Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện với mục tiêu nhằm làm rõ các câu hỏi nghiên cứu nhƣ sau:
Thứ nhất: Cơ sở lý luận về trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT đối với
Thứ hai: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT đối với BCKT có gì bất cập?
Để hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của Kiểm toán viên (KTV) và Doanh nghiệp Kiểm toán (DNKT) đối với Báo cáo Tài chính (BCKT), cần sửa đổi quy định pháp luật theo hướng tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình Việc quy định rõ ràng về nghĩa vụ của KTV và DNKT trong việc kiểm tra và xác nhận tính chính xác của BCKT sẽ giúp nâng cao chất lượng kiểm toán Đồng thời, cần thiết lập các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với những vi phạm, nhằm bảo đảm sự tuân thủ và tạo ra môi trường kiểm toán chuyên nghiệp hơn.
Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Đến thời điểm hiện tại, trách nhiệm pháp lý của Kế toán viên và Doanh nghiệp Kiểm toán vẫn là một chủ đề mới mẻ và thách thức trong nghiên cứu cấp luận văn thạc sĩ Nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu về các khía cạnh liên quan đến kiểm toán.
Tác giả Nguyễn Thị Khuyên (2014) đã có luận văn thạc sĩ nghiên cứu về
Luật pháp về dịch vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam quy định các hoạt động và tiêu chuẩn liên quan đến kiểm toán viên Luận văn nghiên cứu tổng thể các quy định pháp luật này, đồng thời chỉ ra trách nhiệm của kiểm toán viên theo Luật kiểm toán độc lập.
Tác giả Nguyễn Ngọc Khánh Dung (2015) đã có luận án tiến sĩ nghiên cứu về
Nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tập trung vào trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) tại Việt Nam Đề tài này xem xét trách nhiệm của kiểm toán viên từ góc độ yêu cầu nghề nghiệp, mà không đi sâu vào khía cạnh trách nhiệm pháp lý.
Bài viết của tác giả Lê Thị Thu Hà (2019) về “Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên” cung cấp thông tin tham khảo về vấn đề này tại một số quốc gia trên thế giới Tuy nhiên, nội dung bài viết khá ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn 06 trang A4, và chưa đề cập đến trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp kiểm toán, một chủ thể quan trọng luôn gắn liền với hoạt động của kiểm toán viên.
Có nhiều nghiên cứu về pháp luật trong lĩnh vực kiểm toán, nhưng chưa có tác phẩm nào chuyên sâu về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên (KTV) và doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) đối với báo cáo tài chính (BCKT) Luận văn này phân tích các quy định pháp luật và thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm và tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận cùng thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên (KTV) và doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) đối với báo cáo tài chính (BCKT) Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT đối với BCKT.
Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý của Kiểm toán viên (KTV) và Doanh nghiệp Kiểm toán (DNKT) đối với Báo cáo tài chính (BCKT) Bài viết cũng đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật này, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong hoạt động kiểm toán.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên (KTV) và doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) đối với báo cáo kiểm toán (BCKT) trong lãnh thổ Việt Nam cho thấy hoạt động kiểm toán chủ yếu được giới hạn trong lĩnh vực kiểm toán độc lập, không bao gồm các hình thức kiểm toán khác như kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ.
Từ năm 2011, khi Luật Kiểm toán độc lập được ban hành, hoạt động kiểm toán độc lập đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể Việc phân tích và đánh giá thực trạng quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực này cho thấy sự phát triển trong việc nâng cao chất lượng và tính minh bạch của các báo cáo tài chính Tuy nhiên, vẫn tồn tại những thách thức cần khắc phục để đảm bảo hiệu quả và độ tin cậy của hoạt động kiểm toán độc lập trong bối cảnh hiện nay.
Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 của luận văn tập trung vào lý luận chung về hoạt động kiểm toán độc lập và trách nhiệm pháp lý của Kiểm toán viên (KTV) và Doanh nghiệp Kiểm toán (DNKT) Nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh nhằm làm rõ các khái niệm cơ bản trong lĩnh vực kiểm toán, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT trong quá trình thực hiện kiểm toán.
Chương 2 tập trung vào hai khía cạnh quan trọng: pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và DNKT Tác giả áp dụng các phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp để làm rõ những bất cập hiện có trong thực tiễn, từ đó nâng cao nhận thức về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực này.
Chương 3 tập trung vào việc đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của Kiểm toán viên (KTV) và Doanh nghiệp Kiểm toán (DNKT) Luận văn áp dụng phương pháp tổng hợp và phương pháp logic để xây dựng các khuyến nghị cải tiến quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lý cho KTV và DNKT.
