Về lâm sàng, u hỗn hợp tuyến mang tai có đặt điểm lâm sàng khá phong phú, đa dạng.bệnh thường sung gồ vùng trước tai, âm thầm không đau to chậm, có khi không ảnh hưởng đến chức năng làm cho bệnh nhân không đến khám, làm cho u có kích thước khá to.Ngoài ra những biểu hiện bệnh lý thường trùng lắp với những bejnh lý khác như phì đại tuyến, viêm mạn tính…Để chẩn đoán bệnh cần có những xét nghiệm cận lâm sàng có giá trị.Trong u hỗn hợp tuyến mang tai, siêu âm có thể cho thấy những đặc điểm về tính phản âm của mô u.Bên cạnh đó CT-scanner có thể cho thấy các đặc điểm về bản chất cản tia của u, ranh giới u, mối liên hệ của u với các cấu trúc xung quanh.FNA được xem là xét nghiệm có giá trị nhất định hỗ trợ trong chẩn đoán u hỗn hợp tuyến mang tai.Sinh thiết là thủ thuật có gía trị nhất đối với các bệnh về ung bướu nói chung.Tuy nhiên trong u hỗn hợp tuyến mang tai thủ thuật này không cần thiết, có thể gây liệt VII ngoại biên, tạo sẹo làm cho thủ thuật về sau khó khăn hơn…do đó việc chẩn đoán u hỗn hợp tuyến mang tai, đặc biệt về bản chất của nó là vấn đề cần bàn[1-21]. Về vấn đề điều trị u hỗn hợp tuyến mang tai có nhiều quan điểm khác nhau khoét u trong bao ngoài bào, cắt u với lề an toàn, cắt toàn bộ thùy nông, hay cắt toàn bộ tuyến có bảo tồn dây VII…tuy nhiên việc điều trị bệnh lý sẽ gây ra nhiều biến chứng như liệt mặt, sẹo xấu, nhiễm trùng, mất cảm giác vành tai, hội chứng Frey’s.Hiện tại, ở bệnh viện Răng Hàm Mặt Tw thường sử dụng phương pháp cắt bỏ thùy nông và bảo tồn dây thần kinh VII. 2 Do đó, trong phạm vi chuyên đề này sẽ đề cập đến các đặc điểm lâm sàng, giải phẫu bệnh và phương pháp điều trị cắt thùy nông tuyến mang tai trong u hỗn hợp tuyến mang tai. Mục tiêu: 1-Biết được các đặc điểm lâm sàng, giải phẫu bệnh của u hỗn hợp tuyến mang tai 2-Nắm được kỹ thuật cắt u và lấy thùy nông trong u hỗn hợp tuyến mang tai
Điều trị phẫu thuật
Lịch sử điều trị
Từ thế kỷ 18, Heister đã giới thiệu kỹ thuật cắt u tuyến mang tai, đánh dấu bước khởi đầu trong lĩnh vực này Năm 1808, Samuel White ở New York đã đạt được thành công đầu tiên trong việc cắt bỏ tuyến mang tai Tiếp theo, vào năm 1824, Bleclard thực hiện ca mổ thành công cho một trường hợp u tuyến mang tai, đánh dấu một bước tiến quan trọng Đến năm 1841, Auguste Berand xuất bản cuốn sách đầu tiên mô tả phương pháp điều trị các u tuyến mang tai.
Năm 1907, Carwardine tiến hành cắt bỏ u tuyến mang tai có xác định bảo tồn dây thần kinh mặt
Vào năm 1934, Henri Redon và Padovani đã thực hiện cắt bỏ toàn bộ tuyến mang tai mà vẫn bảo tồn dây thần kinh mặt thông qua kỹ thuật bóc tách tỉ mỉ các nhánh Đến năm 1939, các nhà nghiên cứu như Balley ở Anh và Hayes Martin ở Mỹ cùng nhiều tác giả khác đã hoàn thiện phương pháp này.
Cắt thùy nông tuyến mang tai là phẫu thuật loại bỏ hoàn toàn hoặc một phần thùy nông của tuyến mang tai, gần với thần kinh mặt Thủ thuật này thường được chỉ định cho các u lành tính xuất hiện ở khu vực thùy nông tuyến mang tai.
