1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ảnh hưởng của phật giáo đến kiến trúc và điêu khắc thái lan thời trung đại

80 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Đến Kiến Trúc Và Điêu Khắc Thái Lan Thời Trung Đại
Tác giả Nguyễn Thị An
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Thế Giới
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2008
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 449,56 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (3)
  • 2. Lịch sử vấn đề (5)
  • 3. Đối t-ợng và giới hạn của đề tài (7)
  • 4. Nhiệm vụ của đề tài (8)
  • 5. Nguồn tài liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu (8)
  • 6. Bố cục của đề tài (9)
    • 1.1. Phật giáo (10)
      • 1.1.1. Sự ra đời (10)
      • 1.1.2. Giáo lý – Giới luật (12)
      • 1.1.3. Các tông phái chính (16)
    • 1.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Thái Lan (18)
      • 1.2.1. Sự du nhập vào Thái Lan (0)
      • 1.2.2. Sự phát triển của Phật giáo Thái Lan (19)
      • 1.2.3. Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Thái Lan (22)
    • 2.1. Khái quát kiến trúc Phật giáo Thái Lan (26)
      • 2.1.1. Lịch sử kiến trúc chùa, tháp Thái Lan (26)
      • 2.1.2. Kết cấu chính của chùa, tháp (0)
      • 2.1.3. Các tr-ờng phái kiến trúc Thái Lan (0)
    • 2.2. ảnh h-ởng của Phật giáo đến một số công trình kiến trúc tiêu biểu của Thái Lan thời trung đại (36)
      • 2.2.1. Kiến trúc Phật giáo ở Chiang Mai (36)
      • 2.2.2. Kiến trúc Phật giáo ở Bangkok (0)
    • 3.1. Khái quát điêu khắc Phật giáo Thái Lan (54)
    • 3.2. ảnh h-ởng của Phật giáo đến điêu khắc Thái Lan thời trung đại 53 1. Điêu khắc t-ợng Phật Thái Lan (55)
      • 3.2.2. Điêu khắc chùa, tháp Thái Lan (0)
  • Tài liệu tham khảo (79)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Lịch sử và văn hóa Thái Lan đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước Nghiên cứu về văn hóa Thái Lan, đặc biệt là văn hóa Phật giáo, ngày càng phong phú nhưng gặp khó khăn do hạn chế về ngoại ngữ Tại Việt Nam, nhu cầu tìm hiểu văn hóa các nước trong bối cảnh hội nhập khu vực đang gia tăng, dẫn đến sự ra đời của nhiều công trình nghiên cứu nổi bật như “Thái Lan - Một số nét chính về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử” của Nguyễn Khắc Viện, “Văn hóa Thái Lan” của Phó Đài Trang, và “Thái Lan - Venice Phương Đông” của Bùi Tiến Sinh và Nguyễn Văn Điều Ngoài ra, “Văn hóa du lịch Châu Á: Thái Lan - Đất nước của nụ cười” của Vũ Thị Hạnh Quỳnh cũng góp phần làm phong phú thêm tài liệu nghiên cứu về đất nước này.

Bài viết "Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo ở Chiang Mai và Bangkok qua một số ngôi chùa tiêu biểu" của tác giả Nguyễn Lệ Thi đã khám phá nhiều khía cạnh của xã hội Thái Lan, bao gồm kinh tế, chính trị, lịch sử và văn hóa Đặc biệt, tác phẩm tập trung vào nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Phật giáo, phản ánh sự phong phú và đa dạng trong di sản văn hóa của Thái Lan.

Các tài liệu như “Văn hóa Thái Lan” của Phõ Đ¯i Trang và “Đổi thời với các nền văn hóa: Thái Lan” do Trịnh Huy Ho² biên dịch, cũng như “Thái Lan: Một số nét chính về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử” của Nguyễn Khắc Viện, đã đề cập đến nhiều vấn đề của văn hóa Thái Lan Tuy nhiên, lĩnh vực kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Thái Lan vẫn chỉ được nhắc đến một cách khái quát, chưa đi sâu vào những giá trị mà Phật giáo mang lại cho nghệ thuật Thái Lan.

Trong cuốn "Di sản văn hóa thế giới" của Bùi Đẹp và "Văn hóa du lịch Châu Á: Thái Lan - Đất nước của nụ cười" của tác giả Vũ Thị Hạnh Quỳnh, đã đề cập đến kiến trúc và điêu khắc Thái Lan thông qua một số chùa, tháp nổi tiếng Tuy nhiên, tác giả chỉ khái quát sơ lược về những công trình này với mục đích giới thiệu cho du khách mà chưa đi sâu vào nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Thái Lan Tương tự, trong cuốn "Điêu khắc Phật giáo Thái Lan" và "Tượng Phật Thái Lan và tượng Phật các nước Đông Nam Á" của tác giả Trần Thị Lý, nghệ thuật Phật giáo Thái Lan cũng được đề cập, nhưng chỉ tập trung vào điêu khắc tượng Phật mà chưa khai thác toàn diện các khía cạnh khác của nghệ thuật này.

Trong cuốn "Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Chiang Mai và Bangkok qua một số ngôi chùa tiêu biểu," tác giả Nguyễn Thị Lệ Thi đã so sánh kiến trúc và điêu khắc của các chùa, tháp ở hai vùng nổi bật của Thái Lan là Chiang Mai và Bangkok Bên cạnh đó, các tác giả trong cuốn "Tìm hiểu lịch sử văn hóa Thái Lan" và "Nghệ thuật Đông Nam Á" cũng đã khám phá những khía cạnh khác nhau của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Thái Lan, nhấn mạnh sự phát triển của các phong cách nghệ thuật song hành với dòng lịch sử của đất nước này.

Nghiên cứu về lịch sử văn hóa, đặc biệt là điêu khắc và kiến trúc Phật giáo Thái Lan, thường xuất hiện trong các công trình nghiên cứu về Đông Nam Á như “Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á” của Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phồ, Trần Thị Lý; và “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á” của Đinh Trung Kiên Những tác giả này đã khái quát văn hóa và nghệ thuật kiến trúc của các nước trong khu vực, trong đó nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Thái Lan được thể hiện sinh động qua cái nhìn so sánh với các nước khác.

Nghiên cứu về văn hóa Thái Lan, đặc biệt trong lĩnh vực kiến trúc và điêu khắc, đã được thực hiện từ nhiều góc độ khác nhau Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa Thái Lan, nhưng việc tìm hiểu những giá trị mà Phật giáo mang lại cho nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Thái Lan, cũng như ảnh hưởng của Phật giáo đối với các lĩnh vực này trong thời kỳ trung đại, vẫn còn thiếu sót và cần được khai thác thêm.

Đối t-ợng và giới hạn của đề tài

Phật giáo đã được du nhập vào Thái Lan từ rất sớm và nhanh chóng khẳng định vị trí quan trọng trong xã hội, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa Trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi tập trung vào ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc và điêu khắc Thái Lan trong thời kỳ trung đại, từ thế kỷ VII đến giữa thế kỷ XIX Đây là giai đoạn chứng kiến sự phát triển hưng thịnh của Phật giáo, thể hiện rõ nét qua nhiều công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc nổi bật.

Chúng tôi tập trung nghiên cứu các công trình kiến trúc và điêu khắc tiêu biểu của Thái Lan, đặc biệt là những tác phẩm chịu ảnh hưởng của Đạo Phật và các giá trị mà nó mang lại Bên cạnh đó, bài viết cũng sẽ đề cập một cách sơ lược về Đạo Phật, quá trình du nhập và phát triển của nó, cũng như các đặc điểm và vai trò quan trọng của Đạo Phật trên đất nước Thái Lan.

Nhiệm vụ của đề tài

Đạo Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ và đã phát triển thành nhiều tông phái khác nhau, trong đó có những tông phái chính như Theravada và Mahayana Tại khu vực Đông Nam Á, Đạo Phật đã lan tỏa mạnh mẽ, đặc biệt ở Thái Lan, nơi mà Phật giáo không chỉ được du nhập mà còn phát triển mạnh mẽ, trở thành một phần quan trọng trong văn hóa và đời sống tinh thần của người dân Phật giáo ở Thái Lan thể hiện đặc điểm riêng biệt, góp phần hình thành các giá trị văn hóa và xã hội của quốc gia này.

Nghiên cứu ảnh hưởng của Đạo Phật đến kiến trúc Thái Lan thời trung đại, bài viết sẽ khái quát về kiến trúc Phật giáo Thái Lan và trình bày một cách có hệ thống những công trình kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc mang đậm phong cách Phật giáo.

Tìm hiểu ảnh hưởng của Đạo Phật đến điêu khắc Thái Lan trong thời trung đại, chúng ta có thể nhận thấy những đặc sắc nổi bật của điêu khắc Phật giáo Thái Lan Điêu khắc chùa, tháp và tượng Phật Thái Lan không chỉ phản ánh tín ngưỡng tôn giáo mà còn thể hiện nghệ thuật độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của đất nước này.

Nguồn tài liệu và ph-ơng pháp nghiên cứu

Để đáp ứng yêu cầu nội dung của đề tài, tác giả đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chủ yếu từ sách, tạp chí nghiên cứu lịch sử, kỷ yếu hội nghị khoa học và thông tin từ Internet.

Phương pháp nghiên cứu cho đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc và điêu khắc Thái Lan thời trung đại” được thực hiện bằng cách tổng hợp và hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu Khóa luận trình bày dựa trên việc phân tích các công trình nghiên cứu từ các nguồn tài liệu có sẵn, nhằm làm rõ mối liên hệ giữa Phật giáo và sự phát triển của kiến trúc, điêu khắc trong giai đoạn này.

Đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp Lịch sử và phương pháp logic, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng Phương pháp này phù hợp với tư tưởng, đường lối và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bố cục của đề tài

Phật giáo

Đạo Phật, một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới, ra đời ở Ấn Độ cổ đại vào khoảng thế kỷ VI trước Công Nguyên Trải qua gần 2.500 năm lịch sử, Đạo Phật đã thu hút hàng trăm triệu tín đồ và lan rộng ra nhiều quốc gia trên toàn cầu Trong quá trình truyền bá, Đạo Phật đã kết hợp với các tín ngưỡng, văn hóa và tập tục dân gian bản địa, hình thành nên nhiều tông phái và học phái khác nhau Đạo Phật đã có tác động sâu sắc đến đời sống xã hội và văn hóa của nhiều quốc gia Bài viết này sẽ khám phá bối cảnh lịch sử ra đời của Đạo Phật, nội dung chính của giáo lý, cũng như sự phát triển và lan tỏa của nó.

Người dân Ấn Độ tự hào về việc Đạo Phật ra đời tại quê hương của họ, như J Nehru đã nhận xét, Đạo Phật không chỉ xuất hiện ở Ấn Độ mà còn là một phần không thể tách rời của văn hóa và triết học nơi đây Để hiểu rõ hơn về sự ra đời của tôn giáo này, cần xem xét các tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng mà Ấn Độ đã chuẩn bị.

Vào năm 327 TCN, Ấn Độ bị đế quốc Alexander Macedon xâm lược, dẫn đến cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ và sự hình thành triều đại Môrya, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại Trong thời kỳ này, Đạo Phật đã ra đời và phát triển nhanh chóng, phản ánh những bất bình trong xã hội Sự phân biệt về địa vị kinh tế và chính trị giữa người Aryan và người Đaravida đã dẫn đến chế độ đẳng cấp Vácna, được bảo vệ bởi đạo Bàlamôn và luật pháp thời bấy giờ Điều này đã gây ra sự công phẫn và oán ghét từ nhiều tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là đẳng cấp Suđra, góp phần vào sự hình thành các trào lưu tư tưởng chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, trong đó có Đạo Phật.

Về kinh tế: Với sự hình thành nhiều quốc gia cổ đại trên l-u vực sông

Trong bối cảnh kinh tế phát triển, tầng lớp quý tộc võ sĩ trở nên giàu có nhưng lại bị kìm hãm bởi chế độ đẳng cấp Vácna Tầng lớp dưới ngày càng ý thức về quyền lợi của mình và yêu cầu cải thiện từ tầng lớp trên Cuộc đấu tranh giữa các đẳng cấp diễn ra đầu tiên trong lĩnh vực tư tưởng và tôn giáo, dẫn đến sự ra đời của Đạo Phật Đạo Phật được sáng lập bởi Xit-đác-ta Gô-ta-ma, một hoàng tử của vua Sutđôđana ở Kapilavaxta, sinh năm 563 trước công nguyên Sau những năm tu hành khổ hạnh, vào năm 35 tuổi, ông đã khám phá ra bản chất của tồn tại và nguồn gốc của khổ đau, từ đó tìm ra con đường cứu vớt, và được gọi là Phật, nghĩa là "người giác ngộ" Ông đã đi khắp nơi để truyền bá học thuyết của mình, được gọi là Đạo Phật.

Giống như nhiều tôn giáo khác, Đạo Phật khi mới ra đời chưa có hệ thống giáo lý hoàn chỉnh Từ khi hình thành cho đến khi trở thành một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, Đạo Phật đã trải qua bốn lần kết tập kinh điển Kết tập kinh điển được xem như các đại hội đại biểu Phật giáo, với mục đích thảo luận và phát triển giáo lý, đồng thời mở rộng tôn giáo Các lần kết tập này đã góp phần quan trọng vào việc hình thành nền tảng giáo lý của Đạo Phật.

- Kết tập kinh điển lần thứ nhất: Đ-ợc tổ chức ngay sau khi Đức Phật qua đội Cõ 500 địa biểu tham gia ngo¯i c²c bậc “Đ³i đức”, còn cõ c²c bậc

“Tú kheo” c²c bËc “La h²n” là nội dung cốt lõi thể hiện giáo lý của Đức Phật, được truyền đạt qua sự thuyết giáo của các đệ tử Những bài giảng này đã góp phần định hình và phát triển giáo lý Phật giáo.

Kết tập kinh điển lần thứ hai diễn ra vào thế kỷ IV TCN, tròn 100 năm sau ngày Đức Phật qua đời, với sự tham gia của 700 Tỳ kheo Đại hội này chủ yếu nhằm giải quyết những bất đồng về việc thực hành giới luật và luận giải kinh điển Tại đây, nội bộ Tỳ kheo đã phân chia thành hai phái: Thượng toạ bộ, phái bảo thủ và Đại chúng bộ, phái canh tân, tạo ra nền tảng cho sự hình thành các giáo phái khác nhau trong Phật giáo.

Kết tập kinh điển lần thứ ba diễn ra vào thế kỷ III TCN, tại đây giáo lý và giới luật của Phật giáo được ghi chép thành văn bản Thời kỳ này cũng chứng kiến sự thành lập chính thức của các tăng đoàn Phật giáo, có nhiệm vụ truyền bá Đạo Phật ra ngoài Ấn Độ.

Vào khoảng thế kỷ thứ II dưới triều vua Kaniska, Kết tập kinh điển lần thứ t- đã được tổ chức, hoàn thành các kinh điển của Đạo Phật Sự kiện này đánh dấu sự phân chia của Đạo Phật thành hai phái lớn: Tiểu thừa (Phật giáo Nam tông) và Đại thừa (Phật giáo Bắc tông).

- Kinh ®iÓn: Gi²o lý §³o PhËt tËp trung trong “Tam t³ng kinh ®iÓn” bao gồm có Kinh, Luật, Luận

+ Kinh tạng (Satra Pitaka): Gồm các sách ghi lời dạy của Phật Thích

Ca về giáo lý, do đệ tử Anamđa tập hợp lại ngay từ lần kết tập đầu tiên

Luật tạng (Vinaya Pitaka) là bộ sách ghi chép những giới luật mà Đức Phật thiết lập để hướng dẫn các đệ tử, đặc biệt là những người xuất gia, trong sinh hoạt hàng ngày.

Luận tạng (Abhidhamma Pitaka) là bộ sách do các đại đệ tử của Phật biên soạn sau khi Ngài qua đời, nhằm mục đích giới thiệu một cách hệ thống giáo lý Phật giáo Đồng thời, luận tạng cũng phê bình và điều chỉnh những sai lệch, quan điểm xuyên tạc liên quan đến giáo thuyết Đạo Phật.

Đạo Phật, giống như mọi tôn giáo khác, phản ánh thế giới và con người, thể hiện quan điểm về cuộc sống, mối quan hệ xã hội và nỗi khổ của nhân loại Giáo lý của Đạo Phật cung cấp con đường cứu khổ và hướng tới sự giải thoát cho con người.

-Về mặt thế giới quan: Giáo lý của Đạo Phật về thế giới quan đ-ợc thể hiện rỏ ờ chð trương “vô t³o gi±”, “vô thưộng”, v¯ quy luật nhân duyên

Đạo Phật khẳng định rằng thế giới vật chất không phải do thần linh hay thượng đế tạo ra, mà là kết quả của những phần tử nhỏ bé trong vũ trụ Điều này thể hiện sự khác biệt rõ rệt giữa Đạo Phật và các tôn giáo như Đạo Bàlamôn, Đạo Do Thái, Đạo Kitô và Đạo Hồi.

Vô thường trong Đạo Phật chỉ ra rằng mọi vật trong vũ trụ đều không đứng yên mà luôn luôn vận động và biến đổi Quan điểm này thể hiện tính biện chứng của Đạo Phật, cho rằng sự vận động và biến đổi diễn ra theo chu trình và lặp lại liên tục trong vòng luân hồi Đây là một quan điểm biện chứng sơ khai, thô sơ, phản ánh sự chuyển động không ngừng của thế giới.

Thuyết nhân duyên trong Đạo Phật khẳng định rằng mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều bị chi phối bởi quy luật nhân duyên Điều này có nghĩa là sự hình thành của mọi sự vật và hiện tượng phụ thuộc vào sự hòa hợp của các nhân duyên; khi các nhân duyên này tan rã, sự vật sẽ diệt vong Quan điểm này thể hiện tính duy tâm chủ quan của Đạo Phật.

Sự du nhập của Phật giáo vào Thái Lan

Phật giáo đã có mặt tại Thái Lan từ sớm, giống như nhiều nước khác ở Đông Nam Á, nhờ vào ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ Các nhà sư Ấn Độ đã truyền bá Phật giáo qua đường biển vào miền Trung và miền Nam Thái Lan Ngoài ra, Phật giáo cũng được đưa vào từ phía Bắc bởi người Môn từ Myanmar và từ phía Đông bởi người Khơme.

Phật giáo được truyền vào Thái Lan vào khoảng đầu thế kỷ III TCN, cụ thể là năm 241 TCN, nhờ vào cuộc truyền bá chính pháp quy mô của vua Phật tử Asôca đến Tích Lan và Miến Điện Sau đó, Phật giáo Thái Lan còn tiếp nhận thêm ảnh hưởng từ các nhà truyền giáo đến từ Miến Điện vào năm 1044 và các pháp sư từ Tích Lan.

1155 và hầu hết đều theo truyền thống Phật giáo Theravada

1.2.2 Sự phát triển của Phật giáo Thái Lan (từ thế kỉ VII-XIX) Đạo Phật Thái Lan đã trải qua nhiều thời kì phát triển và thông th-ờng ng-ời ta lấy tên các v-ơng quốc của mỗi thời kì để đặt tên cho từng giai đoạn Có nhiều nhà nghiên cứu đã đ-a ra các bảng phân kì lịch sử Phật giáo Thái Lan Và đã có nhiều ý kiến đồng nhất phân kì lịch sử Phật giáo Thái Lan nh- sau:

1- Thời kì Môn Dvaravati va Môn Haripunjaya (thế kỉ VII đến thế kỉ XII) 2- Thời kì Sukhôthai (thế kỉ XIII)

3- Thời kì Ayutthaya (thế kỉ XV - XVI)

4- Thời kì Xiêng Mày Lạn Na (Chiang Mai - thế kỉ XII đến thế kỉ XVIII) 5- Thời kì Bangkok (thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX)

*Thời kì Môn Dvaravati và Môn Haripunjaya (từ thế kỉ VII ” XII)

Trong khoảng thời gian từ thế kỷ VII đến XII, Phật giáo Ấn Độ đã được truyền vào vương quốc Dvaravati ở miền Trung và miền Nam, cùng với vương quốc Haripunjaya ở miền Bắc của người Môn Trong giai đoạn này, Phật giáo Đại thừa đã tồn tại lâu đời tại Thái Lan, sau đó được bổ sung bởi Phật giáo Đại thừa Phương Bắc và bái vật giáo qua người Thái ở Nan Chao Đồng thời, Phật giáo Theravada từ Pagan đã xâm nhập vào Bắc Thái Lan qua Miến Điện, và sau đó Phật giáo Theravada từ Sri Lanka cũng được đưa vào miền Nam Thái Lan qua con đường Miến Điện Các tông phái tôn giáo này đã cùng tồn tại trong thời kỳ trước khi các nhà nước Thái đầu tiên hình thành, đặt ra câu hỏi về sự lựa chọn của người Thái trong quá trình lập quốc.

Thời kỳ Sukhothai (thế kỷ XIII) và Ayutthaya (thế kỷ XV-XVI) đánh dấu sự phát triển của Phật giáo tại Đông Nam Á Đến thế kỷ XIII, Phật giáo đã tồn tại gần 2000 năm và hình thành một hệ thống triết học hoàn chỉnh Trong giai đoạn từ thế kỷ XIII đến XV, nhiều cuộc cải cách Phật giáo diễn ra tại Srilanka, Miến Điện và Tây Tạng Nửa sau thế kỷ XII, cuộc kết tập kinh điển lần thứ bảy được thực hiện ở Srilanka, tạo điều kiện cho Phật giáo Theravada lan tỏa mạnh mẽ Vào thế kỷ XIII, khi nhà nước Thái đầu tiên hình thành, ảnh hưởng của Phật giáo Srilanca đã lan rộng ra toàn Đông Nam Á, đặc biệt là Miến Điện và Thái Lan, đánh dấu thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Srilanca.

Thời Sukhôthai là giai đoạn mà Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là hoàng thân trong vương triều Dưới triều vua Li Thay, các hoạt động Phật giáo phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết Li Thay được biết đến như một vị vua sùng đạo, và có thể nói rằng ông không chỉ là một vị vua mà còn là một người tu hành chân chính.

Từ khi nhà nước Thái Lan được thành lập cho đến hết triều vua Li Thay, học thuyết Phật giáo Theravada và văn hóa Sukhothai đã phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc Đến đầu thế kỷ XIV, trung tâm văn hóa xã hội chuyển xuống phía Nam trong thời kỳ Ayutthaya, nơi chịu ảnh hưởng của người Khơme, dẫn đến việc thờ cúng các thần vua bên cạnh Phật giáo Mặc dù các vua thời kỳ này ít quan tâm đến Đạo Phật, nhưng Phật giáo Theravada vẫn giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tôn giáo của vương triều Ayutthaya Sau đó, các vua đã chú trọng vào việc củng cố và phát triển Đạo Phật, điển hình là vua Brạm Traylokanat, người đã khôi phục mối quan hệ truyền thống giữa triều đình và Phật giáo, đồng thời dẫn dắt nhóm sư tài giỏi biên soạn một cuốn sách quan trọng trong Đạo Phật.