Kết cấu dự kiến của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán đối với báo cáo kiểm toán
Chương 2: Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán qua hoạt động thực tiễn
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA KIỂM TOÁN VIÊN VÀ DOANH NGHIỆP KIỂM TOÁN ĐỐI VỚI BÁO CÁO KIỂM TOÁN
Khái quát về kiểm toán và kiểm toán độc lập
Hoạt động kiểm toán đã có nguồn gốc từ thời kỳ Ai Cập và La Mã cổ đại, với ý nghĩa ban đầu là phê duyệt thông tin qua việc đọc to các tài khoản tài sản và được xác nhận bởi bên độc lập Trong thời Trung cổ, kiểm toán chủ yếu tập trung vào việc xác minh độ chính xác của thông tin tài chính do các kiểm toán viên của Nhà nước thực hiện Đến thế kỷ 18, sự ra đời của các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán đã tạo ra nhu cầu kiểm tra tài chính từ phía các chủ sở hữu cổ phần, nhằm ngăn chặn gian lận từ người quản lý doanh nghiệp Kiểm toán đã được hình thành chủ yếu để phục vụ cho mục đích này.
Hiện nay tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về hoạt động kiểm toán:
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hoạt động kiểm toán được định nghĩa là quá trình mà kiểm toán viên độc lập tiến hành kiểm tra và đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính.
Kiểm toán được định nghĩa là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng liên quan đến thông tin nhằm xác định sự phù hợp với các tiêu chuẩn đã thiết lập Để đảm bảo tính chính xác và khách quan, quá trình này cần được thực hiện bởi các kiểm toán viên có năng lực và độc lập.
Hoạt động kiểm toán có nhiều hình thức khác nhau, và khi phân loại theo chủ thể thực hiện, kiểm toán được chia thành ba loại chính.
Kiểm toán nhà nước là hoạt động do các cơ quan chức năng thực hiện nhằm kiểm tra sự tuân thủ các quy định pháp luật về tài chính của đơn vị được kiểm toán, đặc biệt là trong việc sử dụng vốn.
2 Nguyễn Thị Khuyên, Luận văn Thạc Sĩ Luật, Hà Nội, 2014, tr 5
Cơ quan Kiểm toán nhà nước tại Việt Nam, trực thuộc Quốc hội, là cơ quan kiểm toán cấp cao nhất, có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện ngân sách và quản lý sử dụng tài sản công Các chủ thể có thể tiến hành kiểm tra bao gồm Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước, và Thanh tra tài chính chuyên ngành.
Kiểm toán nội bộ là quá trình đánh giá và kiểm tra các quy trình quản trị tài chính và quản lý rủi ro trong doanh nghiệp, được thực hiện bởi nhân viên nội bộ theo yêu cầu của Ban quản trị hoặc Ban quản lý Mục tiêu chính của kiểm toán nội bộ là nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, đồng thời phòng ngừa rủi ro và đánh giá việc thực hiện kế hoạch của đơn vị.
Là hoạt động kiểm toán đƣợc tiến hành bởi các kiểm toán viên thuộc các doanh nghiệp kiểm toán độc lập
Theo Luật kiểm toán độc lập 2011, kiểm toán độc lập (KTĐL) là hoạt động mà kiểm toán viên (KTV) và doanh nghiệp kiểm toán thực hiện kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập về báo cáo tài chính và các công việc kiểm toán khác theo hợp đồng Hoạt động KTĐL tại Việt Nam bắt đầu từ đầu những năm 1990, khi nền kinh tế chuyển đổi sang thị trường và sự phát triển của các doanh nghiệp nước ngoài tạo ra nhu cầu về dịch vụ này Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) ra đời vào tháng 5/1991, đánh dấu sự hình thành của công ty KTĐL đầu tiên tại Việt Nam Luật kiểm toán độc lập năm 2011 đã tạo ra khung pháp lý quan trọng cho hoạt động KTĐL, chấm dứt thời kỳ thiếu luật chuyên ngành Hiện nay, cả nước có khoảng 160 doanh nghiệp kiểm toán với hơn 11.000 nhân viên hoạt động trong lĩnh vực KTĐL.
4 Khoản 1 điều 5 luật Kiểm toán độc lập 2011
5 Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM, Giáo trình Kiểm Toán, Nxb Lao động, TP.HCM, 2019, tr 29
Các doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) cung cấp nhiều dịch vụ chuyên môn, bao gồm kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC), soát xét thông tin theo thỏa thuận, tư vấn thuế và các dịch vụ liên quan khác Trong đó, dịch vụ kiểm toán BCTC thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về doanh thu và nhân sự Kiểm toán BCTC, hay còn gọi là kiểm toán tài chính, là quá trình kiểm tra nhằm đưa ra ý kiến về tính hợp lý và trung thực của BCTC, dựa trên các tiêu chuẩn kế toán và chuẩn mực liên quan.
