Phần mở đầu
Lịch sử vấn đề
2.1 Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tính dân tộc qua các sáng tác của các nhà thơ mới
Trong cuốn sách "Một thời đại trong thi ca: Về phong trào thơ mới 1932 - 1945," tác giả Hà Minh Đức đã phân tích các đặc điểm chung của phong trào thơ mới và giới thiệu những tác giả tiêu biểu như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, và Vũ Hoàng Chương Các tác phẩm được xem xét đều được sáng tác trong khoảng thời gian mười năm gần đây, và tác giả chú trọng đến tính dân tộc trong sáng tác của các nhà thơ mới, thể hiện qua hình tượng và nội dung thơ.
Cùng với tinh thần trên, cuốn Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca:
Phong trào thơ mới kéo dài 60 năm đã khẳng định tính dân tộc qua nhiều phương diện nghệ thuật như ngôn ngữ và thể loại Nội dung của phong trào này thể hiện rõ nét tình yêu thiên nhiên, khát khao tự do và tình yêu đối với tiếng Việt.
Phan Cự Đệ trong tác phẩm "Văn học lãng mạn 1930 - 1945" đã nhấn mạnh rằng nhiều bài thơ mới chứa đựng tinh thần dân tộc và khát vọng tự do Ông cũng đề cập đến tính dân tộc của các nhà thơ mới, khẳng định sự gắn bó giữa thơ ca và tâm tư dân tộc trong giai đoạn lịch sử này.
Trong bài viết này, "tính dân tộc" được thể hiện rõ nét qua các sáng tác thơ, như lòng khao khát tự do trong thơ Thế Lữ, nỗi đau về sự suy tàn của đất nước qua hình ảnh vương quốc Chiêm Thành trong thơ Chế Lan Viên, cùng với tình yêu dành cho tiếng Việt và vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Nam.
Hoài Thanh trong bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca in trong cuốn
Thi nhân Việt Nam đã đưa ra những nhận xét chung về tính dân tộc trong thơ mới, nhấn mạnh rằng "Thi văn Pháp không làm mất bản sắc Việt Nam" và những mô phỏng ngu muội sẽ bị đào thải Ông khẳng định rằng tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới thể hiện qua lòng yêu tiếng Việt, nơi họ "yêu vô cùng thứ tiếng mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông" và dồn tình yêu quê hương vào tình yêu tiếng Việt.
Các nhà nghiên cứu hiện nay chủ yếu chú trọng vào tính dân tộc trong các tác phẩm thơ của các nhà thơ mới, nhưng vẫn chưa quan tâm đầy đủ đến các bài lý luận và phê bình của họ.
2.2 Tuy nhiên vẫn ch-a có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về tính dân tộc qua các bài lý luận phê bình của các nhà thơ mới Cho đến nay mới có một vài ý kiến về vấn đề này
Trong cuốn "Tính dân tộc trong văn chương", Thành Duy đã phân tích sâu sắc về tính dân tộc trong văn học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học viết trong thời kỳ phong kiến Ông chỉ ra rằng thơ mới thiếu tính dân tộc, dù có một số yếu tố tích cực như ngôn ngữ trong sáng và hình ảnh thiên nhiên Việt Nam Thành Duy cho rằng việc đánh giá thơ mới là "Có tinh thần dân tộc" hay "Đậm đà màu sắc dân tộc" là chưa đủ, vì thơ mới còn bị ảnh hưởng tiêu cực từ thực dân phong kiến, khiến nó trở thành công cụ đánh lạc hướng thanh niên khỏi nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc Ý kiến của Thành Duy đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu tính dân tộc trong thơ mới.
Luận văn của Lệ Thị Nhung nghiên cứu tính dân tộc trong văn học qua quan niệm và thơ của Xuân Diệu trước 1945, tập trung vào các bài lý luận và phê bình văn học của ông Bài viết phân tích hai tập thơ "Thơ thơ" (1938) và "Gửi hương cho gió" (1945) nhằm làm rõ quan niệm về "tính dân tộc" trong sáng tác của Xuân Diệu trong giai đoạn này.
Nh- vậy ch-a có một công trình nào thực sự đi sâu vào tìm hiểu vấn đề
Các nhà thơ mới từ 1932 đến 1945 đã thảo luận về tính dân tộc trong văn chương, đặc biệt qua các bài lý luận và phê bình Mặc dù những nhận xét này còn rời rạc và chưa có sự hệ thống, chúng cung cấp những gợi ý quý giá cho việc nghiên cứu sâu hơn về đề tài này Việc tìm hiểu tính dân tộc trong các tác phẩm của họ sẽ giúp làm rõ hơn bản sắc văn hóa và nghệ thuật trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
3.1 Với phạm vi vấn đề trên và để đạt đ-ợc mục đích đã đề ra, trong đề tài này chúng tôi sử dụng các ph-ơng pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử giúp phân tích các vấn đề lý luận và phê bình của các nhà thơ mới trong giai đoạn 1932 - 1945, từ đó làm nổi bật tính dân tộc theo quan niệm của họ trong bối cảnh lịch sử đầy biến động Qua đó, chúng ta cũng có thể phát hiện những ý kiến mới mẻ, vượt thời đại lãng mạn, phản ánh sự sáng tạo và tinh thần đổi mới của các tác giả trong thời kỳ này.
Phương pháp so sánh - đối chiếu được áp dụng để thống kê và phân loại ý kiến của các nhà thơ mới về văn chương, nhằm làm nổi bật tính dân tộc theo quan niệm của họ Đồng thời, khóa luận cũng đối chiếu với các ý kiến của các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình giai đoạn sau, từ đó làm rõ nét đặc trưng của các quan điểm này.
Phương pháp phân tích tổng hợp cho phép chúng tôi xác định "tính dân tộc" trong quan niệm của các nhà thơ mới khi nghiên cứu về đề tài này.
3.2 Do bản chất đối t-ợng, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi tự đề ra một số nguyên tắc sau đây:
Tính dân tộc không phải là một khái niệm tĩnh mà luôn vận động, bao gồm cả sự sinh sôi và loại thải Do đó, nghiên cứu cần có cái nhìn biện chứng, không cứng nhắc Việc giữ gìn bản sắc dân tộc không đồng nghĩa với việc đóng cửa giao thương hay ngăn cản sự phát triển Thay vào đó, cần phải bồi bổ và phát triển để tránh rơi vào cảnh nghèo đói, điều mà các nhà thơ mới cũng đồng quan điểm.
Trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, việc xem xét ý kiến của các nhà thơ mới là rất cần thiết, đặc biệt khi đối diện với những nhà nho bảo thủ không chấp nhận ảnh hưởng của phương Tây Những cuộc tranh luận căng thẳng đã diễn ra, và quan điểm của người nghiên cứu nghiêng về cái mới, cái tiến bộ, nhưng vẫn giữ một cái nhìn khoan dung đối với những nhà nho mong muốn bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích ý kiến lý luận phê bình văn học về tính dân tộc trong thơ của các nhà thơ mới tiêu biểu như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử và Thái Can, mà không đi sâu vào các hình tượng thơ cụ thể.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
5.1 Hiểu khái niệm "tính dân tộc" trong văn ch-ơng nh- một phạm trù mỹ học
5.2 Khảo sát các ý kiến để thấy rõ tính dân tộc trong quan niệm của các nhà thơ mới, qua đó khẳng định dù chịu ảnh h-ởng của ph-ơng Tây nh-ng các nhà thơ mới vẫn là nhà thơ của dân tộc Việt Nam.
Cái mới của đề tài
Đề tài này khảo sát "Tính dân tộc" trong quan niệm của các nhà thơ mới, cho thấy mặc dù họ chịu ảnh hưởng từ phương Tây và thơ Đường, nhưng vẫn thể hiện ý thức mạnh mẽ về bản sắc văn hóa Việt Nam trong sáng tác của mình.
Khoá luận này hỗ trợ giáo viên dạy văn học ở trường phổ thông và sinh viên tìm hiểu sâu về quan niệm "Tính dân tộc" trong thơ mới, từ đó nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập, đồng thời cải thiện khả năng thẩm bình và đánh giá thơ mới.
PhÇn Néi dung
Khái niệm tính dân tộc
Để hiểu khái niệm "Tính dân tộc", tr-ớc hết chúng ta tìm hiểu khái niệm
Theo Xtalin, "dân tộc" được định nghĩa là một cộng đồng người ổn định, hình thành qua lịch sử, dựa trên các yếu tố như ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý văn hóa chung.
Dân tộc không đồng nghĩa với chủng tộc; màu da như trắng, vàng hay đen không xác định dân tộc Dân tộc gắn liền với khái niệm quốc gia thống nhất, có chung lãnh thổ và lịch sử Hơn nữa, dân tộc không phải là khái niệm liên quan đến chính quyền nhà nước.
Dân tộc được hình thành từ ba yếu tố chính: lợi ích cơ bản và lâu dài như độc lập, tự do, an ninh và hòa bình; tính nhân dân, nơi mà nhân dân là những người tạo nên lịch sử và sản xuất ra của cải cho xã hội; và sự tôn trọng đời sống, hạnh phúc, danh dự của các dân tộc khác Đặc thù trong đời sống của mỗi dân tộc góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo, được gọi là tính dân tộc.
Tính dân tộc trong văn học là khái niệm thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa văn học và dân tộc, phản ánh những đặc điểm độc đáo và bền vững trong các tác phẩm của một dân tộc Khái niệm này được hình thành qua quá trình phát triển lịch sử và giúp phân biệt văn học của một dân tộc với các dân tộc khác.
Tính dân tộc trong văn học thể hiện rõ ràng qua cả nội dung lẫn hình thức, với "màu sắc" dân tộc được thể hiện qua ngôn ngữ, thiên nhiên, phong tục tập quán và sinh hoạt Khi đọc tác phẩm văn học của một dân tộc, người đọc như sống trong thế giới riêng của họ Văn học Việt Nam thường miêu tả thiên nhiên làng quê với cây cỏ, hoa trái và các phong tục như hát chèo, hát đối Ngược lại, văn học Nga lại thể hiện một thiên nhiên khác biệt với cánh đồng tuyết trắng, cổ xe tam mã và những cơn bão tuyết, tạo nên bức tranh mùa thu vàng và hình ảnh cây bạch dương.
Thiên nhiên dân tộc không chỉ đơn thuần là các hiện tượng vật chất, mà còn mang trong mình những nét đẹp và tâm hồn riêng, hòa quyện với hình ảnh con người Trong tiểu thuyết "Hòn đất" của Anh Đức, nhân vật Ngạn nhận thấy ở người yêu sự kết tinh của nhiều yếu tố, như "trái măng cụt ngọt thau", "những hàng cây vàng nắng", "lá cành lêkima xanh non", cùng với "tiếng nói yêu thương, âu yếm của các mẹ già".
Tính dân tộc trong văn học không chỉ thể hiện qua hình thức bên ngoài mà còn nằm ở tinh thần dân tộc Nhà thơ có thể miêu tả những thế giới khác lạ nhưng vẫn giữ được cái nhìn từ góc độ dân tộc của mình Gớt nhấn mạnh rằng nhà văn cổ điển phải thấm nhuần tinh thần dân tộc, và Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng văn chương cần lột tả tinh thần này Quan điểm cho rằng tính dân tộc là biểu hiện của tinh thần dân tộc là chính xác, vì tác phẩm văn học không chỉ là sản phẩm của cá nhân nghệ sĩ mà còn là tiếng nói của cả một dân tộc Trong các thời kỳ khác nhau, tính dân tộc của văn học có thể được thể hiện qua ngôn ngữ vay mượn, như văn học viết bằng chữ Hán trong quá khứ hay văn học cách mạng sử dụng chữ Hán và chữ Pháp sau này.
Tinh thần dân tộc phản ánh tính cách và cái nhìn của người dân đối với cuộc sống Tính cách dân tộc bao gồm những phẩm chất đặc trưng, tạo nên bản sắc tinh thần riêng, ví dụ như truyền thống thương người và ý chí kiên cường của người Việt Nam.
Tính cách dân tộc không phải là một sản phẩm đồng nhất cho mọi thành viên, mà là sự thống nhất trong đa dạng và ổn định trong biến đổi Nó không chỉ là những nét tính cách lặp đi lặp lại một cách đơn điệu trong văn học, mà còn thể hiện sự phát triển qua thời gian mà không làm mất đi cá tính riêng của từng cá nhân trong dân tộc.
Tính cách dân tộc không chỉ đơn thuần là danh sách các phẩm chất như cần cù, yêu nước hay kiên cường, bất khuất, mà là một tổng thể thể hiện sự liên kết giữa các phẩm chất cụ thể Chẳng hạn, lòng thương người của người Việt Nam gắn liền với đức hy sinh, sự kiên nhẫn và lòng thủy chung.
Tinh thần dân tộc được thể hiện qua cái nhìn riêng biệt của từng nền văn hóa đối với thế giới Trong không gian và thời gian của người sống trong thế giới du mục, hình ảnh con ngựa, bãi chăn và lều bạt trở thành biểu tượng của sự tồn tại Ngược lại, ở một quốc gia nông nghiệp nhiệt đới, Nguyễn Du phản ánh cuộc sống qua sự phát triển của cây cối Ông diễn tả nỗi đau mất mát khi người trẻ ra đi: "Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây" Sự xa cách quê hương được thể hiện qua câu thơ "Thiếp như hoa đã lìa cành", và khi quyết tâm chấp nhận số phận, ông viết: "Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh" Cái nhìn dân tộc không chỉ khám phá mà còn làm nổi bật những nét độc đáo trong cuộc sống của con người.
Tính dân tộc được thể hiện rõ qua hình thức tác phẩm văn học, với mỗi nền văn học dân tộc sở hữu một hệ thống thể loại truyền thống riêng Các phương tiện miêu tả và biểu hiện cũng mang đặc trưng độc đáo, đặc biệt là ngôn ngữ dân tộc, phản ánh tư duy và thị hiếu của cộng đồng.
Nghệ thuật dân tộc là biểu tượng của mùi hương quê hương, mang trong mình hai tầng ý nghĩa: một là sự hiện tại và một là ký ức tuổi thơ đầy cảm xúc Những từ ngữ trong nghệ thuật này không chỉ thân thuộc mà còn gợi lên sự ngon lành và hình ảnh sống động, tạo nên sự kết nối sâu sắc với nguồn cội văn hóa.
Ngôn ngữ chủ yếu trong văn chương Việt Nam là tiếng Việt, với chữ viết mang đậm bản sắc dân tộc Mặc dù có sự ảnh hưởng của tiếng nước ngoài, nhưng ngôn ngữ này đã được dân tộc hóa qua vần điệu, đối, luật bằng trắc, âm điệu và nhịp điệu Sự phong phú và uyển chuyển của tiếng Việt đã tạo nên kho tàng dân ca phong phú và nhiều tác phẩm kiệt xuất của các tác giả như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương Những điệu hát dân ca như điệu cò lả trở thành nguồn cảm hứng không thể thiếu cho nhiều nhà thơ, nhà văn Cảnh sắc thiên nhiên như cây tre, bến nước sân đình, cây đa, dòng sông, con đò đã góp phần tạo nên những áng văn và câu thơ đặc sắc.
Nhân vật: con ng-ời của dân tộc đó thành nhân vật chủ yếu của văn học
Nhân vật nổi tiếng từ nước ngoài có thể mang yếu tố con người, nhưng vẫn phản ánh bản sắc văn hóa của dân tộc đã tạo ra tác phẩm, như trường hợp của Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Khái quát về tính dân tộc trong văn học Việt Nam
2.1 Nhìn chung về tính dân tộc trong văn học Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước là truyền thống cao quý và lâu đời nhất của nhân dân Việt Nam, thể hiện sức mạnh kỳ diệu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước suốt bốn nghìn năm Truyền thống này không chỉ phản ánh bản lĩnh và sức mạnh Việt Nam mà còn là hạt nhân quyết định tính dân tộc độc đáo của đất nước Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa yêu nước được thể hiện rõ nét trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam.
2.1.1 Tính dân tộc trong văn học dân gian
Văn học dân gian là một phản ánh chân thực và giản dị của cuộc sống, nơi ta tìm thấy vẻ đẹp của thiên nhiên và phong cách con người, đồng thời thể hiện sự tinh tế của tâm hồn dân tộc Việt Nam Tính dân tộc là yếu tố không thể tách rời khỏi văn học dân gian, và ngược lại, văn học dân gian là minh chứng cho bản sắc dân tộc Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá những đặc điểm đặc thù của văn học dân gian, qua đó làm nổi bật những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt.
Trong bối cảnh lịch sử dân tộc, chữ viết ra đời muộn và văn học thành văn chưa phát triển, văn học dân gian đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tâm lý dân tộc Các tác phẩm văn hóa dân gian còn lại cho phép chúng ta khôi phục hình ảnh thời kỳ đầu của dân tộc Những hình tượng thần thoại và anh hùng ca như Âu Cơ - Lạc Long Quân, Sơn Tinh - Thủy Tinh, và Thánh Gióng phản ánh rõ nét tâm lý dân tộc, từ đó khẳng định tính cách chân chính của người Việt Điều này bao gồm ý thức sâu sắc về tổ tiên, lòng yêu quê hương, tinh thần cộng đồng, sự kiên trì, sáng tạo văn hóa, và lòng dũng cảm trước thiên nhiên và kẻ thù.
Bằng việc sử dụng phương pháp tường trưng và phóng đại một cách cô đúc và giản dị, nhiều tác phẩm dân gian đã phản ánh sâu sắc quá trình khai phá và xây dựng dân tộc của tổ tiên, cũng như sự nảy nở của tình yêu và tình cảm con người, điển hình như câu chuyện Sơn Tinh.
Câu chuyện "Thuỷ Tinh" mang đến một thông điệp lạc quan và sâu sắc về ý chí chiến thắng thiên nhiên của nhân dân Việt Nam, một dân tộc phải đối mặt với nhiều thiên tai khắc nghiệt Sự chiến thắng của Sơn Tinh trước Thuỷ Tinh tượng trưng cho sức mạnh tập thể của cộng đồng trong việc chống lại nạn hồng thuỷ Ngoài ra, câu chuyện cũng phản ánh sự phát triển của nền nông nghiệp sớm, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển dân tộc.
Nạn xâm l-ợc từ phương Bắc là một trong những mối đe dọa lớn đối với dân tộc Việt Nam, bên cạnh thiên nhiên Trong văn học dân gian, Thánh Gióng không chỉ là một câu chuyện bình dị mà còn phản ánh ý chí quyết thắng của nhân dân trước quân xâm l-ợc Qua đó, chúng ta nhận thấy nền văn minh đồ sắt và cơ sở nông nghiệp là những yếu tố quan trọng trong sự hình thành dân tộc Sáng tác dân gian từ thuở ban đầu đã thể hiện bản lĩnh và tinh thần quyết chiến của dân tộc, đồng thời phản ánh nhịp sống và tâm hồn của người Việt Các truyền thuyết như Vua Hùng, Thánh Gióng, và Sơn Tinh - Thủy Tinh đều gần gũi với cuộc sống thực tại, mang đậm tình cảm dân tộc và thể hiện sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại Điều này cho thấy ý thức dân tộc đã hình thành sớm và văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ý thức dân tộc và khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam.
Trong lịch sử, sự mất cảnh giác của các triều đại phong kiến đã tạo điều kiện cho kẻ thù xâm lược đất nước Câu chuyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ trong văn học dân gian không chỉ cảm động mà còn sâu sắc, thể hiện bi kịch lịch sử giữa hai nhân vật Tác phẩm này đã truyền tải bài học về ý thức cảnh giác, giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn sau hàng ngàn năm.
Văn học dân gian Việt Nam thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ và ý thức sâu sắc về giá trị của độc lập, tự do Ngoài việc phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều tác phẩm còn khắc họa quá trình bảo vệ vận mệnh dân tộc trước xâm lược Đồng thời, văn học cũng ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam và phê phán những khía cạnh tàn nhẫn, vô nhân đạo trong xã hội.
Qua nhiều câu chuyện như Trầu Cau, Cây Khế, Tấm Cám, Thạch Sanh, và các tác phẩm thơ Nôm như Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa, chúng ta thấy sự phát triển của ý thức dân chủ trong xã hội Cuộc đấu tranh chống lại các thế lực phong kiến từ chế độ gia trưởng phụ quyền đến vua quan thể hiện khát vọng xây dựng một xã hội nơi cái thiện thắng cái ác Nhân dân mong muốn những người làm việc thiện được hưởng hạnh phúc, trong khi kẻ ác phải chịu thất bại và đau khổ Điều này cho thấy con người có quyền sống trong hạnh phúc, dù chỉ trong khuôn khổ của chế độ phong kiến.
Văn học dân gian thể hiện tính dân tộc qua việc sử dụng thành thạo tiếng nói dân tộc, đồng thời làm phong phú thêm ngôn ngữ này Những câu thơ trong văn học dân gian mang âm thanh tinh tế, giàu nhạc điệu và chất thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho tiếng nói dân tộc.
Văn học dân gian Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong nền văn học nước nhà, phản ánh sinh hoạt và cuộc sống của nhân dân Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận nguồn tình cảm dân tộc và quá trình phát triển ý thức dân tộc, từ đó thấy được văn hóa thuần túy Việt Nam Tuy nhiên, văn học dân gian cũng chỉ ra những tồn tại và hạn chế của dân tộc Để hiểu rõ tính dân tộc, cần có cái nhìn phê phán và tự hào về nền văn học phong phú, mạnh mẽ, nhưng cũng phải nhận thức rằng nó phát triển trong bối cảnh xã hội nông nghiệp lạc hậu và bị xâm lược nhiều thế kỷ, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học thành văn.
Văn học dân gian tuy phong phú nhưng không thể thay thế văn học thành văn, vì văn học viết là biểu hiện quan trọng của sự phát triển văn hóa mỗi dân tộc Do đó, cần phải tôn trọng cả hai thể loại văn học này, không nên xem nhẹ văn học thành văn.
Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm về truyền thống văn học viết để thấy rõ hơn những đặc điểm tính dân tộc trong nền văn học ta
2.1.2 Tính dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam
Văn học dân gian Việt Nam rất phong phú và quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân, nhưng không thể thay thế văn học viết Mỗi dòng văn học có đặc điểm riêng, bổ sung cho nhau, tạo nên một bức tranh văn học đa dạng của dân tộc Văn học viết thời kỳ phong kiến nổi bật với ý thức dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, phản ánh những vấn đề trọng đại của dân tộc, cổ vũ tinh thần chống xâm lược và bảo vệ độc lập Bài thơ Chiếu dời đô thể hiện ý chí của nhà vua và nguyện vọng của nhân dân về một đất nước độc lập Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt nêu bật tinh thần bình đẳng giữa các dân tộc và được xem như bản Tuyên ngôn Độc Lập đầu tiên của dân tộc Văn học thời kỳ này, từ Chiếu dời đô đến Hịch tướng sĩ và Cáo bình Ngô, đã thể hiện rõ nét chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự lực tự cường của dân tộc, khẳng định tính dân tộc trong văn học là điều tất yếu.
Trong văn học viết, truyền thống yêu nước được thể hiện phong phú qua các tác phẩm như thơ Lý Thường Kiệt, hịch của Trần Hưng Đạo và khí thế của Trần Bình Trọng trước kẻ thù Nó còn thấm nhuần đạo lý truyền thống của dân tộc qua cáo của Nguyễn Trãi và thơ của Nguyễn Du Đồng thời, nhiều tác phẩm như thơ của Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Cao Bá Quát phản ánh tinh thần đấu tranh mạnh mẽ và tố cáo các bất công Đặc biệt, bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt thể hiện ý thức xưng đế, khẳng định bản lĩnh anh hùng của dân tộc trong bối cảnh phong kiến Chủ nghĩa yêu nước phong kiến trong văn học thể hiện qua việc giai cấp phong kiến khẳng định trách nhiệm lịch sử và đặt quyền lợi giai cấp song song với quyền lợi dân tộc.
Thể loại và hình thức văn học trong thời kỳ này rất phong phú, đặc biệt là thể thơ lục bát, một thể thơ dân gian quen thuộc, phản ánh tình cảm tinh tế của dân tộc Khi văn học viết ra đời, thể lục bát tiếp tục phát triển và được nâng lên bình diện bác học Đặc biệt, với tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và thơ của Hồ Xuân Hương, thể thơ lục bát không chỉ duy trì mà còn phát triển ở trình độ mới, hoàn thiện và điêu luyện hơn, gắn liền với đặc điểm ngôn ngữ và âm thanh nhịp điệu đặc trưng của tiếng Việt.
Nhìn chung về lý luận phê bình của các nhà thơ mới
Các bài lý luận phê bình của nhà thơ mới từ 1932 đến 1945 chủ yếu tập trung vào những vấn đề nổi bật của thời đại, đặc biệt là các cuộc tranh luận giữa thơ mới và thơ cũ, cũng như cuộc tranh luận về Truyện.
Kiều của Nguyễn Du mở ra cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, qua ý kiến của Lưu Trọng Lư Ông đánh giá "Công của thi sĩ Tản Đà" theo quan niệm của mình, cùng với những phê bình thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu và Lưu Trọng Lư Chế Lan Viên, qua bài Tựa Điêu tàn, đã tuyên ngôn về trường phái Thơ loạn, trong khi các bài viết của Hàn Mặc cũng góp phần đánh giá tác gia văn học.
Tử, L-u Trọng L-, Đoàn Phú Tứ … các bài tựa tập thơ của Hàn Mặc Tử, Đông
Trong khoá luận này, chúng tôi chỉ khảo sát một số vấn đề tiêu biểu về lý luận phê bình của các nhà thơ mới, với trọng tâm là sự khẳng định vai trò của thơ mới trong văn học và xã hội L-u Trọng L- là nhà thơ, lý luận phê bình tiên phong, đã khẳng định thơ mới là "Một cuộc cải cách về thi ca" Ông đóng góp một tiếng nói quan trọng trong cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ Thông qua những dẫn chứng cụ thể, L-u Trọng L- đã thực hiện sự đối sánh khoa học, logic giữa hai thể loại thơ, từ đó khẳng định sự đổi thay là cần thiết.
L-u Trọng L- đã thấy rõ, thơ cũ với những niêm luật chặt chẽ nên đã không diễn tả đ-ợc tình cảm tự nhiên, chân thật Ông đánh giá thơ của Bà nào, chứ tôi thì khi đọc hai câu ấy, thấy cái lòng nhớ n-ớc th-ơng nhà của bà Huyện mất vẻ tự nhiên, thành thực nhiều lắm Thật bà đã kiếm đ-ợc những chữ s-ớng nh-ng không phải giúp bà diễn tả cái nỗi lòng tha thiết của mình, mà chỉ là để kết thành hai câu thơ tài tình Tài tình ở đây là tài tình về mặt tiểu xảo" [14 - 505]
L-u Trọng L- đã rất nhiều lần phê phán các nhà thơ x-a chỉ là "Các tay thợ… chỉ chuyên một mặt từ văn ch-ơng âm vận: Lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo văn ch-ơng hoa hoè sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối d-ới những cái t- t-ởng tầm th-ờng" [14 - 493] Đó là nguyên nhân làm cho thơ ca n-ớc nhà "Ngắc ngoải không có lấy một chút sinh khí", đã đến lúc phải "Xoay ph-ơng cứu chữa gấp" nếu không "Còn chi là tính mệnh của thi ca"
Sự ra đời của thơ mới đánh dấu một cuộc "cải cách" quan trọng, khẳng định sự tồn tại của cái tôi cá nhân và phát triển tự nhiên của tình cảm Thơ mới có giá trị trong việc thúc đẩy sự tự do trong thi ca, đưa nghệ thuật đến những tầm cao mới, đồng thời khuyến khích các nhà thơ thực hiện những cuộc cách tân sáng tạo.
L-u Trọng L- đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thơ mới là đã cho ra đời những "Bậc thi nhân chân chánh" Đó là những ng-ời dám phá bỏ "lãnh thổ", hẹp hòi, ngột ngạt để đ-a tâm hồn "Lên tận mây xanh, phảng phất những sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày" [14 - 496] là những ng-ời "Thà là chỉ rung động trong mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài mà để cho những cái niêm luật khắc khổ làm giết mất cái hồn thơ lai láng mênh mông" [14 - 496] Những nhà chân thi nhân xuất hiện theo L-u Trọng L- là vì giờ đây chúng ta đã có những tình cảm mới mẻ nhờ sự tiếp xúc với văn hóa Âu Tây mà "Với những tâm trạng mới phải có những văn thể mới" (Lanson) Từ đó, ông chủ tr-ơng: "Thơ ca n-ớc nhà không thể gò bó trong khuôn khổ chật hẹp mà phải mở rộng lãnh thổ của mình… Chỉ có trong khuôn khổ mềm mại, linh hoạt của thơ mới mới có thể diễn tả hết cái tình tứ trong tâm hồn thi nhân"
Trong cuộc xung đột giữa "thơ cũ" và "thơ mới", các nhà thơ mới đã tự nhiên phủ nhận thơ cũ Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu việc phủ nhận thơ cũ có đồng nghĩa với việc từ chối các giá trị dân tộc mà thơ truyền thống đã gìn giữ và phát triển hay không? Những vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ trong những phần tiếp theo.
Các nhà thơ mới đã đặc biệt chú ý đến các cuộc tranh luận văn học nổi tiếng thời bấy giờ, đóng góp những ý kiến khách quan và khoa học với một góc nhìn mới mẻ và thông thoáng.
L-u Trọng L- trong bài Mấy lời chiêu thuyết cho V-ơng Thuý Kiều đã góp tiếng nói của mình vào một trong những cuộc tranh luận nổi bật nhất, đ-ợc chú ý nhất, mang tính học thuật khá cao là tranh luận về Truyện Kiều
(1924) giữa một bên là tầng lớp trí thức tiểu t- sản và một bên là các nhà nho L-u Trọng L- đã đứng về phía cái mới
Vào ngày giỗ của Nguyễn Du (10/8/1924), Phạm Quỳnh, chủ bút tạp chí Nam Phong, đã đọc bài điếu văn ca ngợi Truyện Kiều như một "sách thánh" của người An Nam Ông mô tả tác phẩm là "Thánh thư" và "Phúc âm" Bài viết của Phạm Quỳnh nhận được sự đồng tình từ một số ý kiến, nhưng cũng vấp phải nhiều phản đối, đặc biệt từ Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng Huỳnh Thúc Kháng cho rằng Kiều chỉ là "…phường trăng gió…chỉ đứng đầu…giở lịch sử…chuyện thanh lâu…" (trích báo Tiếng dân, 1 tháng 11).
1933) Sau bài viết của Huỳnh Thúc Kháng, L-u Trọng L- đã cho đăng bài
Mấy lời chiêu tuyết cho V-ơng Thuý Kiều (In trên tuần báo Phụ nữ thời đàm, năm thứ t-, tập mới, số 13 ngày 10/12/1933) nhằm trả lại sự trong sạch cho
Trong bài viết, L-u Trọng L- đã bác bỏ những lời buộc tội Kiều là lẳng lơ và khẳng định rằng số phận của nàng đã được định đoạt từ kiếp trước, vì vậy nàng chỉ có thể tuân theo Ông không đồng tình với quan điểm quá đề cao của Phạm Quỳnh về Truyện Kiều như một "Thánh th-", mà thay vào đó, đưa ra đánh giá công bằng và khách quan L-u Trọng L- nhận định rằng Kiều "là hạng người mà ta không nên khinh nên ghét hơn hết" và mô tả Truyện Kiều là "một khúc nhạc êm đềm, thánh thót" đã làm phong phú thêm đời sống dân tộc Bài viết của L-u Trọng L- mang đến cái nhìn mới mẻ và toàn diện hơn về giá trị của Truyện Kiều cũng như tấm lòng của Nguyễn Du.
Cuộc tranh luận về Truyện Kiều của Nguyễn Du phản ánh hai quan niệm văn học: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh Các nhà thơ mới như Lưu Trọng Lư và những người ủng hộ như Thiếu Sơn, Hoài Thanh đứng về phía Nghệ thuật vị nghệ thuật, bảo vệ sự tự do và độc lập trong văn chương Lưu Trọng Lư đã bác bỏ quan điểm của Bùi Công Trừng rằng "Văn học Việt Nam phải khích động bởi động lực xã hội chủ nghĩa", nhấn mạnh rằng văn chương không có giai cấp và không nên phục vụ cho một tầng lớp nào Ông khẳng định rằng nếu văn chương chỉ phục vụ cho một giai cấp, thì không thể có nền văn học chân chính.
Văn chương muôn đời, theo Lưu Trọng Lư, lấy "lòng người" làm căn bản, phản ánh sự phát triển đẹp đẽ của tâm hồn nhân loại Ông nhấn mạnh rằng văn chương không phân biệt Đông hay Tây, không có tính kim cổ, mà có tính chất bất tuyệt theo thời gian, vì nó xuất phát từ lòng người, thứ mà không bao giờ thay đổi Quan niệm này thể hiện rõ sự trường tồn và giá trị vĩnh cửu của văn chương trong đời sống con người.
Cùng đứng về phía Nghệ thuật vị nghệ thuật, Hàn Mặc Tử cũng cho rằng
Để hiểu biết về nghệ thuật, cần viết ra những cảm xúc sâu sắc trong lòng và nuôi dưỡng một tâm hồn cao thượng Nghệ thuật chính là sự tinh túy, là hình ảnh của vẻ đẹp thuần khiết, mang đến cảm giác tươi mới Tuy nhiên, nghệ sĩ thường phải đối mặt với nhiều khó khăn và nỗi đau trong hành trình sáng tạo Nếu không có niềm đam mê và cảm hứng từ nghệ thuật, cuộc sống sẽ trở nên buồn tẻ và chán nản Nghệ thuật tồn tại vì chính nó, và đó là điều Bùi Công Trừng đã nhấn mạnh trong bài viết "Bàn qua về nghệ thuật" để đáp lại Lưu Trọng Lư.
Các nhà thơ mới bàn về tính dân tộc trong văn ch-ơng
Tính dân tộc trong văn chương là một chủ đề ít được thảo luận trong lý luận phê bình, nhưng các nhà thơ mới đã thể hiện quan điểm của họ một cách rõ ràng về vấn đề này.
Nhà thơ và nhà phê bình Xuân Diệu đã có những quan điểm sâu sắc về tính dân tộc trong văn chương qua bài tiểu luận "Tính cách An Nam trong văn chương, Mở rộng văn chương" Bài viết này không chỉ phân tích đặc điểm văn hóa An Nam mà còn làm nổi bật sự phát triển và mở rộng của văn chương Việt Nam.
Ngoài ra ông có hai bài phê bình về tác gia thơ mới là Thơ Huy Cận và Công của thi sĩ Tản Đà
L-u Trọng L-u với bài Một nền văn ch-ơng Việt Nam cũng trực tiếp đ-a ra những quan niệm của mình về tính dân tộc trong văn ch-ơng Bên cạnh đó, ông còn có bài Đọc "Thơ thơ" của Xuân Diệu (Th- gửi cho em gái), Một cuộc cải cách về thi ca, Phong trào thơ mới, Bức th- thứ nhất gửi lên Khê Th-ợng,
Bức th- thứ hai gửi lên Khê Th-ợng… trình bày một cách gián tiếp những ý kiến của mình về vấn đề tính dân tộc trong văn ch-ơng
Cùng quan điểm với Xuân Diệu, L-u Trọng L- còn có ý kiến của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên …
Các nhà thơ mới nhất trí rằng văn chương Việt Nam cần phải mang đậm bản sắc văn hóa Việt Mặc dù thơ mới chịu ảnh hưởng từ thơ văn Pháp, nhưng vẫn khẳng định được tính cách riêng của dân tộc.
"Cái gì không hợp với tiếng Việt Nam tất phải chết." Nhờ vào tư tưởng và quan niệm đúng đắn về tính dân tộc, cùng với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, các nhà thơ Việt Nam đã sáng tạo ra phong trào thơ mới, mang đậm màu sắc dân tộc Xuân Diệu không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là nhà phê bình tâm huyết với sự phát triển của văn học nước nhà, đặc biệt quan tâm đến vấn đề tính dân tộc trong văn học.
Xuân Diệu nêu bật vấn đề Tính cách An Nam trong văn chương, một chủ đề quan trọng cho văn học Việt Nam khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây Ông cảm nhận rằng phương Tây đã chạm đến sâu thẳm tâm hồn, khiến con người không còn cảm nhận niềm vui hay nỗi buồn như trước đây Sự thay đổi này phản ánh sự chuyển mình trong cảm xúc và tư tưởng của người Việt Nam trong bối cảnh giao thoa văn hóa.
Luồng gió văn hóa phương Tây đã mang đến Việt Nam những giá trị văn hóa tinh thần khác biệt so với văn hóa phương Đông, thể hiện rõ qua sự trái ngược trong quan niệm và cảm xúc Trong khi thế hệ trước coi trọng màu đỏ, thì thế hệ trẻ lại ưa chuộng màu xanh nhạt Các cụ thường bâng khuâng với tiếng trùng trong đêm khuya, còn giới trẻ lại cảm thấy xao xuyến trước tiếng gà lúc đúng ngọ Một cô gái xinh xắn, ngây thơ có thể bị xem là tội lỗi trong mắt các cụ, nhưng đối với thế hệ mới, đó lại là hình ảnh tươi mát như cánh đồng xanh Tình yêu của các cụ chỉ gói gọn trong hôn nhân, trong khi đối với thế hệ trẻ, tình yêu phong phú với nhiều sắc thái: từ say đắm đến thoảng qua, từ gần gũi đến xa xôi.
Không thể phủ nhận rằng việc không tiếp thu văn học phương Tây sẽ cản trở quá trình hiện đại hóa nền văn học nước ta Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, một nền văn hóa chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia sẽ khó có thể tự phát triển Để nền văn hóa của mỗi dân tộc thực sự phong phú, cần có sự giao lưu và liên kết với các quốc gia khác, mang lại tính chất quốc tế trong khoa học và nghệ thuật.
Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây có thể dẫn đến sự Tây hóa nền văn học Việt Nam Nếu văn hóa Việt Nam bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi văn hóa phương Tây, điều này sẽ đặt ra câu hỏi về tương lai của văn hóa dân tộc Mất văn hóa đồng nghĩa với việc mất đi bản sắc dân tộc, vì văn hóa chính là "sào huyệt cuối cùng" mà một dân tộc dựa vào để khôi phục những giá trị đã mất.
Nhiều nhà văn Việt Nam đã gặp khó khăn trong việc tiếp cận giá trị văn hóa phương Tây, dẫn đến việc họ không theo kịp xu hướng nghệ thuật hiện đại, như trường hợp của Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng Một số nhà văn lại quá phụ thuộc vào văn hóa phương Tây, khiến văn học Việt Nam mất đi bản sắc riêng, ví dụ như việc sáng tác thơ Đường bằng tiếng Pháp Tuy nhiên, hầu hết các nhà văn đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học hỏi từ văn học phương Tây để đổi mới và hiện đại hóa văn học dân tộc, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam Vì vậy, nhiều nhà thơ đã trở về với chất liệu văn hóa Việt Nam trong đề tài, cảm xúc và cách thể hiện, như hồn thơ của Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp mang âm hưởng dân gian dân tộc.
Xuân Diệu, một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới, nổi bật với phong cách Tây phương nhưng vẫn kiên định bảo vệ bản sắc văn hóa An Nam Ông thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gìn giữ giá trị văn hóa dân tộc trong các tác phẩm và bài phê bình của mình.
Kế Bính, Phạm Quỳnh, Hoài Thanh, Thạch Lam, và Lan Khai là những tên tuổi nổi bật trong văn học Việt Nam Xuân Diệu mở đầu bài viết bằng cách khẳng định rằng văn chương An Nam cần phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc Ông nhấn mạnh rằng đây là một điều hiển nhiên và hợp lý, cho thấy tầm quan trọng của việc giữ gìn tính cách An Nam trong sáng tác văn học.
Xuân Diệu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc trong văn học Việt Nam, khẳng định rằng bản sắc dân tộc vẫn luôn hiện hữu dù có sự ảnh hưởng từ văn hóa Âu hóa Ông cho rằng văn chương Việt Nam cần có "tính cách An Nam," phản ánh tinh thần và cội nguồn văn hóa độc đáo của dân tộc Những hình ảnh quê hương như cảnh sắc làng quê, phong tục tập quán đều là phần không thể thiếu trong tâm thức người Việt Xuân Diệu cũng chỉ ra rằng văn học không phù hợp với truyền thống sẽ nhanh chóng bị đào thải, như dòng văn học chống cộng ở miền Nam chỉ tồn tại trong thời gian ngắn Ông lạc quan tin rằng văn chương Việt Nam sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực từ các yếu tố ngoại lai, vì những "cỏ dại" không phù hợp sẽ tự biến mất.
Xuân Diệu không chỉ viết về Tính cách An Nam trong văn chương mà còn phê bình thơ của các nhà thơ như Tản Đà và Huy Cận, nhấn mạnh tính dân tộc trong sáng của họ Trong bài phê bình "Công của thi sĩ Tản Đà", Xuân Diệu đã khẳng định rằng Tản Đà là thi sĩ đầu tiên của thơ Việt Nam hiện đại, mang đậm tính An Nam Ông đã nghiên cứu thơ Tản Đà trong suốt 25 năm và nhận xét rằng tính dân tộc trong thơ ông là hiện tượng hoàn chỉnh, giúp hiểu rõ tâm hồn của một thời đại dân tộc Thơ Tản Đà được xem là những hoa quả đầu mùa của chủ nghĩa lãng mạn, thể hiện sự chân thành và cảm xúc sâu sắc Xuân Diệu ca ngợi Tản Đà vì đã dám mơ mộng và sống với trái tim và linh hồn của mình, không chỉ gói gọn trong cuộc sống vật chất.
Tính dân tộc trong thơ Tản Đà được thể hiện qua những vần thơ nhẹ nhàng và những câu ca có duyên, mang đậm hơi thở tự nhiên của phong cảnh Việt Nam Giọng thơ của ông trôi chảy, dễ dàng kết hợp giữa sự mặn mà và ý nhị Hài hước trong thơ Tản Đà vừa bóng bẩy vừa ngộ nghĩnh, tạo nên một nét hóm hỉnh nhẹ nhàng đặc trưng cho văn hóa An Nam.
Em đi mua r-ợu cho chồng em xơi Chồng h- mang tiếng mang tai Tiếng tai thiếp chịu hơn ai không chồng
Quan niệm về tính dân tộc của các nhà thơ mới nh- là những yếu tố đã ổn định
Văn học dân tộc chỉ có thể phát triển mạnh mẽ và đậm đà bản sắc khi kế thừa các giá trị truyền thống Truyền thống không chỉ gìn giữ những tư tưởng thẩm mỹ và kinh nghiệm nghệ thuật của cha ông, mà còn gợi cảm hứng sáng tạo cho các thế hệ sau Như ông Phạm Văn Đồng đã nói, "Truyền thống là vốn quý báu vô cùng, di sản của biết bao thế hệ, bông hoa thơm nhất của dân tộc." Do đó, để viết văn hiệu quả, việc học tập và nghiên cứu vốn văn nghệ của dân tộc là điều cần thiết.
Lan Khai đã nhấn mạnh rằng mỗi dân tộc đều mang trong mình một tinh thần riêng biệt, và tâm hồn của họ luôn có những giới hạn khó có thể vượt qua Dù cho các chế độ, lý thuyết, chính thể, phong tục, và tín ngưỡng có thay đổi theo thời gian, thì bản chất và nền tảng tâm hồn của mỗi dân tộc vẫn luôn được giữ nguyên.
Dân tộc Việt Nam sở hữu một nền văn hoá độc đáo, thể hiện sức mạnh và ý chí "Không có gì quý hơn độc lập tự do" Ý chí này đã ăn sâu vào tâm thức người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sức mạnh quật cường chống lại mọi kẻ thù xâm lược Đối với người Việt, tinh thần này không chỉ là sức mạnh vật chất mà còn là một đạo lý làm người, quốc hồn, quốc tuý, phản ánh bản chất tinh thần dân tộc Việt Nam, một cốt lõi độc đáo và lâu đời.
Việt Nam sở hữu một nền đạo lý đặc sắc, thể hiện qua lòng thuỷ chung và các giá trị truyền thống như nhân, nghĩa, tình thương Những yếu tố này tạo nên gốc rễ của đạo lý Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh ý thức cộng đồng, một biểu hiện quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa Việt Nam mang trong mình những giá trị ổn định, được kế thừa qua mọi thời đại, bao gồm cả thơ mới Dù có sự biểu hiện khác nhau, những tinh túy của văn hóa dân tộc vẫn luôn hiện hữu trong nền văn học "Sự duy nhất của lòng người qua thời gian chính là một chân lý."
Xuân Diệu khẳng định rằng dù có sự Âu hóa, đặc trưng văn hóa dân tộc vẫn tồn tại trong máu và từng phần cơ thể Ông nhấn mạnh rằng văn chương Việt Nam cũng mang một tinh thần riêng biệt, khó có thể diễn đạt một cách rõ ràng, và để cảm nhận được điều đó, chúng ta cần có một cảm xúc đặc biệt.
Chúng ta cần giữ gìn "tính cách An Nam" trong văn chương, đặc biệt là các giá trị hiện có Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là một trong những giá trị văn chương quý báu, giúp người dân tin vào tài năng và khả năng của dân tộc Những câu thơ đẹp nhất trong Truyện Kiều mang đậm bản sắc Việt Nam Mặc dù trong thơ mới, các giá trị truyền thống không luôn hiện hữu rõ ràng, nhưng các nhà lý luận phê bình đã khẳng định rằng những giá trị này "không thể nào tiêu diệt được" Chúng ta cần nhận diện và làm nổi bật những nét đẹp của nòi giống, từ đó xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thông qua sự sáng tạo trong mọi tác phẩm văn chương.
L-u Trọng L- nhấn mạnh rằng "cái Tây ph-ơng bộc lộ sẽ hàng phục trước cái Đông ph-ơng hàm d-ỡng", khẳng định giá trị vĩnh cửu của dân tộc sẽ mãi mãi tồn tại trong lòng con người Nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam là tiếp nối và truyền giao quá khứ cho thế hệ sau, giúp người Việt Nam bất diệt trong tinh thần và tư tưởng.
Tính dân tộc là một phạm trù lịch sử có sự vận động đổi mới, bổ sung
Kế thừa truyền thống là điều kiện cần thiết để hiện đại hóa nền văn học Việt Nam mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc Tuy nhiên, việc này không nên trở thành "Phục cổ", khiến chúng ta tự hãm mình vào quá khứ và trở thành nô lệ của truyền thống Thuyết "Tính cách An Nam" có thể dễ dàng dẫn đến sự nhầm lẫn; chỉ cần một chút cố chấp và hủ lậu cũng đủ làm cho thuyết này trở nên chật hẹp và nông nổi.
Trong bài viết "Tính cách An Nam trong văn chương," Xuân Diệu đã khẳng định rằng việc giữ gìn "Tính cách An Nam" không đồng nghĩa với việc khép kín tâm hồn trước những điều mới mẻ Ông nhấn mạnh rằng việc bảo vệ bản sắc văn hóa không phải là đóng cửa như một cách phòng thủ, mà là mở lòng đón nhận và phát triển Điều này không phải là sống trong sự nghèo nàn, mà là tìm kiếm sự phong phú và đa dạng trong văn học.
Xuân Diệu cho rằng quan niệm cho rằng văn học cổ xưa càng đậm đà dân tộc là không hợp lý Ông nhấn mạnh rằng tiếng Việt là một công cụ linh hoạt, và không cần phải tìm kiếm những yếu tố cổ hủ không rõ ràng Điều quan trọng là văn học Việt Nam cần tiếp xúc với văn học phương Tây để phát triển và sáng tạo những cách diễn đạt mới, phù hợp với bối cảnh phức tạp của thế kỷ XX mà các thế hệ trước không thể hình dung được.
[8 - 149] Nh- vậy có nghĩa là kế thừa nh-ng phải có thái độ gạn đục khơi trong, dũng cảm loại bỏ các yếu tố lạc hậu
Xuân Diệu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ và học hỏi từ phương Tây để làm phong phú "Tính dân tộc" Ông cho rằng điều này là cần thiết để theo kịp thời đại, giúp cho sáng tác của chúng ta ngày càng tinh vi, kỹ lưỡng và khoa học hơn trong việc khám phá thế giới bí ẩn của con người Trong bài báo "Mở rộng văn chương" (Ngày nay số 148, ngày 04/02/1938), Xuân Diệu khẳng định rằng văn học Việt Nam có thể sử dụng ngôn ngữ mới miễn là đúng nghĩa, đồng thời mở mang trí não và tình cảm, làm giàu thêm cho con người Việt Nam.
Xuân Diệu đã mạnh mẽ khuyến khích việc tiếp thu văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn học, mà không coi đó là "mắc bệnh Tây" Ông trích dẫn Bêlinxki, nhấn mạnh rằng mỗi dân tộc đều mượn từ dân tộc khác những giá trị đặc sắc, đồng thời đóng góp những gì riêng có của mình vào kho tàng văn hóa chung Xuân Diệu cũng khẳng định rằng người phương Tây cũng như mọi người khác, đều sống dưới cùng một bầu trời và chịu tác động của các quy luật tự nhiên và xã hội Điều này dẫn đến sự chia sẻ những phẩm chất chung như yêu tự do, yêu hòa bình, và khát khao vươn tới những giá trị văn hóa cao đẹp.
Thái độ đóng cửa và bảo thủ trong việc tiếp thu văn hóa nước ngoài gây hại cho sự phát triển của văn học dân tộc Việc lựa chọn giá trị phù hợp với đời sống con người Việt Nam là cần thiết để văn hóa Việt Nam phát triển mạnh mẽ Xuân Diệu nhấn mạnh rằng việc sử dụng tiếng Việt cần tinh xảo và phong phú, bao gồm cả việc học hỏi từ ngôn ngữ phương Tây Ông kêu gọi giới trẻ chăm sóc và vun đắp cho văn quốc ngữ, nhấn mạnh rằng tiếng mẹ đẻ cần được gìn giữ và phát triển để không bị mai một.
Việc tiếp thu văn hóa Âu Tây là cần thiết để hiện đại hóa văn học Việt Nam, nhưng không phải là sự sao chép hay bắt chước một cách ngây ngô Sự tiếp thu thực sự là một quá trình sáng tạo, thể hiện bản lĩnh và ý thức dân tộc Xuân Diệu đã nhấn mạnh rằng văn chương là sự dò xét, đoán hiểu và sáng tạo, đồng thời khẳng định rằng chúng ta cần tạo ra những cách dùng mới để phản ánh những phức tạp của thế kỷ XX Ông cũng cho rằng việc làm giàu cho văn chương chính là làm giàu cho cuộc sống Tương tự, Bùi Công Trừng đã chỉ ra rằng chúng ta nên vui vẻ tiếp nhận các mảnh văn hóa từ khắp nơi, không phải để thờ phụng mà để biến đổi và làm phong phú thêm tinh thần dân tộc Việt Nam trong quá trình tiến hóa.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, việc tiếp thu văn học nước ngoài đã trở thành một nhu cầu thiết yếu, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Sĩ Nhiếp đã góp phần quan trọng trong việc giáo dục dân tộc ta về nông nghiệp và văn tự trong thời kỳ Bắc thuộc, đồng thời văn học phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nền văn hóa Trung Quốc Tuy nhiên, lịch sử cho thấy hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc không thể khuất phục được nhân dân ta, nhờ vào sức đề kháng mạnh mẽ của nền văn học dân tộc Các cuộc xâm lược từ Tống, Nguyên, Minh không thể tiêu diệt văn học Đại Việt, mà trái lại, nó còn phát triển mạnh mẽ, giúp dân tộc nhận thức rõ giá trị của văn học Phong trào thơ mới từ trước 1932 đã tiếp nhận tinh thần lãng mạn của văn học Pháp, với Baudelaire là nguồn cảm hứng lớn Dù chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học Việt Nam vẫn giữ được những giá trị dân tộc riêng, như trong thơ Huy Cận, nơi ông kết hợp cái rụt rè của Á Đông và cái tươi mới của Tây Âu, tạo nên "Mạch thầm" đặc sắc, phản ánh tâm hồn và tình cảm của người Việt.
Lòng quê dờn dợn vời con n-ớc Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Quan niệm về sự sáng tạo trong văn chương của Xuân Diệu tương đồng với quan điểm của nhiều nhà văn khác, trong đó có Nam Cao Nhà văn này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự sáng tạo trong việc thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của con người, cho thấy rằng văn chương không chỉ là công cụ truyền đạt mà còn là phương tiện để khám phá và thể hiện bản thân.
Văn chương không chỉ cần những người thợ khéo tay, mà là những người biết đào sâu, tìm tòi và sáng tạo Nhà văn Lan Khai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm rực rỡ tinh thần dân tộc trong sáng tác văn chương, coi đó là bước đầu tiên để xây dựng văn học Việt Nam và tạo ra một cuộc sống độc lập về tinh thần cho dân tộc Các nhà thơ mới thể hiện quan niệm năng động và cởi mở về tính dân tộc, cho rằng đây không phải là một yếu tố cố định mà là một hiện tượng lịch sử có sự phát triển và biến đổi.
L-u Trọng L- cũng thấy rõ học tập bên ngoài là "làm cho tiếng Việt Nam đ-ợc giàu có thêm"[14 - 527], mà cũng nhờ "ta đ-ợc tiếp xúc với văn hoá Âu Tây, với những thực trạng mới lạ, không phải tìm, ta cũng có những điều kiện để cho các nhà thơ "mở rộng cái "lãnh thổ" kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi, vẫy vùng" [14 - 497]
L-u Trọng L- đã có cái nhìn cởi mở khi đánh giá thơ Xuân Diệu, coi ông là "học trò của trường học mới" và là người tìm nguồn sống từ văn hóa phương Tây Ông nhận định rằng nếu thơ của Xuân Diệu mang ảnh hưởng phương Tây, đó là điều không thể tránh khỏi, vì tài nghệ không thể thay đổi tâm hồn hay sự thành thục của một nhà thơ.
Lưu Trọng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp thu văn hóa phương Tây, nhưng đồng thời cảnh báo rằng không nên "ngoại hóa" và "lột bỏ tính cách riêng" của văn hóa bản địa.
Qua phân tích các bài phê bình của các nhà thơ mới, có thể thấy họ trình bày quan niệm về tính dân tộc một cách thẳng thắn Mục đích không phải là thắng thua trong tranh luận hay lòng tự ái, mà là bày tỏ trăn trở về vấn đề học thuật Những ý kiến về tính dân tộc Việt Nam trong văn học mà họ đưa ra đều chứa đựng hạt nhân hợp lý, thể hiện ý thức say mê và nhiệt tình của những người cầm bút với nền văn học dân tộc.