Mục đích nghiên cứu
Xây dựng quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học tại trường Đại học Vinh nhằm nâng cao kỹ năng sư phạm cho họ khi ra trường Việc áp dụng các phương pháp tổ chức trò chơi sẽ giúp sinh viên phát triển khả năng giảng dạy hiệu quả và tạo hứng thú cho học sinh Điều này không chỉ cải thiện kỹ năng chuyên môn mà còn góp phần vào sự thành công trong sự nghiệp giáo dục của họ.
Khách thể và đối t-ợng nghiên cứu
Vấn đề rèn luyện kỹ năng s- phạm cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học
Nội dung quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho học sinh lớp 1,2,3 cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học.
Giả thuyết khoa học
Để nâng cao hiệu quả rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành GDTH ở các lớp 1, 2, 3, cần xác định rõ cấu trúc của kỹ năng này và tổ chức quá trình hình thành chúng theo một quy trình cụ thể.
Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
5.2 Tìm hiểu cơ sở thực tiển của vấn đề nghiên cứu
5.3 Đề xuất nội dung quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành GDTH.
Ph-ơng pháp nghiên cứu
6.1 Nhóm ph-ơng pháp nghiên cứu lý luận:
Để phát triển cơ sở lý luận cho đề tài, các phương pháp được áp dụng bao gồm phân tích tổng hợp lý thuyết, khái quát hóa nhận định độc lập và mô hình hóa.
6.2 Nhóm ph-ơng pháp nghiên cứu thực tiển:
Để xây dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài, chúng tôi áp dụng các phương pháp như điều tra, tổng kết kinh nghiệm giáo dục, lấy ý kiến từ các chuyên gia và thực nghiệm sư phạm.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối t-ợng: học sinh lớp 1,2,3 Độ tuổi: 6 -> 9 tuổi
- Địa bàn nghiên cứu: Các tr-ờng Tiểu học Lê Mao, Hồng Sơn, Vinh Tân, H-ng Lộc, thành phố Vinh- Nghệ An
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích cấu trúc và nội dung quy trình phát triển kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học tại trường Đại học Vinh, khóa 44 và 45.
Đóng góp mới của đề tài
Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học tại trường Đại học Vinh được xác định rõ ràng, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập Việc phát triển kỹ năng này không chỉ giúp sinh viên hiểu sâu về môn Toán mà còn tạo ra môi trường học tập tích cực và sáng tạo Các hoạt động trò chơi sẽ được thiết kế phù hợp với chương trình học, giúp sinh viên áp dụng lý thuyết vào thực tiễn một cách hiệu quả.
9 Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục Luận văn gồm có 3 ch-ơng:
Ch-ơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Ch-ơng 2: Cơ sở thực tiển của vấn đề nghiên cứu
Ch-ơng 3: Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học, tr-ờng ĐH Vinh
CÊu tróc luËn v¨n
Sơ l-ợc lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trò chơi là một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của con người, có lịch sử phát triển lâu dài Theo Plêkhanốp, trò chơi xuất hiện sau lao động và dựa trên nền tảng của lao động Mỗi dân tộc đều sở hữu một kho tàng trò chơi phong phú, được gìn giữ và truyền lại qua các thế hệ Sự hấp dẫn của trò chơi đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực như triết học, dân tộc học, sinh học, tâm lý học và giáo dục học từ trước Công Nguyên cho đến nay.
Vào giữa thế kỷ XVIII, một số nhà tâm lý học và giáo dục tiêu biểu như J Piaget, Ph Phieben, K Đ Usinxki, P Ph Kapterep, P Ph Lexgapht và M Montessori đã bắt đầu liên kết trò chơi với việc dạy học, sử dụng trò chơi như một phương tiện giáo dục J Piaget khẳng định rằng "Trò chơi là một đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy trẻ luyện tập", và ở bất kỳ nơi nào thành công trong việc biến đổi quá trình học tập thành trò chơi, trẻ em sẽ cảm thấy hứng thú với những hoạt động mà bình thường chúng coi là công việc nặng nhọc.
Hay Edua Clapared, nhà tâm lý học và giáo dục học người Pháp, nhấn mạnh rằng trường học cần phải hoạt động như một phòng thí nghiệm hơn là một đại giảng đường, nhằm khuyến khích sự hoạt động của trẻ Ông cho rằng việc tận dụng trò chơi là rất quan trọng, vì trò chơi kích thích tối đa sự sáng tạo và hoạt động của trẻ Ý tưởng này đã được tiếp nối và phát triển trong nhiều nghiên cứu của các nhà giáo dục học Liên Xô cũ như U.Pusova và A.L.Radina.
N Avanhesova, A.K.Bandarenco, A.L.Sorokina ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về trò chơi và việc sử dụng trò chơi trong dạy học đã trở nên phổ biến ở một số môn học ở Tiểu học, nh-: Đạo đức, Tiếng Việt, Tự nhiên – Xã hội Đối với môn Toán ở Tiểu học, một số nghiên cứu của các nhà giáo dục học nh- Trần Ngọc Lan, Đỗ Tiến Đạt, Phạm Thanh Tâm, Phạm Đình Thực đã và đang có những đóng góp giá trị cho việc tổ chức dạy học bằng trò chơi Tuy nhiên các nghiên cứu của họ mới chỉ dừng lại ở việc thiết kế một số trò chơi trong dạy học môn Toán mà ch-a có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán trong đào tạo GVTH t-ơng lai.
Trò chơi học tập
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của trò chơi học tập:
Trò chơi là một hoạt động quen thuộc và gần gũi với mọi người Tuy nhiên, vẫn chưa có một định nghĩa chính xác và đầy đủ về trò chơi cho đến nay.
* Có nhiều cách hiểu xung quanh khái niệm về trò chơi
- Cách hiểu thứ nhất: Trò chơi là một hình thức hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí
Hoạt động giải trí có thể được hiểu như một hoạt động mang chủ đề cụ thể, với các quy định bắt buộc mà người tham gia phải tuân thủ, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi của mọi người Ví dụ điển hình cho hoạt động này bao gồm trò chơi “bịt mắt bắt dê” và “đánh cờ”.
Trò chơi là một hoạt động diễn ra trong các tình huống ước lệ, giúp tái hiện các chuẩn mực sống và hành động của con người Nó cung cấp kiến thức về thực tại xã hội và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển trí tuệ, tình cảm và kỹ năng hành động.
