Khái quát chung về mô hình cơ quan quả n lý c ạ nh tranh
S ự hình thành cơ quan cạ nh tranh
Khi xã hội phát triển và xuất hiện sự dư thừa của cải, tư hữu và phân biệt giàu nghèo, thì cũng là lúc sự cạnh tranh bắt đầu hình thành.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự hình thành sản xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường, trong đó cạnh tranh đóng vai trò quan trọng như một động lực phát triển Trong quá khứ, nguyên tắc tự do cạnh tranh được tôn trọng tuyệt đối, cho phép mọi cá nhân tự do tham gia thị trường mà không bị can thiệp từ Nhà nước Điều này giải thích vì sao mặc dù cạnh tranh đã tồn tại lâu đời, nhưng pháp luật về cạnh tranh lại ra đời muộn hơn Tuy nhiên, để quản lý hiệu quả nền kinh tế và xã hội, Nhà nước cần sử dụng pháp luật như một công cụ chủ yếu nhằm thực thi quyền lực của mình.
Pháp luật cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, giúp xác định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh Sự cần thiết của pháp luật cạnh tranh xuất phát từ việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Nhà nước cần xác định rõ giới hạn can thiệp của mình để đảm bảo sự công bằng và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Mọi Nhà nước trong lịch sử đều có chức năng kinh tế, vì những biến chuyển trong đời sống kinh tế và xã hội là nguyên nhân hình thành Nhà nước Do đó, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự thống trị kinh tế, thực hiện quyền lực chính trị và tác động tư tưởng đến quần chúng.
Vai trò kinh tế của Nhà nước là yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền lực kinh tế của giai cấp thống trị và duy trì trật tự kinh tế xã hội Nội dung và cách thức thực hiện vai trò này phụ thuộc vào mô hình Nhà nước và từng thời kỳ lịch sử khác nhau.
Trong giai đoạn đầu của kinh tế thị trường tư bản, Nhà nước chỉ đảm nhiệm chức năng bảo vệ an ninh và xây dựng luật pháp để duy trì công bằng xã hội; tuy nhiên, sự phức tạp ngày càng gia tăng trong xã hội đã làm lộ rõ những khuyết tật của thị trường, khiến pháp luật không còn đủ khả năng điều chỉnh Sự thất bại của mô hình kinh tế chỉ huy ở các nước xã hội chủ nghĩa và khủng hoảng kéo dài trong nền kinh tế thị trường tự do đã thúc đẩy việc hình thành mô hình kinh tế thị trường hiện đại Trong mô hình này, thị trường được điều tiết chủ yếu bởi "bàn tay vô hình," còn vai trò của Nhà nước là hạn chế khuyết tật và tạo điều kiện cho thị trường tự do phát triển Nhà nước không chỉ quản lý nền kinh tế mà còn định hướng thị trường và thiết lập trật tự cho các mối quan hệ kinh tế Để duy trì sự cạnh tranh và phát triển lành mạnh của thị trường, Nhà nước phải can thiệp thông qua pháp luật cạnh tranh, đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp lý nhất định.
“Theo nghĩa kinh điển, pháp luật cạnh tranh chỉ bao hàm các quy định ngăn cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu của ngày
Trong lịch sử, đã có thời điểm mà con người chưa nhận thức được hiện tượng độc quyền và những tác hại của nó, đặc biệt trong giai đoạn của chủ nghĩa tư bản tự do Điều này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự của Pháp (Code civil – 1804), cụ thể là Điều 1382.
Quy định về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng tại Điều 1383 cho thấy rằng các thương nhân phải chịu trách nhiệm trong cạnh tranh, được xác định qua án lệ của Pháp như một hình thức mới của trách nhiệm bồi thường thiệt hại Những hành vi cạnh tranh gây thiệt hại cho người khác được gọi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hay còn gọi là concurrence déloyale Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 cùng với các văn bản pháp luật khác đã hình thành một chế định pháp luật nhằm chống lại cạnh tranh không lành mạnh Tương tự, tại Italia, các Điều 1151 và 1152 của Bộ Luật Dân sự cũng quy định về vấn đề này.
Năm 1865 đã thiết lập các nguyên tắc cơ bản về trách nhiệm đối với hành vi không lành mạnh Tuy nhiên, chỉ đến năm 1872, khi Bộ luật Dân sự mới ra đời, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh mới được cụ thể hóa một cách chi tiết và rõ ràng.
Lịch sử pháp luật cạnh tranh cho thấy, nó được xây dựng dựa trên các nguyên tắc của dân luật và thực hiện thông qua trách nhiệm dân sự Trong giai đoạn đầu, do nhận thức hạn chế và khả năng dự liệu của luật pháp về hành vi cạnh tranh, pháp luật chủ yếu tồn tại dưới dạng án lệ của toà án Các nguyên tắc dân luật đóng vai trò nền tảng cho các án lệ và là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc duy trì trật tự cạnh tranh, trong khi cơ quan thực thi pháp luật dân sự cũng đảm nhiệm vai trò đảm bảo cạnh tranh.
Sự phát triển của thị trường cùng với sự biến đổi đa dạng và phức tạp trong các biểu hiện của cạnh tranh đã làm giảm hiệu quả của các nguyên tắc kinh doanh truyền thống.
Các Nhà nước ngày càng tích cực nhận diện và ngăn chặn các biểu hiện không lành mạnh thông qua các quy định trong văn bản pháp luật cạnh tranh Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đã ban hành luật cạnh tranh và thành lập cơ quan thực thi pháp luật này Đến cuối thế kỷ XIX, pháp luật cạnh tranh đã có những thay đổi cơ bản về nội dung và phương pháp điều chỉnh Hiện nay, bên cạnh các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, việc chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trở thành nội dung quan trọng trong việc bảo vệ và điều tiết thị trường Nhà nước đã nhận thức được vai trò quản lý thị trường và tạo ra các thiết chế pháp lý nhằm loại bỏ các rào cản để bảo vệ thị trường cạnh tranh Do đó, cơ quan quản lý cạnh tranh đã được thành lập với chức năng và nhiệm vụ độc lập nhằm đảm bảo thực thi pháp luật cạnh tranh hiệu quả.
