CƠ SỞ LÝ LU Ậ N V Ề NH Ậ N TH Ứ C V Ề R Ố I LO Ạ N PH Ổ T Ự
T ổ ng quan v ấn đề nghiên c ứ u
Vào năm 1962, Phạm Minh Hạc và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu đầu tiên về trí nhớ của học sinh phổ thông cơ sở và trung học tại Yên Hòa, Từ Liêm, Hà Nội, đánh dấu công trình nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên tại Việt Nam.
1.1.1 Những nghiên cứu nhâ ̣n thức về tự kỷ trên thế giới
Các nhà tâm thần học đã nghiên cứu các rối loạn tâm thần nặng ở trẻ nhỏ từ lâu, với Henry Maudsley (1867) là một trong những người đầu tiên chú ý đến chúng Thuật ngữ “tự kỷ” được E Bleuler đưa ra vào năm 1911 để mô tả sự mất tiếp xúc với thực tế, dẫn đến khó khăn trong giao tiếp Chứng tự kỷ ở trẻ nhỏ được Leo Kanner mô tả và đặt tên vào năm 1943.
Sau khi Kanner công bố bài báo khoa học "Rối loạn tự kỷ trong giao tiếp tình cảm," nhiều tác giả đã bắt đầu quan tâm đến rối loạn này Qua nhiều năm, tỷ lệ phổ biến của rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) ngày càng tăng Đồng thời, các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn cũng đã được cụ thể hóa, khác biệt giữa DSM-IV và DSM-5 Nhận thức về RLPTK đang trở thành một vấn đề được quan tâm ở nhiều quốc gia, trong khi đó, rối loạn này vẫn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi.
Nhận thức về rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) được nghiên cứu chủ yếu trong lĩnh vực tự kỷ và giáo dục đặc biệt Năm 2007, Jonathan M Campbell thực hiện nghiên cứu trên học sinh trung học (N=3, tuổi trung bình = 13,07) nhằm đánh giá nhận thức và thái độ của học sinh khi xem một bạn tự kỷ giới thiệu về bản thân, kèm theo tờ thông tin có 4 thông điệp Kết quả cho thấy học sinh nữ thể hiện thái độ tích cực hơn học sinh nam, và học sinh có kiến thức về tự kỷ có thái độ tích cực hơn so với học sinh không biết về tự kỷ Đặc biệt, thái độ tích cực cũng tăng lên trong nhóm học sinh chưa biết về tự kỷ sau khi xem tờ thông tin mô tả.
Tại bang Mississippi, Hoa Kỳ, Khanna K và Jariwala K đã tiến hành nghiên cứu về nhận thức và kiến thức của các dược sĩ về tự kỷ Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ hiểu biết của các dược sĩ về vấn đề này.
Trong tổng số 147 phản hồi, chỉ có 5,8% được sử dụng, cho thấy sự thiếu hiểu biết của dược sĩ về tự kỷ Khoảng 23% dược sĩ không biết rằng tự kỷ là một rối loạn phát triển, trong khi 32% không tin vào vai trò di truyền trong nguyên nhân của bệnh Hơn 18% dược sĩ tin rằng vắc-xin có thể gây ra tự kỷ Đáng chú ý, hơn 90% cho rằng họ cần được giáo dục thường xuyên về tự kỷ để nâng cao nhận thức.
Năm 2015, nhóm tác giả LI Xing-yu và LI Li-ya Trường điều dưỡng, đa ̣i ho ̣c
Nghiên cứu tại Y khoa Thiên Tân, Trung Quốc đã khảo sát nhận thức về tự kỷ của 302 sinh viên đại học, cho thấy 73,8% trong số họ đã tiếp cận thông tin về tự kỷ Kết quả cho thấy, 78,81% sinh viên cho rằng thiếu sự chăm sóc gia đình và 77,81% cho rằng chấn thương não là nguyên nhân chính gây ra chứng tự kỷ Ngoài ra, các yếu tố tâm lý (76,49%) và rào cản xã hội (79,14%) cũng được xem là triệu chứng chính của tự kỷ Điều này cho thấy nhận thức của sinh viên đại học về rối loạn phổ tự kỷ còn chưa đầy đủ và cần được cải thiện.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tập trung vào nhận thức về Rối loạn Phát triển Tâm lý Kinh điển (RLPTK) của giáo viên, những người có vai trò quan trọng trong việc tiếp xúc và theo dõi sự phát triển của trẻ, chỉ sau cha mẹ.
