Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái và rủi ro mất khả năng thanh toán Những yếu tố này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và sự ổn định tài chính của các tổ chức tín dụng.
Việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng yếu kém là điều khó tránh khỏi, và điều này không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn làm tổn thương niềm tin của người dân Nếu không có biện pháp thích hợp, hậu quả có thể dẫn đến bất ổn kinh tế, chính trị và xã hội, gây hoang mang trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất lợi cho hệ thống tín dụng Do đó, bên cạnh việc duy trì ổn định chính trị xã hội, việc đảm bảo một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh là nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ vững lòng tin của dân chúng và ổn định hoạt động tín dụng.
Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tạo ra một môi trường tài chính – tiền tệ an toàn và lành mạnh, đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật Đặc biệt trong ngành ngân hàng, Chính phủ không chỉ hoàn thiện các quy định hiện hành mà còn giới thiệu các văn bản pháp luật mới để điều chỉnh nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Nhờ vào việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đầu tiên tại Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số
Nghị định 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hoạt động dựa trên Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 và Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 cùng các văn bản hướng dẫn Mặc dù cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi đã thể hiện nhiều ưu điểm, nhưng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng hội nhập và phát triển, các nghị định này cần được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với tình hình hiện tại Đặc biệt, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, yêu cầu về an toàn và phát triển bền vững trong ngành ngân hàng càng trở nên cấp thiết Do đó, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là rất quan trọng, và tôi đã chọn đề tài “chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Tôi quyết định nghiên cứu sâu về chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, từ khi ra đời cho đến hiện tại, nhằm hiểu rõ những nội dung cơ bản và sự phát triển của hệ thống này.
Bảo hiểm tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tài chính-ngân hàng, giúp bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và tạo niềm tin vào hệ thống ngân hàng Nó không chỉ giảm thiểu rủi ro cho các cá nhân và tổ chức mà còn góp phần ổn định nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội bền vững Sự tồn tại của bảo hiểm tiền gửi là yếu tố then chốt trong việc khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Nghiên cứu thực trạng bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam nhằm đánh giá các thành tựu đã đạt được và những tồn tại cần khắc phục Từ đó, đề xuất các phương hướng lý luận và thực tiễn để hoàn thiện chế độ bảo hiểm tiền gửi, góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của hệ thống này trong bối cảnh hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện luận văn, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin đã được áp dụng làm cơ sở lý luận chính.
Để thực hiện luận văn này, các phương pháp nghiên cứu được áp dụng bao gồm phương pháp so sánh, hệ thống, phân tích và tổng hợp, thống kê, cùng với phương pháp quy nạp.
Kết cấu của luận văn
Luận văn "Chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam: Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" được cấu trúc thành hai chương chính, bên cạnh phần mở đầu và kết luận Nội dung sẽ tập trung vào việc phân tích thực trạng của chế độ bảo hiểm tiền gửi hiện nay và đề xuất các phương hướng cải thiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Chương I: Những vấn đề chung về bảo hiểm tiền gửi.
Chương II: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện.
Trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp, tôi nhận thức rằng với kiến thức còn hạn chế của mình, bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót Do đó, tôi rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy cô giáo và bạn bè sinh viên để giúp tôi cải thiện và hoàn thiện kiến thức của bản thân.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTG
Những vấn đề chung về BHTG
1.1.1 Khái niệm chung về BHTG:
BHTG, hay Bảo hiểm tiền gửi, đã có mặt từ năm 1829 tại Mỹ nhằm ngăn chặn sự đổ vỡ dây chuyền của ngân hàng trong thế kỷ 19 Đến năm 1934, cơ quan BHTG công khai đầu tiên tại Mỹ (FDIC) được thành lập để củng cố lòng tin của người dân vào hệ thống ngân hàng và bảo vệ người gửi tiền Kể từ đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền khỏi nguy cơ phá sản của các tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu khủng hoảng tài chính Vậy BHTG là gì và có những đặc điểm gì khác biệt so với các loại hình bảo hiểm khác? Đây là vấn đề đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, BHTG là cơ chế pháp lý cung cấp sự bảo đảm cho các khoản gốc và lãi của tiền gửi, nhằm bảo vệ người gửi tiền khi ngân hàng gặp khó khăn tài chính hoặc phá sản BHTG đảm bảo rằng tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc sẽ được thanh toán cho người gửi tiền trong các tình huống này.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là hình thức bảo hiểm cam kết chi trả các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG khi những tổ chức này gặp rủi ro, dẫn đến việc không thể thanh toán nợ đến hạn và buộc phải giải thể hoặc phá sản.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) có thể được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm hạn chế hoặc bảo hiểm toàn bộ, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia và từng giai đoạn khác nhau Trong thời kỳ kinh tế ổn định và thị trường tài chính phát triển, các quốc gia thường áp dụng cơ chế bảo hiểm có giới hạn nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính Ngược lại, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, các quốc gia có xu hướng áp dụng bảo hiểm toàn bộ để ngăn chặn hiện tượng rút tiền đồng loạt, giúp người gửi tiền yên tâm rằng quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ khi ngân hàng gặp khó khăn.
BHTG là một loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại, không nhằm mục tiêu sinh lời mà chủ yếu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đồng thời thực hiện các mục tiêu xã hội vì lợi ích cộng đồng Ở một số quốc gia, như Đức, BHTG lại mang tính thương mại và hoạt động theo nguyên tắc hạch toán Tại Đức, quỹ BHTG do Hiệp hội ngân hàng thương mại tổ chức, hoạt động như một tổ chức phi Chính phủ nhằm tạo sự liên kết và tương trợ giữa các ngân hàng hội viên, đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống, với các hội viên đóng góp tiền theo quy định.