Giải phẫu học
Mặt ngoài vùng mang tai bao gồm ba lớp: da, tổ chức tế bào dưới da và lá nông của cân cổ nông Mặt sau liên quan đến mỏm chủm, nơi có cơ ức đòn chủm và cơ nhị thân bám vào, được bao phủ bởi lá sâu của cân cổ nông Khu vực này tạo thành ba khe từ trong ra ngoài Khe trong chứa động mạch cảnh ngoài, khe giữa có tuyến mang tai liên quan đến tĩnh mạch hầu trong và dây thần kinh VII đi vào tuyến mang tai Khe ngoài nằm giữa cơ nhị thân và cơ ức đòn chủm có dây thần kinh.
XI bắt chéo tuyến nước bọt
Mặt trước của vùng này liên quan đến cơ cắn, trong khi mặt trong được liên kết với cơ chân bướm trong Ngoài ra, ở mặt trước có khuyết sau lồi cầu, nơi động mạch hàm trong và dây thần kinh tai thái dương đi qua.
Cực trên liên quan đến khớp thái dương hàm và ống tai ngoài, nơi tuyến mang tai nằm gần động mạch thái dương nông ở phía trước và tĩnh mạch cùng dây thần kinh tai thái dương ở phía sau.
Cực dưới nằm trên một cái võng, kéo dài từ cơ ức đòn chủm đến góc hàm, tạo thành một vách ngăn giữa tuyến mang tai và tuyến dưới hàm.
Tuyến mang tai là tuyến nước bọt lớn nhất, nặng từ 15-30g, nằm dưới cung gò má và phía trước lỗ ống tai ngoài Tuyến này có phần trước và phần sau cành đứng, bao phủ bên ngoài phần sau cơ cắn, lấp đầy khoảng trống giữa cành đứng xương hàm dưới và bờ trước cơ ức đòn chủm, là mốc quan trọng trong phẫu thuật cắt u tuyến mang tai.
Tuyến mang tai được chia thành thùy nông và thùy sâu, với thùy nông chiếm 70-80% tổng mô tuyến, nằm dưới lớp cân cổ nông và da mặt ngoài cơ cắn Thùy sâu nằm cạnh hầu, giữa mỏm chủm xương thái dương và xương hàm dưới, gần động mạch cảnh ngoài và tiếp xúc với thành ngoài của hầu.
Tuyến mang tai là một ống dài khoảng 6mm, mở vào miệng qua một lỗ nhỏ đối diện với răng cối lớn 1 trên Hướng đi của ống này tương ứng với một đường vẽ ngang mặt, từ bờ dưới của tai đến giữa bờ tự do của môi trên và cánh mũi, cách khoảng 2cm dưới xương gò má.
Hình 9 Ống tuyến mang tai (http://stevegallik.org/ )
Tuyến mang tai nhận máu từ nhiều nguồn động mạch, bao gồm động mạch mặt ngoài, động mạch chẩm, động mạch sau tai, động mạch hàm trên trong, động mạch ngang mặt và động mạch thái dương nông.
Tĩnh mạch chính của tuyến mang tai là tĩnh mạch mặt sau, được hình thành từ sự hợp nhất của tĩnh mạch thái dương nông và tĩnh mạch hàm trên trong Khi tĩnh mạch mặt sau di chuyển tới mặt dưới của tuyến, nó chia thành hai nhánh: nhánh sau liên kết với tĩnh mạch hầu ngoài và nhánh trước kết hợp với tĩnh mạch mặt trước để tạo thành tĩnh mạch mặt chung Vị trí của tĩnh mạch mặt sau rất quan trọng do liên quan đến động mạch thái dương nông và thần kinh mặt, đồng thời tĩnh mạch này cũng là điểm mốc để nhận diện dây thần kinh VII.
Thần kinh mặt bao gồm hai rễ: rễ vận động và rễ trung gian Rễ vận động có nguồn gốc từ các nhân trong cầu não, bao gồm nhân thần kinh mặt và nhân nước bọt trên Trong khi đó, rễ trung gian xuất phát từ các tế bào hạch gối, với các sợi ngoại biên tạo thành thừng nhĩ Đường đi của thần kinh mặt được chia thành hai phần: đoạn trong sọ và đoạn ngoài sọ.