Nghiên cứu về nhận thức về tự kỷ của giáo viên trường học tại Oman, được công bố lần đầu năm 2013 bởi Marwan M Al-Sharbati, Yahya M Al-Farsi, Allal Ouhtit và cộng sự, đã chỉ ra rằng nhiều giáo viên chính thống trong nước vẫn còn có quan niệm sai lầm về rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) Nhóm tác giả cho rằng sự thiếu nhận thức này có thể bắt nguồn từ văn hóa xã hội và những quan điểm mâu thuẫn thường được thảo luận trong cộng đồng khoa học và các phương tiện truyền thông.
Năm 2013, một nghiên cứu về nhận thức của giáo viên tiểu học tại Pakistan do nhóm tác giả thuộc khoa Khoa học Sức khỏe Cộng đồng, Đại học Ziauddin thực hiện cho thấy chỉ có 9% giáo viên được đào tạo chính thức về tự kỷ qua các hội thảo Hơn 62% giáo viên tin rằng tự kỷ có thể điều trị khỏi, và 57% cho rằng cần có sự đào tạo phù hợp để dạy trẻ tự kỷ.
Nghiên cứu được thực hiê ̣n ta ̣i Arab Saudi năm 2013 bởi Abdulhade I
Haimour1 và Yahia F Obaidat chỉ ra rằng giáo viên ở trường phổ thông có nhận thức thấp về tự kỷ, và có sự khác biệt đáng kể giữa các giáo viên về chức vụ, trình độ học vấn và thời gian công tác Nghiên cứu của Stone và Rosenbaum (1988) cho thấy rằng các giáo viên thường có nhận thức không chính xác về học sinh tự kỷ, đặc biệt là trong lĩnh vực nhận thức, khi so sánh với các chuyên gia về tự kỷ.
Năm 2016, Liu Y và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với 417 giáo viên mầm non tại Quảng Châu và Phật Sơn, Trung Quốc, nhằm đánh giá kiến thức về sự phát triển của trẻ bình thường, cũng như kiến thức và thái độ về rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) Kết quả cho thấy 84% giáo viên trả lời đúng hơn một nửa câu hỏi về sự phát triển trẻ em, trong khi 83% không chính xác về RLPTK Nghiên cứu chỉ ra rằng kiến thức của giáo viên có sự khác biệt theo vùng, trình độ học vấn và loại trường học, đồng thời cho thấy nhu cầu về nguồn cung cấp và đào tạo chính thức về RLPTK.
Nghiên cứu của Ayub A từ Pakistan cho thấy 71,2% giáo viên tiểu học có kiến thức về tự kỷ, trong đó 44,2% cho rằng đây là một rối loạn thần kinh/tâm thần Đa số giáo viên tin rằng giáo dục đặc biệt là một can thiệp hữu ích cho trẻ tự kỷ, và tham dự các lớp học hành vi là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến kiến thức của họ.
Nghiên cứu về rối loạn phát triển ngôn ngữ (RLPTK) trên toàn cầu cho thấy rằng giáo viên có một số kiến thức nhất định về rối loạn này Tuy nhiên, cũng có nhiều giáo viên vẫn còn thiếu hiểu biết đúng đắn về RLPTK, điều này cần được cải thiện để nâng cao chất lượng giáo dục.
1.1.2 Những nghiên cứu nhâ ̣n thức về tự kỷở Viê ̣t Nam
Tự kỷ đã được nghiên cứu tại Việt Nam từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, nhờ vào các công trình của Nguyễn Khắc Viện và cộng sự tại Trung tâm nghiên cứu trẻ em N-T Tuy nhiên, nghiên cứu về nhận thức về tự kỷ vẫn còn hạn chế Một trong những nghiên cứu đáng chú ý là luận văn Thạc sĩ của Đào Thị Sâm (2013), khảo sát thái độ của cha mẹ đối với trẻ có chứng tự kỷ, trong đó có phần tìm hiểu về nhận thức của họ Kết quả cho thấy 27,9% cha mẹ hiểu sai về khái niệm tự kỷ, 12,6% không nắm rõ biểu hiện của nó, và 8,1% cho rằng nguyên nhân của tự kỷ liên quan đến ma quỷ, mồ mả gia đình hay nghiệp chướng từ kiếp trước Mặc dù phần lớn cha mẹ có nhận thức đúng về bản chất tự kỷ, vẫn còn một số người có hiểu biết sai lệch về vấn đề này.