Bài viết “Mô hình BHTG trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế” TS Lê Thị Thu
Quỹ bảo hiểm được thành lập với hai mục đích chính: phòng ngừa rủi ro cho các thành viên gặp khó khăn về khả năng thanh toán và bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi ngân hàng thành viên bị phá sản Khi quỹ tạm thời nhàn rỗi, số tiền trong quỹ sẽ được sử dụng hợp pháp để tạo ra lợi nhuận, nhằm tăng cường khả năng hỗ trợ cho các thành viên.
Chỉ các tổ chức tài chính nhận tiền gửi từ cộng đồng mới được tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Sự tham gia này là bắt buộc trong hệ thống BHTG công khai, nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các tổ chức và tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức BHTG.
- Phí BHTG là khoản phí do pháp luật quy định, các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thoả thuận về mức phí.
Theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP, tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) phải nộp phí BHTG là 0,15%/năm dựa trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm Mức phí này đã được pháp luật quy định rõ ràng, do đó, các bên liên quan trong quan hệ BHTG, bao gồm tổ chức nhận BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền, không có quyền thỏa thuận điều chỉnh mức phí bảo hiểm này.
Trên toàn cầu, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tại hầu hết các quốc gia đều quy định mức phí bảo hiểm cố định Chẳng hạn, tại Mỹ, các quy định về BHTG xác định tổ chức bảo hiểm tiền gửi và mức phí cần thiết để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền.
Mỹ áp dụng mức phí bảo hiểm là 23 xu cho mỗi trăm đô la tiền gửi hàng năm Tại Nhật Bản, luật BHTG có hiệu lực từ ngày 01/04/1971 quy định mức phí BHTG với tỷ lệ đóng hàng năm là 0,008% trên số dư tiền gửi được bảo hiểm Ở Indonesia, theo Điều 15 của Luật BHTG 2004, các thành viên cũng phải đóng phí bảo hiểm.
Trang 116 Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam-NXB công an nhân dân năm 2007.
Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic
S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004).
3 Bài viết “Thực hiện triển khai chính sách BHTG ở Nhật Bản” T.S Nguyễn Thị
Kim Oanh, giám đốc chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực Hà Nội, đã đề cập trong Tạp chí Ngân hàng số 1+2 tháng 01/2009 rằng hạng phí 6 tháng một lần là 0,1% trên tổng số tiền gửi, tương đương 0,2% mỗi năm Tỷ lệ phí cố định có thể được điều chỉnh theo hệ thống phí dựa trên mức độ rủi ro Nếu thiết lập hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro, chênh lệch giữa các hạng phí cao nhất không được vượt quá 0,5%.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) bảo vệ nghĩa vụ thanh toán của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền, với người nộp phí tách biệt khỏi người thụ hưởng bảo hiểm Rủi ro tiền gửi có sự liên quan chặt chẽ đến hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi Việc xác định loại tiền gửi được bảo hiểm là cơ sở để tính phí BHTG định kỳ, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của từng quốc gia.
An toàn trong kinh doanh là yêu cầu thiết yếu cho hoạt động của các TCTD, do tính chất rủi ro cao của ngành này Hậu quả của rủi ro có thể gây ra phản ứng dây chuyền, vì vậy nhiều quốc gia đã thiết lập khung pháp lý nghiêm ngặt cho hoạt động tín dụng Tại Việt Nam, các TCTD hiện nay được điều chỉnh bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ban hành ngày 15/06/2004 nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Tại điều 20 khoản 1, khoản 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định:
“TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”
Hoạt động ngân hàng bao gồm việc kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng, chủ yếu là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Theo quy định hiện hành, Tổ chức tín dụng (TCTD) được xác định là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính và thường xuyên trong lĩnh vực ngân hàng Nội dung hoạt động chủ yếu của TCTD bao gồm việc nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này một cách hiệu quả.
Bài viết “ Luật BHTG Indonesia kinh nghiệm nào cho Việt Nam” của tác giả Thuý
Chế độ BHTG ở Việt Nam
Số liệu thống kê của BHTG quốc tế(IADI)năm 2007 trên trang web: www.iadi.org
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của chế độ BHTG ở Việt Nam:
1.2.1.1 Khái niệm chế độ BHTG ở Việt Nam:
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là một hình thức bảo hiểm quan trọng trong hoạt động ngân hàng, giúp ngăn chặn sự đổ vỡ dây chuyền và duy trì sự ổn định cho các tổ chức tín dụng (TCTD) Nhờ có BHTG, quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm, từ đó tạo dựng niềm tin và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Tại Việt Nam, năm 1988 đánh dấu sự chuyển mình của hệ thống ngân hàng sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước Mô hình ngân hàng hai cấp được áp dụng, bên cạnh các TCTD ngoài quốc doanh như quỹ tín dụng nhân dân và hợp tác xã tín dụng Tuy nhiên, sự chuyển đổi này gặp khó khăn do bộ máy cũ chưa kịp thích ứng và thiếu các thiết chế pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh, dẫn đến hiện tượng thiếu khả năng trả nợ và thu hồi nợ trong thời gian ngắn sau đó.
Cuối năm 1989, hàng loạt tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh gặp phải vỡ nợ dây chuyền, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và làm giảm niềm tin của khách hàng đối với Quỹ tín dụng nhân dân và Hợp tác xã tín dụng Để khắc phục tình trạng này, ngày 23/05/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng tại Việt Nam Đến năm 1993, Quỹ tín dụng nhân dân chính thức được thành lập theo Quyết định số.