Luật Cạnh tranh là lĩnh vực pháp luật dân sự, nơi Nhà nước chỉ can thiệp khi có yêu cầu Tuy nhiên, với sự phát triển của pháp luật kiểm soát độc quyền toàn cầu, Nhà nước đã chủ động ngăn chặn và kiểm soát các nguy cơ hạn chế cạnh tranh thông qua các cơ chế quyền lực, bao gồm cả biện pháp trừng phạt nghiêm khắc như chế tài hình sự cho hành vi vi phạm Điều này đã củng cố sự độc lập và tính cưỡng chế của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý thị trường và xã hội Để đảm bảo hiệu quả thực thi của Luật Cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh cần hoạt động với tư cách đại diện cho Nhà nước, bảo đảm tính thực tiễn của luật này Sự hình thành và phát triển của cơ quan này là yếu tố then chốt trong việc thực hiện các quy định của Luật Cạnh tranh.
Luật cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển cơ quan quản lý cạnh tranh, nhằm đảm bảo thực thi luật pháp và tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch trên thị trường Cơ quan này bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), những quy định này ngày càng trở nên thiết yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế.
M ộ t s ố mô hình cơ quan cạ nh tranh trên th ế gi ớ i
Cơ quan quản lý cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong việc thi hành hiệu quả Luật Cạnh tranh Mỗi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan này dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị của mình, từ đó xác định nguyên tắc tổ chức, hoạt động, chức năng và nhiệm vụ phù hợp Một số quốc gia đặt cơ quan quản lý cạnh tranh dưới sự giám sát của Quốc hội, trong khi những quốc gia khác lại xác định cơ quan này là một đơn vị ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống, hoặc thuộc Bộ.
Theo thống kê của UNCTAD đến năm 2008, hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thiết lập luật điều tiết cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, cùng với các cơ quan quản lý cạnh tranh theo bốn mô hình khác nhau.
Tính đến tháng 04/2017, trên toàn thế giới có 150 cơ quan quản lý cạnh tranh, trong đó 5% thuộc Quốc hội, 42% thuộc Chính phủ và các bộ/ngành, còn lại 22% thuộc các thiết chế khác như Tòa án.
Mô hình thứ nhất, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Quốc
Cơ quan quản lý cạnh tranh Italia, được thành lập theo Luật số, là cơ quan độc lập có nhiệm vụ chống độc quyền tại Italia.
Luật Cạnh tranh và Thương mại công bằng được ban hành vào ngày 10/10/1990 quy định về cơ cấu và quy trình bổ nhiệm các thành viên của cơ quan chống độc quyền Italia Cơ quan này gồm một chủ tịch và bốn thành viên, tất cả đều được bổ nhiệm bởi Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện, với tiêu chí lựa chọn nghiêm ngặt Chủ tịch phải là người có vị trí cao trong bộ máy chính quyền và đảm bảo tính độc lập, trong khi bốn thành viên còn lại là những chuyên gia độc lập như thẩm phán, giáo sư đại học hoặc đại diện doanh nghiệp, tất cả đều phải đáp ứng tiêu chuẩn nghiệp vụ cao Mỗi thành viên sẽ phục vụ trong nhiệm kỳ 7 năm và không được tái bổ nhiệm.
Cơ quan chống độc quyền Italia hoạt động độc lập với Chính phủ, thực thi Luật Cạnh tranh và Luật Thương mại công bằng số 287 năm 1990 Nhiệm vụ chính của cơ quan này bao gồm kiểm soát các thỏa thuận cản trở cạnh tranh, ngăn chặn hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, và giám sát các thương vụ mua lại hoặc sáp nhập có thể làm tăng cường vị trí thống lĩnh, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường Cơ quan báo cáo trực tiếp lên Chính phủ và Quốc hội, đồng thời tư vấn cho hai cơ quan này Ngoài ra, cơ quan còn có quyền yêu cầu Chính phủ và Quốc hội xem xét kỹ lưỡng các yêu cầu của thị trường và người tiêu dùng khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Hoa Kỳ tổ chức cơ quan cạnh tranh theo mô hình thuộc Quốc hội, với hai cơ quan chính tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh là Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (US-FTC) và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (US-DOJ).
US-FTC, được thành lập vào năm 1914, có nhiệm vụ ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại nhằm thúc đẩy lòng tin Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật để trao quyền lớn hơn cho Ủy ban trong việc kiểm soát hoạt động cạnh tranh Để đối phó với sự phát triển phức tạp của thị trường, Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (DOJ) được thành lập vào năm 1933 US-FTC là một cơ quan độc lập, báo cáo trực tiếp cho Quốc hội, với năm ủy viên được Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn, trong đó có một ủy viên đảm nhiệm vị trí Chủ tọa và không quá ba ủy viên thuộc cùng một Đảng.
Hoạt động của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (US-FTC) được tổ chức thông qua các cục, bao gồm Cục Bảo vệ Người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, và Cục Kinh tế Ngoài ra, US-FTC còn có các văn phòng hỗ trợ như Văn phòng các Vấn đề Cộng đồng, Văn phòng Quan hệ Quốc hội, Văn phòng Giám đốc Điều hành, Văn phòng Tổng Thanh tra và Văn phòng Tổng Tham vấn, nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của mình một cách hiệu quả.
Cục Bảo vệ người tiêu dùng có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trước các hành vi gian lận, không công bằng và dối trá Cục thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng nhằm đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong thị trường.
Quốc hội ban hành cũngnhư các quy định về thương mại do Uỷ ban ban hành
Cục Bảo vệ Người tiêu dùng thực hiện các cuộc điều tra đối với các công ty tư nhân và ngành công nghiệp lớn, giải quyết tranh chấp tại toà hành chính và toà án liên bang, đồng thời nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng Ngoài ra, Cục còn hỗ trợ Uỷ ban báo cáo Quốc hội và các cơ quan Chính phủ về những hoạt động có thể ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
- Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây
Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích người tiêu dùng thông qua việc hạn chế cạnh tranh, đảm bảo giá cả thấp và sản phẩm sẵn có Cục sẽ tiến hành điều tra các hành vi vi phạm và trình Uỷ ban xem xét xử lý Khi có quyết định, Cục sẽ thực thi qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo quy định hành chính Ngoài ra, Cục còn nghiên cứu và hoạch định chính sách về cạnh tranh, chuẩn bị báo cáo và chứng cứ cho Quốc hội, đồng thời đưa ra bình luận về các vấn đề liên quan trước khi có quyết định từ các cơ quan quản lý khác Cục cũng phát triển kiến thức chuyên sâu về các ngành công nghiệp quan trọng như chăm sóc sức khoẻ, lương thực, năng lượng và dịch vụ chuyên môn khác.