Dây thần kinh mặt bắt đầu từ rãnh hành cầu, đi qua lỗ ống tai trong và trong xương đá, sau đó ra ngoài sọ qua lỗ trâm chũm Tại vị trí này, dây thần kinh này cung cấp các nhánh cho tai sau, nhánh cơ nhị thân và cơ trâm móng.
Sau khi ra khỏi hộp sọ, thần kinh mặt đổi hướng vào tuyến mang tai, chạy từ lỗ trâm chũm đến tuyến mang tai, nằm trước bụng sau cơ nhị thân và bên cạnh mấu trâm, động mạch cảnh ngoài và tĩnh mạch mặt sau Tại mô tuyến, thần kinh chia thành hai nhánh chính: nhánh cổ mặt và nhánh thái dương mặt, thường cách lỗ trâm chũm khoảng 13mm Hai nhánh này tiếp tục phân chia thành năm nhánh nhỏ: nhánh thái dương, nhánh gò má, nhánh má, nhánh bờ hàm dưới và nhánh cổ Khoảng 70% trường hợp có nhánh nối giữa hai nhánh chính, trong khi 13% không có nhánh nối Nhánh thái dương mặt thường ít bị tổn thương hơn so với nhánh cổ mặt, do có nhiều nhánh nối hơn và gần ống tuyến mang tai, nơi dễ bị tổn thương trong phẫu thuật cắt ống tuyến mang tai.
Hình 10 Dây VII (https://www.medicalartlibrary.com/facial-nerve/ )
Thần kinh mặt là một dây thần kinh hỗn hợp với nhiều chức năng quan trọng Các sợi đối giao cảm của nó điều khiển bài tiết từ tuyến lệ, các tuyến nhầy ở niêm mạc mũi, miệng, hầu và các tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi Đồng thời, các sợi giao cảm vị giác cũng chi phối phần lưỡi di động Ngoài ra, các nhánh vận động từ nhân thần kinh mặt đến các cơ bám da mặt và cổ giúp thể hiện cảm xúc qua nét mặt.
Thần kinh tai lớn, nhánh lớn nhất từ đám rối cổ, đi từ bờ sau cơ ức đòn chũm lên dái tai, sau tĩnh mạch hầu ngoài và chia thành hai nhánh tại góc hàm dưới Nhánh trước chi phối mặt ngoài loa tai và vùng mang tai, kết nối với thần kinh mặt trong tuyến, trong khi nhánh sau chi phối cảm giác da trong vành tai và vùng chũm, nối với nhánh chẩm nhỏ Thần kinh này nằm nông dưới cân cổ nông, do đó, khi phẫu thuật ghép thần kinh mặt, cần cắt vạt da và mô dưới da một cách vừa phải để tránh tổn thương thần kinh.
Hình 11 Dây thần kinh tai lớn ( Surgery of parotid gland-1965)
Hình 12 Thần kinh tai thái dương (Surgery of the parotid gland-1965)
Thần kinh tai thái dương, nhánh của thần kinh hàm dưới, có nguồn gốc từ dây V, đi qua hố thái dương và phía sau cơ chân bướm, đến cổ lồi cầu của xương hàm dưới, sau đó hướng lên vào tuyến mang tai gần lỗ thính giác, phía sau tĩnh mạch thái dương nông Sự quan trọng của thần kinh này thể hiện rõ khi tổn thương hoặc rối loạn chức năng xảy ra, dẫn đến hội chứng tai thái dương, do sự bắt chéo bất thường của xung động thần kinh giữa đối giao cảm và giao cảm, ảnh hưởng đến việc bài tiết của tuyến mang tai và mồ hôi trên da.
Phương pháp phẫu tuật
Hiện nay, nhiều tác giả đồng ý rằng trong các trường hợp u tuyến mang tai dạng hỗn hợp nhỏ và nằm ở thùy nông, phẫu thuật lấy u cùng với thùy nông tuyến mang tai là phương pháp điều trị phù hợp và hiệu quả.