Theo M.J Arstanov, trò chơi của trẻ không chỉ đơn thuần là hoạt động vui chơi mà còn là một phương pháp giáo dục có chủ đích, giúp trẻ chuẩn bị cho cuộc sống và công việc sau này Trò chơi được xem là một trong những hình thức dạy học sớm nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kỹ năng và kiến thức cần thiết cho trẻ, góp phần vào quá trình học tập và phát triển của trẻ.
- J Piaget xem xét trò chơi từ góc độ t- duy "trò chơi là t- duy của cá nhân d-ới hình thức thuần tuý nhất của nó" [15; tr.193-299]
V Vunt, nhà tâm lý học người Đức, đã chỉ ra mối liên hệ giữa trò chơi trẻ em và lao động Ông nhấn mạnh rằng "trò chơi chính là lao động của trẻ nhỏ", vì mỗi trò chơi đều chứa đựng nguyên mẫu của một dạng lao động thực sự Trò chơi loại bỏ các mục đích hữu ích của lao động, và do đó, kết quả thú vị và khoan khoái từ lao động trở thành mục đích của trò chơi.
Trò chơi được hiểu là một hoạt động độc đáo mà người tham gia thực hiện một cách tự nguyện để thỏa mãn nhu cầu giải trí Mục đích chính của trò chơi là mang lại niềm vui, không phải để đạt được lợi ích nào khác Đặc biệt đối với trẻ em, trò chơi đóng vai trò như một trường học giúp chúng chuẩn bị cho cuộc sống.
Theo J Piaget, trò chơi trẻ em phát triển song song với sự tiến bộ trí tuệ của trẻ Ông phân loại trò chơi thành ba loại: trò chơi tập (trò chơi hành động-chức năng) bắt đầu từ khoảng 2 tuổi, không có hình thức hay kỹ thuật đặc thù, mà chỉ nhằm lặp lại những hoạt động đã học để tự thích nghi và khám phá Tiếp theo là trò chơi tưởng tượng, xuất hiện từ 3-6 tuổi, với đỉnh cao là trò chơi đóng vai theo chủ đề Cuối cùng là các trò chơi có quy tắc như đánh bi và nhảy lò cò.
Theo PGS.PTS Bùi Văn Huệ thì cho rằng ở Tiểu học có các loại trò chơi sau:
Các trò chơi như kéo co, đu quay, leo núi và bơi thuyền không chỉ mang lại niềm vui mà còn có tác dụng bồi bổ sức khỏe Bên cạnh đó, những trò khổ luyện như mở mắt lâu không chớp hay đứng im không động đậy cũng giúp rèn luyện sức bền và sự kiên nhẫn.
Các trò chơi rèn luyện sự khéo léo như đánh đáo, đánh quay, tung hứng, thả diều, ú tim, đi cà kheo, thả vòng cổ chai và đi xe đạp chậm không chỉ giúp cải thiện kỹ năng vận động mà còn mang lại niềm vui và sự gắn kết trong các hoạt động tập thể.
- Trò chơi rèn luyện trí tuệ: câu đố, gấp giấy thành đồ vật, cờ t-ớng, cờ quốc tế, chơi ô ăn quan, chơi tú lơ khơ…
- Trò chơi rèn luyện tính cách: cờ t-ớng, bóng chuyền, đóng kịch…
Trò chơi học tập là loại trò chơi có quy tắc, yêu cầu người chơi tham gia vào quá trình tư duy để giải quyết các tình huống, từ đó đáp ứng nhu cầu nhận thức của bản thân.
Trò chơi học tập là một công cụ hiệu quả trong việc phát triển trí tuệ, đồng thời là cách tiếp cận độc đáo giúp trẻ em khám phá và nhận thức thế giới xung quanh một cách thú vị và nhẹ nhàng.
Trò chơi học tập khác với tiết học ở chỗ nhiệm vụ của người chơi không được công khai mà nằm trong luật chơi và hành động Tuy nhiên, giống như tiết học, trò chơi học tập yêu cầu trẻ tích cực huy động kiến thức và kỹ năng để hoàn thành nhiệm vụ Dạy trẻ thông qua trò chơi giúp các em giải quyết nhiệm vụ nhận thức một cách nhẹ nhàng, không bị áp lực Khi tham gia trò chơi, trẻ lặp lại các hành động và áp dụng kinh nghiệm, từ đó tạo điều kiện cho việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng hiệu quả.
Trò chơi học tập là một hình thức giáo dục thông qua các hoạt động vui chơi, được thiết kế với nội dung và luật chơi do người lớn sáng tạo Mặc dù có sự hướng dẫn và kiểm soát từ người lớn, trò chơi học tập vẫn đảm bảo tính tự do và độc lập cho trẻ, đáp ứng nhu cầu và cảm xúc của trẻ Nó cho phép trẻ tự do chơi, tự điều khiển và phát huy khả năng sáng tạo không ngừng.
Trò chơi học tập là những trò chơi có quy tắc và nội dung phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, giúp họ phát triển kỹ năng học tập Đây là hình thức trò chơi kích thích sự nhận thức, cho phép học sinh khai thác kinh nghiệm cá nhân để vừa chơi vừa học hiệu quả.
Trò chơi học tập có những đặc điểm nổi bật sau đây:
1- Luật lệ của trò chơi đ-ợc quy định rõ ràng, th-ờng do ng-ời lớn nghĩ ra nhằm mục đích giáo dục - dạy học
2- Cấu trúc của trò chơi gồm các yếu tố cơ bản sau đây:
Nhiệm vụ nhận thức là yếu tố cốt lõi trong trò chơi học tập, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh khác của trò chơi Tất cả các yếu tố trong trò chơi đều hướng đến việc hỗ trợ và phục vụ cho nhiệm vụ nhận thức này.
Hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học
1.3.1 Kỹ năng tổ chức trò chơi học toán
1.3.1.1 Khái niệm về kỹ năng và kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán:
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về kỹ năng Có thể chia thành hai khuynh h-ớng chính nh- sau:
Khuynh hướng thứ nhất tập trung vào việc phân tích kỹ năng kỹ thuật và thao tác của hành động, mà không chú trọng đến kết quả cuối cùng của những hành động đó.
- Khuynh h-ớng thứ hai xem xét kỹ năng nghiêng về mặt năng lực của con ng-ời và rất chú ý đến kết quả của hành động
Hai quan niệm này không mâu thuẫn mà chỉ khác nhau ở mức độ nhấn mạnh vào một trong hai bậc kỹ năng cơ bản Sự khác biệt giữa hai khuynh hướng này thể hiện qua cách tiếp cận và ưu tiên trong việc phát triển kỹ năng.
Kỹ năng nguyên sinh (bậc 1), hay còn gọi là kỹ năng kinh nghiệm, là khả năng áp dụng những kinh nghiệm và mẫu biểu tượng của hành động để giải quyết các tình huống mới.