Hiện nay, thuật ngữ “kiểm toán” thường được hiểu là kiểm toán báo cáo tài chính của khách hàng Trong bài luận văn này, tác giả sẽ tập trung vào khái niệm “kiểm toán” hoặc “kiểm toán độc lập” liên quan đến hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp Đây là dịch vụ quan trọng và điển hình nhất trong lĩnh vực kiểm toán độc lập hiện nay.
Theo điều 37 của Luật Kiểm toán độc lập 2011, các doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn đến lợi ích công chúng như tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, công ty đại chúng, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp kiểm toán và doanh nghiệp nước ngoài bắt buộc phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm.
1.1.2 Những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của kiểm toán độc lập
1.1.2.1 Mục tiêu của kiểm toán độc lập:
Kiểm toán báo cáo tài chính (KTĐL) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao độ tin cậy cho người sử dụng báo cáo tài chính Mục tiêu chính của kiểm toán là đảm bảo một cách hợp lý rằng thông tin tài chính được trình bày chính xác và đáng tin cậy.
Báo cáo tài chính (BCTC) cần được đánh giá toàn diện để xác định xem có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không Điều này giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc BCTC có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC, dựa trên khía cạnh trọng yếu hay không.
Trong lĩnh vực kiểm toán, mục tiêu chính là phát hiện các sai sót có tính trọng yếu thay vì tất cả các sai sót Mức độ trọng yếu được xác định dựa trên xét đoán của kiểm toán viên (KTV) và có thể khác nhau cho từng khách hàng Thông thường, mức trọng yếu được tính dựa trên tỷ lệ 0,5%-1% doanh thu, 5%-10% lợi nhuận hoặc 1%-2% tổng tài sản.
6 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 200), đoạn 3
7 Nguyễn Thị Nên, 2018 Xác định quy mô tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC Tạp chí Tài Chính, số 7/2018, tr 3
Cuộc kiểm toán chỉ có thể cung cấp mức độ bảo đảm hợp lý cho báo cáo tài chính, mà không thể đảm bảo tuyệt đối rằng không còn sai sót trọng yếu nào Điều này xuất phát từ những hạn chế vốn có trong hoạt động kiểm toán.
Doanh nghiệp kiểm toán và tổ chức nghề nghiệp kiểm toán
8 Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM, Giáo trình Kiểm Toán, Nxb Lao động, TP.HCM, 2019, tr 45
1.2.1 Khái niệm về doanh nghiệp kiểm toán và tổ chức nghề nghiệp kiểm toán
Theo quy định tại khoản 5, điều 5 của Luật kiểm toán độc lập 2011, doanh nghiệp kiểm toán được định nghĩa là một doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các điều kiện để cung cấp dịch vụ kiểm toán theo luật này và các quy định pháp luật liên quan.
Doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) có những đặc điểm giống như các doanh nghiệp thông thường, bao gồm việc thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp DNKT là một tổ chức kinh tế độc lập, có tên gọi riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký để thực hiện hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, điểm khác biệt của DNKT so với các doanh nghiệp khác là chức năng cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập và các dịch vụ liên quan Nếu doanh nghiệp không đủ điều kiện hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, thì không được phép sử dụng từ "kiểm toán" trong tên gọi của mình.
Tổ chức nghề nghiệp kiểm toán tại Việt Nam, được gọi là Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), là một tổ chức xã hội nghề nghiệp dành cho các doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề VACPA được thành lập chính thức vào tháng
VACPA, thành lập vào tháng 4 năm 2005 và được quản lý bởi Bộ Tài Chính, có mục tiêu đoàn kết các KTV nhằm nâng cao uy tín và chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập Bên cạnh đó, VACPA còn đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kiểm toán độc lập.
1.2.2 Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán
Doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam chỉ được thành lập và hoạt động dưới ba hình thức chính: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, và công ty hợp danh Ngoài ra, doanh nghiệp kiểm toán không được phép góp vốn để thành lập doanh nghiệp kiểm toán khác, trừ trường hợp doanh nghiệp kiểm toán trong nước hợp tác với doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài để thành lập một doanh nghiệp kiểm toán mới.
9 Khoản 5 điều 5 Luật kiểm toán độc lập 2011
10 Điều 20 Luật kiểm toán độc lập 2011
Lĩnh vực kiểm toán độc lập (KTĐL) thuộc danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo Luật Đầu tư 2014 Trước khi chính thức hoạt động, doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) cần có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán do Bộ Tài Chính cấp Hai điều kiện quan trọng để nhận Giấy chứng nhận này là DNKT phải có ít nhất năm kiểm toán viên hành nghề và các chức vụ đại diện pháp luật cùng giám đốc phải là kiểm toán viên hành nghề trong DNKT.
Quyền và nghĩa vụ của DNKT đƣợc quy định tại điều 28 và điều 29 Luật kiểm toán độc lập 2011, bao gồm các nội dung chính nhƣ sau:
Quyền của DNKT Nghĩa vụ của DNKT
Bổ nhiệm KTV thực hiện kiểm tra
BCTC của khách hàng theo chuẩn mực kiểm toán
Phát hành báo cáo kiểm toán sau khi thực hiện kiểm toán BCTC của khách hàng
Yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin liên quan phục vụ kiểm toán
Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán
Nhận phí dịch vụ theo thỏa thuận
Tham gia các tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán
Các quyền khác theo quy định của pháp luật
Quản lý công việc của KTV, bố trí nhân sự phù hợp cho cuộc kiểm toán
Có nghĩa vụ trích lập dự phòng quỹ rủi ro nghề nghiệp hoặc mua bảo hiểm nghề nghiệp cho KTV
Phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng dựa trên cơ sở hợp đồng kiểm toán và quy định pháp luật có liên quan
Thông báo cho khách hàng khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật về kế toán tài chính trong quá trình kiểm toán
Chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả kiểm toán với khách hàng và người sử dụng có liên quan
Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật
Bảng 1.1 Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp kiểm toán
11 Điều 21 Luật Kiểm toán độc lập 2011
Hoạt động kiểm toán độc lập được thực hiện bởi các kiểm toán viên hành nghề, tuy nhiên chỉ có các doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) mới có quyền cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập Để nâng cao uy tín và chất lượng kiểm toán, các DNKT cần tuyển chọn kiểm toán viên có trình độ cao và xây dựng quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ Điều này giúp DNKT giám sát hoạt động của kiểm toán viên và phát hiện kịp thời các sai phạm trong quá trình kiểm toán Kinh nghiệm cho thấy, DNKT nào chú trọng đến kiểm soát chất lượng sẽ có uy tín cao hơn trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán.
1.2.3 Một số đặc điểm về doanh nghiệp kiểm toán và tổ chức nghề nghiệp kiểm toán trên thế giới
Doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) trên thế giới có thể được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, trong đó công ty hợp danh là hình thức phổ biến cho DNKT quy mô nhỏ DNKT đã có lịch sử phát triển lâu dài và hoạt động rộng rãi, với hàng chục ngàn nhân viên làm việc toàn cầu Theo phạm vi hoạt động kinh doanh, DNKT được chia thành bốn nhóm chính.
Văn phòng kiểm toán địa phương cung cấp dịch vụ kiểm toán cho một số doanh nghiệp trong khu vực, đồng thời cũng có thể cung cấp các dịch vụ bổ sung như tư vấn thuế và kế toán quản trị.
Doanh nghiệp kiểm toán khu vực: Có số lƣợng nhân viên đông hơn, hoạt động trên phạm vi vài tỉnh thành, không chỉ ở địa phương
Doanh nghiệp kiểm toán quốc gia có quy mô lớn và hoạt động rộng rãi trên toàn quốc Họ có khả năng kết nối với các công ty kiểm toán quốc tế để mở rộng hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp kiểm toán quốc tế có quy mô nhân sự và phạm vi hoạt động rộng lớn, thường tổ chức theo mạng lưới hợp tác thay vì mô hình công ty mẹ-con Chủ sở hữu và quản lý được tách biệt nhưng cùng chia sẻ thương hiệu và chuyên môn Hiện nay, bốn công ty kiểm toán lớn nhất (Big 4) là KPMG, Ernst & Young, PwC và Deloitte Theo số liệu tài chính năm 2019, Deloitte là công ty kiểm toán lớn nhất với doanh thu 46,2 tỷ USD từ 312.000 nhân viên, cho thấy tiềm năng thị trường kiểm toán rất lớn.
Ngành kiểm toán trên thế giới hiện có tiềm năng phát triển rất cao, điều này cũng đồng nghĩa với việc thị trường dịch vụ kiểm toán tại Việt Nam vẫn còn nhiều cơ hội để mở rộng và phát triển.
● Tổ chức nghề nghiệp kiểm toán
Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán được thành lập trên toàn cầu, với nhiều quốc gia có hơn một tổ chức Hội viên của các tổ chức này thường là các kiểm toán viên và kế toán viên, những người đã đạt tiêu chuẩn chuyên môn nhất định Một số tổ chức nghề nghiệp lớn bao gồm ICAEW, AICPA, JICPA và CPA AU, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành kế toán và kiểm toán Họ thiết lập các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp để kiểm soát chất lượng hoạt động Trên toàn thế giới, các tổ chức này là thành viên của IFAC, một tổ chức phi chính phủ được thành lập vào năm 1977, hiện có 175 thành viên đại diện cho khoảng 2,5 triệu kế toán viên toàn cầu IFAC có sứ mệnh phát triển chuẩn mực quốc tế về kế toán và kiểm toán, nâng cao uy tín của nghề nghiệp và bảo vệ lợi ích công chúng Mặc dù nhiều quốc gia đã áp dụng IAS và ISA, một số nước, bao gồm Việt Nam, vẫn sử dụng chuẩn mực riêng.
13 Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM, Giáo trình Kiểm Toán, Nxb Lao động, TP.HCM, 2019, tr 38
14 Trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM, Giáo trình Kiểm Toán, Nxb Lao động, TP.HCM, 2019, tr 40
Kiểm toán viên và trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và DN kiểm toán
1.3.1 Khái niệm và vai trò của kiểm toán viên
Kiểm toán viên (KTV) là những chuyên gia yêu cầu có trình độ chuyên môn cao và phẩm chất đạo đức tốt để đạt tiêu chuẩn hành nghề Họ cần có kinh nghiệm thực tiễn, thi đậu kỳ thi lấy chứng chỉ hành nghề và đăng ký tại một doanh nghiệp kiểm toán Tại Việt Nam, định nghĩa về KTV được quy định tại khoản 2 và khoản 3 của Luật kiểm toán độc lập 2011.
Kiểm toán viên là cá nhân được cấp chứng chỉ theo quy định pháp luật Việt Nam hoặc có chứng chỉ nước ngoài được Bộ Tài chính công nhận, đồng thời phải vượt qua kỳ thi sát hạch về pháp luật Việt Nam.
Kiểm toán viên hành nghề là người đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán Để trở thành kiểm toán viên, cá nhân cần đáp ứng các tiêu chí sau: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phẩm chất đạo đức tốt, ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực và khách quan; tốt nghiệp đại học trở lên trong các chuyên ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán hoặc các chuyên ngành khác theo quy định của Bộ Tài chính; và sở hữu Chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của Bộ Tài chính.
Theo quy định pháp luật hiện hành về kiểm toán độc lập tại Việt Nam, kiểm toán viên không được phép đăng ký hành nghề cá nhân Mặc dù có quy định cho phép thành lập doanh nghiệp tư nhân cung cấp dịch vụ kiểm toán, nhưng kiểm toán viên vẫn phải thực hiện việc đăng ký hành nghề tại một doanh nghiệp kiểm toán.
15 Theo khoản 1 điều 14 Luật kiểm toán độc lập 2011
Quyền và nghĩa vụ của kiểm toán viên đƣợc quy định cụ thể trong điều 17 và điều
18 của Luật kiểm toán độc lập 2011 Một số nội dung chính về quyền, nghĩa vụ của KTV được tóm lược ở bảng mô tả dưới đây
Quyền của KTV Nghĩa vụ của KTV
Đƣợc quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong hành nghề
Yêu cầu đơn vị đƣợc kiểm toán, tổ chức cá nhân liên quan khác cung cấp đầy đủ tài liệu, thông tin phục vụ kiểm toán
Kiểm tra hoặc xác nhận thông tin về tài chính liên quan đến khách hàng đƣợc kiểm toán
Hành nghề KTĐL theo quy định pháp luật về KTĐL
Không đƣợc can thiệp vào hoạt động kinh doanh của khách hàng
Chịu trách nhiệm pháp lý về hoạt động kiểm toán của mình
Khi nhận yêu cầu kiểm toán, cần từ chối nếu khách hàng đưa ra yêu cầu trái pháp luật hoặc không phù hợp với đạo đức nghề nghiệp Ngoài ra, nếu kiểm toán viên không có năng lực chuyên môn tương ứng, việc từ chối cũng là cần thiết để đảm bảo tính chính xác và uy tín của công việc.
Tuân thủ các quy định khác của Luật kiểm toán độc lập và chuẩn mực kiểm toán
Bảng 1.2 Quyền và nghĩa vụ của Kiểm toán viên
Nghề KTV yêu cầu chuyên môn cao, cho phép họ có quyền độc lập trong công việc Tuy nhiên, các KTV cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật chuyên ngành và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Việc vi phạm những quy định này sẽ dẫn đến trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc.