Bộ Tư pháp sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để tránh chồng chéo trong quá trình xử lý Do đó, hai cơ quan này cam kết tham khảo ý kiến lẫn nhau trước khi tiến hành bất kỳ trường hợp nào.
Cục Kinh tế hỗ trợ US – FTC trong việc đánh giá tác động kinh tế của các hoạt động của tổ chức này Để thực hiện nhiệm vụ này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế và hỗ trợ các cuộc điều tra liên quan đến chống độc quyền và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Cục tiến hành phân tích tác động của các quy định về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng do Chính phủ ban hành, đồng thời cung cấp cho Quốc hội và công chúng các phân tích kinh tế liên quan đến quy trình thị trường, bao gồm chống độc quyền và các quy định khác.
- Văn phòng các vấn đề cộng đồng: cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động của US – FTC, các tin tức, vụ việc… cho công chúng
Ch ức năng, nhiệ m v ụ c ủa cơ quan quả n lý c ạ nh tranh
Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ chính là đảm bảo việc thực thi Luật Cạnh tranh tại mỗi quốc gia Hiệu quả của việc thực thi luật này phụ thuộc vào hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh Mặc dù mô hình của các cơ quan này khác nhau tùy theo điều kiện kinh tế và chính trị - xã hội của từng quốc gia, nhưng chúng đều có những chức năng và nhiệm vụ cơ bản tương tự nhau.
- Điều tra, ngăn chặn, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thịtrường
- Chống độc quyền và lạm dụng vịtrí độc quyền trên thịtrường
- Điều tra, xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
- Kiểm soát quá trình sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp trên thịtrường
- Thực hiện các hoạt động nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thịtrường
Thứ nhất, về chức năng, nhiệm vụ điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Điều 19 quy định về các hành vi xâm hại đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường và quyền tự do cạnh tranh công bằng của doanh nghiệp Cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm điều tra nhanh chóng và chính xác các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời đưa ra quyết định xử lý nhằm đảm bảo sự công bằng và trong sạch cho thị trường cạnh tranh.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất hành động giữa hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt sức ép cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động độc lập của đối thủ Nội dung của các thỏa thuận này rất đa dạng và phức tạp, yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh phải điều tra và thu thập bằng chứng để chứng minh sự tồn tại của chúng Nếu không có đủ chứng cứ, cơ quan này không thể kết luận về sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Mặc dù các thỏa thuận công khai dễ dàng được phát hiện, nhưng phần lớn lại là thỏa thuận ngầm, khiến cho việc điều tra trở nên khó khăn hơn.
Chống độc quyền và lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường là việc các doanh nghiệp lớn sử dụng quyền lực của mình để tạo áp lực lên đối thủ và xâm hại quyền lợi người tiêu dùng Trong mỗi nền kinh tế, những doanh nghiệp mạnh nắm giữ thị phần lớn có khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh Do đó, cơ quan quản lý cạnh tranh cần đảm bảo sự công bằng và điều tiết thị trường, góp phần xây dựng nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh.
Thứ tư, cần thực hiện các hoạt động để duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ngày càng trở nên gay gắt.
Đặc trưng pháp lý của cơ quan quả n lý c ạ nh tranh
Thị trường cạnh tranh mạnh mẽ và phức tạp có thể dẫn đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây mất minh bạch và công bằng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển cân bằng của nền kinh tế Để quản lý và điều tiết nền kinh tế, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển lành mạnh Do đó, cơ quan quản lý cạnh tranh ra đời với nhiệm vụ chính là duy trì môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch.
Một số quốc gia có cơ quan quản lý cạnh tranh không chỉ thực hiện chính sách cạnh tranh mà còn có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Ngoài những chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thì cơ quan quản lý cạnh tranh còn có thẩm quyền:
- Phát hiện, kiến nghịcác cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trở đến môi trường cạnh tranh lành mạnh
- Yêu cầu tổ chức, các nhân có liên quan hợp tác, cung cấp thông tin, chứng cứtrong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh
1.3 Đặc trƣng pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh
1.3.1 Tính “lưỡ ng tính ” hay nửa “tư pháp” nửa “hành chính”
Nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh cho thấy hầu hết các cơ quan này đều mang tính “lưỡng tính”, vừa thực hiện chức năng hành pháp vừa có vai trò tư pháp Là công cụ thi hành chính sách và pháp luật cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể được xem như một cơ quan hành pháp Tuy nhiên, hoạt động của nó cũng mang tính chất tư pháp khi có quyền phán xử và áp dụng chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh Sự kết hợp giữa chức năng tư pháp và hành chính giúp cơ quan này thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập, không bị ảnh hưởng bởi các cơ quan khác.
Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản là một ví dụ điển hình cho tính lưỡng tính của cơ quan quản lý cạnh tranh, thể hiện rõ ràng qua chức năng và nhiệm vụ của mình Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Nhật Bản, cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Bản, Ủy ban này có cả thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp:
- Tiếp nhận thông báo của các doanh nghiệp theo luật chống độc quyền
- Điều tra, giám sát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường; tình trạng độc quyền trong nền kinh tế
Việc ban hành mới, sửa đổi và bổ sung các đạo luật kinh tế liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và chống độc quyền là rất cần thiết Các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét kỹ lưỡng các đề xuất từ các tổ chức và chuyên gia để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tạo ra môi trường kinh doanh công bằng, thúc đẩy sự phát triển bền vững cho nền kinh tế.
Trong một số trường hợp cụ thể, Ủy ban xử lý vi phạm Luật chống độc quyền tổ chức phiên họp tương tự như tòa án để đưa ra phán quyết và quyết định chế tài xử lý vi phạm Phán quyết của Ủy ban có thể bị kháng cáo.
Các cơ quan cạnh tranh ở nhiều quốc gia được thiết kế để đảm bảo tính độc lập, không bị can thiệp bởi các cơ quan hành pháp, lập pháp hay tư pháp Sự độc lập này là yếu tố quyết định, tạo ra sự công bằng trong xử lý các vụ việc, điều mà các bên đương sự luôn kỳ vọng Điều này rất quan trọng để các cơ quan thực hiện chức năng xử lý thông minh, nhằm bảo vệ trật tự công bằng và duy trì môi trường kinh tế cạnh tranh lành mạnh.
Nguyên tắc tối cao trong Luật cạnh tranh là sự độc lập tuyệt đối của các cơ quan quản lý cạnh tranh, không bị chi phối hay can thiệp bởi bất kỳ tổ chức nào Các cơ quan này được thành lập theo quy định của Luật và thực hiện các chức năng mà Luật giao phó Để đảm bảo tính độc lập, nhiều quốc gia đã quyết định đặt các cơ quan cạnh tranh dưới sự quản lý riêng biệt.
Quốc hội cần duy trì tính độc lập với hệ thống tư pháp và chính phủ, đồng thời có thể xem xét việc thiết lập cơ quan cạnh tranh như một Bộ hoặc cơ quan ngang bộ, đảm bảo sự độc lập với các ngành khác.
Tính độc lập của cơ quan quản lý cạnh tranh được thể hiện qua quy trình bổ nhiệm nhân sự nghiêm ngặt và chặt chẽ, cùng với chế độ đãi ngộ và ngân sách hoạt động rõ ràng, minh bạch.
THỰ C TR Ạ NG V Ề T Ổ CH Ứ C VÀ HO ẠT ĐỘ NG C Ủ A
S ự hình thành c ủa cơ quan quả n lý c ạ nh tranh t ạ i Vi ệ t Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và sự phát triển của tự do kinh doanh, mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế đã trở nên phức tạp hơn, dẫn đến những tác động tiêu cực đến thị trường và nền kinh tế Để quản lý những vấn đề này, Nhà nước đã thiết lập cơ quan quản lý cạnh tranh, một thiết chế kinh tế đặc biệt, nhằm thực thi pháp luật cạnh tranh và bảo đảm trật tự trong nền kinh tế.
“Vào giữa thập niên thứ hai của quá trình đổi mới, các nhà làm luật
Việt Nam xác định nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một đạo luật cạnh tranh mang tính chất căn bản trong hệ thống pháp luật thương mại Để thực hiện điều này, cần tiếp thu những kinh nghiệm từ việc xây dựng Luật cạnh tranh.
Cạnh tranh ở các nước, Luật Cạnh tranh Việt Nam đã được ban hành năm
Năm 2004, cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy và bảo vệ các thiết chế kinh tế, tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng Cơ quan này, thuộc Bộ Thương mại, ban đầu được gọi là Ban Quản lý cạnh tranh và có nhiệm vụ chính là tham gia soạn thảo Luật cạnh tranh.
Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn là rất quan trọng để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá từ nước ngoài Ngày 26/02/2004, nhằm thực hiện Nghị định số 29/2004/NĐ-CP ban hành ngày 16/01/2004 của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ra Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM, thành lập Cục quản lý để tăng cường khả năng bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Cục Quản lý cạnh tranh được thành lập theo Quyết định số 1808/2004/QĐ-BTM ngày 06/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhằm hỗ trợ Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua vào ngày 03/12/2004, đánh dấu một bước quan trọng trong việc thiết lập khung pháp lý cho hoạt động cạnh tranh tại Việt Nam.
Luật cạnh tranh chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, quy định rằng cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ do Chính phủ thành lập và tổ chức Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP để quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh Tiếp theo, vào ngày 05/02/2013, Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về cơ cấu tổ chức của Cục này Cục quản lý cạnh tranh chịu trách nhiệm điều tra và thu thập chứng cứ liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh, trong khi việc xử lý và giải quyết khiếu nại thuộc về Hội đồng cạnh tranh.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan độc lập do Chính phủ thành lập, gồm từ 11 đến 15 thành viên do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2006/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Đến ngày 12/06/2006, Thủ tướng đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg bổ nhiệm 11 thành viên đầu tiên Tính đến năm 2018, Hội đồng cạnh tranh đã có tổng cộng 14 thành viên.
Hiện nay, theo Nghịđịnh số07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2015
1 Điều 1, Điều 4, Nghị định số 07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh.
Hội đồng cạnh tranh có cơ quan thường trực là Văn phòng Hội đồng cạnh tranh, có nhiệm vụ tham mưu và hỗ trợ cho hoạt động của Hội đồng Ngày 30/06/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 24/2015/QĐ-TTg quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh.
H ệ th ố n g cơ quan qu ả n lý c ạ nh tranh theo Lu ậ t C ạnh tranh năm 2004 25 1 C ụ c qu ả n lý c ạ nh tranh
Hiện nay, hệ thống quản lý cạnh tranh tại Việt Nam bao gồm hai cơ quan chính: Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh, hoạt động độc lập nhằm đảm bảo sự công bằng trong thị trường.
Năm 2003, Ban quản lý cạnh tranh được thành lập dưới sự quản lý của Bộ Thương mại (hiện nay là Bộ Công thương), đánh dấu bước khởi đầu cho Cục quản lý cạnh tranh Đến năm 2004, Cục quản lý cạnh tranh chính thức ra đời, trở thành cơ quan thuộc Bộ Công thương với tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, trụ sở tại Hà Nội Ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2005 Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh.
Năm 2013, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Cạnh tranh Hiện nay, Cục Quản lý Cạnh tranh có trụ sở chính tại Hà Nội, được thành lập vào năm 2004, cùng với các văn phòng tại thành phố Hồ Chí Minh (thành lập năm 2007) và Đà Nẵng.
2.2.1.1 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh.[20]
Cục Quản lý cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh: Vietnam Competition Authority, viết tắt là VCA, trụ sở chính tại Hà Nội
Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức thuộc BộCông Thương có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức thực
Pháp luật Việt Nam quy định các biện pháp cạnh tranh, chống bán phá giá và trợ cấp, đồng thời áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đối phó hiệu quả với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp tự vệ.
Cụ thể, Cục quản lý cạnh tranh có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện các nhiệm vụ:
- Quản lý nhà nước về cạnh tranh (thực thi Luật Cạnh tranh);
Quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng Điều này bao gồm việc thực thi pháp lệnh về chống bán phá giá và chống trợ cấp, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước và duy trì cạnh tranh công bằng Các biện pháp tự vệ được áp dụng để đảm bảo rằng hàng hóa nhập khẩu không gây thiệt hại cho ngành công nghiệp nội địa, từ đó góp phần ổn định nền kinh tế và phát triển bền vững.
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (thực thi Luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng);
Hợp tác với doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng là cần thiết để ứng phó hiệu quả với các vụ kiện thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và thực hiện các biện pháp tự vệ.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh được quy định tại Điều 49 Luật Cạnh tranh năm 2004 bao gồm:
1 Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo Luật định
2 Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
3 Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh
4 Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh
5 Một số nhiệm vụ khác theo Luật định
Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/NĐ-CP/2006
2 Kho ả n 1- điề u 1 Quy ết định 848QĐ/BCT ngày 05/02/2013
27 trong đó quy định rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh trên nền tảng Luật Cạnh tranh năm 2004 Đến năm 2013,
Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định 848/QĐ-BCT, trong đó quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục Quản lý Cạnh tranh Quyết định này nhằm tăng cường hiệu quả quản lý và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực cạnh tranh.
Quản lý cạnh tranh thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo pháp luật về cạnh tranh, bao gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam Đồng thời, cơ quan này cũng có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thực hiện các nhiệm vụ cụ thể khác.
Xây dựng và trình Bộ trưởng để ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, và áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
2 Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành Phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3 Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt động về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật
4 Về cạnh tranh a) Thụ lý, tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh để Hội đồng cạnh tranh xử lý theo quy định của pháp luật; b) Tổ chức điều tra, xử lý hoặc đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh theo quy định của pháp luật; c) Thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo các quy định của pháp luật để trình Bộtrưởng quyết định;
3 Điề u 2 Quy ết định 848QĐ/BTC ngày 05/02/2013
Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế là một nhiệm vụ quan trọng, bao gồm việc xây dựng và quản lý hệ thống thông tin liên quan đến các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường và các doanh nghiệp độc quyền Hệ thống này cũng cần theo dõi quy tắc cạnh tranh trong các hiệp hội và các trường hợp miễn trừ liên quan.
5 Về xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệđối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; b) Thụ lý, tổ chức điều tra việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt nam đểđề xuất áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệtheo quy định của pháp luật; c) Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp tạm thời và quyết định áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời theo quy định của pháp luật; d) Báo cáo kết quả điều tra lên Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ xem xét, trình Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; e) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện, rà soát việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
6 Cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá; chủ trì hoặc phối hợp với các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
Nh ữ ng h ạ n ch ế trong mô hình cơ quan quả n lý c ạ nh tranh theo pháp
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh phụ thuộc lớn vào vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh Với bản chất là luật công, cơ quan công quyền đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính thực thi của Luật cạnh tranh Để hoạt động hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh cần đáp ứng một số yếu tố thiết yếu.
- Phải đảm bảo hoạt động độc lập và được trao đầy đủ quyền hạn theo quy định của pháp luật;
- Đảm bảo tính minh bạch khi thực hiện nhiệm vụđược giao;
- Phải nhận được sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và người tiêu dùng
2.3.1 B ả n ch ấ t pháp lý c ủa cơ quan quả n lý c ạnh tranh chưa rõ ràng
Hiện nay cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam về cơ bản mang tính chất
Mặc dù khái niệm "hành chính" và "tài phán" đã được đề cập trong các quy định pháp luật, nhưng vẫn chưa rõ ràng Theo Luật Cạnh tranh năm 2004, Việt Nam hiện duy trì hai cơ quan cạnh tranh: Cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương và Hội đồng cạnh tranh, với Văn phòng Hội đồng cạnh tranh hỗ trợ Các cơ quan cạnh tranh trên thế giới thường có bản chất pháp lý "lưỡng tính", vừa là cơ quan hành chính vừa hoạt động như cơ quan tư pháp thông qua việc điều trần và xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh Cơ quan cạnh tranh của Việt Nam cũng mang bản chất "lưỡng tính", tuy nhiên, tính chất này vẫn chưa được thể hiện rõ ràng.
36 pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa thực sự được quy định rõ ràng trong quy định của pháp luật
Cục Quản lý Cạnh tranh là cơ quan hành chính Nhà nước, có nhiệm vụ đảm bảo thực thi pháp luật và thiết lập quan hệ trong lĩnh vực cạnh tranh Với chức năng và quyền hạn rõ ràng, Cục thực hiện kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, tiếp nhận hồ sơ miễn trừ để trình lên Bộ trưởng Bộ Công Thương hoặc Chính phủ, đồng thời điều tra và xử lý các vi phạm liên quan đến Luật Cạnh tranh.
Hội đồng Cạnh tranh thực hiện hoạt động xét xử theo kiểu hành chính, có nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh Cơ quan này xử lý và quyết định xử phạt các vi phạm pháp luật cạnh tranh theo trình tự thủ tục nhất định, tương tự như Tòa án Tuy nhiên, quyết định của Hội đồng Cạnh tranh có thể bị khiếu nại và đưa ra Tòa án Nhân dân huyện, thành phố, trong đó Hội đồng đóng vai trò tham gia tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính Tính chất tài phán của Hội đồng Cạnh tranh được thể hiện qua quy trình tố tụng mà họ thực hiện trong việc xử lý các vụ việc cạnh tranh.
Thủ tục tố tụng tranh tụng diễn ra qua phiên điều trần, cho phép các bên liên quan trình bày quan điểm và trao đổi trực tiếp với nhau cũng như với cơ quan tiến hành tố tụng.
Việc xử lý vụ việc phải tuân thủ một trình tự tố tụng rõ ràng và chặt chẽ, mang tính chất tài phán, không chỉ đơn thuần là xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Khi quyết định xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh trong các vụ việc về cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh làm việc theo chế độ tập thể
- Quyết định của Hội đồng cạnh tranh không thể bị khiếu nại trong hệ thống cơ quan hành chính mà phải khởi kiện ra tòa án…
Việc quy định quyết định của Hội đồng Cạnh tranh có thể bị khởi kiện và xem xét bởi Tòa án đã tạo ra một cơ chế kiểm soát, nhưng cũng cho thấy cơ quan này vẫn giữ thẩm quyền thực hiện quyền tài phán của mình.
Mô hình quản lý cạnh tranh tại Việt Nam có tính "lưỡng tính" tương tự như các mô hình quản lý cạnh tranh toàn cầu Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh và các Nghị định liên quan chưa quy định rõ ràng về tính "lưỡng tính" của cơ quan quản lý cạnh tranh Dù vậy, có thể nhận thấy rằng tính lưỡng tính này đã tồn tại như một bản chất vốn có của cơ quan cạnh tranh.
2.3.2 Tính độc lập của cơ quan quản lý cạnh tranh còn hạn chế Điều 2 Nghị định số 05/2006/NĐ-CP đã quy định Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước độc lập có chức năng xử lý vụ việc cạnh tranh Theo nghiên cứu hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước ở
Việt Nam hiện không có cơ quan Nhà nước nào được xác định là cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước độc lập, chỉ có một số cơ quan thực thi pháp luật độc lập như Tòa án nhân dân và Kiểm toán Nhà nước, cũng như các cơ quan thực thi nhiệm vụ độc lập như Ủy ban giám sát tài chính quốc gia Theo Nghị định số 05/2006/NĐ-CP, Hội đồng Cạnh tranh thực hiện xử lý các vụ việc cạnh tranh một cách độc lập, chỉ tuân theo pháp luật mà không chịu ảnh hưởng từ bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, tương tự như Tòa án nhân dân; tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Hội đồng hoàn toàn tách biệt với các cơ quan Nhà nước khác.
Theo quy định hiện hành, Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh gặp phải nhiều bất cập và hạn chế liên quan đến tính độc lập trong nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn của mình.
Thứ nhất, khi xử lý một vụ việc cạnh tranh thì Cục quản lý Cạnh tranh
Cơ quan 38 có trách nhiệm thụ lý và điều tra các vụ việc cạnh tranh Sau khi hoàn tất quá trình điều tra, hồ sơ sẽ được chuyển đến Hội đồng cạnh tranh để xét xử và đưa ra quyết định xử phạt theo phương thức bỏ phiếu đa số.
Theo Mục IV và Mục V của Luật Cạnh tranh năm 2004, trong quá trình thành lập và xét xử của Hội đồng xét xử, nếu gặp khó khăn trong việc điều tra và thu thập chứng cứ, Hội đồng Cạnh tranh sẽ chuyển vụ việc cho Cục Quản lý Cạnh tranh để tiếp tục điều tra Quy trình này khiến cho việc xét xử của Hội đồng Cạnh tranh phụ thuộc vào thời gian và kết quả điều tra, do đó, quyết định của Hội đồng cũng bị ảnh hưởng và tính độc lập trong xét xử bị hạn chế.
Theo Nghị định số 05/2006/NĐ-CP, Hội đồng Cạnh tranh không thể khẳng định sự độc lập do Bộ trưởng Bộ Công thương có quyền đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm và miễn nhiệm thành viên cũng như chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng còn quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban thư ký Hội đồng, điều này dẫn đến khả năng chi phối hoạt động của Hội đồng Hơn nữa, kinh phí hoạt động của Hội đồng Cạnh tranh phụ thuộc vào ngân sách hàng năm của Bộ Công thương, khiến cho việc hoạt động độc lập trở nên khó khăn Trong bối cảnh hiện tại, Bộ Công thương vẫn giữ vai trò quản lý một số công ty Nhà nước quan trọng, do đó không thể đảm bảo tính khách quan trong các cuộc điều tra liên quan đến doanh nghiệp Nhà nước.
Khi có khiếu nại về quyết định xử phạt của Hội đồng cạnh tranh, người nhận quyết định có quyền khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại Trong trường hợp này, Tòa án sẽ là cơ quan thụ lý, trong khi Hội đồng cạnh tranh sẽ tham gia như một chủ thể trong quá trình tố tụng hành chính.
6 Điề u 115, Lu ậ t C ạnh tranh năm 2004, Khở i ki ệ n quy ết đị nh gi ả i quy ế t khi ế u n ạ i
Làm rõ b ả n ch ấ t pháp lý c ủa cơ quan quả n lý c ạ nh tranh
Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh rất quan trọng, ảnh hưởng đến tên gọi, mô hình tổ chức, vị trí, chức năng và nhiệm vụ của cơ quan này Hiện tại, cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam chủ yếu mang tính "hành chính", trong khi tính "tài phán" vẫn chưa rõ ràng, với một phần chức năng điều tra và hoạt động xét xử theo kiểu hành chính Do đó, cần thiết phải phát triển bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh theo hướng kết hợp các đặc điểm phù hợp.
Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh mang lại lợi ích kép, vừa đảm bảo vai trò điều tiết của Chính phủ đối với nền kinh tế, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền và tự do của doanh nghiệp Bản chất "lưỡng tính" của cơ quan này, vừa là cơ quan hành chính vừa là cơ quan tư pháp, giúp khắc phục những hạn chế khi chỉ quy định cơ quan quản lý cạnh tranh là một trong hai loại hình trên.
Cơ cấ u l ạ i h ệ th ống cơ quan quả n lý c ạ nh tranh
Dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm từ các mô hình tổ chức cơ quan cạnh tranh toàn cầu, chúng ta nhận thấy những bất cập hiện tại trong hệ thống Việc áp dụng các bài học từ quốc tế sẽ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường tính cạnh tranh trong nước.
Cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam cần được cải cách để hoạt động hiệu quả hơn Để đạt được điều này, pháp luật về cạnh tranh cần phải được sửa đổi Một trong những ý kiến cơ bản là cơ cấu lại hệ thống quản lý cạnh tranh, với mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ngang Bộ phù hợp với đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội hiện nay của Việt Nam.
Hiện nay, cơ quan cạnh tranh gặp khó khăn trong việc điều tra và xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước cấp tương đương do địa vị pháp lý hạn chế Đặc biệt, các Thông tư do các Bộ ban hành có thể chứa những quy định trái ngược, gây cản trở cho việc thực thi các biện pháp cạnh tranh hiệu quả.
Luật Cạnh tranh, một cơ quan thuộc Bộ, gặp nhiều khó khăn trong việc tương tác với các cơ quan quản lý nhà nước có địa vị pháp lý cao hơn Để hoạt động hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh cần phải đảm bảo tính độc lập trong cả hoạt động và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trong việc ra quyết định Độc lập ở đây không chỉ là về mặt tổ chức mà còn phải tách biệt với doanh nghiệp Việc xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh ngang Bộ ở Việt Nam là cần thiết để khẳng định vai trò quan trọng của cơ quan này, giúp nó hoạt động độc lập khỏi sự tác động của các cơ quan nhà nước khác Hiện tại, hoạt động của cơ quan chủ yếu tập trung vào điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh, đặc biệt khi doanh nghiệp nhà nước chiếm lĩnh các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế Đối tượng điều tra có thể bao gồm các tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế lớn và cả các cơ quan quản lý nhà nước Nếu không có vị thế đủ mạnh, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình Cấu trúc tổ chức thuộc Chính phủ sẽ đảm bảo tính độc lập, khách quan và vị thế của cơ quan trong điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh.
Có 44 hành vi liên quan đến doanh nghiệp và tập đoàn lớn của Nhà nước bị cấm bởi cơ quan quản lý nhà nước, bao gồm cả những vụ việc cạnh tranh xảy ra bên ngoài lãnh thổ nhưng ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường Việt Nam.