Kỹ năng thứ sinh (bậc 2), hay còn gọi là kỹ năng lý luận, là những kỹ năng được phát triển dựa trên nền tảng kiến thức khoa học Đây là một mô hình hành động có tính chất phổ quát, giúp người học áp dụng lý thuyết vào thực tiễn một cách hiệu quả.
Trong hai quan niệm về kỹ năng, quan niệm theo khuynh hướng thứ hai được lựa chọn vì tính ổn định, linh hoạt và sáng tạo Theo đó, kỹ năng được định nghĩa là khả năng áp dụng tri thức và kinh nghiệm cá nhân để giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ mới.
Từ nghiên cứu lý luận chúng tôi cho rằng:
Kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán là khả năng áp dụng tri thức về trò chơi học tập và hiểu biết tâm sinh lý học sinh Kỹ năng này bao gồm việc lựa chọn và tổ chức các trò chơi học tập sao cho hiệu quả, từ đó nâng cao kết quả trong giáo dục và dạy học môn Toán.
1.3.1.2 Các yếu tố ảnh h-ởng đến việc hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên Dưới đây là một số yếu tố cơ bản nhất tác động đến kỹ năng này cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học.
Hệ thống tri thức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kỹ năng, đặc biệt là khi tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên Để phát triển kỹ năng này, sinh viên cần được trang bị các loại kiến thức cần thiết.
+ Kiến thức về toán học cũng nh- ch-ơng trình Toán ở Tiểu học
+ Kiến thức về đặc điểm tâm sinh lí học sinh Tiểu học
+ Kiến thức về trò chơi và ph-ơng pháp tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học
+ Kiến thức về hệ thống những kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán, quy trình tổ chức trò chơi học tập môn Toán
Ý thức và thái độ học tập của sinh viên đóng vai trò quyết định đến kết quả rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán Các yếu tố nội tại như năng lực, tính kiên trì, tính nghiêm túc và sự sáng tạo tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kỹ năng này Kinh nghiệm cho thấy rằng những sinh viên có ý thức và tinh thần luyện tập đúng đắn thường đạt được kết quả cao, với kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán trở nên thuần thục, thậm chí đạt đến trình độ xuất sắc.
Kinh nghiệm tổ chức trò chơi học tập là yếu tố quan trọng giúp sinh viên phát triển kỹ năng tổ chức Những sinh viên đã từng tham gia tổ chức trò chơi sẽ có lợi thế hơn trong việc rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán.
Phương pháp kiểm tra và đánh giá đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao kết quả tập luyện của sinh viên Khi quá trình tập luyện được giảng viên theo dõi và đánh giá chặt chẽ, sinh viên có khả năng đạt được kết quả rèn luyện tốt hơn.
Quy trình rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán của sinh viên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nội dung, phương pháp và hình thức tập luyện cụ thể Việc áp dụng các phương pháp hiệu quả giúp sinh viên phát triển kỹ năng tổ chức trò chơi học tập một cách toàn diện.
1.3.2 Hệ thống những kỹ năng tổ chức và h-ớng dẫn trò chơi học tập môn Toán cần hình thành ở sinh viên khoa giáo dục Tiểu học
1.3.2.1 Nhãm kü n¨ng thiÕt kÕ
Thiết kế trò chơi là yếu tố quan trọng trong tổ chức trò chơi học tập môn Toán, giúp nâng cao hiệu quả học tập Giáo viên cần dành thời gian hợp lý cho việc thiết kế trò chơi, đảm bảo phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu và hứng thú của học sinh Việc này không chỉ tạo ra sự hấp dẫn mà còn giúp củng cố kiến thức, kỹ năng cần thiết cho học sinh Thiết kế tốt còn mang lại sự tự tin cho giáo viên, giúp họ ứng phó kịp thời với các tình huống bất ngờ và ngăn chặn những vấn đề không mong muốn trong quá trình tổ chức trò chơi.
Trong hệ thống kỹ năng thiết kế trò chơi, sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học cần phát triển nhiều kỹ năng cơ bản, trong đó kỹ năng sưu tầm và sáng tác trò chơi là rất quan trọng Kỹ năng này giúp sinh viên lựa chọn đúng đắn các trò chơi học tập môn Toán để tổ chức cho học sinh Để tạo ra một “ngân hàng” trò chơi học tập môn Toán phong phú và đa dạng, sinh viên cần có ý thức sưu tầm các trò chơi ngay từ khi còn học tại trường.
Một số biện pháp để s-u tầm trò chơi:
+ Cần có một cuốn sổ để s-u tầm, sáng tác trò chơi
Các trò chơi được sưu tầm có thể đến từ sách, báo, tạp chí tham khảo, hoặc học hỏi từ đồng nghiệp Ngoài ra, những trò chơi từ các cuộc thi cũng là nguồn tài liệu quý giá cho việc dạy học môn Toán Quan trọng là tận dụng mọi cơ hội để ghi chép kinh nghiệm và tài liệu mà bạn gặp gỡ, cũng như những ý tưởng bất chợt nảy ra trong đầu.
Khái quát về tổ chức nghiên cứu thực trạng
Trong năm học 2006 – 2007, chúng tôi đã tiến hành khảo sát để tìm hiểu thực trạng nhận thức, mức độ và kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của sinh viên ngành giáo dục Tiểu học và giáo viên Tiểu học Để thu thập dữ liệu, chúng tôi đã sử dụng phiếu điều tra.
2.1.1.1 Đối t-ợng thứ nhất: Giáo viên Tiểu học
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 100 giáo viên đang giảng dạy trực tiếp cho các lớp 1, 2, 3 tại các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Vinh - Nghệ An, bao gồm Trường Tiểu học Lê Mao, Trường Tiểu học Hồng Sơn, Trường Tiểu học Hưng Lộc, Trường Tiểu học Bến Thủy và Trường Tiểu học Vinh Tân.
Theo kết quả điều tra, trong số giáo viên Tiểu học, có 6% giáo viên có trình độ trung cấp sư phạm, 38% có trình độ cao đẳng sư phạm và 56% có trình độ đại học sư phạm.
- Thâm niên công tác: 20 giáo viên công tác d-ới 5 năm (chiếm 20%),
53 giáo viên công tác từ 5 – 10 năm (chiếm 53%) và 42 giáo viên công tác trên 10 năm (chiếm 42%)
Trong số 100 cán bộ giáo viên được khảo sát, có 94% đạt trình độ chuyên môn trên chuẩn và 80% có hơn 5 năm kinh nghiệm công tác Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra về kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của giáo viên.