Trong phẫu thuật tuyến mang tai, tổn thương dây thần kinh VII tạm thời là vấn đề thường gặp, và các phẫu thuật viên thường không thể xác định chính xác loại u lành hay ác trước khi thực hiện phẫu thuật Do đó, việc giải thích cho bệnh nhân về khả năng bị liệt mặt tạm thời hoặc cần thiết phải cắt bỏ dây thần kinh khi phát hiện u xâm lấn là rất quan trọng Mặc dù việc cắt bỏ dây thần kinh VII có thể dẫn đến liệt mặt, nhưng khả năng phục hồi thông qua ghép thần kinh cũng là một lựa chọn khả thi.
Bác sĩ phẫu thuật sẽ thông báo cho bệnh nhân về các nguy cơ liên quan đến quá trình gây mê và chảy máu Sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng, mất cảm giác ở khu vực vành tai, hình thành sẹo ở vùng trước và sau tai, cũng như dưới hàm Ngoài ra, có thể xảy ra tình trạng mất cân xứng ở vùng mang tai do thiếu hụt thùy nông.
Chuẩn bị bệnh nhân giống một ca phẫu thuật hàm mặt dưới mê thông thường
Gây mê nội khí quản luôn được lựa chọn, hạn chế các thuốc giãn cơ kéo dài vì làm khó xác định thần kinh
Bệnh nhân nằm ở tư thế đầu cao hơn tim, mặt bệnh nhân xoay về phía đối diện ( bên lành ).Đầu và cổ được ưỡn nhẹ, cần kê vai
Vùng mổ được cách ly sao cho thấy được toàn bộ một bên mặt, phẫu thuật viên đứng cùng bên với u tuyến mang tai
2.3.4.1 Rạch da Đường rạch da phổ biến là đường tiếp cận Blair cải tiến hình chữ S.Đường rạch này gồm ba đoạn : đoạn trước tai, đoạn vòng dái tai, đoạn trùng nếp nhăn cổ (vùng dưới hàm).Đầu tiên rạch da theo nếp nhắn trước tai, vòng qua dái tái ra phía nếp sau tai cung ra đến mỏm chủm, cách góc hàm khoảng 3cm rồi vòng xuống dưới theo nếp nhăn cổ.Do trong quá trình phẫu thuật, cần để bệnh nhân ở tư thế ưỡn và xoay đầu về phía đối diện nên vùng da cổ được kéo lên trên, do đó, đường rạch da nên đủ thấp, để khi đầu bệnh nhân về tư thế bình thường, đường rạch ở cổ không bị cao (nằm dọc theo bờ dưới xương hàm dưới)
Vạt da vùng trước tai được nâng lên bằng móc đôi và bóc tách bằng kéo hoặc dao điện cho đến khi thấy lớp cân của tuyến mang tai phủ lên cơ cắn Việc vượt qua giới hạn này có thể gây tổn thương cho nhánh tận của thần kinh VII, vì các nhánh càng ra trước càng nằm nông hơn Đối với vạt da phía sau, quá trình bóc tách được thực hiện theo hướng sau ra trước cho đến bờ sau của cơ ức đòn chủm và sát thành ống tai ngoài.
Có hai phương pháp bóc tách vạt da trong phẫu thuật tuyến mang tai: tách ở phía trên cân tuyến mang tai, giúp giảm chảy máu và làm lộ rõ phẫu trường; và tách dưới lớp cân tuyến mang tai, bao gồm mô dưới da, lá nông của mạc cổ và một phần mô tuyến Phương pháp thứ hai tạo ra rào cản cho các sợi thần kinh đối giao cảm, từ đó giúp giảm thiểu hội chứng Frey.
Khi thực hiện bóc tách bờ sau cơ ức đòn chủm, cần lưu ý bảo tồn nhánh sau của dây thần kinh tai lớn để giảm nguy cơ biến chứng mất cảm giác ở vùng loa tai sau phẫu thuật Đồng thời, nhánh trước của dây tai lớn sẽ được cắt bỏ khi đi vào mô tuyến mang tai.
Hình 13 Bóc tách mô tuyến khỏi cơ ức đòn chũm
2.3.4.3 Xác định dây thần kinh VII
Vùng dái tai và vạt da trước tai được khâu lại để làm lộ rõ vùng mổ Tiến hành bóc tách mô tuyến mang tai ra khỏi cơ ức đòn chủm, sử dụng kẹp Kocher để giữ phần mô tuyến đối diện với sụn ống tai Dùng kéo để bóc tách song song theo sụn cho đến khi mô tuyến tách khỏi sụn ống tai, gặp sụn chỉ điểm Cuối cùng, xác định bụng sau cơ nhị thân và tiếp tục tách mô tuyến khỏi cơ này.