Việc thành lập một cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập của Chính phủ sẽ không chỉ nâng cao tính tự chủ cho cơ quan này mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động nguồn thu ngân sách một cách hiệu quả Kinh nghiệm trong việc tách bộ, ngành và tái cơ cấu trong những năm gần đây cho thấy rằng việc thiết lập một cơ quan ngang bộ với cơ cấu gọn nhẹ và cơ chế huy động ngân sách cụ thể là hoàn toàn khả thi trong giai đoạn đầu.
Ba là, vị trí độc lập của cơ quan ngang bộ đảm bảo chuyên môn, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình Sự tự chủ trong tuyển chọn, bổ nhiệm và đào tạo nhân sự cùng với ngân sách hoạt động giúp cơ quan quản lý cạnh tranh có thực quyền cao hơn, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi số vụ kiện vi phạm pháp luật cạnh tranh gia tăng Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Canada và Úc cho thấy rằng cơ quan quản lý cạnh tranh độc lập và tự chủ hoạt động hiệu quả hơn.
Theo Bộ Công thương, trong số 90 cơ quan quản lý cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam là quốc gia duy nhất duy trì mô hình hai cơ quan: một cơ quan phụ trách điều tra và một cơ quan phụ trách xử lý Mô hình này bộc lộ những điểm yếu lớn trong quản lý cạnh tranh.
Việc các thành viên của các cơ quan xử lý ở Việt Nam không theo sát quá trình điều tra đã dẫn đến sự thiếu liên kết và tính chính xác trong điều tra, xét xử và ra quyết định Do đó, việc hợp nhất hai cơ quan quản lý cạnh tranh hiện tại thành một cơ quan duy nhất sẽ mang lại nhiều lợi ích, giúp khắc phục những vấn đề này và nâng cao hiệu quả quản lý.
Cơ quan quản lý cạnh tranh mới sẽ hợp nhất Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh, tạo thành một cơ quan ngang Bộ, phù hợp với xu hướng toàn cầu Trong cơ quan này, cần tách biệt bộ phận điều tra và bộ phận xử lý vụ việc, đảm bảo tính độc lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhưng vẫn phải phối hợp chặt chẽ trong việc giải quyết các vụ việc, với nhân sự hoạt động theo chế độ chuyên trách.
Xác đị nh l ạ i Ch ức năng, nhiệ m v ụ , th ẩ m quy ề n c ủa cơ quan quả n lý
– Về chức năng và nhiệm vụ:
Cơ quan quản lý cạnh tranh mới sẽ tiến hành điều tra và xử lý các vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời hạn chế hành vi cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Cục quản lý cạnh tranh có trách nhiệm về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, được giao cho Bộ Công thương Mặc dù có những nguyên tắc chung trong pháp luật cạnh tranh và pháp luật chống bán phá giá, nhưng đối tượng điều chỉnh của chúng hoàn toàn khác nhau Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh và xử lý vi phạm của các doanh nghiệp trong nước, trong khi pháp luật chống bán phá giá nhắm đến hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài Thực tế cho thấy không có quốc gia nào giao cho một cơ quan thực hiện đồng thời cả hai chính sách này; các cơ quan quản lý cạnh tranh thường thuộc bộ hoặc chính phủ, trong khi quản lý chống bán phá giá lại thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại hoặc Công thương.
Một số ý kiến cho rằng nên giao cho Tòa án trách nhiệm xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh Điều này cho thấy sự cần thiết của việc nâng cao vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ môi trường kinh doanh công bằng và chuyên nghiệp.
Hiện nay, số lượng chuyên viên về cạnh tranh còn thiếu và chất lượng chuyên môn chưa cao Điều này dẫn đến hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh không đạt yêu cầu và thiếu hiệu quả Hơn nữa, trình độ am hiểu pháp luật cạnh tranh của các thẩm phán cũng còn hạn chế.
Luật Cạnh tranh ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển, với số vụ việc cạnh tranh chưa nhiều Trong thời gian đầu, cơ quan quản lý cạnh tranh đảm nhiệm việc điều tra và xử lý các vụ việc không lành mạnh Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển và số lượng vụ việc tăng cao, cần chuyển giao chức năng này cho Tòa án để nâng cao chất lượng thực thi pháp luật Việc này không chỉ phù hợp với bản chất vi phạm pháp luật về cạnh tranh mà còn giúp cơ quan quản lý cạnh tranh tập trung vào việc hạn chế cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Mục đích của Luật Cạnh tranh là đảm bảo quyền cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, do đó, cơ quan cạnh tranh vẫn nên giữ vai trò là cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
– Về thẩm quyền: có thể trao cho cơ quan quản lý cạnh tranh mới những thẩm quyền sau đây:
Hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh, tư vấn cho Quốc hội và Chính phủ trong việc ban hành các văn bản quy phạm điều tiết cạnh tranh, đồng thời hỗ trợ các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội người tiêu dùng và doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý cạnh tranh liên quan đến lợi ích của họ.
Thứ hai, điều tra, khảo sát lập báo cáo hàng năm về tình trạng cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế;
Kiến nghị cần thực hiện việc thay đổi, sửa đổi hoặc huỷ bỏ các quy định pháp luật không phù hợp, trái với nguyên tắc cạnh tranh, nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh và quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ tư, phát hiện và kiến nghị các cơ quan liên quan bãi bỏ các chính sách làm cản trởđến môi trường cạnh tranh;
Thứ năm, yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, chứng cứtrong quá trình điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh.
Đổ i m ớ i nhân s ự và cơ chế ho ạt độ ng c ủa cơ quan quả n lý c ạ nh tranh.47
Để nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả của cơ quan quản lý cạnh tranh, cần đổi mới quy trình bổ nhiệm nhân sự.
Các thành viên quản lý của cơ quan quản lý cạnh tranh mới, bao gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch, sẽ do Thủ tướng bổ nhiệm, với nguồn bổ nhiệm mở rộng không chỉ từ các bộ mà còn từ các chuyên gia về pháp luật cạnh tranh, thương mại và kinh tế Điều kiện bổ nhiệm yêu cầu các thành viên phải có kiến thức sâu về pháp luật cạnh tranh và thương mại, cùng với kỹ năng điều tra trong các vụ việc cạnh tranh Họ cần có uy tín trong lĩnh vực pháp lý, kinh tế hoặc tài chính, và phải có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan Ngoài ra, yêu cầu tối thiểu là có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính, cùng với ít nhất 9 năm kinh nghiệm làm việc trong các lĩnh vực liên quan Các thành viên sẽ làm việc với tư cách công chức hoặc viên chức chuyên trách, có nhiệm kỳ từ 5 đến 7 năm và có thể được tái bổ nhiệm.