● Vai trò của kiểm toán viên
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần, đặc biệt là những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, vai trò của kiểm toán viên (KTV) ngày càng được công chúng kỳ vọng cao KTV đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự ổn định của nền kinh tế tài chính doanh nghiệp bằng cách đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty được kiểm toán Họ giúp lành mạnh hóa môi trường đầu tư và bảo vệ lợi ích của công chúng thông qua việc xác nhận tính trung thực của BCTC hoặc cảnh báo về những công ty có dấu hiệu gian lận Nhờ đó, nhà đầu tư tài chính có thêm sự tự tin khi quyết định đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường Hơn nữa, hoạt động của KTV còn hỗ trợ các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc duy trì trật tự và minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Cơ quan nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tài chính doanh nghiệp hiệu quả, với KTV hỗ trợ Cơ quan Thuế kiểm tra báo cáo thuế để đảm bảo nộp đúng hạn và đầy đủ KTV cũng cung cấp thông tin tài chính chính xác cho Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước (UBCKNN), giúp cơ quan này loại bỏ các doanh nghiệp không đủ tiêu chuẩn trên sàn chứng khoán Khi phát hiện vi phạm nghiêm trọng từ lãnh đạo doanh nghiệp, KTV có trách nhiệm thông báo cho cơ quan có thẩm quyền Đối với doanh nghiệp kiểm toán, KTV là tài sản quý giá, và chất lượng báo cáo kiểm toán phụ thuộc vào năng lực của họ Giám đốc DNKT phải là KTV để đảm bảo quy trình kiểm toán chuyên nghiệp Hệ thống quản lý chất lượng kiểm toán cần được thiết lập, nhưng khó kiểm soát nếu KTV không có năng lực hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp Do đó, cả KTV và DNKT cần tuân thủ nghiêm ngặt các nghĩa vụ của mình để đảm bảo chất lượng báo cáo Theo quy định, báo cáo kiểm toán bắt buộc phải có chữ ký của KTV và Giám đốc DNKT.
1.3.2 Trách nhiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên
KTV không chỉ cung cấp dịch vụ kiểm toán mà còn có sứ mệnh quan trọng là đáp ứng kỳ vọng của công chúng trong việc kiểm tra báo cáo tài chính, nhằm phát hiện sai sót trọng yếu và hành vi không tuân thủ pháp luật của đơn vị được kiểm toán Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể gặp phải các sai phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, và KTV có trách nhiệm nghề nghiệp trong việc phát hiện và xử lý những sai phạm này.
1.3.2.1 Trách nhiệm của kiểm toán viên đối với việc phát hiện gian lận
Sai sót trên báo cáo tài chính (BCTC) có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm ước tính kế toán không hợp lý, bỏ sót số liệu, thu thập và xử lý dữ liệu không chính xác, áp dụng sai phương pháp kế toán, hoặc giả mạo chứng từ Nếu sai sót không phải do hành vi cố ý, nó được gọi là "nhầm lẫn" Ngược lại, nếu sai sót do hành vi gian dối của nhân viên doanh nghiệp hoặc bên thứ ba, thì đó là "gian lận" Gian lận thường khó phát hiện hơn nhầm lẫn vì nó được che đậy tinh vi, dẫn đến việc BCTC bị ngụy tạo để tạo ra hình ảnh tích cực, chẳng hạn như khai khống doanh thu hoặc khai thiếu chi phí.
Trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) là đưa ra ý kiến đảm bảo rằng báo cáo tài chính (BCTC) không còn sai sót trọng yếu do nhầm lẫn hay gian lận Tuy nhiên, KTV không chịu trách nhiệm về việc phát hiện và ngăn chặn gian lận trong quá trình kiểm toán, điều này đã được quy định rõ trong chuẩn mực kiểm toán Cụ thể, việc ngăn ngừa và phát hiện gian lận thuộc về trách nhiệm của Ban quản trị và Ban giám đốc của đơn vị được kiểm toán Trách nhiệm của KTV chỉ giới hạn trong phạm vi các thủ tục kiểm toán theo chuẩn mực chuyên môn Một yêu cầu quan trọng trong chuẩn mực kiểm toán là KTV phải duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp trong suốt quá trình kiểm toán.
KTV cần nhận thức rõ về khả năng tồn tại các sai sót trọng yếu do hành vi gian lận từ đơn vị được kiểm toán Tuy nhiên, điều này thực sự khó khăn vì mức độ hoài nghi nghề nghiệp của mỗi KTV không giống nhau.
Khi phát hiện gian lận trong kiểm toán, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (đoạn 40, 41, 42) yêu cầu kiểm toán viên phải thực hiện các bước xử lý cần thiết.
Nếu gian lận xảy ra do nhân viên cấp dưới, kiểm toán viên cần thông báo ngay cho Ban giám đốc và Ban quản trị về phát hiện này.
Nếu gian lận có liên quan đến Ban GĐ thì KTV cần thông báo với Ban quản trị đơn vị
Khi không có cấp trên để thông báo hoặc theo yêu cầu của quy định pháp luật, KTV cần báo cáo hành vi gian lận với cơ quan chức năng Mặc dù KTV có nghĩa vụ bảo mật thông tin theo hợp đồng, nhưng trong một số trường hợp, trách nhiệm pháp lý có thể vượt trội hơn nghĩa vụ giữ bí mật Do đó, KTV nên tham khảo ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật để bảo vệ lợi ích công chúng trước những tác động tiêu cực từ gian lận.
Tham khảo một số kinh nghiệm về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên ở nước khác
Từ đầu thế kỷ 20, hoạt động kiểm toán độc lập (KTĐL) ở các nước tư bản lớn như Anh và Mỹ đã phát triển song song với sự hình thành của thị trường chứng khoán Thực tế đã dẫn đến các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên (KTV) và doanh nghiệp kiểm toán (DNKT), buộc phải nhờ đến Tòa án để giải quyết Trách nhiệm pháp lý trong hợp đồng khá rõ ràng nhờ vào hợp đồng dịch vụ kiểm toán, nhưng vấn đề phức tạp hơn là những tranh chấp với bên thứ ba như nhà đầu tư và bên cho vay Dưới đây là một số điểm nổi bật về trách nhiệm pháp lý của KTV/DNKT tại Mỹ và Anh.
1.4.1 Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên ở Mỹ
Năm 1924, Công ty Fred Stern tại Mỹ được các kiểm toán viên của Công ty Touch Niven xác nhận báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý, dẫn đến việc Công ty Ultramares cho Fred Stern vay vốn để kinh doanh Tuy nhiên, đến năm 1925, Fred Stern không thể trả nợ và tuyên bố phá sản Các chủ nợ phát hiện báo cáo tài chính của Fred Stern chứa sai sót nghiêm trọng, với khoản phải thu khống lên tới 700.000 USD Kiểm toán viên không phát hiện sai sót này trong quá trình kiểm toán, vẫn phát hành báo cáo kiểm toán xác nhận số liệu Hệ quả là Ultramares đã kiện kiểm toán viên ra Tòa án Liên bang Mỹ.
Năm 1931, Tòa án Liên bang Mỹ đã phán quyết rằng kiểm toán viên đã có sai sót do bất cẩn nhưng không cố ý gian lận trong quá trình kiểm toán Tuy nhiên, kiểm toán viên không phải chịu trách nhiệm đối với chủ nợ (Ultramares) vì trách nhiệm này không nằm trong phạm vi hợp đồng kiểm toán Chỉ có khách hàng kiểm toán mới có quyền kiện kiểm toán viên vì sai sót Vụ án này trở thành án lệ nổi tiếng, được gọi là Học thuyết Ultramares, và đã được nhiều Tòa án áp dụng sau này.
Kiểm toán viên không chịu trách nhiệm với bên thứ ba không có lợi ích liên quan trong hợp đồng kiểm toán về sai sót do bất cẩn Tuy nhiên, nếu báo cáo kiểm toán có sai sót do gian lận cố ý, kiểm toán viên vẫn có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý với bên thứ ba.
Tư tưởng của học thuyết Ultramares về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên đã tồn tại lâu dài, nhưng hiện nay cần mở rộng trách nhiệm này đối với bên thứ ba theo nguyên tắc “có thể được dự đoán” (Reasonably Foreseeable) Hiện tại, bốn bang của Mỹ đã áp dụng nguyên tắc này, yêu cầu kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm pháp lý vì sự bất cẩn đối với bên thứ ba sử dụng kết quả kiểm toán có sai sót trọng yếu, nếu họ có thể nhận thức hoặc cần phải biết rằng báo cáo tài chính được kiểm toán có thể được bên thứ ba sử dụng.
Nội dung vắn tắt của Án lệ này như sau:
Vào năm 1972, Công ty Rosenblum đã đầu tư mạnh vào cổ phiếu của Giant Stores dựa trên báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Touche Ross & Co Tuy nhiên, sau đó phát hiện Giant Stores đã gian lận báo cáo tài chính mà các kiểm toán viên không phát hiện do sơ suất nghiêm trọng Năm 1973, Giant Stores nộp đơn xin phá sản, khiến giá trị cổ phiếu sụt giảm và dẫn đến thua lỗ cho Harry và Barry Do đó, họ quyết định kiện kiểm toán viên để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
32 https://www.casebriefs.com/blog/law/torts/torts-keyed-to-epstein/misrepresentation/ultramares-corporation-v- touche, truy cập ngày 25/03/2020
Vào tháng 6/1983 Tòa án nhận tối cao bang New Jersey đã đƣa ra phán quyết là:
Kiểm toán viên có trách nhiệm bồi thường cho nguyên đơn do những thiếu sót trong quá trình kiểm toán đã dẫn đến thiệt hại về đầu tư cho nguyên đơn.
Đạo luật Sarbanes-Oxley được ban hành nhằm đối phó với các vụ bê bối gian lận tài chính của những tập đoàn lớn tại Mỹ, như Enron, WorldCom và Tyco, vào đầu những năm 2000 Các lãnh đạo của những công ty này đã thực hiện hành vi gian lận trong báo cáo tài chính, tạo ra lợi nhuận ảo Báo cáo tài chính của họ đã được kiểm toán và xác nhận bởi Công ty Arthur Andersen, một trong những công ty kiểm toán lớn nhất thời bấy giờ.