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên của Nguyễn
L ý lu â ̣ n v ề nh â ̣ n th ứ c v ề r ố i lo a ̣ n ph ổ t ự k ỷ c ủ a gi áo viên trườ ng chuyên
1.2.1 Rối loa ̣n phổ tự kỷ
1.2.1.1 Khái niê ̣m rối loa ̣n phổ tự kỷ
Thuật ngữ “autism - tự kỷ” được E Bleuler đưa ra vào năm 1911 để chỉ sự mất tiếp xúc với thực tế, dẫn đến khó khăn trong giao tiếp Ông dùng từ này để mô tả những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, có triệu chứng xa lánh xã hội Tự kỷ được khám phá vào năm 1943 bởi bác sĩ tâm thần nhi khoa Leo Kanner tại Đại học Johns Hopkins, khi ông mô tả Donald và mười trẻ em khác trong bài báo “Những rối loạn tự kỷ của liên hệ cảm xúc.” Kanner đã định nghĩa “chứng tự kỷ trẻ con” như một hội chứng riêng biệt, khác với những mô tả trước đó về trẻ em yếu ớt hay chậm phát triển.
Từ autism được rút ra từ nguyên ngữ autos trong tiếng Hy lạp, có nghĩa là
Theo quan niệm của Freud, tự kỷ được hiểu là sự đầu tư vào bản thân, phản ánh sự yêu thương chính mình Điều này thể hiện qua việc trẻ em tìm kiếm sự an toàn trong thế giới nội tâm đầy huyễn hoặc và ảo ảnh Tuy nhiên, trạng thái tự trị này chỉ có thể duy trì trong một khoảng thời gian nhất định, và cần có sự chăm sóc của người mẹ để phát triển một cách khỏe mạnh.
Theo Từ điển Tâm lý học của đại học Cambridge, tự kỷ là một rối loạn phát triển phổ biến ở trẻ em, đặc trưng bởi sự suy giảm trong học tập và giao tiếp xã hội, cùng với việc hạn chế quyền lợi, hoạt động và học tập Những trẻ tự kỷ thường có khả năng tưởng tượng kém và có các hành vi hoặc lời nói không theo khuôn mẫu hoặc lặp đi lặp lại Thời điểm khởi phát thường xảy ra trước 3 tuổi, và triệu chứng có thể thay đổi theo từng cá nhân, thường đi kèm với một số dạng chậm phát triển trí tuệ.
Các triệu chứng cảm giác bất thường là đặc trưng của trẻ tự kỷ Năm 2005, nghiên cứu phân tích tổng hợp của Sally J Rogers và Sally Ozonoff từ 48 bài báo thực nghiệm và 27 bài báo lý thuyết công bố từ năm 1960 cho thấy trẻ tự kỷ có triệu chứng cảm giác bất thường thường xuyên và nổi bật hơn so với trẻ em bình thường Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa cung cấp bằng chứng cụ thể để phân biệt những triệu chứng này với các rối loạn khác.
Theo nhóm tác giả Phạm Toàn, Lâm Hiếu Minh và Barbara Firestone, bệnh tự kỷ là một trong năm tiểu loại của Rối loạn phát triển lan tỏa (Pervasive Developmental Disorders - PDD) Rối loạn này được cho là có nguyên nhân từ những hoạt động bất thường của hệ thần kinh, dẫn đến sự suy giảm hoặc sai lệch trong khả năng phát triển ngôn ngữ, hành vi và cách ứng xử của cá nhân.
Rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) được định nghĩa bởi WHO như một rối loạn có các triệu chứng chính, bao gồm sự suy giảm trong khả năng tương tác giao tiếp xã hội và các hoạt động lặp lại, rập khuôn Những cá nhân mắc phải RLPTK có thể gặp khó khăn trong việc phát triển trí tuệ chung.