Tổ chức thi tuyển cho nhân viên các bộ phận của cơ quan quản lý cạnh tranh, như Cục quản lý cạnh tranh hiện nay, là một phương pháp hợp lý Việc bổ nhiệm người đứng đầu các bộ phận này cần được thực hiện thông qua quy trình thi tuyển để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý.
Thủ tướng trên cơ sở đề nghị của người đứng đầu cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc được tuyển dụng công khai
Thứ hai, đổi mới về cơ chế hoạt động:
Cục quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ thụ lý và điều tra các vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, sau đó chuyển sang Hội đồng cạnh tranh để xử lý theo quy định pháp luật Tuy nhiên, Hội đồng cạnh tranh hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm, với hầu hết thành viên là lãnh đạo của các Bộ, ngành khác, dẫn đến sự thiếu tập trung trong giải quyết vụ việc Điều này khiến các thành viên phải cân đối công việc giữa cơ quan đương nhiệm và Hội đồng cạnh tranh, ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý.
Vụ việc cạnh tranh phức tạp và cơ chế hoạt động kiêm nhiệm của Hội đồng cạnh tranh hiện nay chưa hợp lý, dẫn đến sự thiếu tập trung và chậm trễ trong việc giải quyết Hơn nữa, khi vụ việc xảy ra trong ngành có đại diện của Bộ, ngành là thành viên Hội đồng, tính độc lập và khách quan trong xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ bị ảnh hưởng bởi xung đột lợi ích.
Cần xây dựng cơ chế rà soát và giải quyết các khiếu kiện liên quan đến quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh Theo quy định pháp luật hiện hành, Hội đồng Cạnh tranh có trách nhiệm xem xét lại các quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc khi có yêu cầu Nếu các bên không đồng ý với kết quả xử lý, họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương Tuy nhiên, hiện nay, nước ta đang thiếu chuyên gia về pháp luật cạnh tranh, điều này ảnh hưởng đến khả năng hiểu biết và xử lý các vấn đề liên quan.
Việc giao cho Tòa án xem xét lại quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh là không hợp lý khi trình độ của cán bộ, công chức còn thấp Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để đảm bảo yêu cầu chuyên môn cao, nhiều nước đã thành lập bộ phận thuộc Tòa án tối cao chuyên giải quyết khiếu kiện liên quan đến quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh Tại Việt Nam, cần xây dựng một bộ phận riêng trong cơ quan quản lý cạnh tranh để rà soát và giải quyết các khiếu kiện này Nếu các bên không đồng ý với kết quả xử lý, thẩm quyền giải quyết nên được giao cho Tòa án tối cao hoặc thành lập một Tòa án riêng biệt để xử lý các vụ việc liên quan.
Ba là, cần xây dựng cơ chế tham khảo ý kiến trước khi ban hành các văn bản pháp luật mới Hiện tại, Cục quản lý cạnh tranh chỉ có chức năng tham vấn đối với văn bản đã ban hành theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP Việc tham khảo ý kiến trước sẽ cho phép cơ quan cạnh tranh xem xét các vấn đề liên quan đến hạn chế gia nhập thị trường và duy trì giá bán, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục Cơ chế này không chỉ giúp ngăn ngừa các văn bản trái pháp luật cạnh tranh mà còn tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc khắc phục hậu quả sau khi ban hành.
Bốn là, Xây dựng cơ chế hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
Đội ngũ điều tra viên đóng vai trò then chốt trong hiệu quả công tác điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh, với thời gian điều tra kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm và tính đa ngành cao Để nâng cao hiệu quả, pháp luật nên yêu cầu điều tra viên trình bày lập luận trước khi ra quyết định điều tra chính thức, giúp giảm thiểu điều tra bổ sung và kịp thời đình chỉ các vụ việc không cần thiết Quy định này không chỉ tiết kiệm chi phí và thời gian mà còn nâng cao vai trò của điều tra viên, đồng thời tạo sự gắn bó giữa bộ phận điều tra và bộ phận xử lý Để đạt được điều này, cần có sự thay đổi toàn diện trong luật cạnh tranh, chú trọng đào tạo điều tra viên và hoàn thiện quy chế tài chính Mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh mới cho Việt Nam cần được phát triển phù hợp với định hướng phát triển chung, tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức này đòi hỏi đầu tư và nghiên cứu sâu hơn.
Cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, đang đối mặt với nhiều thách thức do sự gia tăng và phức tạp của các hành vi cạnh tranh trong xã hội Bài khóa luận này nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan quản lý cạnh tranh, so sánh với các mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới, đồng thời làm rõ các quy định pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan này, cũng như các vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thi hành pháp luật cạnh tranh.
Bài nghiên cứu chỉ ra những thiếu sót và bất cập trong mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh hiện tại, đồng thời đề xuất các kiến nghị điều chỉnh và sửa đổi nhằm cải thiện mô hình này Những ý kiến đóng góp này sẽ hỗ trợ cho quá trình soạn thảo và trưng cầu ý kiến về Dự thảo Luật cạnh tranh sửa đổi.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bộ Công thương, (2017), “Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật cạnh tranh sửa đổi”,tr20
2 Bộ Công Thương,(2017), “Tờ trình chính phủ của Bộ Công thương, Tờ trình chính phủ về Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi)”, tr3
3 Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa Pháp (1998), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tr365
4 Bộ Công thương, (2013), Quyết định số 848/QĐ-BCT quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh
5 Bộ Công Thương,(2015), Quyết định số 7389/QĐ-BCT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Hội đồng cạnh tranh
6 Bộ Thương Mại, (2004),Quyết định số 0235/2004/QĐ-BTM thành lập
Cục quản lý cạnh tranh trên cơ sở Ban Quản lý cạnh tranh
7 Đại học Luật ( 2003), giáo trình “ Lý luận Nhà nước và pháp luật”, NXB Công an nhân dân
8 Chính phủ, (2006), Nghị định số 06/2006/NĐ-CP về các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục cạnh tranh
9 Chính phủ, (2015), Nghị định số 07/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh
10 Cục quản lý cạnh tranh, (2008), Nghiên cứu trao đổi “Ủy ban cạnh tranh
Hà Lan (NMA) và những bước phát triển”
11 Quốc hội, (2004), Luật Cạnh tranh năm 2004.
12 Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn, (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để HCCT, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr 285.