Quyết định 390/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27/03/1993 công nhận Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức thuộc sở hữu tập thể, hoạt động dưới hình thức Hợp tác xã và tuân thủ các nguyên tắc chung của tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
Chính phủ đặc biệt chú trọng đến việc bảo đảm an toàn cho tiền gửi của khách hàng khi tham gia Quỹ tín dụng nhân dân, bên cạnh các biện pháp an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của tổ chức tín dụng.
BHTG (Bảo hiểm tiền gửi) được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1994 theo Quyết định số 101/TC-QĐ của Bộ Tài chính, chỉ áp dụng cho các Quỹ tín dụng nhân dân và các khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam Tuy nhiên, phạm vi BHTG lúc bấy giờ còn hạn chế và mang tính tự nguyện Nhận thấy tầm quan trọng của BHTG trong hoạt động ngân hàng, Quốc hội đã ban hành Luật các TCTD vào ngày 12/12/1997, quy định trách nhiệm của TCTD trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc BHTG, tạo cơ sở pháp lý cho chế độ BHTG mới Ngày 01/09/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, quy định rõ mục đích, tính chất, đối tượng tham gia, loại tiền gửi được bảo hiểm và phí bảo hiểm trong hệ thống BHTG.
Ngày 09/11/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập Tổ chức BHTG Việt Nam, một tổ chức độc lập chuyên thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Từ ngày 07/10/2000, BHTG Việt Nam chính thức hoạt động với tên giao dịch quốc tế là Deposit Insurance of Vietnam (DIV) Đây là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo an toàn vốn và bù đắp chi phí, đồng thời được miễn nộp thuế BHTG đảm bảo nghĩa vụ chi trả các khoản tiền gửi cho người gửi tiền theo Điều 17 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2008, đặc biệt khi các tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán nợ Hệ thống pháp lý về BHTG được hình thành từ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này.
Theo quy định hiện hành, bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là hình thức bảo hiểm phi thương mại bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng và ngân hàng nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh Các tổ chức này phải đóng phí BHTG cho tổ chức BHTG Việt Nam Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, tổ chức BHTG Việt Nam sẽ đảm nhận trách nhiệm thanh toán các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho khách hàng của tổ chức tham gia bảo hiểm đó.
1.2.1.2 Đặc trưng của chế độ BHTG Việt Nam:
Chế độ Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam, dù còn non trẻ, đã nhanh chóng thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia Những đặc trưng cơ bản của BHTG Việt Nam góp phần củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tại Việt Nam là hình thức bảo hiểm bắt buộc, quy định bởi pháp luật về điều kiện và mức phí mà các tổ chức tín dụng (TCTD) phải tuân thủ Mục tiêu của BHTG không chỉ là xử lý rủi ro cho tổ chức nhận tiền gửi và bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, mà còn đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống TCTD và sự ổn định của tiền tệ quốc gia Hơn nữa, BHTG tạo ra sự công bằng giữa các tổ chức ngân hàng, nâng cao uy tín của TCTD trong mắt người dân, từ đó tối ưu hóa nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư phát triển kinh tế Nhiều quốc gia cũng áp dụng quy định bắt buộc tham gia BHTG cho các TCTD.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) ở Việt Nam là hình thức bảo hiểm trách nhiệm pháp lý dân sự, thuộc loại bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng Đối tượng bảo hiểm của BHTG là nghĩa vụ hoàn trả tiền gửi, bao gồm cả lãi và gốc, của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền Theo pháp luật BHTG, người tham gia bảo hiểm là các tổ chức được phép nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, trong khi người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là những cá nhân gửi tiền tại các tổ chức này.
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) ở Việt Nam được coi là một hình thức bảo hiểm phi thương mại, không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm mà tuân theo quy chế pháp lý riêng Tính chất phi thương mại của BHTG được thể hiện qua việc bên bảo hiểm là tổ chức BHTG Việt Nam, một tổ chức tài chính Nhà nước, với mục tiêu không phải là lợi nhuận mà là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền Điều này góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh cho hoạt động ngân hàng.
1.2.2 Nội dung cơ bản của chế độ BHTG ở Việt Nam:
Nhận thức được tính chất phức tạp của các tổ chức tín dụng (TCTD) ngoài quốc doanh và bài học từ sự đổ vỡ của chúng vào cuối năm 1989, vào ngày 23/05/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam Tuy nhiên, Pháp lệnh này chưa quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân Đến năm 1993, Quỹ tín dụng nhân dân chính thức được thành lập theo Quyết định số 390/TTg, được công nhận là tổ chức thuộc sở hữu tập thể, hoạt động theo nguyên tắc chung của các TCTD Để bảo đảm an toàn cho hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, vào ngày 01/02/1994, Bộ trưởng Bộ tài chính đã ban hành Quyết định số 101/TC-QĐ về quy tắc bảo hiểm cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn Quyết định này đã làm rõ phạm vi bảo hiểm và trách nhiệm của các bên liên quan, giúp khôi phục lòng tin và thu hút tiền gửi từ người dân, trong khi các TCTD khác chưa thực hiện.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là theo quy định của Quyết định số 101/TC-
Theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) chỉ áp dụng cho Quỹ tín dụng nhân dân và bảo hiểm tổng số tiền gửi có kỳ hạn tại đây Các ngân hàng thương mại không có quy định về BHTG, dẫn đến nguy cơ mất trắng tiền gửi của khách hàng nếu ngân hàng thương mại phá sản hoặc giải thể Do đó, người gửi tiền chỉ cảm thấy an tâm khi gửi tiền vào Quỹ tín dụng nhân dân, nơi họ được đảm bảo an toàn và bồi thường BHTG trong trường hợp rủi ro xảy ra Điều này có thể khiến ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc thu hút khách hàng gửi tiền nhàn rỗi.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam đã yêu cầu cần có quy định chặt chẽ cho hoạt động ngân hàng Việc Quốc hội thông qua Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD vào tháng 12/1997 đã đưa vấn đề bảo hiểm tiền gửi (BHTG) trở thành ưu tiên hàng đầu Chính phủ đã cụ thể hóa quy định này thông qua Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động BHTG tại Việt Nam Theo đó, các tổ chức tín dụng (TCTD) và các tổ chức không phải TCTD phải tham gia BHTG bắt buộc, nhằm bảo vệ người gửi tiền và ổn định hệ thống tài chính – ngân hàng quốc gia Tuy nhiên, sau gần 6 năm thực hiện, vẫn còn nhiều thách thức cần được giải quyết.