Bảng phân loại thống kê Quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe có liên quan phiên bản lần thứ 10 (ICD – 10) xác định tính tự kỷ ở trẻ em là một rối loạn lan tỏa sự phát triển Rối loạn này được nhận diện qua hai tiêu chí chính: (a) sự phát triển bất thường hoặc suy giảm rõ rệt trước ba tuổi, và (b) sự biểu hiện của hoạt động bất thường trong ba lĩnh vực chính: tương tác xã hội, giao tiếp, và hành vi lặp đi lặp lại, hạn chế.
Theo Cẩm nang chẩn đoán các rối loạn tâm thần, phiên bản thứnăm (DSM-
RLTPK là một rối loạn đặc trưng bởi sự thiếu hụt liên tục trong các tương tác xã hội, bao gồm thâm hụt trong tương hỗ xã hội, hành vi giao tiếp phi ngôn ngữ và kỹ năng phát triển, duy trì cũng như hiểu mối quan hệ Để chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ, cần có sự hiện diện của các mẫu hành vi, sở thích hoặc hoạt động bị hạn chế và lặp đi lặp lại.
Các định nghĩa về trẻ tự kỷ cho thấy nhiều cách tiếp cận và sử dụng ngôn ngữ khác nhau Tuy nhiên, các tác giả chủ yếu tập trung vào một số khía cạnh đặc trưng trong tâm lý của trẻ tự kỷ.
- Bất thường trong hành vi, ngôn ngữ, cảm giác, trí tuệ, tương tác xã hội
- Có những khuôn mẫu hành vi, sở thích lặp đi lặp lại
Rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) được định nghĩa theo DSM-5 là một rối loạn phát triển, nổi bật với những khó khăn trong tương tác và giao tiếp xã hội, cùng với các hành vi hạn chế và lặp lại Định nghĩa này sẽ giúp hiểu rõ hơn về nhận thức của giáo viên trung cấp về RLPTK trong nghiên cứu này.
1.2.1.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán Rối loạn Phổ tự kỷ
Tiêu chuẩn chẩn đoán Rối loạn Phổ tự kỷ theo ICD -10
Rối loạn này được phân loại trong nhóm F84.0, thuộc về rối loạn lan tỏa sự phát triển và tính tự kỷ ở trẻ em, theo Bảng phân loại thống kê quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe có liên quan phiên bản lần thứ 10 (ICD-10).
RLPTK là một rối loạn phát triển lan tỏa, được xác định bởi sự phát triển không bình thường hoặc giảm sút rõ rệt trước ba tuổi, cùng với các hoạt động bất thường trong ba lĩnh vực chính: tương tác xã hội, giao tiếp và hành vi lặp lại, định hình, thu hẹp.
Ngoài các triệu chứng chẩn đoán đặc hiệu, bệnh nhân còn có thể gặp phải những vấn đề không đặc hiệu như ám ảnh sợ, rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, cơn nổi giận vô cớ và hành vi tự gây hấn.
Tiêu chuẩn chẩn đoán Rối loa ̣n Phổ tự kỷ theo DSM – 5
Triệu chứng rối loạn phát triển tâm thần kinh (RLPTK) thường được nhận diện trong khoảng thời gian từ 12 đến 24 tháng tuổi Tuy nhiên, triệu chứng có thể xuất hiện sớm hơn 12 tháng trong các trường hợp nghiêm trọng, hoặc muộn hơn 24 tháng đối với các trường hợp nhẹ.
Để đánh giá và chẩn đoán rối loạn của trẻ, cần có các tiêu chí khoa học chính xác Theo Cẩm nang phân loại và chẩn đoán các bệnh tâm thần của Hội Chuyên gia tâm thần Hoa Kỳ (APA) công bố năm 2013, rối loạn phát triển tâm lý trẻ em (RLPTK) được chẩn đoán dựa trên các tiêu chí cụ thể.
A Thiếu hụt dai dẳng những tương tác và giao tiếp xã hội ở nhiều bối cảnh, biểu hiện ở hiện tại hay đã có tiền sử: