Néi dung
Hoàn cảnh diễn ra chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950
Trong những năm 1948 và 1949, tình hình quốc tế diễn biến thuận lợi cho phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và cách mạng Sự phát triển này đã tác động đáng kể đến cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, đặc biệt là nhân dân Việt Nam.
Liên xô đang ngày càng lớn mạnh Kế hoạch 5 năm sau chiến tranh
Từ năm 1950 đến 1964, các nỗ lực khôi phục và phát triển kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, hứa hẹn sẽ hoàn thành vượt mức dự kiến Việc Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử vào ngày 23 tháng 9 năm 1949 đã phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ Các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, nhờ sự hỗ trợ tận tình từ Liên Xô, đã đạt được nhiều thắng lợi trong việc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội Tại đây, chuyên chính vô sản được củng cố, các lực lượng phản động trong nước bị đập tan, và những thế lực chống đối bị loại bỏ khỏi bộ máy nhà nước.
Tháng 9 năm 1943 n-ớc CHDCND Triều Tiên ra đời Ngày 1 tháng 10 năm 1949 n-ớc CHND Trung Hoa đ-ợc thành lập Tiếp đó ngày 7 tháng 10 năm 1949 là sự ra đời của CHDC Đức
Phong trào giành độc lập dân tộc đang gia tăng mạnh mẽ tại châu Phi, châu Á, đặc biệt là Đông - Nam Á và Trung Cận Đông Đồng thời, châu Mỹ La Tinh cũng đang chứng kiến sự khởi sắc của một phong trào giải phóng mới.
Sau Thế chiến thứ hai, Mỹ trở thành đế quốc mạnh nhất thế giới, dẫn đầu về kinh tế, tài chính và quân sự Tận dụng ưu thế này, Mỹ thực hiện âm mưu thống trị các quốc gia nhỏ yếu, chiếm lĩnh thị trường và sử dụng viện trợ kinh tế để buộc các nước tư bản châu Âu phụ thuộc vào mình trong kế hoạch chống Liên Xô Ngày 2 tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mỹ thông qua kế hoạch Mác - San nhằm kiểm soát các nước châu Âu qua viện trợ kinh tế Đến tháng 4 năm 1949, Mỹ đã lôi kéo 11 nước Tây Âu ký hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, củng cố quyền lực và tập hợp các quốc gia này dưới sự lãnh đạo của mình Nhiều nước tư bản Tây Âu như Anh, Pháp, và Italia đều phải cân nhắc lợi ích của Mỹ trong chính sách của họ.
Thất bại tại Việt Bắc là một cú sốc nghiêm trọng đối với quân đội Pháp, không chỉ về nhân lực và tài chính mà còn về chiến lược và chiến thuật Kế hoạch bao vây và tiêu diệt lực lượng kháng chiến của Pháp đã không thành công, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho họ Áp lực từ tình hình khó khăn trong nước càng làm gia tăng nguy cơ thất bại ở Đông Dương, buộc chính phủ Pháp phải thay đổi chiến lược sang “dùng người Việt trị người Việt” và “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Trước những khó khăn, Pháp đã nhanh chóng thay đổi chiến thuật và kế hoạch, tăng cường hoạt động chống phá trên mọi mặt trận, đồng thời bắt lính lập nguỵ quân để thành lập chính phủ bù nhìn trung ương Vào tháng 9 năm 1949, chính phủ bù nhìn Bảo Đại được thành lập Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1948, Pháp đã thiết lập một loạt các xứ tự trị cho các dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi Bắc Bộ và Tây Nguyên, sử dụng chiêu bài “Chống cộng” để lôi kéo các tôn giáo tham gia lực lượng vũ trang chống lại kháng chiến Chúng cũng tăng cường các hoạt động càn quét ở những vùng vừa bình định, thiết lập hệ thống tháp canh dày đặc ở Nam Bộ và thực hiện chiến thuật “Cứ điểm nhỏ, đội quân ứng chiến nhỏ” không chỉ ở Nam Bộ mà còn ở Trung Bộ và Bắc Bộ Chiến thuật “Đốt sạch, phá sạch và quét sạch” được áp dụng nhằm bình định và đối phó với chiến tranh du kích, đồng thời đánh phá lực lượng hậu bị của kháng chiến Địch còn sử dụng chiến thuật “Khoá then cửa” để bao vây và chia cắt các chiến trường của ta, cắt đứt liên lạc giữa khu VII và khu VIII ở Nam Bộ thông qua hệ thống đồn bốt kết hợp với càn quét, lùng sục và tuần tra.
Bộ đã tiến hành cắt phân khu V, phân khu Bắc và phân khu Nam của Liên khu IV, tạo ra “hành lang Đông - Tây” ở Bắc Bộ, kết nối vùng đồng bằng với căn cứ Việt Bắc qua đường số 6 Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Đông Dương đã khiến Pháp gặp nhiều khó khăn hơn bao giờ hết.
Về kinh tế: Khôi phục chậm chạp, đời sống nhân dân hết sức khó khăn
Về chính trị: Nội bộ giới cầm quyền có nhiều mâu thuẫn gay gắt và xung đột quyền lợi giữa phe t- bản tài chính và phe t- bản chủ nghĩa
Chính phủ Pháp gặp khó khăn trong việc giải quyết những thách thức và nhu cầu do cuộc chiến tranh Đông Dương kéo dài bốn năm gây ra Phong trào phản đối và yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương đang dâng cao, thể hiện sự bức xúc và mong muốn cải thiện đời sống của nhân dân Pháp.
Nhân dân các nước thuộc địa châu Phi dưới sự cai trị của Pháp đã đứng lên đấu tranh đòi độc lập, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa Pháp Trong bối cảnh Trung Quốc đang chuyển biến theo hướng bất lợi cho Pháp, quân giải phóng Trung Quốc đã liên tiếp giành nhiều thắng lợi lớn qua các chiến dịch như Liêu Thẩm, Bình Tân và Hoài Hải, đồng thời chuẩn bị vượt sông Dương Tử Tại vùng Hoa Nam giáp biên giới Việt Nam, phong trào du kích đang phát triển mạnh mẽ để chào đón quân giải phóng Thực dân Pháp tại Đông Dương cùng chính quyền ở chính quốc đều lo lắng trước những biến chuyển trên lục địa Trung Hoa.
Trước những khó khăn trong cuộc chiến tại Đông Dương, chính phủ Pháp đã phải dựa vào Mỹ sau khi thất bại trước kế hoạch Mac - San Vào tháng 5 năm 1949, Rơve được cử đi khảo sát tình hình và đến tháng 7 cùng năm, ông đã trình bày kế hoạch tập trung giữ vững Bắc Bộ, khu vực chiến lược quan trọng cho việc phòng thủ Đông Dương và ngăn chặn phong trào cách mạng lan rộng xuống Đông Nam Á Kế hoạch của Rơve bao gồm việc tăng cường quân số tại Bắc Bộ, mở rộng chiến lược đóng quân tại trung du và đồng bằng, củng cố khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, bao vây căn cứ Việt Bắc và tăng cường phòng thủ tuyến biên giới Ngoài ra, ông cũng đề xuất phát triển quân ngụy để thay thế quân Âu - Phi, nhằm tạo điều kiện cho việc xây dựng quân cơ động để đối phó với chiến tranh du kích và lực lượng chủ lực của ta, đồng thời thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt”.
Pháp không chỉ đơn thuần chiến đấu mà còn tìm cách quốc tế hóa cuộc chiến tranh Đông Dương, mong muốn các đồng minh phương Tây có trách nhiệm chống lại chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, sự căng thẳng ở châu Âu đã lan sang châu Á, dẫn đến hai điểm nóng lớn là Đông Dương và Triều Tiên Sau khi mất Trung Quốc, Mỹ không thể đứng ngoài cuộc chiến chống cộng sản, từ việc ủng hộ Việt Minh trước năm 1945 đến chính sách trung lập, giờ đây Mỹ buộc phải can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, chúng ta đã đánh bại ý tưởng "dạo mát quân sự" của Pháp và giành chiến thắng trong chiến dịch Việt Bắc Thu.
Vào Đông năm 1947, trước âm mưu mới của Pháp, ta đã triển khai chủ trương “Phát triển du kích khắp nơi” và “biến hậu phương thành tiền phương” Quân và dân ta tiến hành cuộc đấu tranh mạnh mẽ tại vùng sau lưng địch trên toàn quốc Trong khi địch thực hiện chiến tranh tổng lực, ta đã đáp trả bằng chiến tranh du kích rộng khắp, thực hiện chiến lược toàn dân kháng chiến.
Phong trào chiến tranh du kích diễn ra sôi nổi, với sự tham gia của du kích và nhân dân sử dụng mọi phương tiện và vũ khí để làm cho kẻ thù luôn trong trạng thái lo âu và căng thẳng Một trong những thành công lớn nhất của quân và dân ta trong những năm 1948 là biến hậu phương địch thành tiền phương của ta Sự phát triển của chiến tranh du kích song song với việc tổ chức lực lượng du kích và vũ trang quần chúng đã dẫn đến sự hình thành các làng chiến đấu, nơi mỗi làng trở thành một pháo đài và mỗi người dân là một chiến sĩ Các làng đã được tập duyệt theo nhiều phương án chiến đấu, thể hiện tinh thần kiên cường chống giặc ngoại xâm và thách thức kẻ thù Những làng chiến đấu đã trở thành những pháo đài kiên cố của chiến tranh nhân dân địa phương.
Diễn biến và kết quả của chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950
Chiến dịch Biên giới diễn ra trong 29 ngày đêm (từ ngày 16 - 9 đến 14
Chiến dịch diễn ra từ 10 đến 1950 tại hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, được chia thành ba đợt Đợt 1, từ 16 đến 20 tháng 9 năm 1950, tập trung vào trận then chốt tấn công tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê Đợt 2, từ 21 tháng 9 đến 9 tháng 10 năm 1950, thực hiện trận đánh quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông Cuối cùng, đợt 3 từ 9 đến 14 tháng 10 năm 1950, quân địch rút chạy khỏi Thất Khê và Na Sầm, trong khi ta tiến hành đuổi đánh và giải phóng Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn, kết thúc chiến dịch.
1.2.1.1 Diễn biến trong đợt 1 (16 đến 20 - 9 - 1950) Đông Khê - một căn cứ kiên cố, một mắt xích quan trọng của địch trên tuyến phòng thủ đ-ờng số 4, phía Bắc cách thị xã Cao Bằng 45 km, phía Nam cách thị trấn Thất Khê 25km Sau khi bị ta tấn công hồi tháng 5 của trung đoàn 174, từ một cứ điểm loại trung bình Đông Khê đ-ợc địch củng cố thành cứ điểm mạnh
Trong thung lũng, khu trung tâm đề kháng của căn cứ chiếm ưu thế với Đồn To là điểm tựa quan trọng nhất Xung quanh, bảy cứ điểm ngoại vi được thiết lập trên đồi núi, tạo thành vành đai bảo vệ cho khu trung tâm Nhiệm vụ bảo vệ Đông Khê được giao cho hai đại đội lê dương thiện chiến của trung đoàn 3 lê dương, cùng với sự hỗ trợ từ một trung đội ngụy và một phân đội pháo với hai khẩu pháo.
Đại uý A-li-úc chỉ huy một lực lượng gồm 321 tên với cấu trúc phòng thủ tại Đông Khê, nơi được cho là có khả năng đứng vững trước các cuộc tấn công của đối phương trong một thời gian dài, ít nhất cho đến khi nhận được viện binh.
Ban chỉ huy mặt trận Đông Khê, do Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng, đã quyết định triển khai một lực lượng mạnh mẽ gồm 2 trung đoàn bộ binh và 13 khẩu sơn pháo 70, 75 để tấn công trực tiếp vào Đông Khê Lực lượng dự bị bao gồm một trung đoàn và hai tiểu đoàn sẽ hỗ trợ quân nhảy dù cứu viện cho khu vực này Kế hoạch tác chiến nhằm tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi trước khi đưa lực lượng chủ lực vào để đánh bại sức kháng cự của địch tại trung tâm Trung đoàn 174, từng tiêu diệt Đông Khê trước đây, được giao nhiệm vụ chủ công, tiến công từ hướng Bắc, trong khi trung đoàn 209 tấn công từ hướng Nam.
Theo kế hoạch chiến dịch, vào đêm 15-9, các đơn vị đã hành quân vào Đông Khê để chiếm lĩnh trận địa Trong khi đó, hai trung đoàn của đại đoàn 308 cũng đã sẵn sàng ở đường số 4 để ứng chiến Tại Na Sầm - Lạng Sơn, bộ đội và dân công đã tích cực phá hoại giao thông nhằm thực hiện kế hoạch nghi binh Đến 6 giờ sáng ngày 16 tháng 9, pháo 75 của ta bắt đầu nổ súng vào cụm cứ điểm Đông Khê, theo sau là các loại pháo khác, khiến cả vùng Đông Khê chìm trong khói và thung lũng trở nên sôi động.
Giờ đầu địch ch-a kịp phản ứng tr-ớc đòn tấn công bất ngờ
Ban chỉ huy Đông Khê báo cáo rằng trung đội 174 đã chiếm đồi Yên Ngựa lúc 9 giờ và Phìa Khoá lúc 10 giờ 30, tuy nhiên địch chưa phản kích Trung đoàn 209 ở hướng Đông Nam chưa có báo cáo và gặp khó khăn do một bộ phận hành quân lạc, dẫn đến việc tạm ngừng trận đánh để chỉnh đốn đội hình Địch đang bắn phá dữ dội từ pháo đài Đồn To, với công sự vững chắc và máy bay yểm hộ, khiến ta rơi vào thế bất lợi Cả hai mũi sẽ phối hợp tấn công khi trời tối để giải quyết vị trí địch.
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt vào đêm 16-9, với địch tập trung sức mạnh vào hướng Tây Bắc Đến 4 giờ sáng ngày 17-9, trung đoàn 174 chỉ mới chiếm được Cặm Phầy, trong khi trung đoàn 209 chỉ kiểm soát khu phía Nam Đông Khê, gồm Phủ Thiện, Nhà Củ và trường học, nhưng gặp phải hỏa lực mạnh từ các điểm ngầm và súng cối, buộc phải dừng lại Cả hai mũi tấn công đều không phát triển được, dẫn đến chỉ thị từ Bộ chỉ huy chiến dịch cho Ban chỉ huy Đông Khê.
Vào đêm 17 - 9, hai trung đoàn được lệnh điều chỉnh lại lực lượng, rút kinh nghiệm nhằm khắc phục những thiếu sót trong chiến thuật và kỹ thuật Đặc biệt, cần cải thiện mối quan hệ hợp tác chiến đấu giữa các mũi xung kích và giữa bộ binh với pháo binh.
Trước tình hình căng thẳng, Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 Đặng Văn Việt đã đề xuất chuyển hướng tấn công của trung đoàn 209 sang phía Đông pháo đài, bỏ qua hướng Bắc do địch đang tập trung đối phó Ông chỉ thị cho trung đoàn 209 thực hiện một mũi tấn công từ phía Nam, nhằm tạo ra áp lực từ phía sau lưng pháo đài “Đến 8 giờ 30 ngày 17 -”.
Vào lúc 9 giờ, Hoàng Văn Thái ra lệnh tổng công kích, sau khi pháo binh áp chế các mục tiêu Một mũi tiến công của 174 đã chiếm được đầu cầu phía Đông pháo đài, trong khi mũi phía Bắc chiếm nhà thương và thọc sâu vào lô cốt số 7, đồng thời liên lạc được với một tiểu đoàn của 209 để phối hợp tấn công vào sau lưng pháo đài Bộ binh các hướng đã phối hợp nhịp nhàng, tiến công vào đồn lớn Đến 4 giờ ngày 18 - 09, lực lượng ta đã đánh vào sở chỉ huy Đông Khê, bắt sống viên đại úy đồn trưởng và các sĩ quan tham mưu Đến 10 giờ, trận đánh đã kết thúc.
Trận Đông Khê đã diễn ra thành công với việc tiêu diệt và bắt giữ 300 lính địch, trong khi một số khác đã chạy thoát về Thất Khê Chúng ta đã thu toàn bộ vũ khí và trang thiết bị quân sự, nhưng thiệt hại về quân số của ta lớn hơn nhiều so với địch Cuộc chiến kéo dài liên tục trong 52 giờ.
Chiến thắng vang dội trong trận mở màn Đông Khê đã tạo động lực mạnh mẽ cho các chiến dịch tiếp theo, khuyến khích tinh thần chiến đấu trên mọi mặt trận Sự kiện này không chỉ khẳng định sức mạnh của quân đội mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của toàn bộ chiến dịch Đông Khê đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều gương chiến đấu dũng cảm và phục vụ chiến đấu xuất sắc.
Tiểu đội trưởng La Văn Cầu, trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, đã quyết định chặt đứt cánh tay bị thương của mình để tiếp tục xông lên phá lô cốt địch, thể hiện tinh thần kiên cường và quyết tâm trong phong trào thi đua giết giặc lập công Ông chia sẻ rằng để đảm bảo thắng lợi, tiểu đoàn đã thành lập một nhóm 25 người, chia thành 5 tổ, mang theo những gói thuốc nổ lớn Dù nhiệm vụ rất nguy hiểm, họ vẫn sẵn sàng hy sinh, thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng và tôn trọng nghiêm ngặt kỷ luật chiến trường, không lấy của kẻ địch và không giết kẻ đầu hàng.
Lực lượng của chúng tôi cách địch 1 km, với 300 lính đóng tại một đồn trên ngọn đồi nhỏ kiểm soát cao nguyên Đông Khê Cuộc chiến bắt đầu lúc 6 giờ sáng với tiếng nổ từ khối bộc phá, làm tín hiệu xung phong Ngay lập tức, pháo binh của chúng tôi sử dụng pháo 75 Nhật Bản đã đánh đổ cột cờ của địch ngay từ phát đạn đầu tiên, mang lại niềm vui cho chúng tôi khi thấy kẻ thù bị đánh ngay từ những phút đầu Đến 18 giờ 30, khi màn đêm buông xuống, La Văn Cầu và các đồng chí tiến đến vị trí địch, nhưng anh đã bị thương ở cánh tay phải do một loạt đạn súng, tay bị thương mắc vào lưới thép, và anh đã ngất đi vì đau đớn.
VÒ qu©n sù
Chiến dịch Biên giới là một cuộc tấn công quy mô lớn, thể hiện nghệ thuật quân sự và chiến dịch tiên tiến của quân đội ta Đây là một chiến dịch đánh tiêu diệt hiệu quả, áp dụng phương thức “vận động chiến”, đánh dấu bước tiến quan trọng trong khả năng tác chiến tập trung của lực lượng vũ trang.
Thắng lợi trong chiến dịch Biên giới đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đưa cuộc kháng chiến vào giai đoạn mới Ngược lại, thất bại ở Biên giới đã làm đảo lộn chiến lược và chiến thuật của Pháp, khiến địch hoang mang và phải vội vàng điều chỉnh quân lực, thay đổi chỉ huy Điều này đã đẩy quân địch vào thế bị động phòng ngự và buộc họ phải rút lui từng bước khỏi những khu vực rộng lớn.
2.1.1.1 Thắng lợi chiến dịch Biên giới đ-a cuộc kháng chiến ta sang giai đoạn mới, giai đoạn giành quyền chủ động trên chiến tr-ờng chính Bắc
Bộ, chủ động tiến công và phản công ngày càng lớn
Từ đầu năm 1948 đến thu đông 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã phát triển mạnh mẽ với sự tham gia toàn dân, toàn diện Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển mình từ chiến tranh du kích sang vận động chiến, góp phần làm thất bại âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp Chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp đã bị đẩy lùi, đánh dấu bước tiến quan trọng trong cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của chiến dịch Biên giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các chiến dịch theo ý muốn, đặc biệt là các chiến dịch tấn công vào lực lượng địch tại đồng bằng Trung.
Trong giai đoạn 1950 - 1954, đồng bằng Bắc Bộ chứng kiến các chiến dịch quan trọng như Trần Hưng Đạo, Quang Trung và Hoàng Hoa Thám Nỗ lực của Pháp nhằm giành quyền chủ động qua kế hoạch tấn công lên Hòa Bình đã bị quân dân ta đánh bại, khiến họ rơi vào thế bị động phòng ngự chiến lược Đồng thời, chiến dịch Tây Bắc đã đẩy quân địch vào thế thua Đối với các chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, tiếng súng Tây Bắc báo hiệu một mùa đông đầy lo ngại, là mùa đông thứ tám của cuộc chiến, mang đến hình ảnh thất vọng Sự chủ động của ta sau năm 1950 không chỉ giới hạn trong nước mà còn mở rộng sang chiến dịch Thượng Lào cùng với quân dân Lào, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cuộc chiến.
Cuộc chiến tranh Đông D-ơng đã khiến Pháp hoàn toàn bất ngờ khi Việt Minh thực hiện các chiến dịch lớn không chỉ giới hạn ở Đông Bắc Bộ Trước đó, Pháp chưa bao giờ nghiêm túc dự đoán rằng Việt Minh có thể mở rộng hoạt động ra ngoài khu vực này.
Sau chiến thắng tại Biên giới, cuộc kháng chiến tiếp tục phát triển, khiến thế bị động chiến lược của Pháp ngày càng rõ rệt Từ Hòa Bình đến đồng bằng, từ đồng bằng đến Tây Bắc và Thượng Lào, quân địch liên tục chịu thất bại nặng nề, buộc phải đối phó một cách bị động Lực lượng của họ bị tổn thất nghiêm trọng, và họ mất kiểm soát nhiều vùng chiến lược quan trọng Mục tiêu biến đồng bằng Bắc Bộ thành “chiến lược cài then cửa” cho khu vực Đông Nam Á giờ đây trở nên xa vời và khó thực hiện.
Từ năm 1950, theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II và các hội nghị trung ương sau đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đạt được ba nhiệm vụ quan trọng: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, và phá tan kế hoạch bình định của giặc Những thắng lợi này khẳng định quyền chủ động trong chiến lược tấn công của chúng ta, tạo điều kiện cho những thắng lợi lớn hơn trong mùa Đông Xuân tới.
2.1.1.2 Đánh dấu sự tr-ởng thành về nghệ thuật quân sự :
Trong chiến dịch Biên giới chống thực dân Pháp, nghệ thuật quân sự của ta đã có sự phát triển vượt bậc, từ những giai đoạn chưa hoàn chỉnh đến một nền tảng quân sự tiên tiến của chiến tranh nhân dân Chiến dịch Biên giới năm 1950 đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình tiến bộ này.
Từ khi đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời, chiến tranh du kích đã được phát triển với chiến lược "lấy du kích chiến là chính, vận động chiến là phù trợ" Hình thức du kích vận động chiến đã được sáng tạo để chuyển tiếp từ du kích lên vận động chiến, tiêu hao và tiêu diệt quân địch, gây tổn thất về quân số và vũ khí cho đối phương Giai đoạn 1948 - 1950, các chiến dịch nhỏ đã được tổ chức với quy mô tiểu đoàn, liên tiểu đoàn, kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương Chiến dịch Biên giới là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên, áp dụng nhiều hình thức tác chiến khác nhau, bao gồm đánh vận động và hiệp đồng giữa các binh chủng Qua chiến dịch này, chúng ta đã chứng minh sự hiệu quả trong việc tổ chức và sử dụng lực lượng, làm phá sản các biện pháp tác chiến của địch Mặc dù một số vấn đề như sự không chính quy trong tác chiến đã xảy ra, nhưng đây là bài học quý giá cho việc xây dựng nền nếp chính quy trong tương lai.