Bài viết “Một số vấn đề về BHTG ở quỹ tín dụng nhân dân” TS Trương Thị Kim
Dung trang 7 ( tạp chí luật học số 6 tháng 12/1996-Trường đại học luật Hà
Do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội, Nghị định 89/1999/NĐ-CP đã bộc lộ một số quy định không còn phù hợp, như hạn mức chi trả và quyền lợi bảo hiểm Để khắc phục, Chính phủ đã ban hành Nghị định 109/2005/NĐ-CP vào ngày 24/08/2005, sửa đổi một số điều của Nghị định 89 Tổ chức BHTG Việt Nam được thành lập theo Quyết định 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền và duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Các văn bản pháp luật này tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của tổ chức BHTG tại Việt Nam.
1.2.2.1 Phạm vi áp dụng: a/ Chủ thể quan hệ BHTG:
Pháp luật về BHTG ở một số nước trên thế giới
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tại Việt Nam vẫn còn là một khái niệm mới mẻ, trong khi nhiều quốc gia trên thế giới đã thiết lập các cơ quan BHTG nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng (TCTD) và tạo dựng niềm tin cho người gửi tiền.
Sau một loạt vụ phá sản của các ngân hàng ở Mỹ vào những năm 1930 –
Năm 1933, nhiều người gửi tiền tại các ngân hàng thương mại đã mất trắng tiền tiết kiệm do các khoản nợ không được thanh toán Để bảo vệ người gửi tiền khỏi những tổn thất tương tự trong tương lai từ các vụ vỡ nợ ngân hàng, năm 1934, Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã được thành lập tại Hoa Kỳ.
Trước khi FDIC ra đời, tỷ lệ ngân hàng phá sản rất cao, khiến người gửi tiền phải chờ đợi lâu để lấy lại vốn khi ngân hàng vỡ nợ, và chỉ nhận được một phần giá trị gửi Tuy nhiên, sau khi FDIC được thành lập, số vụ vỡ nợ ngân hàng đã giảm đáng kể Trong những năm 1930, trung bình có khoảng 2000 vụ vỡ nợ mỗi năm, trong khi từ năm 1995 đến 1999, chỉ có 16 ngân hàng tham gia BHTG bị phá sản, bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền.
Số tiền 100.000 đô la Mỹ được bảo đảm thanh toán đầy đủ đã tạo niềm tin và sự yên tâm cho người gửi tiền, từ đó giảm thiểu ý muốn rút tiền, giúp ngân hàng tránh được tình trạng vỡ nợ Việc thành lập cơ quan bảo hiểm tiền gửi (BHTG) chính là giải pháp hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề vỡ nợ của ngân hàng.
Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic
S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004)
Mạng lưới FDIC bao gồm Trụ sở chính tại Washington DC và 6 chi nhánh khu vực tại các tiểu bang, với các chi nhánh địa phương thực hiện kiểm tra tại chỗ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi Vốn ban đầu của FDIC không đến từ ngân sách liên bang mà thông qua việc phát hành trái phiếu bán cho các tổ chức tài chính ngân hàng FDIC có quyền thu phí bảo hiểm tiền gửi để bù đắp chi phí hoạt động và tăng cường vốn điều lệ, đồng thời được đảm bảo khả năng thanh khoản với khoản tín dụng dự phòng trị giá 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tài chính Hoa Kỳ.
Hạn mức bảo hiểm ban đầu khi FDIC bắt đầu hoạt động vào ngày
Vào ngày 01/01/1934, mức bảo hiểm của FDIC là 2.500 USD Đến ngày 01/06/1934, FDIC đã nâng mức bảo hiểm tối đa lên 5.000 USD Sau nhiều lần điều chỉnh, vào năm 1980, mức bảo hiểm tối đa đạt 100.000 USD Đặc biệt, từ ngày 01/04/2006, mức bảo hiểm cho tài khoản tiết kiệm hưu trí đã được nâng lên 250.000 USD.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng phá sản, và FDIC áp dụng hai phương pháp chính để xử lý tình huống này.
Phương pháp thanh toán hết, do FDIC áp dụng, cho phép ngân hàng vỡ nợ thanh toán tối đa 100.000 đô la cho các khoản tiền gửi, sử dụng phí bảo hiểm từ các ngân hàng đã mua bảo hiểm của FDIC Sau khi ngân hàng được thanh lý, FDIC và các chủ nợ khác sẽ nhận phần thanh toán từ tài sản của ngân hàng vỡ nợ Những người có số tiền gửi vượt quá 100.000 đô la thường chỉ nhận lại hơn 90 xu cho mỗi đô la Quá trình thanh toán này có thể kéo dài vài năm, vì vậy phương pháp này ít được sử dụng.
