1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DAN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ đầu TIÊN đến CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

36 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Hoàn Chỉnh Đường Lối Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ Nhân Dân Từ Cương Lĩnh Chính Trị Đầu Tiên Đến Chính Cương Đảng Lao Động Việt Nam
Tác giả Đồng Văn Nhân, Lê Thị Quỳnh Như, Nguyễn Huỳnh Như, Nguyễn Thị Thảo Nhi, Võ Lê Hiếu Nhi, Võ Thành Phát
Người hướng dẫn GVHD: Đào Thị Bích Hồng
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam
Thể loại báo cáo bài tập lớn
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 301,05 KB

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • PHẦN NỘI DUNG

  • Chương 1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

    • 1.1 Bối cảnh lịch sử

      • 1.1.1 Bối cảnh Việt Nam dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của Pháp

      • 1.1.2 Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội tại Việt Nam diễn ra ngày càng gay gắt

      • 1.1.3 Kết luận:

    • 1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên

      • 1.2.1 Nội dung cơ bản:

      • 1.2.2 Nêu và phân tích:

    • 1.3 Tiểu kết

  • Chương 2. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10/1930 đến 5/1941.

    • 2.1 Luận cương chính trị

      • 2.1.1 Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị.

      • 2.1.2 Nội dung của Luận cương chính trị.

    • 2.2 Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ giai đoạn 1939 - 1945

      • 2.2.1 Bối cảnh thế giới và Việt Nam

      • 2.2.2 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc

  • Chương 3. Chính cương Đảng Lao động VN và sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ nhân dân

    • 3.1 Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

      • 3.1.1 Bối cảnh lịch sử:

      • 3.1.2 Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

    • 3.2 Sự bổ sung, phát triển các mặt qua các thời kỳ qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị

      • 3.2.1 Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh

      • 3.2.2 Tiểu kết

    • 3.3 Giá trị thực tiễn

      • 3.3.1 Đối với thực tiễn trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

      • 3.3.2 Đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam:

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ VÀ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG 1.1 Bối cảnh lịch sử 1.1.1 Bối cảnh VN dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của Pháp 1.1.2 Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt 1.1.3 Kết luận 1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Nội dung cơ bản

Cương lĩnh của Đảng xác định rõ chiến lược cách mạng, bao gồm việc thực hiện cuộc cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, nhằm tiến tới xây dựng một xã hội cộng sản.

Cách mạng Việt Nam nhằm lật đổ đế quốc Pháp và các thế lực phong kiến, tư sản phản cách mạng để giành độc lập tự do cho đất nước Mục tiêu là thành lập chính phủ đại diện cho công, nông, binh, tổ chức quân đội từ lực lượng công nông, đồng thời thực hiện việc tịch thu ruộng đất của đế quốc và các thế lực phản động, phân chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.

Lực lượng cách mạng bao gồm công nông, tiểu tư sản và trí thức, trong khi phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản thường lợi dụng hoặc giữ thái độ trung lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho giai cấp vô sản, đóng vai trò lãnh đạo trong cuộc cách mạng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, mặc dù ngắn gọn, nhưng đã thể hiện một cách sáng tạo trong việc giải phóng dân tộc, kết hợp hợp lý giữa vấn đề dân tộc và giai cấp Tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này là độc lập và tự do.

Nêu và phân tích 1.3 Tiểu kết

Cương lĩnh chỉ ra rằng cách mạng Việt Nam cần trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa, với hai giai đoạn này nối tiếp nhau Ngay từ đầu, Đảng đã nhận thức rõ ràng về con đường phát triển của cách mạng, đó là sự kết hợp và khẳng định hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến và tư sản phản cách mạng, với nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ quyền lợi dân tộc Nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu, phản ánh đúng tình hình đất nước đang là thuộc địa nửa phong kiến, phù hợp với yêu cầu lịch sử và thực tiễn của dân tộc Việt Nam.

Cương lĩnh xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng Việt Nam là công – nông, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết liên minh với các giai cấp và tầng lớp khác Điều này khẳng định vai trò quyết định của Đảng trong mọi thắng lợi của cách mạng, phù hợp với thực tiễn của đất nước Để lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi, cần có chính đảng của giai cấp vô sản với đường lối cách mạng đúng đắn.