Cùng với sự tiến bộ của các hình thức tác chiến, chúng ta đã làm cho các biện pháp và thủ đoạn chiến thuật của đối phương trở nên không hiệu quả Điều này chứng tỏ rằng trình độ chỉ huy, chiến thuật và kỹ thuật của lực lượng quân đội ta đã phát triển vượt bậc.
Hình thái chiến tranh từ du kích tiến lên chính quy, kết hợp giữa chiến tranh chính quy và du kích ở trình độ cao hơn, được thể hiện rõ qua chiến dịch Biên giới Để đối phó với âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp, quân và dân ta đã áp dụng phương thức tấn công phù hợp, tập trung vào việc đẩy mạnh chiến tranh du kích, đặc biệt ở vùng sau lưng địch, từ đó từng bước phát triển tác chiến chính quy quy mô nhỏ Đảng đã chỉ đạo cần thiết phải phát triển du kích chiến như là nền tảng, trong khi vận động chiến đóng vai trò hỗ trợ, nhấn mạnh rằng việc nâng cao vận động chiến lên vị trí quan trọng khi có đủ điều kiện là cần thiết Từ năm 1949 đến 1950, việc phát triển du kích chiến đến mức tối đa vẫn là nhiệm vụ chính, đồng thời cần chú trọng đánh vận động thực sự.
Bộ đội chủ lực đã tiến hành các trận đánh chính quy phù hợp với thực tiễn chiến trường, chủ yếu là sự kết hợp giữa bộ binh và pháo binh, nhằm tiêu diệt lực lượng địch Từ những trận đánh này, chúng ta đã mở rộng các chiến dịch nhỏ và lớn, tiêu biểu là chiến dịch Biên giới, làm xuất hiện hình thái chiến tranh chính quy và tạo ra những đợt tiến công chiến lược hiệu quả Những năm đầu phát triển chiến tranh du kích đã tiêu hao quân địch và mở rộng căn cứ, nhưng từ sau chiến dịch Biên giới, bộ đội chủ lực đã phát huy hiệu quả cao hơn trong việc giải phóng những vùng đất chiến lược từ Cao Bằng đến Đình Lập, xóa sạch khu Biên giới Đông Bắc của địch Lực lượng ta ngày càng trưởng thành, mở rộng vùng tự do và căn cứ, tạo nên thế tiến công toàn diện trong cuộc chiến tranh cách mạng, dẫn đến trận quyết chiến lịch sử Điện Biên Phủ, đánh dấu thắng lợi lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và giải phóng một nửa đất nước.
Qua chiến dịch Biên giới 1950, nghệ thuật quân sự của ta đã có bước phát triển quan trọng, thể hiện rõ nét tính chất toàn dân trong việc đánh giặc Nền nghệ thuật này nhấn mạnh tư tưởng chủ động, tích cực tiến công, sử dụng chiến lược lấy nhỏ đánh lớn và ít đánh nhiều Chúng ta chủ động lựa chọn cách đánh, không để địch phát huy ưu thế về quân số và vũ khí kỹ thuật hiện đại.
2.1.1.3 Đánh dấu sự tr-ởng thành về lực l-ợng:
Trước chiến dịch Biên giới, quân dân ta huy động tối đa lực lượng với một đại đoàn 308, hai trung đoàn 209 và 174, cùng với bốn đại đội sơn pháo và năm đại đội công binh.
Sau chiến dịch, thực hiện nghị quyết đại hội lần thứ II của Đảng (02 - 1951)