*Thời kì Xiêng Mày Lạn Na (Chiang Mai:từ thế kỉXII-XVII)

Người Thái đã di cư từ Nam Trung Quốc xuống phía Nam, và vào năm 1283, vua Mang Rai đã chọn mảnh đất rộng lớn Xiêng Mày Lạn Na làm kinh đô.

Phật giáo ở Xiêng Mày Lạn Na bắt nguồn từ dòng Phật giáo Srilanca Sau khi chiếm được vùng đất này, vua Mang Rai cùng các vua Thái kế vị đã tích cực phổ biến Phật pháp và xây dựng nhiều chùa tháp tại đây.

Chiang Mai đã trải qua ba thế kỷ phát triển ổn định, nhưng từ thế kỷ XVI đến XVIII, vương quốc này suy yếu do chiến tranh xâm lược Đạo Phật ở đây cũng chịu tác động tiêu cực từ lịch sử Nhiều chùa tháp được xây dựng đã bị tàn phá theo thời gian và chiến tranh Đầu thế kỷ XVIII, Phật giáo Thái Lan được phục hưng dưới triều vua Xôông Thẳm, một tín đồ ngoan đạo, với sự phát triển cả trong triều đình lẫn giữa dân chúng Tuy nhiên, sau thời kỳ này, Phật giáo bị sao nhãng cho đến khi vua Brôm Ma Khôi lên ngôi, người đã khẳng định và đề cao Phật giáo, chú trọng phát triển giáo dục và sử dụng nền học vấn tôn giáo cổ điển bằng tiếng Pali làm tiêu chuẩn phong tước vị.

*Thời kì Bangkok (từ thế kỉ XVIII)

Sau khi Ayutthaya bị quân xâm lược Miến Điện tàn phá, Thái Lan bước vào thời kỳ mới gọi là thời kỳ Bangkok, đánh dấu sự hưng thịnh của Phật giáo Vua Ra Ma I, vị vua đầu tiên của triều đại Bangkok, đã khẳng định rằng "Ngôi Tam bảo của Đạo Phật: Phật, Pháp, Tăng còn cao quý hơn mọi đạo luật, mọi nguyên tắc" Dưới triều đại của ông, nhiều công trình Phật giáo đã được xây dựng, cho thấy tầm quan trọng của Phật giáo ngay từ đầu triều đại Đến giữa thế kỷ XIX, dưới triều vua Môngkut, Phật giáo Thái Lan đã có bước phát triển mới với nhiều cải cách, trong đó có cải cách tôn giáo, củng cố vai trò của Phật giáo như quốc giáo Thời kỳ này cũng chứng kiến sự phân chia thành hai giáo phái, khẳng định rằng Phật giáo luôn giữ vị trí cao nhất trong xã hội Thái Lan suốt lịch sử.

1.2.3 Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Thái Lan

Phật giáo Thái Lan, trong quá trình phát triển và hội nhập, không chỉ mang những đặc điểm chung của Phật giáo Đông Nam Á mà còn hình thành những nét riêng biệt Điều này đã giúp Phật giáo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân Thái Lan.

Phật giáo Tiểu thừa, đặc biệt là dòng Theravada, chiếm ưu thế tại Thái Lan, nơi mà các nhà sư sống chủ yếu dựa vào sự bố thí từ cộng đồng Mặc dù có sự hiện diện của Phật giáo Đại thừa, nhưng Phật giáo Tiểu thừa vẫn giữ vai trò chính yếu trong đời sống tâm linh của người dân Thái Các chùa thường chỉ thờ Đức Phật và lễ nghi được thực hiện một cách đơn giản, tập trung vào việc thờ cúng và truyền đạo Đặc biệt, việc ngồi thiền để suy ngẫm về những nguyên nhân và nguyên lý cơ bản của Đạo được xem là yếu tố quan trọng đối với người xuất gia trong Phật giáo Đông Nam Á.

Phật chứ không phải là lễ nghi cúng bái Vì lẽ đó mà trong một thời gian dài chùa trở thành các trung tâm sinh hoạt văn hóa

Phật giáo Thái Lan không chỉ là một hệ thống tôn giáo thuần túy mà còn mang tính chất ma thuật và vật linh, phản ánh sự hòa quyện giữa tín ngưỡng Phật giáo và các yếu tố tôn giáo cổ xưa Người Thái Lan vừa thờ Phật, vừa cúng bái thần linh và tổ tiên, thể hiện niềm tin mạnh mẽ vào ma thuật Sự kết hợp này không dễ dàng bị từ bỏ, cho thấy sự khoan dung và hòa hợp trong truyền thống tín ngưỡng của họ Điều này được thể hiện rõ nét qua trẻ em trong các gia đình Phật tử Thái Lan, khi các em thường đeo bùa để bảo vệ khỏi các thế lực thần linh, cho thấy sự cẩn trọng và tôn trọng trong việc thực hành tín ngưỡng.

- Phật giáo Thái Lan nhấn mạnh tới cái thiện và cái ác, th-ờng gọi là

“bun” v¯ “b³p” “B³p” tức l¯ “tối” tương đương với “²c”, còn “bun” tứ l¯

Trong Phật giáo Thái Lan, khái niệm "phúc" tương đương với "thiện", và người Thái tin rằng cuộc sống hiện tại sẽ ảnh hưởng đến kiếp sau dựa trên sự tích lũy "bun" và "báp" từ kiếp trước Do đó, vấn đề đạo đức luân lý trở thành yếu tố quan trọng và cơ bản trong tín ngưỡng của họ Mọi hoạt động, suy nghĩ và cách thể hiện của người Thái đều hướng đến mục tiêu cao cả là tích lũy điều thiện và từ bỏ điều ác, thể hiện rõ khía cạnh xã hội của Phật giáo phù hợp với lối sống của họ.

Khái quát kiến trúc Phật giáo Thái Lan

2.1.1 Lịch sử kiến trúc Chùa Tháp Thái Lan Đạo Phật ở Thái Lan đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển ở mỗi thời kỳ nhân dân Thái Lan đã xây dựng nên rất nhiều Chùa, Tháp để thờ Phật Những công trình này đều mang những đặc tr-ng và phong cách riêng của thời đại sinh ra nã

Theo các nhà nghiên cứu Thái Lan, khi Đạo Phật mới du nhập, các tín đồ đã xây dựng các Aram làm nơi cư trú và giảng kinh, nhưng các sư chưa có chỗ ở cố định và phải du hành để truyền bá Đạo Phật Khi số lượng tín đồ gia tăng, ngoài Aram, người ta đã xây dựng các Chế để chứa xá lị của Phật, trở thành địa điểm thờ cúng quan trọng Sau đó, các Anuxảvađi cũng được xây dựng, là những ngôi tháp chứa tro của những người đã đóng góp xây chùa và tro của các vị cao tăng có công trong việc hoằng dương Phật pháp.

Từ thế kỷ VII đến XII, vương quốc Đvaravati ở miền Trung và miền Nam cùng với vương quốc Haripunjaya ở miền Bắc, đều của người Môn, đã tiếp nhận Phật giáo Ấn Độ Các hiện vật như bánh xe Pháp luân bằng đá, tượng Phật đá thô sơ và đồ gốm được khai thác ở Nakhon Pathom và Uthoong chứng minh sự hiện diện của Phật giáo Đvaravati tại Thái Lan.

B-ớc sang thời kỳ Sukhôthai, thì khi làm một ngôi chùa, quan trọng nhất là xây dựng Ubosot Đây là nơi làm lễ cho s- nhập tu, nơi thực hiện các nghi lễ Phật giáo và tổ chức các hội hè Ng-ời ta còn cho xây dựng các Kuti làm nơi s- ở Các Anuxảvađi thời kỳ này đ-ợc xây dựng nhiều và nhiều ngôi chùa cũng đã xây dựng Các Chê đi (tháp Phật) ở d-ới có chôn xá lị Phật còn bên trên đ-ợc bày các pho t-ợng Phật Đã có một số chùa xây dựng và làm nơi tổ chức Lễ hội nh-ng ch-a phải là phổ biến ở thời kỳ này, Phật giáo Srilanca đ-ợc truyền bá trực tiếp vào Thái Lan Các nhà s- Srilanca đến Sukhôthai đến khá đông nh-ng họ ít ở gần dân mà muốn tu trong các rừng cho yên tĩnh, để thực hiện các Giáo luật Srilanca họ thuộc tr-ờng phái Arănvaxỉ, nghĩa là tu ở rừng

Thời kỳ Ayutthaya chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các chùa tháp, khác biệt so với thời Sukhothai, với yêu cầu mỗi chùa phải có Ubosot và Kuti để phục vụ cho việc tu hành của các thanh niên Thái Sự xuất hiện của nhiều Kuti trong khuôn viên chùa phản ánh nhu cầu tu học ngày càng cao, đặc biệt là trong giới hoàng tộc, khi giáo dục nhà chùa trở thành bắt buộc Các sư cố định trong các chùa ở bản làng thuộc phái Khammavaxỉ, nghĩa là tu hành gần nhà Ngoài ra, hình thức Anuxảvạđi cũng đã thay đổi; trước đây, tro thiêu của những người giàu có được chôn dưới lòng Chê đi lớn, nay được chôn trong các Chê đi nhỏ, rải rác trong khuôn viên chùa.

Thời kỳ Bangkok, việc xây dựng chùa đã có những thay đổi đáng kể, trong đó việc xây dựng Kuti cho sư và Xảla để tín đồ hội họp, nghe giảng kinh, tổ chức hội hè và phục vụ khách lữ hành được coi là ưu tiên hàng đầu Ubosot thường chỉ được xây dựng sau, trừ khi có sự đóng góp hảo tâm từ tín đồ Trước đây, việc xây dựng Chê đi và Vi hản là nguyên tắc quan trọng, nhưng hiện nay, điều này không còn được xem trọng, vì chùa thường được xây dựng trên nền tảng của chùa cũ, nơi đã có Chê đi và Vi hản được thay thế bởi Xảla.

Trải qua hơn 10 thế kỷ phát triển từ thế kỷ VII đến XIX, cùng với sự thịnh vượng của Đạo Phật, kiến trúc chùa và tháp ở Thái Lan đã hoàn thiện các yếu tố chính như Ubosot, Vi hản, Chê đi, Kuti và Xảla Những kiến trúc này tạo nên một thể thống nhất và hoàn chỉnh, phản ánh nét đặc sắc của nghệ thuật Thái Lan.

2.1.2 Kết cấu chính của kiến trúc Chùa, Tháp Thái Lan

Trước khi khám phá cấu trúc chính của chùa tháp Thái Lan, cần tìm hiểu về vị trí của những ngôi chùa này Theo quan niệm truyền thống, chùa thường được xây dựng trên những mảnh đất có khí thiêng, với các đặc điểm như đất cao, tươi tốt (có cây cối và chim chóc), và có dòng nước hoặc hồ ao trước mặt để tạo sự mát mẻ, mang yếu tố âm, giúp tụ linh và phúc Hướng mặt chùa thường quay về phía Nam, biểu trưng cho bát nhã (trí tuệ), vì Đạo Phật cho rằng chỉ có sự hiểu biết mới có thể chống lại sự ngu tối, nguyên nhân dẫn đến tội ác, đồng thời hướng này cũng thúc đẩy thiện tâm.

Theo quan niệm của người Thái, việc xây dựng chùa trên những mảnh đất được xem là dữ là hoàn toàn khả thi Họ tin rằng nơi nào có sự hiện diện của Phật, thì dù đất có xấu đến đâu cũng sẽ trở nên tốt đẹp.

Th-ờng về kiến trúc của một ngôi chùa gồm có các kiến trúc chính là:

Vi hản và Ubosot là hai thành phần quan trọng trong kiến trúc Phật giáo, mỗi nơi có chức năng riêng Ngoài ra, các chùa thường có tháp, hỏ tay (thư viện), hỏ rạ khăng (nhà để chuông) và một số ngôi chùa còn có xảla, một ngôi nhà lớn dùng để tổ chức các lễ hội Phật giáo, nơi tín đồ có thể tụ họp, thảo luận và ăn uống.

Vi hản (Phật đ-ờng) có sự phân bố khác nhau theo từng thời kỳ và khu vực, với một số nơi như Chiềng Mai, vi hản được đặt ở vị trí trung tâm Ngược lại, tại Bangkok, vi hản không giữ vị trí trung tâm mà thay vào đó, vị trí trung tâm của chùa lại thuộc về Ubosot.

"Vi hản" được xây dựng với quy mô rộng lớn, trung bình có 6 gian và có thể mở rộng tới 12 gian như "Vi hản" Xuỉn Độc Gian trước là tiền sảnh, trong khi điện thờ Phật chính nằm ở gian trong cùng Bên cạnh đó, ở sau lưng của "Vi hản", người ta còn bày một tượng thờ Phật khác quay ra phía tháp.

Bộ mái của Vi hản đặc trưng với phần gỗ liệt hồi và khoảng trống giữa cột cái và cột quân ở mặt tiền, được gọi là Nạ bằn Cửa chính của Vi hản thường mở dưới Nạ bằn, với ba lớp mái dốc và lớp mái dưới thấp, tạo điều kiện cho Nạ bằn mở rộng Kích thước của Nạ bằn có thể thay đổi tùy vào cấu trúc của ngôi chùa; ví dụ, Nạ bằn ở Chiềng Mai thường rộng và phong phú, trong khi Nạ bằn ở Chùa Bangkok lại hẹp và chỉ có hình tam giác Khung mái thường được làm bằng gỗ, trong khi mái của Vi hản thường được lợp ngói, thể hiện nét tiêu biểu của kiến trúc Chùa Thái Lan.

Không gian nội thất của Vi hản tại các chùa khác nhau có cấu trúc riêng, nhưng đều có điểm chung là gian trong cùng dành để thờ Phật Tại Vi hản của chùa ở Chiềng Mai, pho tượng lớn nhất được đặt ở vị trí cao nhất của điện thờ Phật Phần ngoài của Vi hản, tính từ trong ra, là nơi hành lễ của sư tăng và tín đồ Phật giáo, nơi các sư tăng ngồi tụng kinh hoặc chúc phúc Để tạo không gian cho hoạt động này, người ta xây dựng một bệ cao từ 0,5m đến gần 1m, chiếm khoảng 1/4 diện tích còn lại của Vi hản.

Cách bày trí tượng Phật trong các viện hản chủ yếu xoay quanh hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni, thể hiện qua nhiều tư thế như nhập Niết bàn và thiền định Tượng Phật thường được đặt ở vị trí trung tâm của điện thờ, với một pho tượng lớn bằng đồng, thường được sơn mạ vàng, nổi bật trong không gian Phía trước tượng không bày trí gì, trong khi hai bên thường có thêm các tượng Phật nhỏ hơn, đặc trưng cho các điện Phật thuộc phái bộ Tiểu Thừa.

ảnh h-ởng của Phật giáo đến một số công trình kiến trúc tiêu biểu của Thái Lan thời trung đại

2.2.1 Kiến trúc Phật giáo ở Chiang Mai

* Nét khái quát chùa tháp Chiang Mai

Chiang Mai, thành phố lớn phía Bắc Thái Lan, từng là kinh đô dưới triều vua Mang Rai từ năm 1296 Nơi đây, như nhiều vùng khác của Thái Lan, là xứ sở Phật giáo, với hàng trăm ngôi chùa tháp được xây dựng để thể hiện lòng tôn thờ Phật Theo thống kê từ bảo tàng thành phố, hiện có khoảng 300 ngôi chùa tháp tại tỉnh Chiang Mai, phản ánh sự mộ đạo và sự phát triển rực rỡ của kiến trúc chùa tháp trong khu vực này.

Chùa và tháp ở Chiang Mai chủ yếu không nằm bên các sông hồ mà tập trung ở các bản cổ xưa, nơi Phật giáo du nhập và phát triển Do đó, tên gọi của các chùa thường gắn liền với tên các bản địa hoặc có thể mang tên các quốc gia láng giềng nơi Phật giáo đã phát triển từ lâu.

Chùa ở Chiang Mai có cấu trúc tương tự như các ngôi chùa khác tại Thái Lan, bao gồm Vi hản, Ubosot, Tháp, Hỏtay, Hỏrakhăng, nhưng có những điểm đặc biệt trong kiến trúc Trong khi Ubosot ở Bangkok thường nằm ở vị trí trung tâm, thì Vi hản tại Chiang Mai lại giữ vị trí này Ngoài ra, Vi hản và Ubosot ở Chiang Mai được xây dựng với chiều cao vừa phải, mái uốn lượn dài và Nạ bằn mở rộng, khác với thiết kế ở Bangkok, nơi Vi hản và Ubosot thường cao hơn, mái nhọn hơn và Nạ bằn hẹp hơn.

Chiang Mai là nơi hội tụ nhiều phong cách kiến trúc tháp Phật giáo từ Ấn Độ, Myanmar, Lạn Na đến Bangkok, tạo nên sự đa dạng độc đáo Dưới đây là một số chùa tháp tiêu biểu phản ánh nét đặc sắc của kiến trúc Phật giáo tại Chiang Mai.

Chùa Xuỉn Độc, một trong những ngôi chùa lớn và nổi tiếng ở Chiang Mai, tọa lạc trên đường Satthep Được xây dựng vào thế kỷ XIV trên vườn thượng uyển của vương quốc Thái Lan, Vát Xuỉn Độc mang ý nghĩa là hoa của Phật.

Chùa Xuẩn Độc, giống như nhiều ngôi chùa khác ở Chiang Mai, có kiến trúc đặc trưng với các phần chính như Vi hản, Ubosot và Tháp (Chê đi) Mỗi phần đều thể hiện những nét kiến trúc độc đáo Kiến trúc của chùa Xuẩn Độc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách Lạn Na, thể hiện rõ qua kết cấu và thiết kế tổng thể của công trình.

Tr-ớc hết là Vi hản chiếm vị trí trung tâm của ngôi chùa, sau Vi hản là Ubosot song song với tháp

Vì hản của Vát Xuỉn Độc, giống như các vì hản khác ở Chiang Mai, được xây dựng với quy mô rộng lớn, bao gồm 12 gian cùng với 2 gian trước và sau Gian trước là tiền sảnh, trong khi điện thờ Phật chính nằm ở gian trong cùng Phía sau lăng của vì hản, người ta còn bày một điện thờ Phật khác, hướng về phía Tháp.

Vi hản của Chùa Xuỉn được thiết kế theo kiểu nhà khung gỗ, mang lại không gian thoáng đãng Mái bộ của Vi hản có phần gỗ bịt hồi và khoảng trống giữa cột cái và cột quân ở mặt tiền được gọi là Nạ bằn Ba lớp mái thường rất dốc, với lớp mái dưới cùng thấp, tạo điều kiện cho Nạ bằn mở rộng hơn, khác biệt với Nạ bằn của Bangkok Chùa Bangkok có cấu trúc cao hơn và các lớp mái thẳng, do đó Nạ bằn chỉ có một tam giác Ngược lại, Nạ bằn theo phong cách Lạn Na mở rộng ra cả hai bên mái phụ, làm cho Nạ bằn tại đây rộng hơn so với Nạ bằn ở chùa Bangkok.

Bộ khuynh mái đ-ợc làm bằng gỗ, làm với 3 tầng mái với tầng cao nhất ở chính giữa và hai tầng mái hai bên hơi thấp một cách đều nhau

Tại đầu hồi Vi hản, bờ nóc được trang trí bằng vật tượng trưng cho cái ức của gà trống, gọi là Yo Phạ, một yếu tố quan trọng trong kiến trúc chùa Thái Yo Phạ thể hiện sự kết hợp giữa Đạo Phật và tín ngưỡng vật tổ nguyên thủy khi Phật giáo du nhập Hai bên diềm bờ nóc, được gọi là bayraca, được trang trí như những diềm đăng ten, uốn lượn từng tầng cho đến điểm cuối của mái, được gọi là Hảng hổng (đuôi phượng hoàng).

Theo nhiều tài liệu, tác giả của kiến trúc Vi hản tại Chùa Xuổn Độc là một nhà sư nổi tiếng nhất ở Chiang Mai vào thời điểm đó, có tên là Xỉ Vi Xay.

Ubosot, mặc dù không chiếm vị trí trung tâm như Vi hản, nhưng vẫn mang một vẻ đẹp riêng Khác với các Ubosot theo kiến trúc Lạn Na, Ubosot thường có kích thước nhỏ hơn, chỉ gồm ba gian và được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, với mái lợp ngói.

Ubosot là một ngôi chùa Phật giáo nổi bật, nơi có tượng Phật lớn cùng nhiều tượng nhỏ và đồ tế khí Nơi đây đặc biệt với pho tượng Phật bằng đồng 300 năm tuổi, được công nhận là một trong 10 bức tượng kim loại lớn nhất Thái Lan.

Tháp (Chêdi) tại chùa Xuỉn Độc đ-ỵc được xây dựng theo phong cách chùa Lạn Na, với thiết kế gồm một tháp lớn và ba tháp nhỏ xung quanh Các tháp này được xây thành từng cụm, tạo nên sự độc đáo bên cạnh các Ubosot trong khuôn viên chùa.

Kiến trúc tháp thường được bố trí trong khuôn viên hình vuông với bình đồ tròn Chân tháp chiếm một nửa chiều cao và có nhiều vòng, gờ thuôn nhỏ dần từ dưới lên Thân tháp hình "chuông úp" thường cao bằng một nửa chiều cao của tháp Kết thúc thân tháp là bệ vuông, từ đó bắt đầu các vòng xoáy của ngọn tháp, các vòng xoáy cũng thuôn nhỏ dần đến cán của một lọng nhỏ ở đỉnh.

Những cụm tháp Chê di trắng toát nằm ở góc Tây Bắc của Chùa, nơi lưu giữ các bình hài cốt của Hoàng gia Chiang Mai Theo truyền thuyết, tháp trung tâm khổng lồ tại đây còn chứa tám xá lị của đức Phật.

Khái quát điêu khắc Phật giáo Thái Lan

Điêu khắc Phật giáo Thái Lan, cùng với kiến trúc, là một trong những thành tựu nổi bật của nghệ thuật Thái Lan Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với nhiều nền nghệ thuật khác ở Đông Nam Á, điêu khắc Thái Lan đã nhanh chóng khẳng định được bản sắc và vị thế riêng, trở thành một trong những nền điêu khắc nổi tiếng của khu vực từ thế kỷ XIII.

Trước khi nền nghệ thuật chính thức của người Thái ra đời, Thái Lan đã chứng kiến sự phát triển của nhiều nền nghệ thuật rực rỡ như Dvaravati, Srivijaya và Lopburi Sự du nhập của Phật giáo từ nhiều nơi đã góp phần hình thành điêu khắc Phật giáo Thái Lan, đặc biệt là tượng Phật Nền nghệ thuật Thái không chỉ kế thừa từ nghệ thuật Môn và Khơme mà còn tiếp thu các tiêu chí về cái đẹp từ Ấn Độ, như hình dáng siêu nhân của Đức Phật với mái tóc xoắn, dái tai dài và tay chấm gối Ngoài ra, vẻ đẹp của các thần linh và anh hùng trong huyền thoại cũng được thể hiện qua những đặc điểm như đầu hình quả trứng và cặp lông mày cong Mặc dù ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ ban đầu rất mạnh mẽ, nhưng theo thời gian, ảnh hưởng của nghệ thuật Khơme thời Ăngco ngày càng trở nên rõ rệt hơn.

Nghệ thuật Thái Lan, giống như các nước Đông Nam Á khác, chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Ăngco và các nền nghệ thuật cổ, nhưng vẫn thể hiện được tính cách riêng của người Thái Tính cách này không chỉ thể hiện sự độc lập với các nền nghệ thuật khác mà còn phản ánh nét đặc sắc văn hóa dân tộc Thái Nghệ thuật Thái Lan là sự tổng hòa của nhiều nền văn hóa, đại diện cho toàn thể dân tộc, đồng thời mang tính chất siêu thoát của Phật giáo, nhưng vẫn gần gũi và đời thường.

Điêu khắc Thái Lan, mặc dù chịu ảnh hưởng mờ nhạt từ nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, lại kế thừa nhiều yếu tố từ các nền văn hóa khu vực như Dvaravati, Ăngco và Srivijaya Điều này góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng trong điêu khắc Thái, với nhiều trường phái tồn tại song song trong cùng một thời kỳ, đồng thời khẳng định được cá tính riêng ngay từ những ngày đầu.

Điêu khắc Phật giáo Thái Lan nổi bật với sự phong phú về kiểu dáng và tư thế của các pho tượng Đức Phật Tiểu thừa, thể hiện sự sinh động qua các tác phẩm tại các chùa tháp, vi hản và Ubosot Sự khác biệt này so với điêu khắc chịu ảnh hưởng của Đạo Hindu, được thể hiện qua các bức phù điêu đồ sộ, cho thấy sự đa dạng và độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.

ảnh h-ởng của Phật giáo đến điêu khắc Thái Lan thời trung đại 53 1 Điêu khắc t-ợng Phật Thái Lan

Nghệ thuật Phật giáo Thái Lan nổi bật với những công trình chùa tháp độc đáo, trong đó tượng Phật được xem là biểu tượng đặc sắc nhất Những tác phẩm tạc tượng Phật của các nghệ nhân Thái Lan đã góp phần tạo nên kho tàng văn hóa Phật giáo quý giá, không chỉ cho Thái Lan mà còn cho toàn thế giới.

Điêu khắc tượng Phật Thái Lan phát triển song hành với lịch sử của đất nước, thể hiện qua nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau Mỗi phong cách không chỉ có những đặc trưng riêng mà còn tiếp thu ảnh hưởng từ các phong cách trước đó và các yếu tố ngoại sinh, tạo nên một nền nghệ thuật điêu khắc Phật độc đáo Để hiểu rõ hơn về văn hóa nghệ thuật điêu khắc tượng Phật Thái Lan, chúng ta sẽ khám phá những đặc điểm nổi bật qua các phong cách nghệ thuật, đặc biệt là sự tiếp nhận ảnh hưởng từ các nền điêu khắc Phật giáo khác Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ tìm hiểu một số tượng Phật tiêu biểu của Thái Lan trong thời kỳ trung đại, xem xét các khía cạnh như thời kỳ, phong cách và chất liệu.

* Các tr-ờng phái nghệ thuật điêu khắc Phật giáo Thái

- Các tr-ờng phái tiền Thái

Thái Lan, như nhiều quốc gia khác trong khu vực, đã sớm tiếp thu và chịu ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, đặc biệt là Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc tượng Phật Nhiều tác phẩm nghệ thuật cổ, như tượng Phật bằng đồng nhỏ, đã được phát hiện ở Na Khon Rac Chasima và Sungai Kolóc (Narathivát) Những tác phẩm này thuộc nền nghệ thuật Amaravati, một trung tâm nghệ thuật Phật giáo ở miền Nam Ấn Độ vào cuối thế kỷ II - III, và Anuradhapura (Sri Lanka) từ thế kỷ II đến thế kỷ V.

Những tượng Phật này nổi bật với phong cách đặc trưng, thể hiện qua chiếc áo tu hành ôm sát cơ thể và vắt qua vai trái, trong khi vai phải để trần Các nếp áo dày tạo thành những lớp sóng từ phía phải cơ thể, chảy qua cổ tay phải và rơi xuống đất Tay phải của Đức Phật giơ lên trong động tác trấn an hoặc thuyết pháp, trong khi tay trái nắm lấy một đầu mép của tấm áo.

Bên cạnh những bức tượng thô, khỏe của phong cách Amaravati, Thái Lan còn có nhiều tượng Phật tinh xảo thuộc nghệ thuật Gupta (IV - V) của Ấn Độ Nhiều nơi khác phát hiện tượng nhỏ theo phong cách hậu Gupta và phong cách Pala (thế kỷ VIII - XI) của Ấn Độ Dù vẫn mang phong cách Amaravati, nhưng cách mặc áo lại theo kiểu hậu Gupta, với phần áo tu hành từ cổ tay trái thẳng xuống, quấn quanh cánh tay trái của Đức Phật, khác với kiểu Amaravati truyền thống.

Phong cách của các tượng Ấn Độ thời kỳ này tại Thái Lan vẫn giữ nhiều nét tương đồng với nghệ thuật hậu Gupta và nghệ thuật Pala của Ấn Độ Giống như nhiều khu vực khác ở Đông Nam Á, nghệ thuật Thái Lan và điêu khắc tượng Phật Thái đã nhanh chóng thể hiện những cá tính độc đáo của riêng mình.

Các phong cách nghệ thuật điêu khắc thời kỳ tiền Thái không chỉ phản ánh ảnh hưởng của điêu khắc Phật giáo Ấn Độ mà còn thể hiện cá tính và nét độc đáo của nghệ thuật điêu khắc Thái Lan Nổi bật trong số đó là phong cách Môn Đvaravati (thế kỷ VI - XI), phong cách Srivijaia (thế kỷ VII - XIII) và phong cách Lopburi (thế kỷ XI - XIV).

+ Phong cách Môn Dvaravati (Thế kỷ VI - XI)

Phong cách nghệ thuật Đvaravati ra đời cùng với vương quốc này, phát triển mạnh mẽ không chỉ ở miền Trung mà còn lan rộng tới Đông Bắc Thái Lan Các tác phẩm điêu khắc chủ yếu được làm từ đá, với một số ít bằng đồng, mang nội dung và hình tượng Phật giáo, đặc biệt là những tác phẩm thể hiện Đức Phật Phong cách này thể hiện những đặc điểm nhân chủng bản địa, kết hợp với ảnh hưởng từ các tượng Phật cổ thời kỳ Gúpta và hậu Gúpta.

Cuộc tấn công của hoàng đế Suriravati I thuộc vương triều Ăngco đã chấm dứt sự tồn tại gần 5 thế kỷ của nhà nước Đvaravati Mặc dù vương quốc Đvaravati không còn, nhưng truyền thống nghệ thuật của người Môn vẫn tiếp tục tồn tại và góp phần quan trọng vào sự hình thành nền nghệ thuật của người Thái sau này.

+ Phong cách Srivijaia (Thế kỷ VII - XIII)

Phong cách nghệ thuật Srijaya, tương tự như phong cách Đvaravati, được đặt theo tên vương quốc Srijaya, một vương quốc hùng mạnh nằm ở bán đảo Mã Lai và Nam Thái Lan.

Phong cách Đvaravati thể hiện ảnh hưởng rõ rệt từ nghệ thuật t-ợng Phật Ấn Độ cổ, đặc biệt là thời kỳ Gúpta và hậu Gúpta, trong khi phong cách Srivijaya lại gần gũi với nghệ thuật Gia Va của Inđônêxia, cả hai đều thuộc về nghệ thuật Phật giáo Đại thừa Các tác phẩm điêu khắc chủ yếu tập trung vào các vị Phật và Bồ tát, sử dụng chất liệu đá và đồng Những pho t-ợng đá và bức t-ợng đồng mang vẻ đẹp lý tưởng, như pho tượng Bồ tát ở Chaiya với thân hình thon thả, đứng hơi vặn hông về bên phải, khuôn mặt tròn trĩnh, thể hiện sự trầm tĩnh và dịu dàng.

+ Phong cách Lôpburi (Thế kỷ XI - XIV)

Trong ba thế kỷ từ XI đến XIII, miền Trung và Đông Bắc Thái Lan chứng kiến sự phát triển của một phong cách nghệ thuật kết hợp giữa Môn Đvaravati và Khơme, đặc biệt là điêu khắc Lôpburi Các tác phẩm chủ yếu được làm từ đá và thể hiện nội dung của Phật giáo Đại Thừa Một số tượng Phật trên Na ga mang ảnh hưởng từ phong cách Baphuôn của Campuchia, trong khi nhiều tượng Phật Naga lại tương đồng với phong cách Bayon Đặc điểm nổi bật của nhóm tượng này là khuôn mặt vuông vắn, có băng viền nhỏ ngăn mái tóc khỏi trán, với tóc xoáy hình bút ốc và u sọ tạo hình búp sen hoặc viên ngọc, cùng lông mày gần như thẳng.

Các tượng Phật ở Lôpburi, chủ yếu được đúc vào cuối thế kỷ XII, thường thể hiện Phật hoặc nhóm Phật trên cùng một bệ Những nhóm tượng này có thể biểu hiện tam thân của Phật, bao gồm thân biến đổi, thân thường trụ và thân đạo pháp Ngoài ra, hình ảnh tam bảo cũng được thể hiện qua ba nhân vật: Đức Phật ngồi trên Naga ở giữa, với Đức Quan Âm bên phải và Đức Thế Chí bên trái.

Mặc dù nghệ thuật Khơme tại Thái Lan chỉ tồn tại trong ba thế kỷ, phong cách Lôpburi đã để lại ảnh hưởng đáng kể đối với nghệ thuật của người Thái trong các thế kỷ tiếp theo.

- Các tr-ờng phái điêu khắc Thái

Vào thiên niên kỷ II công nguyên, Thái Lan, giống như các nước Đông Dương, đã tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa, tạo nên một nền tảng tinh thần chung cho nghệ thuật trong khu vực Nghệ thuật điêu khắc Thái Lan và các nước Đông Dương có mối liên hệ chặt chẽ, với nhiều yếu tố văn hóa đan xen khó phân biệt nguồn gốc Tuy nhiên, điêu khắc Thái Lan nổi bật với vai trò quan trọng, được xem là một nền nghệ thuật rực rỡ và năng động từ sau thế kỷ XIII.

Thái Lan qua các phong cách nghệ thuật từ thời Chiềng Sẻn đến tr-ờng phái Bangkok

+ Tr-ờng phái Chiềng Sẻn hay Lạn Na (Cuối thế kỷ XI - XV)

Ngày đăng: 02/12/2021, 23:41

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]- Ngô Văn Doanh(1998) "Danh thắng và kiến trúc Đông Nam á" - Nxb VHTT Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh thắng và kiến trúc Đông Nam á
Nhà XB: Nxb VHTT
[2]- Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý "Nghệ thuật Đông Nam á"- Nxb Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật Đông Nam á
Nhà XB: Nxb Lao động
[3]- Bùi Đẹp (2004) "Di sản văn hoá thế giới" Tập 10, TP HCM - Nxb Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Di sản văn hoá thế giới
Nhà XB: Nxb Trẻ
[4]- Trịnh Huy Hoá (bd) "Đối thoại với các nền văn hoá - Thái Lan" - Nxb Trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối thoại với các nền văn hoá - Thái Lan
Nhà XB: Nxb Trẻ
[5]- Đặng Thái Hoàng "Những công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới" - Nxb VHTT Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới
Nhà XB: Nxb VHTT
[6]- Đinh Trung Kiên (2007) "Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam á" Nxb GD Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam á
Nhà XB: Nxb GD
[7]- Trần Thị Lý (1992) "T-ợng Phật Thái Lan và t-ợng Phật các n-ớc Đông Nam á" - Viện nghiên cứu Đông Nam á - số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: T-ợng Phật Thái Lan và t-ợng Phật các n-ớc Đông Nam á
[8]- Nguyễn Gia Phu "Lịch sử t- t-ởng Ph-ơng Đông và Việt Nam" - Giáo trình Đại học Đà Lạt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử t- t-ởng Ph-ơng Đông và Việt Nam
[9]- Vũ Thị Hạnh Quỳnh (BS) (2006) "Văn hoá du lịch Châu á: Thái Lan đất n-íc nô c-êi" - Nxb TG Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá du lịch Châu á: Thái Lan đất n-íc nô c-êi
Nhà XB: Nxb TG
[10]- Bùi Tiến Sinh, Nguyễn Văn Điền (2003) "Thái Lan - Venise Ph-ơng Đông" - Nxb VHTT Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thái Lan - Venise Ph-ơng Đông
Nhà XB: Nxb VHTT
[11]- Nguyễn Lệ Thi "Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo ở Chiang Mai và Bangkok qua một số ngôi chùa tiêu biểu" - Nxb KHXH Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Phật giáo ở Chiang Mai và Bangkok qua một số ngôi chùa tiêu biểu
Nhà XB: Nxb KHXH Hà Nội
[12]- Nguyễn Thị Thoa "Lịch sử ba tôn giáo Thế giới" Nxb GD Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử ba tôn giáo Thế giới
Nhà XB: Nxb GD
[13] - Đặng Huy Thứ (1996) " Đại c-ơng văn hoá Ph-ơng Đông". Nxb GD Hà Néi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại c-ơng văn hoá Ph-ơng Đông
Nhà XB: Nxb GD Hà Néi
[14]- Trần Mạnh Th-ờng "Những di sản nổi tiếng thế giới". Nxb VHTT Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những di sản nổi tiếng thế giới
Nhà XB: Nxb VHTT
[15]- Chu Quang Trử (2001) "Sáng giá chùa x-a, Mỹ thuật Phật giáo". NXB Mỹ thuËt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sáng giá chùa x-a, Mỹ thuật Phật giáo
Nhà XB: NXB Mỹ thuËt
[16]- Nguyễn Khắc Viện (1988) " Thái Lan một số nét chính về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử". Nxb lý luận Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thái Lan một số nét chính về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử
Nhà XB: Nxb lý luận
[17]- Hoàng Tầm Xuyên" M-ời tôn giáo lớn trên thế giới ". Nxb CTQG Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: M-ời tôn giáo lớn trên thế giới
Nhà XB: Nxb CTQG Hà Nội
[18]- Viện nghiên cứu Đông Nam á (1994) "Tìm hiểu về lịch sử văn hoá Thái Lan". Nxb KHXH Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu về lịch sử văn hoá Thái Lan
Nhà XB: Nxb KHXH Hà Nội
[19]- Nhiều tác giả (1998) "Tìm hiểu lịch sử văn hoá Việt Nam". Nxb Văn hoá dân tộc - Tạp chí văn hoá nghệ thuật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu lịch sử văn hoá Việt Nam
Nhà XB: Nxb Văn hoá dân tộc - Tạp chí văn hoá nghệ thuật Hà Nội
[20]- Tuyển tập các công trình khoa học: (1990 - 1999) Khoa Lịch sử tr-ờng Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập các công trình khoa học

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w