Cương lĩnh khẳng định rằng cách mạng Việt Nam là một phần của cách mạng thế giới, điều này không chỉ phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mà còn phản ánh đúng thực tiễn của cách mạng tại Việt Nam.

Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng bao gồm đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, và người dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân trong cuộc cách mạng ruộng đất Đồng thời, cần lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, và trung nông tham gia vào phe vô sản giai cấp, trong khi lợi dụng sự trung lập của phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhằm thu phục đại bộ phận giai cấp mình và lãnh đạo quần chúng Về mối quan hệ quốc tế, cách mạng Việt Nam được xác định là một phần của cách mạng thế giới, cần liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản toàn cầu, đặc biệt là với quần chúng vô sản Pháp.

1.3 Tiểu kết Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam đánh dấu bước chuyển mình trong tư duy nhận thức của những người lãnh đạo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam.Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, điều quan trọng nhất là nó phù hợp với tình hình hoàn cảnh của đất nước ta trong thời kỳ đó Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường cứu nước Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương,phong trào yêu nước ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi nghĩa Yên Bái… nhưng không thành công vì thiếu một đường lối đúng Năm 1930, kế thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vô sản Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một tài liệu quan trọng, thể hiện sự đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới Cương lĩnh này đáp ứng yêu cầu lịch sử và thể hiện quan điểm giai cấp, đồng thời thấm nhuần tinh thần dân tộc Mục tiêu chính là tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, nhằm giành chính quyền về tay nhân dân, hướng tới xã hội cộng sản, với độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù Cương lĩnh chính trị vẫn còn một số vấn đề chưa hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam và có thể gây ra những hiểu lầm, nhưng nhờ vào sự bổ sung từ Luận cương Chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh đã trở nên hoàn thiện hơn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, đồng thời thực hiện quyền độc lập dân tộc và quyền lợi cho người nông dân Cương lĩnh này đã đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số nhân dân, đặc biệt là nông dân, giúp Đảng đoàn kết các lực lượng cách mạng xung quanh giai cấp công nhân, trong khi các đảng phái khác bị suy yếu hoặc cô lập, từ đó củng cố quyền lãnh đạo của Đảng.

4 Đảng cộng sản Việt Nam – Những chặng đường lịch sử (1930-2012)

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ 10/1930 – 5/1941

Luận cương chính trị 1 Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị 2 Nội dung của Luận cương chính trị

2.1.1 Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” Quá trình này yêu cầu trải qua nhiều giai đoạn, với nhiệm vụ trước mắt là giành độc lập dân tộc, nhấn mạnh vào việc chống đế quốc và tay sai trên cả phương diện chính trị và kinh tế Về chính trị, cần đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, xây dựng Chính phủ công nông binh, đồng thời tổ chức quân đội công nông Về kinh tế, tịch thu các sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc Pháp và chia đất cho dân cày nghèo Đảng cũng đặt vấn đề chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến Cương lĩnh đã đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử và nguyện vọng độc lập tự do của nhân dân, giúp Đảng nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam và phát động phong trào cách mạng rộng lớn từ đầu năm 1930 Tuy nhiên, những quan điểm này chưa được Quốc tế Cộng sản công nhận Tháng 4/1930, Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước, nhận thấy tình hình cách mạng đang sôi động, đã viết Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng vào tháng 10/1930.

Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương được thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam

5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 6.

2.1.2 Nội dung của Luận cương chính trị.

Luận cương chính trị nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên, với một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, còn bên kia là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa Cách mạng Đông Dương được xác định là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, là giai đoạn chuẩn bị cho xã hội cách mạng, nhằm đánh đổ các di tích phong kiến và các hình thức bóc lột Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng là thực hiện cách mạng ruộng đất, mà vấn đề thổ địa được coi là cốt lõi để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày Giai cấp công nhân và nông dân được xác định là lực lượng lãnh đạo của cách mạng, trong đó dân cày là động lực chính Các thành phần tư sản thường đứng về phía đế quốc, trong khi tiểu tư sản chưa có thái độ kiên quyết Để đạt được mục tiêu đánh đổ đế quốc và phong kiến, phương pháp cách mạng hiệu quả nhất là đấu tranh võ trang bạo động.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t 2, sđd, tr 93-94.

Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã làm sâu sắc thêm nhiều vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh 2/1930 đã đề cập trước đó Đây là tiền đề quan trọng, giúp Đảng có cái nhìn sáng suốt hơn trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Đồng thời, Luận cương chính trị cũng thể hiện những điểm khác biệt so với các tài liệu trước đó.

Cương lĩnh chính trị có những nhược điểm đáng chú ý Đầu tiên, do ảnh hưởng từ quan niệm sai lầm của Quốc Tế Cộng sản, văn kiện này xác định mâu thuẫn cơ bản là giữa giai cấp giàu và nghèo, trong khi thực chất mâu thuẫn ở Đông Dương là giữa Việt Nam và Đế quốc Pháp Mâu thuẫn giữa nhân dân và địa chủ không gay gắt vì họ có chung kẻ thù, và tư sản Việt Nam không hoàn toàn đứng về phía Đế quốc Thứ hai, luận cương quá nhấn mạnh mặt tiêu cực của các tầng lớp trên, dẫn đến việc không đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và khả năng chống đế quốc của tư sản dân tộc Thứ ba, luận cương không đề ra được mối liên minh rộng rãi giữa các dân tộc và giai cấp trong cuộc đấu tranh dân tộc, từ đó không tranh thủ được sự ủng hộ của liên minh quốc tế Cuối cùng, vấn đề giải quyết dân tộc cũng chưa được đề cập một cách thỏa đáng.

Trong toàn Đông Dương, quyền tự quyết dân tộc không thể được thực hiện, điều này đã được nêu rõ trong tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Luận cương một phần xuất phát từ ảnh hưởng tư tưởng tả khuynh của Quốc tế Cộng sản Bên cạnh đó, người lãnh đạo chưa nắm bắt được thực tiễn đất nước và không xác định được mâu thuẫn chủ yếu, dẫn đến việc không nhận diện được tầng lớp trung gian, một lực lượng quan trọng trong cuộc cách mạng giai cấp.

Sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ 1939 đến 1945

2.2.1 Bối cảnh thế giới và Việt Nam

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ và Đế quốc Pháp tham gia vào cuộc chiến, dẫn đến việc chính phủ Pháp thực hiện các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, ảnh hưởng tiêu cực đến Đảng Cộng sản Đông Dương, cũng bị cấm hoạt động Ngày 28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các tổ chức xã hội và tịch thu tài sản của họ, đồng thời đóng cửa báo chí và cấm tụ tập đông người Trong thời gian này, Pháp siết chặt kiểm soát, đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng và thu hồi các quyền tự do dân chủ đã đạt được trước đó Chính phủ Pháp thi hành lệnh tổng động viên và áp dụng chính sách “Kinh tế chỉ huy” để khai thác sức người, sức của phục vụ cho chiến tranh, dẫn đến việc hơn 70.000 thanh niên bị bắt sang Pháp làm bia đỡ đạn.

2.2.2 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Đứng trước tình hình mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản ĐôngDương họp Hội nghị lần thứ sáu (8/11/1939) tại Bà Điểm (Hóc Môn – Gia Định) doTổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì

Trước tình hình mới, Đảng đã điều chỉnh đường lối chiến lược, giữ nguyên nhiệm vụ cơ bản theo Luận cương chính trị (10/1930), nhưng chuyển trọng tâm từ vấn đề thổ địa sang chống đế quốc và giải phóng dân tộc Sự chuyển hướng này phù hợp với đặc điểm Việt Nam, khắc phục nhược điểm của Luận cương chính trị bằng cách không còn giải quyết song song hai vấn đề mà chỉ tập trung vào dân tộc Tất cả các giai cấp trên toàn Đông Dương đều tham gia vào phong trào giải phóng, thay vì chỉ dựa vào nông dân và công nhân Đảng cũng đề xuất thành lập chính phủ liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương, một bước tiến tích cực nhằm tập hợp lực lượng, tuy nhiên, phạm vi toàn Đông Dương vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được vấn đề tự quyết của dân tộc.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939) đã khắc phục được 2/3 hạn chế so với Luận cương chính trị (10/1930), chuyển trọng tâm từ việc giải quyết song song hai vấn đề thổ địa và dân tộc sang chỉ tập trung vào vấn đề dân tộc Lực lượng cách mạng đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp tham gia Tuy nhiên, một hạn chế vẫn tồn tại là phạm vi cách mạng, khi Đảng chưa thể đưa ra vấn đề tự quyết cho dân tộc trong bối cảnh toàn Đông Dương.

Vào tháng 6 năm 1940, khi Đức tấn công Pháp và chính phủ Pháp đầu hàng, phát xít Nhật đã lợi dụng tình hình này để tấn công và chiếm lĩnh thuộc địa của Pháp tại Đông Dương Trong bối cảnh chiến tranh thế giới, thực dân Pháp gia tăng bóc lột nhân dân Việt Nam, phát xít hóa bộ máy thống trị và đàn áp mạnh mẽ các phong trào cách mạng Ngày 22 tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ Hải Phòng, buộc Pháp phải ký hiệp định đầu hàng Nhật vào ngày 23 tháng 9 năm 1940 Nhân dân Việt Nam phải chịu đựng áp bức và bóc lột từ cả hai phía, dẫn đến mâu thuẫn giữa dân tộc và các đế quốc phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Vào giữa tháng 5/1941, trong bối cảnh đất nước Việt Nam bị vắt kiệt và nhân dân bị bóc lột, Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương lần thứ 8 tại rừng Khuổi Nậm, Pác Bó, Hà Quảng Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận và phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất và ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ hai đến Việt Nam, từ đó đưa ra những nhận định quan trọng và quyết định có ảnh hưởng sâu rộng đến tương lai dân tộc.

Trong cuộc hội nghị, mâu thuẫn chính cần giải quyết khẩn cấp là giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp - Nhật Hội nghị khẳng định các nghị quyết trước đó và nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Đảng công nhân Dưới sự áp bức nặng nề, mọi giai cấp đều cảm thấy kiệt quệ, và vận mệnh dân tộc đang ở trong tình trạng nguy cấp Nhiệm vụ cấp bách lúc này là giải phóng dân tộc, không nên đặt thêm nhiệm vụ khác như vấn đề thổ địa, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu chính Cuộc cách mạng Đông Dương giờ đây không chỉ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền mà đã chuyển hướng thành cuộc cách mạng tập trung vào giải phóng dân tộc.

Hội nghị tuyên bố rằng quyền lợi của các bộ phận, giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử của quốc gia và dân tộc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng để đạt được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Nếu không, cả quốc gia sẽ tiếp tục chịu cảnh nô lệ, và quyền lợi của các giai cấp sẽ mãi mãi không được đòi lại Do đó, nhiệm vụ cấp bách là tập hợp lực lượng toàn quốc gia để giành lại chính quyền từ đế quốc, thay thế khẩu hiệu cũ bằng việc tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian để chia cho dân cày nghèo Điều này khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan trọng nhất, tương tự như Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939), nhằm khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị (10/1930) và xác nhận sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

Hội nghị nhấn mạnh rằng để tập hợp lực lượng toàn dân, cần phải nâng cao tinh thần dân tộc và đoàn kết rộng rãi Lực lượng tham gia cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn bộ lực lượng cách mạng từ Đông Dương, không phân biệt giai cấp hay nghề nghiệp; tất cả những ai yêu nước đều phải thống nhất trong một mặt trận để chống lại đế quốc và giành độc lập cho dân tộc Những hạn chế trong Luận cương chính trị (10/1930) đã được khắc phục theo Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939).