Hình 14 Bóc tách mô tuyến khỏi sụn ống tai ngoài và bụng sau cơ hai thân
Trong quá trình bộc lộ mỏm chủm, sử dụng dụng cụ Kelly để nâng và tách phần mô tuyến khỏi mỏm chủm, sụn ống tai và bụng sau cơ nhị thân Các mạch máu trong khu vực này sẽ được cột hoặc đốt bằng dao điện lưỡng cực Động mạch tram chủm, xuất phát từ nhánh tai sau của động mạch cảnh ngoài, thường nằm ở vị trí nông và gần thần kinh VII Thân chính của dây VII ra khỏi sọ qua lỗ trâm chum ngay sau mỏm tram, với khoảng cách trung bình từ thần kinh đến mỏm chủm là 9,13-9,35 mm Thần kinh bắt đầu vào tuyến mang tai tại bờ trước bụng sau cơ nhị thân nơi bám vào mỏm chủm Trong quá trình bóc tách, cần sử dụng dụng cụ Kelly cong nhỏ để tránh tổn thương cấu trúc xung quanh cho đến khi xác định được thần kinh Dây VII có thể được nhận diện khi nó rời khỏi lỗ tram chum, với kích thước khoảng 2mm-3mm và dễ dàng phân biệt nhờ màu trắng nổi bật.
Hình 15 Xác đinh thần kinh mặt
Để xác định chính xác đoạn thần kinh mặt, cần sử dụng kềm Kelly cong nhỏ để phẫu tích dọc theo thần kinh cho đến vị trí chia đôi, nhằm đảm bảo đó là thân chính chứ không phải một trong hai nhánh chính.
Bóc tách tiến hành từ sau ra trước và từ dưới lên trên, sử dụng Kelly hoặc kéo để tách mô tuyến khỏi các nhánh thần kinh cho đến phần ngoại vi của tuyến Phẫu thuật viên dùng Kelly nhỏ để phẫu tích mô tuyến dọc theo các nhánh thần kinh, sau đó cắt mô tuyến bằng kéo khi đã kẹp Kelly trong tư thế mở Máy đốt lưỡng cực được sử dụng trong quá trình bóc tách mô tuyến.
Hình 17 Lấy thùy nông tuyến mang tai
Phẫu tích có thể thực hiện theo từng nhánh hoặc đồng thời nhiều nhánh tùy vào vị trí của u Thông thường, u hỗn hợp nằm ở phần dưới của tuyến, vì vậy phần trên sẽ được giải phóng trước Khi cầm máu tốt và phẫu trường sạch sẽ, việc nhận biết đường đi của thần kinh mặt trở nên dễ dàng hơn Khi tách u khỏi thần kinh mặt, ống Stenon sẽ xuất hiện ở vị trí trước-giữa của tuyến Trong hầu hết các trường hợp, thần kinh mặt nằm trên ống tuyến, giúp bảo tồn ống Stenon một cách dễ dàng Điều này đảm bảo rằng sự bài tiết trong tuyến diễn ra bình thường và chức năng của tuyến được duy trì Cuối cùng, rửa phẫu trường bằng nước muối sinh lý và thực hiện cầm máu bằng máy đốt lưỡng cực hoặc bằng chỉ.
Sau khi lấy thùy nông, việc tạo hình phần khuyết hổng thường được thực hiện bằng cách sử dụng vạt cơ ức đòn chủm để hạn chế hội chứng Frey sau phẫu thuật Phương pháp dẫn lưu được áp dụng là dẫn lưu kín với áp lực âm, kéo dài trong 48 giờ Cuối cùng, quy trình khâu đóng từng lớp sẽ được thực hiện và cắt chỉ sau một tuần.
Hình 18 Tạo hình bằng vạt cơ ức đòn chủm
Biến chứng
Biến chứng sớm của phẫu thuật có thể bao gồm yếu hoặc liệt dây thần kinh mặt, chảy máu hoặc tụ máu, nhiễm trùng, hoại tử vạt da, dò nước bọt và mất cảm giác ở vùng vành tai Trong khi đó, biến chứng muộn có thể dẫn đến hội chứng Frey, sẹo xấu và khuyết hổng mô mềm.
Biến chứng yếu liệt dây thần kinh mặt là một nguy cơ không thể tránh khỏi trong phẫu thuật u hỗn hợp tuyến mang tai, với tỷ lệ liệt mặt dao động từ 10-30% Trong số đó, liệt mặt kéo dài chỉ chiếm khoảng 1% ở các trường hợp cắt thùy nông Nhánh thần kinh mặt có nguy cơ tổn thương cao nhất trong phẫu thuật là nhánh bờ hàm dưới, do không có nhánh nối để bảo vệ.
Cơ chế gây tổn thương thần kinh mặt vẫn chưa được làm rõ, có thể do kéo căng, can thiệp phẫu thuật quá thô bạo, hoặc kích thích điện quá mức Đối với các trường hợp bướu tái phát, phẫu thuật lần hai thường gặp khó khăn và tăng nguy cơ liệt dây thần kinh do xáo trộn vị trí giải phẫu Thời gian liệt tạm thời có thể giảm sau vài tuần hoặc vài tháng sau phẫu thuật.
Hình 19 Yếu liệt dây thần kinh VII
Trong quá trình phẫu thuật, cần lưu ý để tránh tổn thương dây thần kinh VII, bao gồm việc tôn trọng các bước phẫu thuật và hiểu biết về các mốc giải phẫu của thần kinh Nhận dạng thần kinh dựa vào cấu trúc, kích thước và màu sắc riêng biệt trong tuyến mang tai là rất quan trọng Thao tác tỉ mỉ và cẩn thận trong phẫu thuật, cùng với việc theo dõi vận động cơ mặt sau khi bệnh nhân hồi phục, cũng đóng vai trò quan trọng Cầm máu bằng dao điện hoặc kẹp một cách chính xác, đặc biệt gần thần kinh, là cần thiết để tránh tổn thương Bóc tách thần kinh mặt ở phía trên khi đã quan sát rõ ràng và hạn chế bộc lộ vỏ bao thần kinh để bảo vệ các sợi thần kinh Đối với chảy máu từ mao mạch, cần cầm máu bằng áp lực của gạc ướt Cuối cùng, việc nhận diện và phân biệt thần kinh VII với ống tuyến là cần thiết, với thần kinh có màu trắng và ống tuyến có màu xám tối.
Chảy máu hoặc tụ máu sau phẫu thuật tuyến mang tai là hiện tượng hiếm gặp, thường xuất phát từ việc kiểm soát máu trong quá trình phẫu thuật Để xử lý tình trạng này, cần áp dụng biện pháp cầm máu thứ cấp hoặc sử dụng băng ép.
Nhiễm trùng vết mổ là một tình trạng hiếm gặp, có thể được ngăn ngừa hiệu quả bằng cách tuân thủ các nguyên tắc vô trùng Để đảm bảo an toàn, việc dẫn lưu và chăm sóc vết mổ đúng cách cùng với việc sử dụng kháng sinh phòng ngừa sau phẫu thuật là rất quan trọng.
2.4.4 Thẩm mỹ sau phẫu thuật vùng mang tai
Sau phẫu thuật, nhiều bệnh nhân thường gặp tình trạng khuyết hổng, khiến da bị lõm và tạo ra vùng trũng Để khắc phục tình trạng này, vạt cơ ức đòn chủm được khuyến nghị, vì cơ này được nuôi bởi động mạch chẩm và các nhánh giáp trên, nhánh cổ trên Mặc dù trong quá trình chuyển cơ có thể cắt một nhánh của động mạch chẩm, nhưng vẫn còn hai nhánh khác duy trì sự nuôi dưỡng cho cơ Nghiên cứu cho thấy việc cắt một nửa đầu trên cơ ức đòn chủm là đủ để lấp đầy khoảng trống Việc chuyển cơ nên được thực hiện sau phẫu thuật cắt u hỗn hợp và lấy thùy nông tuyến mang tai, do khả năng tái phát thấp và thời gian thực hiện chuyển không lâu.
Hội chứng thần kinh tai thái dương, hay còn gọi là đổ mồ hôi vị giác, lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1923 bởi nhà thần kinh học người Pháp Lucy Frey.
Gần đây, một số cơ chế đã được đề xuất để giải thích hiện tượng liên quan đến việc các xung động thần kinh phó giao cảm tác động sai đến tuyến mồ hôi, do sự nối tắt ở thần kinh tai thái dương Theo Garner và Mc Cubbin, hiện tượng này xảy ra khi sợi thần kinh phó giao cảm từ hạch tai nối tắt với các sợi giao cảm từ hạch giao cảm cổ trên, dẫn đến tổn thương trực tiếp hoặc thứ phát do sẹo Hệ quả là sự nối tắt xung động giữa các sợi thần kinh, làm cho hoạt động tiết nước bọt bình thường từ tuyến mang tai cũng kích thích đổ mồ hôi ở vùng da trán và má Hội chứng này bao gồm ba triệu chứng chính.
+Đổ mồ hôi vùng trán và má khi có kích thích chế tiết nước bọt
+cảm giác nóng vùng trước tai và thái dương
Phần lớn bệnh nhân mắc hội chứng Frey không cần điều trị, nhưng cần được giải thích về cơ chế sinh bệnh học để yên tâm rằng đây không phải là hậu quả thường gặp sau phẫu thuật cắt thùy nông điều trị u hỗn hợp Điều trị triệu chứng thường bao gồm việc sử dụng thuốc kháng bài tiết mồ hôi tại chỗ, như anticholinergic Glycopyrolate 1%, tiêm botulinum toxin, và các thuốc làm khô tại chỗ nhanh như acopolamin.
2.4.6 Giảm cảm giác vùng dái tai
Khi dây thần kinh tai lớn bị cắt trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân thường gặp các triệu chứng lâm sàng như đau, giảm cảm giác ở dái tai, cảm giác nóng rát và châm chích khó chịu tại vùng mang tai Trong số đó, triệu chứng giảm cảm giác là phổ biến nhất.
U hỗn hợp tuyến mang tai thường có nhiều trung tâm, dẫn đến nguy cơ tái phát cao hơn Hiện tượng tái phát có thể được giải thích bởi sự tồn tại của u đa trung tâm, đặc điểm của vỏ bao u, quá trình cắt vỡ vỏ bao trong phẫu thuật và phương pháp phẫu thuật được áp dụng Trong quá trình phẫu thuật, có thể có những tế bào u còn sót lại mà không được phát hiện, và việc cắt vỡ u là một trong những nguyên nhân chính gây tái phát Để điều trị u tái phát, cần tiến hành phẫu thuật triệt để, nhưng điều này cũng tiềm ẩn nhiều biến chứng hơn so với lần phẫu thuật đầu tiên Do đó, việc lựa chọn phương pháp phẫu thuật hợp lý ngay từ đầu, như cắt u và lấy thùy nông, là rất quan trọng để giảm thiểu các biến chứng không cần thiết cho bệnh nhân.
Quan điểm mới hiện nay
Phẫu thuật lấy thùy nông thường được chỉ định cho các u hỗn hợp và cũng có thể áp dụng cho u ác tính có vỏ bao rõ với grad mô học thấp Ngoài ra, phẫu thuật này cũng được xem xét cho các trường hợp phì đại tuyến mang tai hai bên vì lý do thẩm mỹ.
Hiệu quả của việc tạo hình bằng vạt cơ ức đòn chum sau khi cắt thùy nông vẫn còn đang gây tranh cãi giữa các phẫu thuật viên Nhiều nghiên cứu hiện nay đã đánh giá việc sử dụng hệ thống cân nông mạc cổ (SMAS) để tạo hình, cho thấy hệ thống này liên kết với cơ bám da cổ dưới và cân nông thái dương ở trên, đồng thời bao phủ ngoài trân cân tuyến mang tai Kết quả ban đầu cho thấy cải thiện thẩm mỹ và tỷ lệ ngăn ngừa hội chứng Frey cao hơn, mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê Một số nghiên cứu cũng đề xuất sử dụng vạt cân thái dương nông và ghép mỡ da, nhưng vẫn gặp nhiều bất lợi như tổn thương chân tóc và hoại tử phần mỡ ghép.