2.1.1.2 Đối t-ợng thứ hai: Sinh viên ngành giáo dục Tiểu học Để nghiên cứu thực trạng nhận thức, mức độ và quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học cho sinh viên, chúng tôi đã tiến hành điều tra
52 sinh viên năm thứ 3 (K45) và 65 sinh viên năm thứ 4 (K44) khoa giáo dục Tiểu học tr-ờng Đại học Vinh
2.1.2 Nội dung nghiên cứu thực trạng
Chúng tôi tổ chức điều tra các nội dung sau:
- Thực trạng nhận thức của sinh viên về trò chơi cũng nh- việc sử dụng trò chơi trong dạy học
- Kiến thức về trò chơi toán học của sinh viên
Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi toán học bao gồm các bước từ việc lập kế hoạch, thiết kế trò chơi đến việc thực hiện và đánh giá kết quả Sinh viên cần tự đánh giá mức độ hình thành kỹ năng này thông qua việc phản hồi về trải nghiệm tổ chức trò chơi, từ đó cải thiện khả năng của mình Việc tổ chức trò chơi toán học không chỉ giúp sinh viên nắm vững kiến thức mà còn phát triển kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm và tư duy sáng tạo.
- Thực trạng nhận thức của giáo viên về việc sử dụng trò chơi trong dạy học
- Kiến thức của giáo viên về trò chơi học tập
- Những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học
- Kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở giáo viên Tiểu học
2.1.3 Ph-ơng pháp nghiên cứu thực trạng
Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến nhằm thu thập thông tin về tình hình sử dụng trò chơi trong dạy học toán ở các lớp đầu bậc Tiểu học, theo các nội dung đã nêu Mẫu phiếu điều tra được đính kèm ở phần phụ lục.
Phỏng vấn được thực hiện với giáo viên đang giảng dạy tại các lớp 1, 2, 3 ở thành phố Vinh và sinh viên năm thứ 3, 4 của khoa giáo dục Tiểu học tại trường Đại học Vinh.
- Thống kê toán học: Dùng để xử lí kết quả điều tra, nghiên cứu từ các ph-ơng pháp trên
2.1.4 Các mức độ hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán
2.1.4.1 Nhóm kỹ năng thiết kế trò chơi a) Kỹ năng s-u tầm, sáng tác trò chơi
Mức tốt trong việc sưu tầm trò chơi giáo dục yêu cầu sự sáng tạo và khả năng cải biên để phù hợp với từng đối tượng học sinh, bao gồm học sinh khá giỏi, trung bình và yếu kém Mỗi mạch kiến thức dành cho một khối lớp cần có ít nhất 8 trò chơi, đảm bảo nội dung sát với chương trình học Sổ sưu tầm cần thể hiện sự phong phú, đa dạng và được trình bày một cách sạch sẽ, khoa học.
Mức khá thể hiện sự ý thức trong việc sưu tầm trò chơi từ nhiều nguồn khác nhau và đã có sự cải biên để phù hợp với lớp học Mỗi mạch kiến thức cho một khối lớp có từ 5 đến 7 trò chơi trong sổ sưu tầm.
- Mức trung bình: Đã biết cách s-u tầm, cải biên trò chơi Sổ s-u tầm đủ có từ 3 đến 4 trò chơi trên mỗi mạch kiến thức dành cho mỗi khối lớp
- Mức yếu: Không đạt các mức trên b) Kỹ năng lựa chọn trò chơi
Thông qua việc phân tích đặc điểm nhận thức của học sinh và nội dung chương trình môn Toán, giáo viên đã lựa chọn và thiết kế trò chơi phù hợp với mục tiêu giảng dạy, đồng thời thể hiện sự sáng tạo trong việc khuyến khích tính tích cực nhận thức của học sinh.
- Mức khá: Việc lựa chọn và thiết kế trò chơi phù hợp với thực tế lớp học, có tính đến từng đối t-ợng học sinh
- Mức trung bình: Việc lựa chọn trò chơi phù hợp với mục đích đề ra
- Mức yếu: Không đạt các mức trên c) Kĩ năng thiết kế giáo án trò chơi
- Mức tốt: Giáo án có cơ sở khoa học và thực tế của lớp, trình bày sạch sẽ, rõ ràng thể hiện rõ hoạt động của học sinh
Giáo án ở mức khá cần rõ ràng về mục đích tổ chức trò chơi, liệt kê các công việc chuẩn bị cần thiết, mô tả các hoạt động chính và xác định thời gian thực hiện các hoạt động.
- Mức trung bình: Giáo án đ-ợc thiết kế đúng theo quy định
- Mức yếu: Không đạt các mức trên
2.1.4.2 Nhóm kỹ năng tổ chức các mối quan hệ a) Kĩ năng thiết lập những mối quan hệ cá nhân trong lớp
Việc thiết lập mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong lớp học có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả tổ chức trò chơi toán học cho học sinh Tiểu học.
Mức khá được thể hiện qua việc giáo viên hiểu rõ đặc điểm của từng học sinh, từ đó xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong lớp Điều này không chỉ giúp tăng cường sự gắn kết mà còn phát huy tối đa những thế mạnh trong các mối quan hệ đã thiết lập.
- Mức trung bình: Đã biết cách thiết lập những mối quan hệ cá nhân trong lớp nhằm mục đích giáo dục
- Mức yếu: Không đạt các mức trên b) Kỹ năng làm cho học sinh tự tin và tự hào về mình
Để giúp học sinh luôn cảm thấy tự tin và tự hào về bản thân, cần áp dụng những biện pháp tác động kịp thời và phù hợp, từ đó khuyến khích các em phát huy tối đa khả năng của mình.
- Mức khá: Luôn tìm thấy những -u điểm của các em và phát huy đ-ợc những -u điểm này
- Mức trung bình: Có những tác động đúng lúc và phù hợp làm cho mỗi học sinh tự tin tham gia tích cực vào trò chơi
- Mức yếu: Không đạt các mức trên
2.1.4.3 Nhóm kỹ năng tổ chức hoạt động chơi a) Kỹ năng thu hút sự tập trung chú ý của học sinh
Phân tích kết quả điều tra
2.2.1 Thực trạng nhận thức, mức độ và quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở sinh viên năm thứ 3, 4 ngành giáo dục Tiểu học tr-ờng Đại học Vinh
2.2.1.1 Thực trạng nhận thức của SV:
Qua khảo sát 52 sinh viên năm thứ 3 và 65 sinh viên năm thứ 4 ngành Giáo dục Tiểu học tại trường Đại học Vinh, chúng tôi nhận thấy rằng sinh viên đã có nhận thức tương đối đầy đủ về hoạt động vui chơi và trò chơi.
Đến 81,6% sinh viên nhận định rằng hoạt động vui chơi chủ yếu nhằm mục đích thư giãn và giải trí Mặc dù đây là một quan điểm đúng, nhưng chưa đầy đủ, vì hoạt động vui chơi không chỉ mang lại sự thoải mái và sảng khoái tinh thần cho người chơi, mà còn là một hoạt động tự phát, được người chơi nghĩ ra và thực hiện theo sự thỏa thuận, không cần tổ chức hay điều khiển, và có thể diễn ra bất cứ lúc nào, ở bất kỳ đâu.
Theo khảo sát, 38,2% người tham gia cho rằng trò chơi có mục đích rõ ràng như rèn luyện thể lực, trí lực, giải trí và kích thích hứng thú học tập Bên cạnh đó, 46,7% cho rằng trò chơi là hoạt động có người tổ chức và đi kèm với các luật chơi nhất định.
Trò chơi khác với hoạt động vui chơi ở chỗ nó không chỉ mang tính giải trí mà còn có tổ chức, mục đích, nội dung và cách thực hiện rõ ràng Do đó, trò chơi thường được tích hợp vào các môn học nhằm giúp học sinh tiếp thu và củng cố kiến thức một cách sinh động và nhẹ nhàng.
- Về tác dụng và thời điểm tổ chức trò chơi học tập môn Toán đ-ợc thể hiện ở bảng 1 và bảng 2:
Bảng 1: Tác dụng chủ yếu của trò chơi học tập môn Toán
Tác dụng Số l-ợng Tỉ lệ
Dạy kiến thức và hình thành kỹ năng mới cho học sinh 14 12,0% Củng cố và vận dụng kiến thức, kỹ năng đã đ-ợc trang bị cho học sinh
Mở rộng kiến thức, nâng cao kỹ năng đã có ở học sinh
Theo ý kiến của sinh viên, trò chơi học tập môn Toán chủ yếu nhằm củng cố và vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học, với 76,8% sinh viên đồng ý rằng việc này thường diễn ra trong giờ luyện tập và hoạt động ngoại khóa Chỉ 12,0% sinh viên cho rằng trò chơi chủ yếu dạy kiến thức và hình thành kỹ năng mới cho học sinh Tiểu học, nhưng họ cũng nhận thấy không phải bài nào cũng phù hợp với hình thức trò chơi Bên cạnh đó, 11,2% sinh viên cho rằng trò chơi học tập còn có tác dụng mở rộng kiến thức và nâng cao kỹ năng cho học sinh Tiểu học, tuy nhiên, loại trò chơi này thường không được tổ chức trong giờ học.
Bảng 2: Thời điểm tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học
Thời điểm Số l-ợng Tỉ lệ
Chủ yếu trong giờ học toán 14 12,0%
Chủ yếu trong hoạt động ngoài giờ lên lớp
Cả trong giờ toán và hoạt động ngoài giờ lên lớp 103 88,0%
Theo bảng 2, hầu hết sinh viên (88,0%) đã nhận thức được rằng thời điểm thích hợp để tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho học sinh Tiểu học là cả trong giờ học và hoạt động ngoài giờ lên lớp Chỉ có 12,0% sinh viên cho rằng nên chủ yếu tổ chức trong giờ học toán, cho thấy vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ ý kiến khác.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho học sinh Trong thời gian hạn chế của giờ học, giáo viên chỉ có thể thực hiện những trò chơi đơn giản liên quan đến bài học Ngược lại, trong các hoạt động ngoài giờ, với thời gian dài hơn, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi học tập phong phú và đa dạng hơn, giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách sáng tạo và hiệu quả.
2.2.1.2.Kiến thức về trò chơi học tập môn Toán của SV:
Mặc dù sinh viên (SV) đã có nhận thức tương đối đầy đủ về các hoạt động vui chơi và học tập tại trường Tiểu học, nhưng kiến thức của họ về trò chơi toán học vẫn còn hạn chế.
Theo khảo sát, đến 85,5% sinh viên không thể xác định các loại trò chơi tổ chức cho học sinh Tiểu học, chỉ liệt kê một số trò chơi như “xếp hình”, “ô chữ” và “đoán dấu” Chỉ có 14,5% sinh viên có khả năng phân loại trò chơi thành các nhóm như trò chơi vận động, trò chơi trí tuệ và trò chơi giải trí, nhưng việc phân loại này vẫn chưa đầy đủ và không hoàn toàn chính xác từ một số khía cạnh nhất định.
- Về lứa tuổi cần tổ chức trò chơi học tập môn Toán đ-ợc thể hiện ở bảng 3
Bảng 3: Lớp tuổi cần tổ chức trò chơi học tập môn Toán hơn cả:
Lớp Số l-ợng Tỉ lệ
Bảng 3 cho thấy rằng sinh viên chưa nắm rõ lứa tuổi phù hợp để tổ chức trò chơi học tập môn Toán, với 82,7% cho rằng cần thiết cho học sinh lớp 1, 2, 3 và 4, 5 Nguyên nhân là do sinh viên chưa hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, đặc biệt là ở giai đoạn đầu, khi trẻ đang chuyển từ hoạt động vui chơi sang học tập Do đó, việc kết hợp hoạt động học tập vào trò chơi sẽ mang lại hiệu quả học tập cao hơn.
Trò chơi toán học ở Tiểu học có những đặc điểm nổi bật, với 68,5% sinh viên cho rằng chúng giúp củng cố và mở rộng kiến thức, nâng cao kỹ năng cho học sinh Bên cạnh đó, 7,7% ý kiến cho rằng trò chơi này tạo ra hứng thú học tập và phát triển tư duy cho học sinh Thêm vào đó, 6,9% cho rằng trò chơi học tập môn Toán có quy định về thời lượng và dựa vào nội dung dạy học trong sách giáo khoa.
Hầu hết sinh viên chưa nắm rõ đặc điểm chính của trò chơi học tập môn Toán, đó là trò chơi có luật chơi rõ ràng nhằm mục đích giáo dục Trò chơi này yêu cầu người chơi phải vận dụng trí óc và làm việc tích cực trong suốt quá trình tham gia.