Phương pháp thứ hai: gọi là “phương pháp mua và nắm quyền kiểm soát”.
Theo phương pháp của FDIC, ngân hàng vỡ nợ sẽ được tổ chức lại bằng cách tìm kiếm một đối tác sẵn lòng hợp nhất, người này sẽ tiếp nhận toàn bộ trách nhiệm và tài sản của ngân hàng gặp khó khăn.
Mô hình BHTG Liên bang Hoa Kỳ, theo trang web www.div.gov.vn, cho thấy rằng khi một ngân hàng không thể trả nợ, FDIC đảm bảo rằng tất cả các khoản tiền gửi của khách hàng đều được bảo vệ, không chỉ những khoản dưới 100.000 đô la FDIC hỗ trợ người gửi tiền bằng cách cung cấp các khoản vay trợ cấp hoặc mua lại các khoản cho vay yếu kém của ngân hàng vỡ nợ Phương pháp "mua và nắm quyền kiểm soát" là cách thức phổ biến mà FDIC áp dụng để giải quyết các ngân hàng gặp khó khăn, đặc biệt là các ngân hàng lớn, nhằm ngăn chặn tổn thất cho người gửi tiền và giảm thiểu nguy cơ xảy ra các vụ phá sản kinh doanh khác.
FDIC của Mỹ thu phí bảo hiểm 23 xu cho mỗi 100 đô la tiền gửi hàng năm Vào năm 1990, quỹ bảo hiểm của FDIC chỉ dưới 10 tỷ đô la, trong khi tổng số tiền gửi được bảo hiểm lên đến 2000 tỷ đô la, cho thấy quỹ này quá nhỏ so với số tiền gửi Tuy nhiên, người dân Mỹ vẫn tin tưởng rằng các khoản tiền gửi lên đến 100.000 đô la là an toàn nhờ vào cam kết của Chính phủ trong việc bảo vệ người gửi tiền khỏi tổn thất.
Mô hình Bảo hiểm tiền gửi liên bang Hoa Kỳ (FDIC) là một tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiên tiến, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính ngân hàng tại Hoa Kỳ Sự thành công của FDIC đã ảnh hưởng đến nhiều quốc gia Châu Á, như Hàn Quốc và Đài Loan, trong việc xây dựng cơ quan bảo hiểm tiền gửi theo mô hình này.
Loan…Theo thời báo Asian Wall street ngày 28 tháng 6 năm 2006, Chính phủ Trung Quốc đó xỏc nhận FDIC là mụ hỡnh mẫu của quốc gia này trong kế hoạch
Bài viết “Một số vấn đề về BHTG ở quỹ tín dụng nhân dân” TS Trương Thị Kim
Dung , trang 10,11 (tạp chí luật học số 6 tháng 12/1996 – Trường đại học luật
2 Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic
S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004) xõy dựng Bảo hiểm tiền gửi Trung Quốc sắp tới Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế chung đú1.
BHTG Indonesia (IDIC) được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày
Vào ngày 22/09/2005, Luật Bảo hiểm Tiền gửi (BHTG) đã được Quốc hội Indonesia thông qua, đánh dấu sự ra đời của IDIC Trước đó, Chính phủ Indonesia đã triển khai bảo hiểm toàn bộ tiền gửi nhằm khôi phục niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính sau cuộc khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ năm 1998 Tuy nhiên, chính sách này đã tạo ra rủi ro đạo đức và gia tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, dẫn đến nhu cầu cần thiết phải điều chỉnh chính sách BHTG Luật BHTG Indonesia đã phản ánh những thay đổi quan trọng trong chính sách bảo hiểm tiền gửi của quốc gia này.
Luật BHTG Indonesia bao gồm 103 điều, tập trung ở 4 nhóm vấn đề sau 2 :
Nhóm 1: Những quy định chung:
- Cơ chế tham gia BHTG: theo điều 8 Luật BHTG Indonesia, tất cả các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ của Indonesia phải tham gia BHTG bắt buộc.
Các loại tiền gửi được bảo hiểm bao gồm tiền gửi tiết kiệm, tài khoản vãng lai, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi bằng đồng rupiah, tiền gửi ngoại tệ, tiền gửi hồi giáo và tiền gửi thông thường.
Thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) tại Việt Nam đã được kiểm nghiệm qua gần 10 năm hoạt động, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính BHTG bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền và thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội Hoạt động BHTG được thực hiện theo Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan, cho thấy pháp luật về BHTG đang được xây dựng để phù hợp với điều kiện Việt Nam và yêu cầu hội nhập ngân hàng Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế và vướng mắc trong các quy định pháp luật hiện hành.
Thứ nhất: Quy định về đối tượng tham gia BHTG:
Tại điều 1 khoản 1 Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP ngày
24/08/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP quy định:
Các tổ chức tín dụng (TCTD) và tổ chức không phải TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng phải tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) khi nhận tiền gửi của cá nhân và tổ chức, theo quy định của Luật các TCTD Sự bắt buộc này phản ánh tính cần thiết trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay, khi hệ thống tín dụng vẫn còn phát triển chưa mạnh và an toàn cho hoạt động tín dụng chưa được đảm bảo Quy định này áp dụng cho tất cả các TCTD, không phân biệt loại hình (ngân hàng hay phi ngân hàng, trong nước hay có vốn đầu tư nước ngoài), cũng như các tổ chức không phải TCTD có nhận tiền gửi, mở rộng phạm vi tham gia BHTG một cách đáng kể.
Trên thực tế, đa số các quốc gia có hệ thống BHTG đều quy định: các
TCTD và các tổ chức huy động tiền gửi tự nguyện từ cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) bắt buộc Ví dụ, theo quy định của pháp luật BHTG tại Mỹ, các ngân hàng cũng phải tuân thủ quy định này để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam quy định rằng các thành viên trong hệ thống dự trữ liên bang phải tham gia bảo hiểm tại công ty BHTG liên bang Tương tự, luật pháp Indonesia cũng yêu cầu các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ nước này tham gia BHTG bắt buộc Điều này cho thấy quy định của pháp luật Việt Nam đã tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện sự bình đẳng trong nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng nhận tiền gửi tại Việt Nam nhằm bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền.
Hiện nay, đối tượng tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) chủ yếu là ngân hàng, công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân, dẫn đến việc cơ quan BHTG chỉ chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức này Trong khi đó, các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán và tiết kiệm bưu điện cũng huy động vốn qua nhận tiền gửi nhưng không bị yêu cầu tham gia BHTG Điều này khiến người gửi tiền tại các tổ chức này không được đảm bảo quyền lợi như những người gửi tiền tại các tổ chức bắt buộc tham gia BHTG Mặc dù các tổ chức này không chủ yếu hoạt động vì mục đích kinh doanh, nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền Do đó, cần xem xét bổ sung quy định về việc tham gia BHTG cho các công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán và tiết kiệm bưu điện để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ hai: Quy định về người được hưởng quyền lợi bảo hiểm:
Theo Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ, tiền gửi được bảo hiểm là Đồng Việt Nam do các cá nhân gửi tại các tổ chức tham gia bảo hiểm.
Bài viết “mô hình BHTG Liên bang Hoa Kỳ” – trang web www.div.gov.vn
Bài viết “ Luật BHTG Indonesia kinh nghiệm nào cho Việt Nam” của tác giả
Thuý Sen đăng trên trang web: www.div.gov.vn
3 Bài viết“Một số vấn đề pháp lý về BHTG ở Việt Nam” – Th.S Phạm Nguyệt Thảo, trang 50 (Tạp chí Luật học số 12/2007-Trường đại học luật Hà Nội.)
Theo quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP, chỉ những cá nhân gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) mới được hưởng quyền lợi bảo hiểm Điều này được quy định cụ thể trong Nghị định 89/1999/NĐ-CP, nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Tiền gửi được bảo hiểm là khoản tiền bằng đồng Việt Nam của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG, ngoại trừ một số trường hợp cụ thể.
Người gửi tiền là cổ đông sở hữu hơn 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu trong tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG).
Tiền gửi của các thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc và phó tổng giám đốc của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) không được bảo hiểm.
- Tiền gửi dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền.
-Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam”.
So với Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Nghị định 109/2005/NĐ-CP đã mở rộng đối tượng được hưởng quyền lợi bảo hiểm, tăng số người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi được bảo hiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền Tuy nhiên, việc chỉ quy định bảo hiểm cho doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, tổ hợp tác và hộ gia đình mà không bao gồm các công ty TNHH, công ty cổ phần có thể gây ra sự thiếu công bằng Tiêu chí để hưởng quyền lợi bảo hiểm hiện nay dường như dựa trên sở hữu, dẫn đến việc tiền gửi của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được xem như tiền gửi cá nhân Điều này chưa đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi giữa các tổ chức và cá nhân gửi tiền Do đó, cần xem xét mở rộng đối tượng hưởng quyền lợi bảo hiểm trong tương lai để đảm bảo sự công bằng và phù hợp với vai trò của BHTG.
Theo Điều 3 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, tiền gửi được bảo hiểm bao gồm Đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Theo Nghị định 109/2005/NĐ-CP, chỉ có tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh mới được bảo hiểm Điều này được quy định tại điều 1 khoản 2, nêu rõ rằng tiền gửi được bảo hiểm chỉ áp dụng cho các tổ chức tham gia.
Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định rằng bảo hiểm chỉ áp dụng cho tiền gửi bằng Đồng Việt Nam.
Nghị định 109/2005/NĐ-CP đã mở rộng đối tượng hưởng quyền lợi bảo hiểm so với Nghị định 89/1999/NĐ-CP, đồng thời quy định rõ những trường hợp tiền gửi không được bảo hiểm Cụ thể, tiền gửi của cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần sẽ không được bảo hiểm.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật BHTG Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam, mặc dù mới hoạt động không lâu, đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia Trong thời gian qua, BHTG Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng phát hiện một số hạn chế trong quy định pháp luật cần được cải thiện Việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về BHTG là cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế Để nâng cao vị thế của BHTG Việt Nam, cần thiết có những phương hướng cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTG.
Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG) ở Việt Nam là cần thiết trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Điều này không chỉ mang lại cơ hội lớn cho nền kinh tế mà còn đặt ra nhiều thách thức cần phải đối mặt Do đó, việc nhanh chóng cải thiện hệ thống pháp lý là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của BHTG.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển mạnh sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, việc thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO là rất cần thiết Tuy nhiên, khung pháp lý hiện tại, chủ yếu dựa vào Nghị định, đã bộc lộ nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam Để BHTG trở thành một định chế tài chính vững mạnh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền và nâng cao niềm tin của công chúng, cần thiết phải xây dựng Luật BHTG nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này trong tương lai.
Mở rộng đối tượng tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) bao gồm tất cả các tổ chức nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng từ cá nhân và tổ chức, như tiết kiệm bưu điện, công ty bảo hiểm nhân thọ và công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán Điều này không chỉ phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời giảm thiểu mâu thuẫn trong các quy định pháp luật liên quan đến BHTG.
Luật BHTG cần được điều chỉnh để mở rộng phạm vi bảo hiểm tiền gửi, bao gồm cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ Điều này nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong nền kinh tế, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền bằng ngoại tệ.
Phí bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được quy định dựa trên cơ sở rủi ro, tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng các tổ chức tham gia BHTG tại Việt Nam còn non trẻ và chưa phát triển bền vững, dẫn đến nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ như quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Theo quy định pháp luật hiện hành, các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở bắt buộc phải tham gia BHTG, điều này là cần thiết để đảm bảo an toàn cho hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.
Các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ, đặc biệt là các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, đang phải đối mặt với nhiều thách thức hơn so với các tổ chức tín dụng lớn.
Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về BHTG ở Việt Nam” – Th.S Phạm Nguyệt Thảo
Trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD), rủi ro luôn tiềm ẩn, và việc quy định thu phí bảo hiểm tiền gửi (BHTG) dựa trên rủi ro có thể tạo thêm gánh nặng cho các TCTD quy mô nhỏ, như quỹ tín dụng nhân dân cơ sở Khi rủi ro tăng cao, phí BHTG cũng sẽ tăng, dẫn đến việc gia tăng rủi ro và khó khăn cho các TCTD nhỏ Hơn nữa, việc đánh giá và xếp loại TCTD tại Việt Nam hiện nay còn yếu và chưa đủ căn cứ để xác định tỷ lệ phí BHTG một cách chính xác Do đó, luật pháp nên quy định lộ trình xác định mức phí BHTG theo từng giai đoạn, phù hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội.
• Nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm:
Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm là một yếu tố quan trọng trong Luật BHTG, ảnh hưởng lớn đến tâm lý người gửi tiền Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng mức chi trả hiện tại của BHTG Việt Nam còn thấp so với thực tế, do đó cần nâng hạn mức này cho mỗi cá nhân và tổ chức gửi tiền TS Đinh Dũng Sĩ, Phó trưởng ban Pháp chế Văn phòng Chính phủ, đề xuất nâng hạn mức chi trả tối đa lên 100 triệu đồng cho cá nhân và 200 triệu đồng cho tổ chức Mặc dù mức đề xuất này là hợp lý trong bối cảnh hiện tại, nhưng cần linh hoạt điều chỉnh theo biến động của kinh tế xã hội, giao Chính phủ quy định dựa trên đề nghị của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức BHTG Việt Nam.
Để nâng cao vị trí pháp lý của tổ chức BHTG Việt Nam, cần quy định rõ thẩm quyền xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHTG nhằm tăng cường trách nhiệm của các tổ chức tham gia BHTG và đảm bảo việc xử lý kịp thời các vi phạm.
Tổ chức BHTG có nhiệm vụ xử lý các vấn đề liên quan đến việc chậm nộp hoặc không nộp phí BHTG, vi phạm về nội dung và thời hạn nộp báo cáo của các tổ chức tham gia, thu hồi giấy chứng nhận BHTG khi có vi phạm quy định, và xử lý các tổ chức vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tổ chức BHTG Việt Nam sẽ trình cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm nghiêm trọng trong hoạt động ngân hàng, như vi phạm quy định an toàn có thể dẫn đến đổ vỡ ngân hàng và đe dọa ổn định hệ thống tài chính Ngoài ra, các đơn vị và cá nhân thuộc tổ chức BHTG Việt Nam cũng cần tuân thủ quy định bảo mật thông tin và báo cáo Cần quy định rõ sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước trong việc xử lý các tổ chức tham gia BHTG phá sản hoặc giải thể, nhằm tạo tính chủ động và trách nhiệm cho các cơ quan liên quan, đảm bảo nguyên tắc kịp thời và tránh đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng.
Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam
Ngày 18/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
Theo Quyết định 13/2008/QĐ-TTg, mức vốn điều lệ của DIV được nâng lên 5.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước, thay cho 1.000 tỷ đồng trước đây Tuy nhiên, hiện tại, nguồn vốn hoạt động của BHTG Việt Nam chỉ đạt khoảng 3.015 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ từ ngân sách Nhà nước là 1.000 tỷ đồng, phần còn lại đến từ phí BHTG và hoạt động đầu tư của DIV PGS.TS Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận định rằng tiềm lực tài chính của BHTG Việt Nam còn khá khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hiện tại và tương lai Nhận xét này phản ánh thực trạng tổ chức BHTG tại Việt Nam.
Bài viết “BHTG và vấn đề nâng cao năng lực tài chính” – PGS.TS Lê Quốc Lý –
Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư nhận định rằng tổ chức BHTG ở Việt Nam hiện chưa đủ tiềm lực tài chính để thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình Để nâng cao tiềm lực tài chính cho tổ chức này, cần thiết phải cấp bổ sung vốn điều lệ từ Ngân sách Nhà nước và mở rộng lĩnh vực đầu tư mà BHTG Việt Nam được phép tham gia.
Với vai trò ngày càng quan trọng của Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế biến động, việc nâng cao tiềm lực tài chính của BHTG là cần thiết Điều này giúp BHTG thực hiện hiệu quả nhiệm vụ giữ ổn định hệ thống ngân hàng, từ đó góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô và xã hội.
Thứ hai: Đẩy mạnh hoạt động công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức công chúng về chính sách BHTG:
Hoạt động tuyên truyền nâng cao hiểu biết về Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng Mặc dù đã đạt được một số kết quả, nhưng việc tuyên truyền vẫn còn hạn chế, chưa đủ sâu rộng và hiệu quả, đặc biệt là ở vùng nông thôn Để người dân hiểu rõ hơn về chính sách BHTG, cần đổi mới và đa dạng hóa các hình thức truyền thông, nâng cao chất lượng website và các ấn phẩm có logo của BHTG Việt Nam Điều này không chỉ giúp công chúng dễ dàng nhận diện thông tin và vai trò của tổ chức, mà còn tạo lòng tin cho người dân, từ đó khuyến khích các tổ chức nhận tiền gửi huy động vốn nhàn rỗi, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Cần tiếp tục hoàn thiện cấu trúc tổ chức nhằm giảm thiểu rủi ro và đồng thời tập trung vào đào tạo, phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Hiện nay, trên thế giới tồn tại ba mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG): mô hình chuyên chi trả, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình giảm thiểu rủi ro.
Mô hình tổ chức BHTG chuyên chi trả chủ yếu đảm nhận chức năng bảo vệ thụ động cho người gửi tiền, bằng cách chi trả tiền bảo hiểm cho họ khi tổ chức tham gia BHTG gặp phải tình trạng phá sản.
Mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) chi trả với quyền hạn mở rộng là một phương thức thực hiện chi trả, đồng thời bổ sung một số chức năng nhất định tùy thuộc vào đặc thù của từng quốc gia.
Mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro là một hệ thống có thẩm quyền nhằm bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính Tại Việt Nam, mô hình BHTG hiện tại có quyền hạn mở rộng, không chỉ chi trả tiền bảo hiểm mà còn hỗ trợ các tổ chức gặp khó khăn tài chính mà chưa đến mức kiểm soát đặc biệt BHTG Việt Nam cũng tham gia giám sát rủi ro và xử lý vi phạm So với mô hình BHTG chuyên chi trả, mô hình giảm thiểu rủi ro tập trung vào đánh giá và giám sát, phản ánh bản chất của bảo hiểm gắn liền với rủi ro Để đạt hiệu quả, tổ chức BHTG cần có quyền hạn và chức năng phù hợp nhằm hạn chế tối đa rủi ro cho quốc gia, ngành dịch vụ và người gửi tiền, từ đó giảm thiểu tổn thất xã hội trong quản trị rủi ro.
Một trong những chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam là tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước Để nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG và đáp ứng yêu cầu của tổ chức trong việc giảm thiểu rủi ro, BHTG Việt Nam đã xác định mô hình cơ cấu tổ chức rõ ràng và chức năng cụ thể.
Bài viết “BHTG góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính – ngân hàng” T.S.
Xuân (Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2008).
“BHTG giảm thiểu rủi ro – mô hình cho mạng lưới an toàn tài chính
Bài viết nhấn mạnh rằng BHTG Việt Nam cần tái cấu trúc bộ máy tại Trụ sở chính theo hướng lấy khách hàng làm trung tâm để tạo sự đồng bộ và chuyên môn hóa trong hệ thống Việc này sẽ nâng cao tính chuyên nghiệp trong quản lý rủi ro và cải thiện chất lượng quản lý khách hàng Đồng thời, hiệu quả hoạt động của tổ chức phụ thuộc vào nguồn nhân lực, vì vậy cần đẩy mạnh công tác đào tạo và tập huấn để xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong xu thế hội nhập.
Thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam với các tổ chức liên quan:
Hoạt động tài chính ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và bị ảnh hưởng bởi các quan hệ kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế Do đó, việc phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan là rất cần thiết để xử lý kịp thời các tình huống phát sinh Tổ chức BHTG Việt Nam cần thu nhận thông tin từ các cơ quan liên quan và chia sẻ dữ liệu từ hoạt động giám sát, kiểm tra để đánh giá khách quan và chính xác về an toàn hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG Vì vậy, sự hợp tác giữa BHTG Việt Nam và các cơ quan như Uỷ ban giám sát, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính là điều cần thiết trong hoạt động của tổ chức này.
Thứ năm: Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế:
Việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là rất cần thiết cho Việt Nam, do đây vẫn là một lĩnh vực mới mẻ Việt Nam nên tăng cường giao lưu với các tổ chức BHTG toàn cầu để trao đổi kinh nghiệm và thành tựu đạt được, từ đó tiếp thu những bài học quý giá trong quản lý và tổ chức BHTG Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế và tích cực tham gia các diễn đàn tài chính-ngân hàng nhằm nhận được hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho hoạt động hiệu quả của tổ chức BHTG tại Việt Nam.
Dự báo cho thấy thị trường tài chính toàn cầu năm 2009 sẽ tiếp tục xấu đi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam và hệ thống tài chính sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn Trong bối cảnh này, việc đảm bảo an sinh xã hội trở nên vô cùng cần thiết, gắn liền với hiệu quả triển khai các gói giải pháp tài chính Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
Nghị quyết 30/2008/NQ-CP đề ra các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội Chính phủ chỉ đạo thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ linh hoạt, tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng Để đạt được mục tiêu này, BHTG Việt Nam cần nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của Chính phủ, phát huy nội lực và tận dụng tối đa sự hỗ trợ từ bên ngoài.