5 trên thế giới lúc bấy giờ
Sự sụp đổ của công ty kiểm toán Andersen vào năm 2002 đã dẫn đến việc Mỹ ban hành đạo luật Sarbanes-Oxley, quy định nghiêm ngặt hơn về kế toán, kiểm toán và quản trị cho các công ty đại chúng Đạo luật này nhằm ngăn chặn gian lận tài chính và bảo vệ nhà đầu tư bằng cách cải thiện hiệu quả hệ thống quản trị nội bộ doanh nghiệp Đồng thời, vai trò của hoạt động kiểm toán cũng được nâng cao thông qua các quy định trong đạo luật.
Các công ty kiểm toán không được phép cung cấp dịch vụ kế toán và tư vấn cho khách hàng của mình Điều này nhằm tránh nguy cơ tự kiểm tra và đảm bảo tính khách quan, tránh xung đột lợi ích trong quá trình kiểm toán.
- Các công ty niêm yết phải có Báo cáo kiểm soát nội bộ, báo cáo này phải có chứng thực của công ty kiểm toán
“Sau khi đạo luật Sarbanes-Oxley có hiệu lực, hơn một ngàn công ty niêm yết ở
Mỹ đã chi khoảng 6 tỷ USD mỗi năm để tuân thủ các quy định pháp luật, điều này cho thấy chi phí cần thiết để hoàn thiện hệ thống quản trị kế toán và kiểm toán là rất cao nhưng vô cùng quan trọng để bảo vệ lợi ích công chúng Vai trò của kiểm toán viên và kế toán viên ngày càng được nâng cao, bởi vì hoạt động của họ có thể ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp trong cả nước.
33 https://law.justia.com/cases/new-jersey/supreme-court/1983/93-n-j-324-0.html, truy cập ngày 25/03/2020
34 http://www.vacpa.org.vn/Page/Detail.aspx?newidE56, truy cập ngày 25/03/2020
1.4.2 Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên ở Anh
Hoạt động của KTV và DNKT được quy định trong Luật công ty năm 2006 của Anh, trong đó KTV phải chịu trách nhiệm pháp lý cả về trách nhiệm hình sự và dân sự Công chúng ngày càng có nhiều kỳ vọng về trách nhiệm của KTV đối với chất lượng và uy tín nghề nghiệp kiểm toán, tuy nhiên, cần phải cân nhắc đến chi phí kiểm toán mà khách hàng có thể chấp nhận.
Trách nhiệm hình sự đối với kiểm toán viên (KTV) phát sinh khi họ thực hiện hành vi gian lận hoặc giao dịch nội gián Theo Luật công ty của Anh, KTV có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu báo cáo kiểm toán có sai sót do sự cố tình hoặc thiếu thận trọng trong quá trình hành nghề.
Trách nhiệm dân sự của KTV bao gồm trách nhiệm trong hợp đồng và ngoài hợp đồng, tạo nên cơ sở pháp lý cho KTV Khách hàng hoặc bên thứ ba có quyền khởi kiện KTV nếu họ chịu thiệt hại do kết quả kiểm toán sai sót do sự bất cẩn của KTV Mức độ bồi thường của KTV vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng nhìn chung, KTV chỉ chịu trách nhiệm khi vi phạm các quy trình kiểm toán hoặc không đảm bảo tính độc lập Theo pháp luật dân sự Anh, khái niệm “chung và liên đới” cho phép nguyên đơn kiện bất kỳ bên nào trong số nhiều bên liên quan đến hành vi lỗi để đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại Trong trường hợp Giám đốc đơn vị cố ý lập báo cáo tài chính sai sót mà KTV và Ban quản trị không phát hiện, cả ba bên đều có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường Do đó, khi thiệt hại lớn xảy ra, nguyên đơn thường chọn kiện công ty kiểm toán thay vì KTV cá nhân do hạn chế về năng lực tài chính của KTV.
Khi công chúng đặt trách nhiệm pháp lý quá nặng nề lên kiểm toán viên (KTV), chi phí kiểm toán sẽ tăng cao do các doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) phải dự trù chi phí bồi thường trong trường hợp kiện tụng hoặc phí bảo hiểm nghề nghiệp Điều này khiến DNKT nhỏ gặp khó khăn trong việc cạnh tranh do tiềm lực tài chính hạn chế Để giải quyết vấn đề này, Luật công ty Anh cho phép KTV áp dụng Thỏa thuận giới hạn trách nhiệm (LLA - Liability Limitation Agreement) nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính.