trong số đó, các tác giả như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính và Anh Thơ đã khắc họa nhiều nét đẹp và tâm tư của người nông dân, nhưng có lẽ những vần thơ mộc mạc và chân thực nhất vẫn là của cụ Tam.

Nguyễn Khuyến, với tâm hồn nhạy cảm, đã khắc họa chân thực cuộc sống nông thôn qua những thi liệu dân tộc, thể hiện sự gắn bó sâu sắc với quê hương Ông không chỉ miêu tả những khó khăn mà còn làm nổi bật vẻ đẹp thơ mộng của cuộc sống người dân lành Tình bạn, nụ cười và nước mắt trong thơ ông phản ánh một tâm hồn chân thành, yêu mến quê hương Như vậy, có thể khẳng định rằng Nguyễn Khuyến thực sự là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”.

THƠ LÀNG QUÊ CỦ A NGUY Ễ N KHUY Ế N – ÁM ẢNH ĐAU BUỒN, THÊ LƯƠNG

Đau buồn thê lương qua cả nh s ắ c làng quê

2.1.1 C ả nh ng ộ t ng ạt, hư ả o

Trong khoá luận này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát số lượng bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về cảnh làng quê với những nỗi buồn và thê lương, dựa trên cả hai phương diện chữ Hán và chữ Nôm Qua đó, chúng tôi đã thu thập được các số liệu cụ thể theo từng tiêu chí đã đề ra.

Tiêu chí Sốlượng Tổng số Phần trăm (%)

Cảnh ngột ngạt, hư ảo của chốn làng quê tự bao đời 05 353 1,4

Nguyễn Khuyến, được biết đến như thi sĩ của làng cảnh Việt Nam, đã sáng tác nhiều bài thơ về mùa xuân và mùa hạ Tuy nhiên, tên tuổi của ông gắn liền với ba bài thơ thu nổi tiếng: Thu ẩm, Thu điếu và Thu vịnh Những tác phẩm này không chỉ phản ánh vẻ đẹp của mùa thu mà còn chứa đựng hình ảnh chiếc lá ngô đồng và âm thanh tiếng chày đập vải, tạo nên nét đặc sắc trong thơ Nôm của ông.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến không chỉ khắc họa chân thực cảnh sắc thu của đồng bằng Bắc Bộ mà còn chứa đựng nỗi đau thầm lặng trước thực tế lịch sử Những tác phẩm này được xem như những bức tranh tuyệt đẹp, thể hiện rõ nét đặc trưng của mùa thu với trời xanh, nước trong, lá vàng và ngõ vắng Đọc ba bài thơ, ta cảm nhận được không khí êm dịu, yên ả và thanh bình Tuy nhiên, nếu nhìn nhận từ một góc độ khác, ta cũng thấy được sự ngột ngạt và hư ảo tiềm ẩn trong cảnh vật làng quê.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến thể hiện sự hòa quyện giữa cảnh vật ngột ngạt và hư ảo Các tác giả trung đại thường đặt con người giữa trời đất vũ trụ, nhấn mạnh không gian bao la để tôn vinh khí phách anh hùng.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,”

Trong bài thơ "Thu điếu," Nguyễn Khuyến khéo léo khởi đầu bằng hình ảnh chiếc ao bé nhỏ, thể hiện sự khác biệt so với lối viết văn chương bác học thông thường Thay vì đi theo những khuôn mẫu cũ, ông mang đến một không gian gần gũi và bình dị, tạo nền tảng cho những cảm xúc sâu lắng về mùa thu.

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”

Trong không gian tĩnh lặng, cái ao làng trở nên mơ hồ và quạnh quẽ hơn, bị giới hạn bởi bốn phía và co lại bởi tiết trời se lạnh của mùa thu Từ "trong veo" không chỉ miêu tả độ trong của nước mà còn gợi ra cảm giác có thể nhìn thấy đáy ao, thể hiện rõ giới hạn chiều rộng và chiều sâu của nó Độ hẹp của ao càng được nhấn mạnh qua âm vần “eo”, khiến cho cảm giác nhỏ bé, lạnh lẽo càng thêm rõ nét trong bài thơ.

Trong bài thơ, từ "eo" xuất hiện nhiều lần qua các từ "veo, teo, vèo, teo, bèo", tạo cảm giác ngột ngạt và vây hãm cho người đọc Tình trạng không gian nhỏ hẹp được thể hiện rõ ràng qua ba lần lặp lại ở câu thơ đầu, khiến không gian càng trở nên chật chội hơn Cái ao vốn đã nhỏ giờ như bị ép lại đến mức không thể nhỏ hơn nữa Tính chất nhỏ bé này bao trùm toàn bộ bài thơ, với vần "eo" là vần chủ đạo xuyên suốt tác phẩm.

Làn nước trong xanh và lạnh lẽo, mang đến cảm giác cô quạnh giữa tiết thu cuối mùa Trên nền xanh ấy, một chiếc thuyền con nhỏ bé xuất hiện, tạo nên một điểm nhấn xám giữa khung cảnh tĩnh lặng.

“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Câu thơ chỉ miêu tả cảnh vật mà không nhắc đến con người, nhưng thực chất là nhà thơ đang thu mình lại trong chiếc thuyền nhỏ bé Cảnh và người hòa quyện thành một khối tĩnh lặng, tạo nên một nỗi im lặng mênh mông Tác giả sử dụng từ chỉ số ít “một” kết hợp với từ láy “tẻo teo”, làm cho chiếc thuyền càng thêm nhỏ bé, như một chấm nhỏ không thể nhỏ hơn Trạng thái tương tự cũng xuất hiện ngay từ đầu bài thơ "Thu ẩm".

“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.”

Cuối thế kỉ XIX, một trong những nét phổ biến của người dân đồng bằng

Nhà Bắc Bộ có cấu trúc năm gian, nổi bật với kích thước nhỏ bé và chiều cao khiêm tốn, khiến người ra vào phải cúi đầu Không gian hạn chế này được thể hiện rõ qua hình ảnh những con ngõ nhỏ, nơi bầu trời xanh rộng lớn đối lập với sự tĩnh lặng của ngõ trúc Hai từ “quanh co” như một nét vẽ sống động, tạo nên những đường cong uốn lượn, đồng thời mang lại cảm giác cô đơn và heo hút.

Cảnh vật trong bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến hiện lên với sự tĩnh mịch, vắng vẻ, không một bóng người hay tiếng động, tạo nên cảm giác thời gian như ngưng đọng Không gian ngõ tối chìm trong bóng tối, khiến mọi thứ trở nên nhỏ bé và tù túng Từng hình ảnh như ao, nhà, ngõ, chiếc lá rụng, con sóng, bèo, thuyền đều mang sắc thái ảm đạm, phản ánh thực trạng nghèo khó của nông thôn Bắc Bộ Thơ của Nguyễn Khuyến gợi lên cảm xúc ngột ngạt và u ám, khiến người đọc không khỏi suy tư về cuộc sống nơi đây.

Cảnh ngột ngạt và tối tăm trong ba bài thơ thu thể hiện trạng thái hư ảo, tàn tạ, đặc biệt qua thời gian Mùa thu vốn mang cảm xúc buồn bã, lắng đọng, và khi được miêu tả vào buổi chiều tối, tâm trạng con người càng thêm trầm lắng Trong tư duy của con người thời Trung đại, mùa thu và buổi chiều tối đều thuộc thời gian âm, đối lập với mùa xuân, mùa hạ và các thời điểm ban ngày Nguyễn Khuyến khéo léo kết hợp thời gian âm của ngày với mùa thu, khi chiều thu xuất hiện trong "Thu vịnh" và tiếp tục là chiều tối, đêm trong "Thu ẩm" và "Thu điếu", chỉ khác biệt là có ánh trăng.

“Song thưa để mặc ánh trăng vào Làn ao long lánh bóng trăng loe”

Lúc lại chỉ màu tối đen dày đặc trùm lấp, vây bủa đường thôn:

“Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè”

Chiều tối của bất kỳ mùa nào cũng mang đến cảm giác tàn lụi và hắt hiu, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự hư ảo, luôn vận động và biến đổi Trong khoảnh khắc tàn lụi và hư ảo của chiều tối mùa thu, những hình ảnh khác cũng xuất hiện, tạo nên một hệ thống hình ảnh phong phú, như cần trúc trong bài thơ "Thu vịnh".

“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”

Láy "lơ phơ" mang đến cảm giác thưa thớt, gầy guộc và thiếu sức sống Dưới làn gió hiu hiu, cành trúc trở nên già yếu, xác xơ và bơ phờ, như đã cạn kiệt sức sống Hình ảnh lá vàng càng làm nổi bật sự tàn tạ của cảnh vật.

“Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”

Màu vàng của lá biểu thị sự héo úa và già nua, chuẩn bị rời xa sự sống Hình ảnh “cần trúc lơ phơ” và “lá vàng trước gió” trong thơ Nguyễn Khuyến thể hiện sự tàn lụi qua hai khía cạnh: thời gian và sự vật Những hình ảnh này gợi lên sự hư ảo, đánh dấu sự kết thúc của kiếp cây lá.

Đau buồn, thê lương qua cuộc sống làng quê

2.2.1 Cu ộ c s ống lam lũ, đói nghèo

Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi khảo sát được số lượng bài viết về cuộc sống lam lũ, đói nghèo như sau:

Tiêu chí Sốlượng Tổng số Phần trăm (%)

Cuộc sống lam lũ, đói nghèo 05 353 1,4

Nguyễn Khuyến, sinh ra trong một gia đình nho giáo nghèo, lớn lên ở vùng chiêm trũng đầy khó khăn Tuy nhiên, quê hương ông lại sở hữu những cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt vời, đặc biệt là vẻ đẹp rực rỡ của mùa hè.

“Bờ dậu mưa rào rung lá thắm Non xa sấm động toát mây vàng”

Nguyễn Khuyến, với tình yêu sâu sắc dành cho vẻ đẹp thôn dã, luôn hòa mình vào thiên nhiên trong suốt bảy mươi lăm năm cuộc đời, ngoại trừ thời gian làm quan Ông sống trọn vẹn tại quê hương, nơi ông thấu hiểu nỗi khổ cực của người dân nông thôn, những người bám trụ vào ruộng đồng để sinh sống Những gì ông chứng kiến đều là hiện thực đau thương và cay đắng, đặc biệt là những cánh đồng quanh năm ngập nước Tâm hồn nhạy cảm của ông không thể làm ngơ trước những cảnh ngộ này.

“Năm nay cày cấy vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa,

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua

Tần tiện thế mà không khá nhỉ?

Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.”

Nguyễn Khuyến phản ánh một cách chân thực và sống động cuộc sống khốn khó của người dân nơi ông sinh sống, từ những công việc lao động nặng nhọc đến gánh nặng thuế khoá vô lý của thực dân Người dân phải chịu đựng sự áp bức của cả thực dân và quan lại bán nước, trong khi hạt thóc họ làm ra chỉ đủ nuôi sống bản thân Cuộc sống bần hàn và lam lũ của nông dân được thể hiện qua những vần thơ tả thực, khắc họa nỗi cơ hàn và khổ đau, có thể cũng chính là nỗi lòng của tác giả.

“Quản chi công nợ có là bao, Nay đã nên to có thế nào

Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi,

Chục năm, chục bảy tính làm sao.”

Cảnh nghèo khó lan rộng khắp làng quê, thể hiện rõ nét qua lời nói, biểu cảm và sự lo lắng của người dân Họ phải đối mặt với việc vay lãi, bán lúa non, và thậm chí là mất nhà cửa Nguyễn Khuyến thấu hiểu nỗi khổ của những người nông dân, vì chính ông cũng không thoát khỏi hoàn cảnh éo le đó, khiến ông phải thốt lên những lời chua chát.

“Chẳng khôn cũng biết một hai điều, Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo

Danh giá dường này không lẽ bán,

Nhân duyên đến thế hãy còn theo.”

Trong thơ Nguyễn Khuyến ta thấy thương xót một vùng quê nghèo

Chẳng hạn, người yêu thơ có thể nhìn thấy sự xác xơ, tiêu điều của buổi chợ Đồng:

“Hàng quán người về nghe xáo xác;

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.”

Hay Nguyễn Khuyến thấy những cảnh lụt lội thường xuyên diễn ra trên làng quê nghèo của cụ:

“Quai mễ Thanh Liêm đã lở rồi, Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi

Gạo năm ba bát cơ còn kém, Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi.”

Bài thơ "Nhà nông than thở" của Nguyễn Khuyến phản ánh cảnh cày cấy mất mùa, khi người nông dân lao động cực nhọc quanh năm nhưng vẫn thất bại trong cả hai vụ chiêm và vụ mùa Những lo lắng về cuộc sống hàng ngày được thể hiện qua hình ảnh cụ thể như tiền công, thuế nặng nề và nợ nần Những gánh nặng này đè lên vai người nông dân gầy còm Hình ảnh "dưa muối" xuất hiện một cách tự nhiên, phản ánh bữa ăn sơ sài của họ, cho thấy sự thiếu thốn trong sinh hoạt Dù lao động cần cù, họ vẫn không đủ ăn do thiên tai và áp bức của thực dân Pháp, với nhiều khoản thuế vô lý Hai vụ lúa chiêm và vụ mùa không mang lại kết quả, nhấn mạnh sự bế tắc trong cuộc sống của họ Cả năm chỉ trông chờ vào hai vụ thu hoạch này, nhưng cuối năm vẫn trắng tay, khiến cho việc lo cái ăn cái mặc đã đủ chật vật, thêm vào đó là nỗi lo thuế má và nợ nần.

“Lãi mẹ lãi con sinh đẻ mãi

Chục năm chục bảy tính làm sao?”

Cuộc sống lam lũ, đói nghèo còn được thể hiện trong bài thơ Chợ Đồng

Ta đã biết nhiều tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca:

“Chợ huyện một tháng sáu phiên, Gặp cô hàng xén kết duyên Châu - Trần.”

“Chợ Viềng năm có một phiên,

Cái nón em đội cũng tiền anh trao.”

Chợ Đồng, quê hương của Nguyễn Khuyến, hiện lên như một hình ảnh gần gũi và thân thuộc Những câu thơ thể hiện sự hồi tưởng, như một lời tự hỏi về niềm tin và ký ức, khiến người đọc cảm nhận được sự gắn bó với cuộc sống thường nhật và hình ảnh bà con trở về từ chợ.

“Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng, Năm nay chợ họp có đông không?”

Làng Vị Hạ nổi tiếng với chợ Đồng, diễn ra vào các ngày 4, 6, 10, 14, 16, 20, 24, 26 và 30 hàng tháng Vào ba phiên chợ cuối năm, chợ Tết được tổ chức tại cánh nương mạ, gần một ngôi đền cổ ba gian Nếu năm đó được mùa, chợ Đồng sẽ rất đông vui, nhưng trong những năm mất mùa, lượng người mua bán lại thưa thớt Câu thơ đầu tiên gợi nhớ về vẻ đẹp của quê hương, đặc biệt là phiên chợ Đồng vào ngày 24 tháng Chạp, khi Tết đã gần kề, với hai từ "năm nay" mang ý nghĩa thời gian không xác định.

Năm tiếng “chợ họp có đông không” như một tiếng thở dài đằng đẵng

Câu thơ thể hiện tâm trạng sâu sắc của một nhà nho gắn bó với những nỗi niềm vui buồn của nhân dân trong bối cảnh loạn lạc, đói rét và lầm than Những dòng thơ tiếp theo trong phần "thực" khắc họa hình ảnh một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời và tự hỏi về số phận của mình.

“Dở trời mưa bụi còn hơi rét Uống rượu tường đền được mấy ông.”

Thời tiết dở trời với mưa bụi và cái lạnh thấu xương khiến cho quê hương trở nên lầy lội, u ám, phản ánh nỗi khổ cực của người dân nơi đây Câu thơ "Dở trời mưa bụi còn hơi rét" không chỉ mô tả cảnh vật mà còn thể hiện sự lầm than, khó khăn của bà con nông dân Trong bối cảnh chợ Đồng họp trong mưa rét, nét đẹp truyền thống "nếm rượu tường đền" vẫn được duy trì, thể hiện tình cảm trân trọng của nhân dân đối với phong tục quê hương Tuy nhiên, hình ảnh các cụ già thưa thớt tại chợ cũng gợi lên nỗi buồn cô đơn, lạc lõng của một nhà nho, như Nguyễn Khuyến đã thể hiện trong bài thơ của mình.

“Đời loạn đi về như hạc độc, Tuổi già hình bóng tựa mây côi.”

“Xuân về ngày loạn cùng lơ láo,Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.”

(Ngày xuân dặn các con)

Hai câu 3, 4 tác giả đã miêu tả lại khôngkhí buồn tẻ của phiên chợ Đồng

Năm nay, chợ Đồng diễn ra thưa thớt và vắng vẻ, càng làm tăng thêm nỗi buồn trong tiết trời mưa rét Tác giả đã tái hiện cảnh chợ với giá trị tố cáo hiện thực khổ đau của dân tộc từ một thế kỷ trước Nguyễn Khuyến thể hiện tài năng ghi lại cuộc sống dân dã qua những vần thơ sâu sắc Cảnh chợ tàn được miêu tả với âm thanh và hình ảnh mà ông đã "mắt thấy tai nghe": “Hàng quán người về nghe xáo xác - Nợ nần năm hết hỏi lung tung.”

Hai câu thơ 5, 6 trong bài thơ gợi lên không khí nhộn nhịp của chợ Đồng, nhưng Xuân Diệu lại hiểu theo cách khác Ông cho rằng “người về” không phải là đến chợ họp mà là ra về; khi đến cuối chợ, không khí trở nên huyên thuyên, thể hiện sự rã đám, với kẻ đòi nợ thúc giục người chịu nợ Âm thanh “xáo xác” hòa quyện với cái thanh, tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống nơi chợ.

Lung tung là trạng thái ồn ào và loạn xạ, thể hiện rõ trong không khí tan chợ Tết khi chỉ còn tiếng đòi nợ và thúc nợ Sự nghèo túng đang đè nặng lên xóm làng, tạo nên cảnh mua bán hàng quán đầy xáo xác Nỗi buồn của sự đói nghèo càng trở nên rõ ràng khi năm cũ sắp kết thúc và Tết đang đến gần.

Trong bài viết, tác giả đã khắc họa nỗi khổ của cái rét và cái nghèo, nhấn mạnh rằng cơ hàn là nỗi khổ dai dẳng và đắng cay nhất trong đời sống con người Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà dột” để chỉ ra ba nỗi khổ lớn nhất của người nghèo Nguyễn Khuyến, với sự chứng kiến những cay cực của nhân dân trong xã hội cũ, đã sáng tác những vần thơ sâu sắc phản ánh thực trạng này: “Nợ nần năm hết hồi lung tung”, từ đó chỉ ra nguyên nhân của cái nghèo và cái rét mà họ phải gánh chịu.

“Năm nay cày cấy vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.”

Bài thơ "Chợ Đồng" khắc họa tâm trạng của thi nhân khi một mình đứng giữa chợ vắng Thời gian trôi qua, năm cũ dần khép lại, năm mới đang đến gần, nhưng nỗi lo về cái nghèo và cái rét vẫn luôn ám ảnh Thi nhân bỗng giật mình trước âm thanh của cuộc sống, thể hiện sự trăn trở và cảm xúc sâu sắc trong khoảnh khắc giao thoa giữa hai mùa.

"Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng" là câu thơ thể hiện tài năng của tác giả khi vận dụng điển tích về tiếng pháo trúc, một biểu tượng xua đuổi ma quỷ trong văn hóa Trung Quốc Tiếng nổ "một tiếng đùng" không chỉ mang ý nghĩa xua đuổi cái nghèo đói của năm cũ, mà còn thể hiện khát vọng đổi mới, như câu thơ của Nguyễn Công Trứ: "Co cẳng đạp thằng bần ra cửa Giơ tay bồng ông phúc vào nhà" Nguyễn Khuyến cũng từng có những phút giây tỉnh thức khi nghe tiếng pháo, thể hiện sự kết nối giữa truyền thống và mong muốn vươn tới một tương lai tươi sáng hơn.

Ngày đăng: 06/12/2021, 08:25

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Văn Cường sưu tầ m và biên so ạ n (1987), Nguyễn Khuyến và giai tho ạ i, Nxb. H ội Văn họ c ngh ệ thu ậ t Hà Nam Ninh, Hà Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Khuyến và giai thoại
Tác giả: Bùi Văn Cường sưu tầ m và biên so ạ n
Nhà XB: Nxb. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh
Năm: 1987
2. Xuân Di ệ u (1979), Thơ văn Nguyễ n Khuy ế n, in l ầ n th ứ 2 có s ử a ch ữ a, Nxb. Văn họ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Khuyến
Tác giả: Xuân Di ệ u
Nhà XB: Nxb. Văn học
Năm: 1979
3. Nguy ễn Văn Hoàn, Nguyễn Đình Chú, Nguyễ n L ộ c (2000), Nguy ễ n Khuy ế n – Thơ lờ i bình và giai tho ạ i, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Khuyến –Thơ lời bình và giai thoại
Tác giả: Nguy ễn Văn Hoàn, Nguyễn Đình Chú, Nguyễ n L ộ c
Nhà XB: Nxb. Văn hoá thông tin
Năm: 2000
4. Nguy ễn Văn Huyề n (2002), Nguy ễ n Khuy ế n tác ph ẩ m, Nxb. TP. H ồ Chí Minh, H ồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Khuyến tác phẩm
Tác giả: Nguy ễn Văn Huyề n
Nhà XB: Nxb. TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2002
5. Tr ần Đình Hượ u (1999), Nho giáo và văn họ c Vi ệ t Nam trung c ận đạ i, Nxb. giáo d ụ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại
Tác giả: Tr ần Đình Hượ u
Nhà XB: Nxb. giáo dục
Năm: 1999
6. Nguy ễ n L ộ c (1999), Văn họ c Vi ệ t Nam n ử a c ủ a th ế k ỉ XVIII đế n h ế t th ế k ỉ XIX, Nxb. Giáo d ụ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam nửa của thế kỉ XVIII đến hết thếkỉ XIX
Tác giả: Nguy ễ n L ộ c
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
Năm: 1999
7. Vũ Thanh tuyể n ch ọ n và gi ớ i thi ệ u (1999), Nguy ễ n Khuy ế n: V ề tác gia và tác phẩm, tái b ả n l ầ n th ứ nh ấ t, Nxb. Giáo d ụ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về tác gia và tác phẩm
Tác giả: Vũ Thanh tuyể n ch ọ n và gi ớ i thi ệ u
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
Năm: 1999
8. Lê Trí Vi ễ n, Phan Côn, Nguy ễn Đình Chú (1971), L ị ch s ử văn họ c Vi ệ t Nam, t ậ p IVA, Nxb. Giáo d ụ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Việt Nam
Tác giả: Lê Trí Vi ễ n, Phan Côn, Nguy ễn Đình Chú
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
Năm: 1971
9. Nhóm tri th ứ c Vi ệ t tuy ể n ch ọ n và gi ớ i thi ệ u (2012), Nguy ễ n Khuy ến thơ và đờ i, Nxb. Văn họ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Khuyến thơ và đời
Tác giả: Nhóm tri th ứ c Vi ệ t tuy ể n ch ọ n và gi ớ i thi ệ u
Nhà XB: Nxb. Văn học
Năm: 2012
10. Nhi ề u tác gi ả (2011), Nguy ễ n Khuy ế n tác ph ẩ m và l ờ i bình, Nxb. Văn họ c, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình
Tác giả: Nhi ề u tác gi ả
Nhà XB: Nxb. Văn học
Năm: 2011
12. Hoàng H ữ u Yên (1984), Thơ văn Nguyễ n Khuy ế n, Nxb. Giáo d ụ c Hà N ộ i, Hà N ộ i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Nguyễn Khuyến
Tác giả: Hoàng H ữ u Yên
Nhà XB: Nxb. Giáo dục Hà Nội
Năm: 1984
11. Nhi ề u tác gi ả(1971), Thơ văn Nguyễ n Khuy ến, Nxb. Văn họ c, Hà N ộ i Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w