Phân tích luâ ̣n điểm “Không có gì quý hơn đô ̣c lâ ̣p tự do”
Cơ sở của luâ ̣n điểm
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra gay gắt, vào ngày 17/7/1966, Hồ Chí Minh đã phát động lời kêu gọi mạnh mẽ tới toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước Ông nhấn mạnh rằng trong thời đại này, không có gì quý giá hơn độc lập và tự do Người dân Việt Nam không chỉ không sợ hãi mà còn thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc đánh bại kẻ thù.
Mỹ xâm lược “Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn!”
1.1 Tình hình Viê ̣t Nam:
Thời gian Tóm tắt sự kiê ̣n
Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã buộc Chính phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh tại Đông Dương Ngày 10/10/1954, lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, và đến ngày 16/5/1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp cùng tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.
Từ năm 1954, Mỹ đã lợi dụng sự thất bại của Pháp để thay thế và thống trị miền Nam Việt Nam, thành lập chính quyền Sài Gòn thân Mỹ Mục tiêu xâm lược của Mỹ là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài Việt Nam và xây dựng nơi đây thành căn cứ quân sự nhằm tiến công miền Bắc, đồng thời ngăn chặn làn sóng cách mạng ở Đông Nam Á.
1959- Mỹ thực hiện chiến dịch chiến tranh “đơn phương” tại miền Nam
Vào tháng 3 năm 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam trong tình trạng chiến tranh, thực hiện nhiều chính sách phản động, đặc biệt là đạo luật 10/59, nhằm loại trừ cộng sản khỏi vòng pháp luật Chính quyền này đã sử dụng máy chém để xử lý các đối tượng, đồng thời áp dụng Tòa án quân sự đặc biệt để xét xử và xử án ngay tại chỗ.
Đến cuối năm 1960, phong trào "Đồng khởi" đã đạt được những thắng lợi quan trọng, giải phóng một khu vực rộng lớn và đánh dấu bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử trong cuộc cách mạng miền Nam.
Thất bại trong chiến tranh “đơn phương”, Mỹ chuyển thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam:
Mỹ âm thầm thực hiện kế hoạch "Dùng người Việt đánh người Việt", thông qua việc sử dụng quân đội Sài Gòn dưới sự chỉ huy của các "cố vấn" Mỹ Kế hoạch này dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật và phương tiện chiến tranh hiện đại từ Mỹ.
Mỹ chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta.
- Sau hơn 4 năm (từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965), lực lượng cách mạng ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược
Chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã gặp nhiều khó khăn khi các công cụ và chỗ dựa như ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị đều bị lung lay tận gốc Từ năm 1965, sự bất ổn này đã thể hiện rõ rệt, làm suy yếu sức mạnh của Mỹ trong cuộc chiến.
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ đã chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" tại miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc.
“Chiến tranh cục bộ” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân Mỹ, đồng minh và quân đội
Sài Gòn với phương tiện chiến tranh hiện đại Quân số lúc cao nhất (1969) lên đến 1,5 triệu tên (Mỹ hơn 0,5 triệu)
Mỹ nhanh chóng xây dựng ưu thế về quân sự và hỏa lực, áp đảo lực lượng quân chủ lực của ta Họ tiến hành hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào các vùng căn cứ kháng chiến, đặc biệt là khu vực được gọi là “Đất thánh Việt Cộng”, với mục tiêu tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của chúng ta.
Vào mùa khô năm 1965 - 1966, trong cuộc phản công chiến lược đầu tiên, quân Mỹ đã bị đánh bại tại miền Nam, trong khi ở miền Bắc, quân và dân ta đã bắn rơi hàng nghìn máy bay các loại của đế quốc Mỹ.
Mỹ đã huy động 700.000 quân, bao gồm 200.000 lính Mỹ và đồng minh, thực hiện 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân lớn nhằm "tìm diệt" quân chủ lực giải phóng Các chiến dịch này tập trung vào ba hướng chiến lược chính: Tây Nguyên, đồng bằng khu V và Đông Nam Bộ, với mục tiêu giành lại thế chủ động trên chiến trường và ổn định các vùng nông thôn đồng bằng.
Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến, quân dân ta đã tập trung nghiên cứu đối phương và tìm ra những chiến lược hiệu quả để đánh Mỹ Kết quả là chúng ta đã thực hiện nhiều cuộc tấn công trên khắp các mặt trận và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, tiêu biểu như các trận ở Núi Thành (6/1965), Vạn Tường (8/1965), Plâyme, Đất Cuốc và Bầu Bàng (11/1965).
Miền Bắc bước đầu đánh thắng chiến tranh phá hoại, đảm bảo giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường ngày càng nhiều và hiệu quả.
Mặc dù đã gặp nhiều khó khăn, kẻ thù vẫn không từ bỏ ý đồ xâm lược, gia tăng việc đưa quân đội Mỹ cùng các đồng minh như Úc, Thái Lan và Nam Triều Tiên tham chiến Mục tiêu của chúng là giành lại quyền chủ động trên chiến trường, ép quân giải phóng phải co cụm lại, đồng thời cắt đứt đường tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam Ngoài ra, chúng còn âm thầm tìm cách buộc ta phải tham gia vào các cuộc đàm phán theo ý muốn của chúng.
Trước âm mưu của địch và khả năng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể lan rộng và ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam Ông chuẩn bị tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân bước vào giai đoạn chiến đấu mới, quyết liệt và hy sinh nhiều hơn để giành thắng lợi hoàn toàn Trong tài liệu quan trọng "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước," Chủ tịch nêu lên chân lý thời đại rằng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do,” thể hiện khát vọng mãnh liệt của các dân tộc trên thế giới.
1.2 Tình hình thế giới:
Vào thời điểm Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát động, thế giới đang bị chia rẽ bởi Chiến tranh Lạnh (1946 - 1989), với hai cường quốc đối đầu là Hoa Kỳ (tư bản) và Liên Xô (cộng sản) Cuộc đấu tranh giữa hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã mang tính toàn cầu, tạo ra sự phân chia rõ rệt với mức độ thù hận tư tưởng cao giữa các bên.
Nô ̣i dung luâ ̣n điểm
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng ngôn ngữ đơn giản, dễ nhớ nhưng sâu sắc, thể hiện tinh thần kiên cường của dân tộc Lời kêu gọi "Không có gì quý hơn độc lập tự do" năm 1966 không chỉ ngắn gọn mà còn phản ánh quá trình lịch sử đấu tranh của nhân dân Việt Nam Từ "độc lập" có nguồn gốc Hán, mang ý nghĩa "đứng một mình", thể hiện sự tự chủ và không phụ thuộc vào bất kỳ ai, khẳng định quyền tự quyết của dân tộc.
Tự do gắn liền với đất nước và xã hội là trạng thái mà mọi thành viên đều không bị cấm đoán hay hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội và chính trị Mỗi cá nhân có quyền sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện của mình mà không bị ngăn cản hay xâm phạm.
Hiểu câu nói của Hồ Chí Minh chỉ qua việc giải thích từ ngữ sẽ không thể nắm bắt được tầm nhìn và nhận thức sâu sắc của người về vấn đề dân tộc Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một chân lý mà còn mang ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị sâu sắc trong thời đại.
2 Phân tích nô ̣i dung:
2.1 Đô ̣c lâ ̣p, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tô ̣c:
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, niềm khát khao về độc lập và tự do luôn là động lực mạnh mẽ trong mỗi người dân Hồ Chí Minh, biểu tượng cho ý chí và tinh thần dân tộc, đã khẳng định rằng điều ông cần nhất là sự tự do cho đồng bào và độc lập cho Tổ quốc.
Sự tồn vong và phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc luôn gắn liền với việc bảo vệ độc lập và chủ quyền Độc lập dân tộc không chỉ là nguyện vọng chính đáng của mỗi cá nhân trong cộng đồng, mà còn là mục tiêu và động lực cho cuộc đấu tranh giải phóng khỏi sự áp bức và bóc lột của kẻ thù xâm lược.
Quan điểm về độc lập, tự do của Hồ Chí Minh đã được khẳng định mạnh mẽ qua nhiều sự kiện lịch sử quan trọng Những tư tưởng này không chỉ thể hiện khát vọng tự do của dân tộc mà còn phản ánh tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình giành độc lập Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng độc lập và tự do là những quyền cơ bản của con người, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước.
Sự kiện Hồ Chí Minh gửi bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến Hội nghị Véc-xây năm 1919, mặc dù không được chấp nhận, đã đánh dấu bước đầu hình thành tư tưởng của ông về quyền của các dân tộc thuộc địa, đặc biệt là quyền bình đẳng và tự do.
- Chân lý về độc lập, tự do được nêu trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945: Trong bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa các quyền tự do, bình đẳng và quyền con người được nêu rõ trong "Tuyên ngôn Độc lập" của Mỹ.
1776 và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791.
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, mỗi dân tộc đều có quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc và quyền tự do Đây là những nguyên tắc cơ bản không ai có thể phủ nhận.
Việt Nam có quyền tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm sử dụng tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và tài sản để bảo vệ quyền tự do và độc lập này.
- Ý chí và quyết tâm còn được thể hiện qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ:
Vào năm 1946, trong một bức thư gửi Liên Hợp Quốc, Người đã nhấn mạnh quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong việc bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất, bao gồm toàn vẹn lãnh thổ và độc lập cho đất nước.
Năm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ xâm lấn miền Nam Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của độc lập và tự do cho dân tộc với câu châm ngôn nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
Cuối cùng, những tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập và tự do đã được khẳng định qua những chiến công liên tiếp của nhân dân Việt Nam Họ đã anh dũng đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, buộc các kẻ thù phải rút quân về nước và tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của dân tộc Việt Nam.
2.2 Đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c gắn với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn nhất quán với mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước Bác khẳng định rằng chỉ khi toàn thể cộng đồng dân tộc được giải phóng, đất nước mới thực sự được thống nhất Do đó, trong bối cảnh đất nước còn bị chia cắt, nhân dân cần kiên trì đấu tranh, sẵn sàng hy sinh để đạt được sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Tổ quốc thống nhất là nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại và tình cảm dân tộc, trở thành động lực cho cách mạng dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội Sự thống nhất này tạo ra sức mạnh tổng hợp, bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời hỗ trợ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội Do đó, Bác Hồ đã khẳng định rằng “đấu tranh cho thống nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam.”
Giá trị, ý nghĩa của luâ ̣n điểm; Liên hê ̣ thực tiễn
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa sâu sắc và giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện sự độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn là hạnh phúc của nhân dân Tư tưởng này không chỉ được thể hiện qua cuộc đấu tranh giành độc lập, kháng chiến chống xâm lược, mà còn trong đời sống thực tiễn của người dân Việt Nam Nó kết tinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam Đặc biệt, tư tưởng này phản ánh tinh thần yêu nước mãnh liệt, ý chí sắt đá và nguyện vọng thiết tha của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, có ý nghĩa lớn lao cả về lý luận lẫn thực tiễn.
1.1 Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là chân lý của mọi thời đại: Độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết để xây dựng một đất nước phồn vinh, dân tộc phát triển, người dân ấm no, hạnh phúc, có độc lập, tự do thì sẽ có tất cả; đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân không thể có cơm no, áo ấm và cuộc đời hạnh phúc nếu không có được độc lập, tự do Độc lập, tự do của dân tộc; quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, một đất nước độc lập, tự do là vô cùng quý giá và thiêng liêng Không ai có thể tự cho mình cái quyền can thiệp, có quyền xâm phạm độc lập, tự do của các quốc gia dân tộc khác, càng không thể có quyền thực hiện sự can thiệp đó bằng bom đạn Như vậy, độc lập, tự do là quyền dân tộc, quyền con người, là vấn đề đầu tiên và thiêng liêng, là “xuất phát điểm” đối với mọi dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc.
1.2 Câu nói như là một mệnh đề hành động muốn độc lập dân tộc phải đứng lên chống lại kẻ thù:
Để đạt được độc lập và tự do, các dân tộc bị áp bức không thể ngồi yên chờ đợi hay trông chờ vào sự giúp đỡ từ các thế lực đế quốc, thực dân Độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết để có một cuộc sống ấm no và hạnh phúc Mỗi dân tộc cần phải đứng lên để xóa bỏ mọi áp bức, nô dịch và tự cứu lấy mình Chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" nhấn mạnh rằng mỗi dân tộc phải tự quyết định vận mệnh của chính mình Nếu một dân tộc không tự đứng lên giải phóng cho mình, thì họ sẽ không bao giờ có được độc lập và tự do Độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng, là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục và bền bỉ của toàn thể dân tộc bị áp bức trên thế giới.
1.3 Câu nói là nguồn động lực cho dân tộc đồng lòng kháng chiến làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ " chấn động địa cầu", làm nên đại thắng mùa Xuân 1975 vĩ đại:
Câu nói của Bác Hồ như một lời hiệu triệu toàn dân tộc, khơi dậy ý chí và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức Nó thống nhất niềm tin, củng cố đội ngũ và đoàn kết một lòng trong cuộc chiến giành độc lập, tự do Từ đó, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã đứng lên chiến đấu, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu" và Đại thắng mùa Xuân 1975, đưa đất nước về một mối, giành hoàn toàn độc lập, tự do cho dân tộc, tạo tiền đề cho sự phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.4 Câu nói là một tiền đề để phát triển đời sống vật chất và tinh thần xây dựng xã hội chủ nghĩa đưa nhân dân lên làm chủ:
Khi đã đạt được độc lập và tự do, cần chú trọng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân để họ ngày càng hạnh phúc Cuộc cách mạng không chỉ nhằm giành độc lập cho Tổ quốc mà còn phải mang lại tự do, ấm no và hạnh phúc cho mọi người Ý nghĩa thực tiễn của độc lập và tự do đối với một quốc gia không chỉ thể hiện trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, mà còn trong quá trình xây dựng xã hội mới Độc lập và tự do chỉ thực sự có giá trị khi người dân được hưởng đầy đủ nhu cầu cơm ăn, áo mặc, việc làm, học hành, quyền làm chủ và quyền con người trong cuộc sống hàng ngày.
Câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” thể hiện tư tưởng xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, từ những chiến thắng vĩ đại trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đến những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới Lời kêu gọi của Bác Hồ không chỉ là tiếng nói của non sông đất nước mà còn là động lực thúc đẩy toàn dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ vì lý tưởng độc lập và tự do.
2 Giá trị áp dụng của luâ ̣n điểm:
2.1 Trong các tài liê ̣u, văn kiê ̣n, các cuô ̣c kháng chiến:
● Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo (2/1930)
● Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941)
● Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
● Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam:
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" (17/7/1966)
Không phải đến khi viết lời kêu gọi ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới khẳng định giá trị của độc lập tự do
Từ thuở niên thiếu, động lực thúc đẩy Người quyết tâm tìm kiếm con đường cứu nước chính là khát vọng khôi phục độc lập và tự do cho dân tộc.
Vào tháng 2/1930, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định mục tiêu đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, nhằm mang lại độc lập hoàn toàn cho nước Nam Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 vào tháng 5/1941, Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh rằng nếu không giải quyết vấn đề dân tộc giải phóng và không đòi được độc lập cho toàn thể dân tộc, thì không chỉ quốc gia sẽ mãi chịu kiếp nô lệ mà quyền lợi của các giai cấp cũng sẽ không bao giờ được phục hồi.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân kiên quyết giữ vững ngọn cờ độc lập, tự do với tinh thần "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ." Khi đế quốc Mỹ gia tăng chiến tranh xâm lược ở miền Nam và tấn công miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân đoàn kết, khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do."
Ngày 17/7/1966, lời kêu gọi của Người được phát trên sóng Đài Tiếng nói
Vào ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam Ông khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của nhân dân, dù chiến tranh có thể kéo dài, nhưng tinh thần không sợ hãi vẫn vững bền Lời kêu gọi thể hiện sự bình tĩnh, niềm tin vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Ông nhấn mạnh chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và khẳng định rằng sau chiến thắng, nhân dân sẽ xây dựng đất nước tươi đẹp hơn.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” thể hiện một tư tưởng cách mạng sâu sắc và triệt để Tư tưởng này gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, phản ánh sự nỗ lực và hy sinh cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho sự nghiệp vĩ đại này.
2.2 Trong Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tô ̣c:
● Kháng chiến chống Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945), khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;
● Chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954)
● Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa sâu sắc và giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện sự độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn là hạnh phúc của nhân dân Ông nhấn mạnh rằng "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì," khẳng định rằng tự do và hạnh phúc của con người là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của đất nước.
Vào tháng 12/1946, trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến Người kêu gọi toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên kháng chiến với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng hy sinh tất cả để không chịu mất nước và không chấp nhận làm nô lệ.