Để khơi dậy tinh thần dân tộc và truyền thống của nhân dân, Đảng đã quyết định thành lập các mặt trận riêng biệt cho từng quốc gia, vì Việt Nam, Lào, và Campuchia có những đặc điểm, nòi giống và phong tục tập quán khác nhau Mỗi quốc gia cần tự quyết định vấn đề dân tộc của mình, thể hiện qua việc thành lập các mặt trận như Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) tại Việt Nam, Ai Lao độc lập đồng minh tại Lào, và Cao Miên độc lập đồng minh tại Campuchia Việc giải quyết vấn đề dân tộc không còn diễn ra trên toàn Đông Dương mà được thực hiện riêng lẻ tại từng quốc gia, điều này phản ánh hạn chế mà Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939) và Luận cương chính trị (10/1939) chưa khắc phục được.

8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t 7, sđd, tr 113.

Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939) đã đánh dấu sự chuyển hướng trong đường lối của Đảng, khắc phục hai hạn chế trong Luận cương chính trị (10/1939) và đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, không còn là cuộc cách mạng tư sản dân quyền Lực lượng cách mạng giờ đây bao gồm toàn bộ các giai cấp, không chỉ tập trung vào nông dân và công dân Mặc dù phạm vi cách mạng toàn Đông Dương còn quá rộng, nhưng hạn chế này đã được khắc phục hoàn toàn qua Hội nghị 8 (5/1941), khi Đảng nhấn mạnh vấn đề tự quyết dân tộc, với mỗi quốc gia trong Đông Dương có một mặt trận riêng để giải phóng Những hạn chế này đã được giải quyết qua thực tiễn, khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VN VÀ SỰ HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN

Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

Đảng Lao động Việt Nam ra đời nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ di tích phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân và xây dựng đất nước độc lập, thống nhất, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội Để đáp ứng yêu cầu mới, Đảng cần công khai tổ chức và dẫn dắt hoạt động cách mạng, không còn hoạt động nửa công khai Vào tháng 2/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương đã diễn ra tại Tuyên Quang, tại đây, Nghị quyết chia tách Đảng thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến, trong đó Đảng tại Việt Nam được gọi là Đảng Lao động Việt Nam.

Văn kiện “Chính cương Đảng Lao động Việt Nam” nhấn mạnh rằng “Cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân” Báo cáo của đồng chí Trường Chinh (12-02) đã phân tích một cách hệ thống và sâu sắc về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hướng tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cùng với các chính sách của Đảng và vai trò của Đảng Lao động Việt Nam.

Báo cáo chỉ ra rằng xã hội Việt Nam đang tồn tại nhiều mâu thuẫn, trong đó nổi bật là hai mâu thuẫn cơ bản: một là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai, hai là giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến Mâu thuẫn chính diễn ra giữa nhân dân Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là đế quốc Pháp và lực lượng can thiệp Mỹ, trong khi phong kiến phản động là đối tượng phụ trong bối cảnh này.

Xã hội Việt Nam hiện nay có ba tính chất chính: dân chủ nhân dân, thuộc địa và nửa phong kiến Ba tính chất này đang trong trạng thái đấu tranh lẫn nhau, với mâu thuẫn chủ yếu giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa Mâu thuẫn này đang được giải quyết thông qua cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại thực dân Pháp và các thế lực can thiệp.

Có 3 nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược”, trừ diệt bọn phản quốc, “giành độc lập và thống nhất thực sự cho dân tộc”, “xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng”, “phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” Nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến có mối quan hệ khăng khít, nhưng trọng tâm của cách mạng giai đoạn hiện tại là giải phóng dân tộc “Nhiệm vụ phản phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ phản đế, nhưng làm có kế hoạch, từng bước một, để vừa đoàn kết kháng chiến, vừa bồi dưỡng lực lượng cách mạng đặng mau tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc”.

Báo cáo nêu rõ rằng lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, cùng với những thân sĩ yêu nước và tiến bộ, trong đó chủ yếu là công nhân, nông dân và lao động trí thức Đảng ta xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, dựa trên các loại hình cách mạng của Lê-nin, với đặc điểm là không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà là một cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa Đồng chí Trường Chinh đã giải thích rõ về vấn đề này.

- Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.

- Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân.

- Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ dẫn dắt đất nước tiến tới chủ nghĩa xã hội qua ba giai đoạn chính Giai đoạn đầu tiên tập trung vào giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai nhằm xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, phát triển công nghiệp và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân Giai đoạn cuối cùng là xây dựng nền tảng cho chủ nghĩa xã hội và thực hiện nó Ba giai đoạn này liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm cần được chú trọng Điều lệ mới của Đảng, gồm 13 chương và 71 điều, xác định mục tiêu phát triển chế độ dân chủ nhân dân và tiến tới chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, nhằm mang lại tự do và hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc.

Đảng Lao động Việt Nam đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng Đảng được xây dựng theo nguyên tắc của một đảng vô sản kiểu mới.

Báo cáo này trình bày đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Mặc dù Việt Nam, Lào và Cao Miên cùng chung đấu tranh chống kẻ thù, tình hình mới yêu cầu mỗi nước có cách mạng riêng Đồng chí Trường Chinh chỉ đề cập đến Cách mạng Việt Nam tại Đại hội Việt Nam ủng hộ hòa bình và dân chủ, tìm kiếm sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô, nhằm thực hiện đoàn kết Việt – Trung – Xô cũng như Việt – Miên – Lào Đường lối và chính sách của Đại hội đã được bổ sung và phát triển qua các Hội nghị Trung ương tiếp theo Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần II, các Hội nghị Trung ương lần I, II và III đã được tổ chức từ năm 1951 đến 1952.

Trong các hội nghị Trung ương IV (1/1953) và V (11/1953), nhiều quyết định quan trọng đã được đưa ra nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần I đã chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt Hội nghị Trung ương lần IV cũng đã đề xuất Dự thảo cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất, và được Hội nghị lần V thông qua.

Sự bổ sung, phát triển các mặt qua các thời kỳ qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị

3.2.1 Nội dung bổ sung, hoàn chỉnh a Tính chất xã hội Việt Nam:

So với Luận cương chính trị và Cương lĩnh chính trị thì xã hội Việt Nam vào năm

Năm 1930, Việt Nam chỉ là một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến, với cương lĩnh chính trị chỉ ra mâu thuẫn xã hội gay gắt giữa các giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao khổ đối đầu với địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc Sự khác biệt giữa cương lĩnh chính trị và thực tiễn xã hội cần được nhận thức rõ.

- Thực tế mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc Việt Nam với Pháp.

Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ trong quá khứ không phải là mâu thuẫn gay gắt mà có thể điều hòa, đặc biệt trong bối cảnh các cuộc chiến tranh xâm lược Trong những thời điểm khó khăn, nông dân và địa chủ đã cùng nhau thể hiện lòng yêu nước và đoàn kết chống lại kẻ thù.

- Giai cấp tư sản Việt Nam tiềm lực kinh tế không đáng kể, họ đều có mâu thuẫn với thực dân Pháp.

Tất cả các giai cấp đều có sự mâu thuẫn với thực dân Pháp, điều này dẫn đến việc Địa chủ yêu nước và Tư bản Việt Nam trở thành đồng minh với Pháp Hệ quả là lực lượng cách mạng bị suy yếu và số kẻ thù gia tăng.

Năm 1951, sau hơn 20 năm hoạt động, Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, dẫn đến sự xuất hiện của "dân chủ nhân dân" trong xã hội Việt Nam Lúc này, xã hội có ba tính chất chủ yếu: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và một nửa phong kiến, đang có sự đấu tranh lẫn nhau Mâu thuẫn chính trong xã hội là giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa, cho thấy rằng vấn đề phong kiến cần được giải quyết dưới góc độ giải phóng dân tộc.

Có 2 đối tượng cần giải quyết mâu thuẫn trong Chính cương là:

- Đối tượng chính lúc này chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.

- Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động

So với Luận cương chính trị và Cương lĩnh chính trị trước đây chỉ tập trung vào Tư bản đế quốc và phong kiến, hiện nay đối tượng của cách mạng đã được mở rộng để bao gồm cả sự hiện diện của Mỹ, kẻ hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến tại Việt Nam, tạo ra mối nguy hiểm mới cho cách mạng Do đó, việc xác định đối tượng cần chống lại hiện nay là Pháp và Mỹ, trong khi việc dọn dẹp tàn tích phong kiến, đặc biệt là phong kiến phản động, sẽ được thực hiện sau khi hoàn thành nhiệm vụ chính.

Nhiệm vụ quan trọng nhất trong Chính cương là hoàn toàn giải phóng dân tộc, bao gồm việc đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc Bên cạnh đó, cần xóa bỏ các di tích phong kiến và nửa phong kiến, tạo điều kiện cho người cày có ruộng, đồng thời phát triển chế độ dân chủ nhân dân để xây dựng nền tảng cho chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, nhiệm vụ giải phóng dân tộc vẫn là ưu tiên hàng đầu, và cần thực hiện những gì cần thiết trước.

Bản Luận cương chính trị nhấn mạnh nhiệm vụ đánh đổ phong kiến và đế quốc đồng thời, trong đó nhiệm vụ giai cấp chống phong kiến được coi là quan trọng hơn nhiệm vụ dân tộc chống đế quốc Tài liệu này khẳng định cách mạng thổ địa là cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền, đóng vai trò then chốt trong việc giành quyền lãnh đạo cho dân cày.

Trong Cương lĩnh chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ đánh đổ đế quốc Pháp và chế độ phong kiến, nhằm đạt được sự độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, đồng thời ưu tiên việc giải phóng dân tộc.

Chính cương của Đảng Lao động nhấn mạnh nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc xâm lược và giải phóng dân tộc, phản ánh thực tiễn mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Lực lượng cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, và cả những thân sĩ yêu nước, tạo thành một khối nhân dân với nền tảng là công nông và lao động trí óc, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo So với Luận cương chính trị (10/1930), Chính cương mở rộng lực lượng tham gia cách mạng, không bỏ qua khả năng cách mạng của một bộ phận tư sản, đồng thời khẳng định giai cấp công nhân có khả năng lãnh đạo cách mạng một cách rõ ràng.

Chính cương khẳng định quan điểm về lực lượng cách mạng vẫn giữ nguyên như Cương lĩnh chính trị đầu tiên, tập trung vào dân cày nghèo và hợp nhất giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức cùng địa chủ yêu nước Những lực lượng này là nòng cốt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có mâu thuẫn với đế quốc Pháp, do đó họ sẽ sẵn sàng tham gia vào cuộc cách mạng.

Con đường xác định ở Chính cương là hướng tới chủ nghĩa xã hội, trải qua ba giai đoạn với nhiệm vụ trọng tâm khác nhau Giai đoạn thứ nhất tập trung vào việc hoàn thành giải phóng dân tộc Giai đoạn thứ hai chú trọng xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân Giai đoạn thứ ba nhằm xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội và tiến tới thực hiện chủ nghĩa xã hội Ba giai đoạn này có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển.

Cương lĩnh chính trị đã trải qua ba giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền, thổ địa cách mạng và xã hội cộng sản, trong đó thổ địa không thể xem là một phần của tư sản dân quyền, vì đây là hai vấn đề tách biệt So với Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, Cương lĩnh đề ra hai giai đoạn, trong đó Cách mạng tư sản dân quyền được gắn liền với thổ địa, tạo thành một Cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa phản, nhằm tiến tới xã hội chủ nghĩa.

Chính cương tiếp tục duy trì ba giai đoạn tương tự như Cương lĩnh chính trị đầu tiên, nhưng các giai đoạn này không tách rời mà liên kết chặt chẽ với nhau Mỗi giai đoạn đảm nhận một nhiệm vụ trung tâm riêng biệt.

3.2.2 Tiểu kết Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, là “Đại hội kháng chiến thắng lợi” Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động ViệtNam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng Đại hội II là bài học sâu sắc về quan điểm kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, kiên định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; nắm chắc quan điểm bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia- dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa Đại hội đã tập trung phân tích, làm rõ bối cảnh tình hình quốc tế và những chuyển biến của cách mạng Việt Nam những năm 1950 của thế kỷ XX, làm rõ những quyết định đúng đắn tại Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng nhằm đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định tầm vóc, giá trị lý luận và thực tiễn của Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.

Ngày đăng: 02/12/2021, 19:59

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w