- Các b-ớc tổ chức trò chơi toán học: SV hầu nh- không nêu lên đ-ợc đầy đủ các b-ớc tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học
25,6% cho rằng bao gồm các b-ớc: giới thiệu, phổ biến luật chơi, tổ chức chơi, nhận xét đánh giá
17,1% gồm: xác định tên trò chơi, hình thức chơi, luật chơi, thời gian chơi, số l-ợng ng-ời tham gia
34,4% bao gồm: chuẩn bị, giới thiệu trò chơi, tổ chức chơi, tổng kết, đánh giá
Chỉ có 12,9% bao gồm: thiết kế trò chơi, chuẩn bị, phổ biến luật chơi, tổ chức chơi, đánh giá kết quả
Khi chọn trò chơi toán học cho học sinh, cần xem xét các yếu tố như đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài học, trình độ giáo viên và cơ sở vật chất của trường Theo khảo sát, 59,8% sinh viên đã trả lời tương đối đầy đủ về các căn cứ này, trong khi số còn lại chỉ nêu ra một trong các yếu tố, cho thấy nhiều sinh viên vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn và thiết kế trò chơi học tập môn Toán cho học sinh.
Gần 38% sinh viên, chủ yếu là sinh viên năm thứ 4, đã chỉ ra các thành phần cơ bản của kỹ năng tổ chức trò chơi toán học, bao gồm kỹ năng lựa chọn, tổ chức, nhận xét, đánh giá, điều khiển và hướng dẫn Tuy nhiên, vẫn còn 62,4% sinh viên chưa nêu được các kỹ năng cần thiết cho việc này.
2.2.1.3 Tự đánh giá về mức độ hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán của sinh viên
Bảng 4: Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho
SV của khoa GDTH tr-ờng Đại học Vinh đ-ợc SV đánh giá, thể hiện ở bảng sau:
Tốt Khá Trung bình Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng
Sau khi điều tra GV về nguyên nhân khiến cho kỹ năng tổ chức trò chơi của GV còn hạn chế thì chúng tôi thu đ-ợc bảng sau:
Bảng 13: Nguyên nhân khiến cho kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán của GV còn hạn chế
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL Đào tạo của các tr-êng
Nghiệp vụ s- phạm của SV còn yếu, thiếu
GV Tiểu học ch-a sáng tạo
Nội dung bồi d-ỡng ch-a t¨ng c-êng
Theo khảo sát, 51% giáo viên cho rằng vấn đề đào tạo tại các trường sư phạm còn nhiều bất cập Khi được hỏi thêm, họ cho biết các trường chưa chú trọng đến việc đào tạo kỹ năng tổ chức trò chơi học tập cho sinh viên Do đó, giáo viên ra trường chủ yếu tổ chức trò chơi cho học sinh dựa vào kinh nghiệm cá nhân hoặc học hỏi từ đồng nghiệp, dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy.
45% giáo viên cho rằng mức độ quan trọng thứ hai liên quan đến việc nghiệp vụ sư phạm của sinh viên còn yếu và thiếu Nguyên nhân chính là do ý thức rèn luyện nghiệp vụ của sinh viên chưa cao, nhiều sinh viên chưa nhận thức rõ yêu cầu cụ thể của nghề nghiệp mà họ sẽ đảm nhận sau khi ra trường.
42% ý kiến GV cho rằng mức quan trọng thứ ba là do nội dung bồi d-ỡng ch-a t¨ng c-êng
40% giáo viên cho rằng mức độ quan trọng thứ hai là do giáo viên tiểu học chưa có sự sáng tạo Hầu hết khi lựa chọn và tổ chức các hoạt động, giáo viên thường rập khuôn theo sách hướng dẫn mà ít có giáo viên dám đầu tư suy nghĩ và điều chỉnh nội dung cho phù hợp với lớp học của mình.
90% ý kiến GV cho rằng mức độ năm là do những nguyên nhân khác mà cụ thể GV kể ra đó là:
- Thời gian học toán còn hạn chế
- Thiếu ph-ơng tiện tổ chức trò chơi
- GV còn chủ quan cho rằng trò chơi dễ tổ chức nh-ng khi tổ chức th-ờng lóng tóng
- GV bận rộn nhiều việc kết hợp ch-a thật yêu nghề, sớm thoả mãn với bản thân
Kết quả nghiên cứu cho thấy giáo viên và sinh viên ngành giáo dục Tiểu học có nhận thức đúng đắn về trò chơi toán học và kiến thức tương đối đầy đủ về quy trình tổ chức trò chơi học tập môn Toán Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế trong kỹ năng tổ chức trò chơi toán học của giáo viên, điều này cần được nghiên cứu thêm để tìm ra nguyên nhân và giải pháp cải thiện.
Giáo viên và sinh viên hiện nay chưa có kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán, dẫn đến việc tổ chức trò chơi chưa thực sự thu hút học sinh và chưa mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc phát triển nhận thức Nguyên nhân chính của vấn đề này là do đào tạo giáo viên tại các trường sư phạm còn nhiều hạn chế, đặc biệt là thiếu một quy trình cụ thể để rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên.
Chúng tôi đề xuất quy trình phát triển kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học tại trường Đại học Vinh nhằm khắc phục những hạn chế hiện có Mục tiêu là trang bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết để tổ chức hiệu quả các hoạt động học tập thông qua trò chơi, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán.
Ch-ơng 3 quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học
Nguyên tắc xây dựng quy trình
Nguyên tắc này yêu cầu quy trình đề xuất phải tập trung vào việc phát triển cho sinh viên các kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cần thiết, nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy môn Toán ở cấp tiểu học.
Nguyên tắc này đòi hỏi qui trình đ-a ra phải chia thành các việc làm một cách cụ thể rõ ràng, có thể kiểm tra đánh giá đ-ợc
Nguyên tắc này yêu cầu quy trình đào tạo phải bao gồm các giai đoạn và bước được sắp xếp theo thứ tự thời gian Việc hoàn thành giai đoạn và bước trước là cơ sở để thực hiện giai đoạn và bước sau Khi tất cả các giai đoạn và bước được thực hiện xong, quy trình sẽ kết thúc, đồng thời sinh viên sẽ hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán.
Nguyên tắc này yêu cầu quy trình đề xuất phải tạo ra hiệu quả tích cực trong việc rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên.
Nguyên tắc này yêu cầu quy trình đào tạo phải tương thích với nội dung, chương trình và kế hoạch giáo dục của nhà trường, đồng thời phù hợp với khả năng của sinh viên.
3.2 Đề xuất quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học
Để hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên, giáo viên cần thực hiện các bước sau: Bước đầu tiên là xác định rõ mục đích và yêu cầu cần đạt được trong việc rèn luyện từng kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cụ thể.
B-ớc 2: Hình thành - huy động kiến thức: gồm có:
- Những kiến thức làm cơ sở cho mô hình hoạt động
- Mô hình hành động cụ thể
B-ớc 3: Làm mẫu: thật hoặc băng hình
B-ớc 4: Sinh viên làm theo mẫu:
- Làm toàn bộ – có sự nhận xét góp ý của giáo viên h-ớng dẫn, phát hiện những chỗ còn sai, ch-a làm đ-ợc
- Làm từng việc khó, sai
B-ớc 5: Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán học của sinh viên, Đây là 5 b-ớc đi cụ thể trong một quy trình, tuy nhiên đây là quy trình mềm dẻo nên tùy theo từng kỹ năng cụ thể mà có thể gộp các b-ớc hay bỏ đi một vài b-ớc nào đó Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tiến trình đầy đủ, có nh- vậy hiệu quả đạt đ-ợc mới đảm bảo đúng mục tiêu đặt ra
3.2.2 Quy trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cụ thể cho sinh viên ngành Giáo dụcTiểu học
3.2.2.1 Giai đoạn 1: Hình thành - huy động kiến thức
- Giúp sinh viên tích luỹ một số lý thuyết về đặc điểm tâm sinh lý học sinh đầu bậc Tiểu học
- Nắm đ-ợc một số kiến thức về trò chơi học tập và về qui trình tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho học sinh
- Hình thành động cơ rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên
Sinh viên cần nắm vững kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học, đồng thời nghiên cứu về lợi ích của trò chơi học tập đối với các em Việc hiểu rõ quy trình tổ chức trò chơi học tập cũng là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục.
2.1 Tích luỹ kiến thức về tâm sinh lí học sinh Tiểu học
2.2 Nghiên cứu về đặc điểm, lợi ích trò chơi học tập
2.3 Nghiên cứu về qui trình tổ chức trò chơi học tập môn Toán
Giai đoạn này cần thực hiện theo hai b-ớc sau:
Để tổ chức trò chơi học tập môn Toán hiệu quả cho học sinh Tiểu học, sinh viên cần tích lũy kiến thức từ những môn học liên quan như Phương pháp dạy học toán, Tâm lý học đại cương và Tâm lý học lứa tuổi Những kiến thức này giúp sinh viên hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học, từ đó áp dụng vào việc tổ chức trò chơi học tập Giảng viên cần hướng dẫn sinh viên sử dụng kiến thức này để giải quyết các vấn đề cụ thể trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là khi nhận diện sự chuyển giao trong hoạt động chủ đạo của trẻ, nơi mà hoạt động vui chơi đóng vai trò quan trọng Hơn nữa, do sự phát triển mạnh mẽ của trẻ, họ thường rất hiếu động và ưa thích các hoạt động vui chơi, giải trí.
Sinh viên cần được trang bị kiến thức lý thuyết về trò chơi học tập môn Toán trong học kỳ IV, bên cạnh việc tích lũy kiến thức từ các học phần liên quan Điều này bao gồm việc học về quy trình tổ chức trò chơi học tập môn Toán để nâng cao hiệu quả học tập.
3.2.2.2 Giai đoạn 2: Hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán trong quá trình thực hành tại tr-ờng s- phạm và tr-ờng Tiểu học
Dựa trên kiến thức cơ bản đã được trang bị, sinh viên sẽ phát triển các kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán một cách hiệu quả.
1.2 Yêu cầu: Để thực hiện đ-ợc mục đích trên, trong đợt thực hành này, sinh viên phải thực hiện những yêu cầu sau:
1.2.1 Tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động chung của đợt thực hành, phát huy cao độ tinh thần tích cực, tự giác, độc lập trong các hoạt động cá nhân
1.2.2 Tích cực suy nghĩ, tìm tòi vận dụng những tri thức đã học vào việc hình thành kỹ năng cho bản thân
1.2.3 Có ý thức rèn luyện một cách th-ờng xuyên những kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán
1.2.4 Hoàn thành có chất l-ợng các nội dung rèn luyện qua các sản phẩm quy định
2.1 Giới thiệu về các kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cần luyện tập
2.2 Hình thành kỹ năng s-u tầm và sáng tác trò chơi học tập môn Toán 2.3 Hình thành kỹ năng lựa chọn trò chơi học tập môn Toán
2.4 Hình thành kỹ năng thiết kế giáo án trò chơi
2.5 hình thành kỹ năng thiết lập những mối quan hệ cá nhân trong lớp 2.6 Hình thành kỹ năng tạo niềm tin cho học sinh
2.7 Hình thành kỹ năng thu hút sự tập trung chú ý của HS
2.8 Hình thành kỹ năng h-ớng dẫn chơi, nêu luật chơi một cách rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu
2.9 Hình thành kỹ năng xử lý các tình huống s- phạm
2.10 Hình thành kỹ năng kiểm tra quá trình chơi của học sinh
2.11 Hình thành kỹ năng nhận xét, đánh giá học sinh
Giai đoạn này đ-ợc thực hiện trong học kì V, với quy trình cụ thể sau:
3.1 Quy trình hình thành những kỹ năng thiết kế a Nghiên cứu về kỹ năng tổ chức trò chơi toán học
- Sinh viên đề xuất những cách thức hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán
Giáo viên hướng dẫn sinh viên phát triển kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán, đồng thời cung cấp quy trình hình thành những kỹ năng này Việc này giúp sinh viên nắm vững cách thức tổ chức và triển khai các trò chơi học tập, từ đó nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập môn Toán.
Sinh viên cần tự đánh giá kỹ năng tổ chức trò chơi của mình và phát triển khả năng sưu tầm cũng như sáng tác trò chơi Đặc biệt, việc hình thành kỹ năng sưu tầm trò chơi học tập môn Toán ở Tiểu học là rất quan trọng Bước đầu tiên trong quá trình này là xác định những ích lợi của việc sưu tầm trò chơi học tập môn Toán, giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và tạo hứng thú cho học sinh.
+ Sinh viên chia nhóm và thảo luận theo câu hỏi của giáo viên:
- Tại sao cần phải s-u tầm trò chơi?
- Việc s-u tầm trò chơi sẽ có lợi gì cho ng-ời giáo viên Tiểu học?
B-ớc 2: H-ớng dẫn cách s-u tầm trò chơi học tập môn Toán:
Xác định các nguồn trò chơi có thể thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau như sách báo, tạp chí tham khảo, các phương tiện nghe nhìn, và học hỏi từ bạn bè, đồng nghiệp.
Việc sưu tầm các trò chơi cần phải dựa trên nội dung chương trình môn Toán dành cho học sinh lớp 1, 2, 3, đồng thời phải xem xét đặc điểm tâm sinh lý của học sinh ở bậc tiểu học.
Thực nghiệm s- phạm
3.3.1 Mục đích của thực nghiệm s- phạm Để kiểm chứng giả thuyết khoa học mà đề tài đã đặt ra, cụ thể là đánh giá qui trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán đ-ợc đề xuất có tính khả thi trong việc rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán ở các lớp 1, 2, 3 cho sinh viên ngành giáo dục Tiểu học hay không
Là 52 sinh viên K45 ngành giáo dục Tiểu học tr-ờng Đại học Vinh và qui trình hình thành kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho các lớp 1,
2, 3 tại các tr-ờng Cửa Nam I và Lê Lợi
Trong học kỳ VII năm học 2006-2007, chúng tôi đã triển khai một số nội dung nhằm rèn luyện kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán cho sinh viên.
- Hình thành những kỹ năng thiết kế
- Hình thành những kỹ năng tổ chức các mối quan hệ
- Hình thành những kỹ năng tổ chức hoạt động chơi
Sau khi sinh viên hoàn thành đợt rèn luyện nghiệp vụ sư phạm học kỳ VII, chúng tôi đã tiến hành đánh giá kết quả hình thành kỹ năng của họ dựa trên quá trình theo dõi thực tế làm việc và chấm các sản phẩm thu được Các kỹ năng được đánh giá độc lập theo thang điểm 10 và được phân loại thành 4 mức độ khác nhau.
- Trung bình: đạt từ 5 – 6 điểm
Kết quả thu đ-ợc nh- sau:
Bảng 14: Mức độ hình thành những kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán
TT Kĩ năng Yếu Trung bình Khá Tốt
SL TL SL TL SL TL SL TL
1 S-u tầm, cải biên trò chơi 0 15 28,86% 30 57,72% 7 13,42%
2 Lựa chọn, thiết kế trò chơi 0 20 38,46% 26 50% 6 11,54%
3 Thiết kế “giáo án” trò chơi 0 13 25% 32 61,58% 7 13,42%
4 ThiÕt lËp nh÷ng mối quan hệ cá nh©n
5 Tạo niềm tin cho học sinh 0 30 57,72% 16 30,76% 6 11,52%
6 Thu hót sù chó ý của học sinh 0 8 15,4% 24 46,14% 20 38,46%
7 H-ớng dẫn chơi, nêu luật chơi một cách rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu
8 Xử lý các tình huống s- phạm 0 22 42,3% 22 42,3% 8 15,4%
9 Kiểm tra quá trình chơi của học sinh 0 26 50% 16 30,76% 10 19,24%
Bảng thống kê cho thấy tất cả sinh viên tham gia đợt rèn luyện đã hình thành các kỹ năng tổ chức trò chơi học tập môn Toán với mức đạt yêu cầu trở lên Không có trường hợp nào không đạt yêu cầu, và mức độ đạt được giữa các sinh viên là tương đối đồng đều.
Trong kỹ năng sưu tầm và sáng tác trò chơi, có 13,42% sinh viên đạt mức tốt, thể hiện sự tích cực và sáng tạo trong quá trình học tập Những sinh viên này không chỉ có ý thức học hỏi mà còn cải biên trò chơi để phù hợp với đối tượng tham gia Họ có sổ sưu tầm trò chơi phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại và hình thức.
Có 57,72% sinh viên đạt loại khá, cho thấy họ có ý thức trong việc sưu tầm và cải biên trò chơi Họ đã chuẩn bị sổ sưu tầm với số lượng và chất lượng đảm bảo Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như sự thiếu phong phú và đa dạng của các trò chơi, cũng như việc cải biên chưa thực sự phù hợp với đối tượng tổ chức.
Chỉ có 28,86% sinh viên đạt yêu cầu về kỹ năng sưu tầm và cải biên trò chơi, cho thấy nhiều sinh viên vẫn chỉ ở mức độ biết sưu tầm mà chưa có ý thức học hỏi sâu sắc Họ thực hiện việc sưu tầm một cách qua loa và sơ sài, dẫn đến việc số lượng trò chơi sưu tầm được có nhưng chất lượng vẫn còn hạn chế.
- ở kỹ năng lựa chọn trò chơi:
Có 11,54% sinh viên đạt loại tốt, cho thấy họ đã xác định rõ mục đích trò chơi và nắm vững đối tượng tham gia cũng như thời gian, địa điểm tổ chức trò chơi học tập môn Toán Việc lựa chọn trò chơi phù hợp đã kích thích hứng thú học toán của học sinh Trong quá trình tổ chức trò chơi ở trường Tiểu học, việc lựa chọn đúng trò chơi và thực hiện hiệu quả đã đáp ứng yêu cầu chất lượng giáo viên hướng dẫn.
Có 50% sinh viên đạt mức khá trong kỹ năng lựa chọn trò chơi học tập môn Toán Những sinh viên này cơ bản có kết quả tốt, nhưng vẫn tồn tại một số nhược điểm không đáng kể ở một số khía cạnh cụ thể.
Thời gian tổ chức ch-a phù hợp, trò chơi ch-a hấp dẫn đối với học sinh…
Chỉ có 38,46% sinh viên đạt yêu cầu trong kỹ năng lựa chọn trò chơi, phần lớn trong số họ chỉ biết chọn trò chơi phù hợp với một đối tượng cụ thể và chủ yếu dựa vào hướng dẫn, thiếu sự sáng tạo để thu hút sự chú ý của học sinh.
- ở kỹ năng thiết kế giáo án trò chơi
Có 13,42% sinh viên đạt kết quả tốt, thể hiện ý thức học hỏi cao và khả năng nắm vững các bước thiết kế trò chơi cùng với giáo án chất lượng.
Có 61,58% sinh viên đạt loại khá Đây là những sinh viên có giáo án đã soạn mới đạt loại khá
Chỉ có 25% sinh viên đạt yêu cầu trong kỹ năng soạn giáo án trò chơi Mặc dù những sinh viên này đã hiểu đầy đủ các bước để soạn thảo giáo án, họ vẫn mắc một số lỗi không quan trọng trong các giáo án đã thực hiện.
- ở kỹ năng thiết lập những mối quan hệ cá nhân trong lớp:
Chỉ có 5,76% sinh viên đạt mức tốt, cho thấy họ có khả năng thiết lập mối quan hệ cá nhân hiệu quả trong lớp học, từ đó nâng cao kết quả trong việc tổ chức trò chơi học tập môn Toán.
Gần 48,1% sinh viên đạt mức khá trong việc thiết lập mối quan hệ cá nhân trong lớp học, cho thấy họ đã phát huy được thế mạnh trong các mối quan hệ này Tuy nhiên, kỹ năng của họ vẫn còn ở mức tương đối thuần thục và chưa hoàn toàn thành thạo.