1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19

115 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Chất Lượng Cuộc Sống Của Bệnh Nhân Ung Thư Đang Điều Trị Hóa Chất Tại Một Số Bệnh Viện Chuyên Khoa Ung Bướu Trong Giai Đoạn Dịch Bệnh Covid-19
Tác giả Trịnh Văn Quý
Người hướng dẫn ThS. Dương Khánh Linh, DSCKII. Hoàng Thị Lê Hảo
Trường học Trường Đại Học Dược Hà Nội
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 115
Dung lượng 1,56 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. TỔNG QUAN (14)
    • 1.1. Tổng quan về bệnh ung thư và hóa trị trong điều trị ung thư (14)
      • 1.1.1. Bệnh ung thư (14)
        • 1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bệnh ung thư (14)
        • 1.1.1.2. Dịch tễ bệnh ung thư (14)
        • 1.1.1.3. Các phương pháp điều trị ung thư (14)
      • 1.1.2. Hóa trị trong điều trị ung thư (16)
        • 1.1.2.1. Vai trò của hóa trị trong điều trị ung thư (16)
        • 1.1.2.2. Tác dụng không mong muốn của hóa trị (17)
    • 1.2. Tổng quan về chất lượng cuộc sống (18)
      • 1.2.1. Khái niệm về chất lượng cuộc sống và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (18)
      • 1.2.2. Mô hình chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (20)
      • 1.2.3. Đo lường chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (22)
    • 1.3. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất (24)
      • 1.3.1. Lợi ích của đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất (24)
      • 1.3.2. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất (25)
        • 1.3.2.1. Các yếu tố về nhân khẩu học của bệnh nhân (25)
        • 1.3.2.2. Các yếu tố về bệnh lý và điều trị ung thư (25)
        • 1.3.2.3. Các yếu tố về đặc điểm chức năng, triệu chứng (26)
        • 1.3.3.1. Trên thế giới (27)
        • 1.3.3.2. Tại Việt Nam (28)
    • 1.4. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 (29)
  • Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (31)
    • 2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu (31)
    • 2.2. Đối tượng nghiên cứu (31)
      • 2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn (31)
      • 2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ (31)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (31)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (31)
      • 2.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp lấy mẫu (31)
        • 2.3.2.1. Cỡ mẫu (31)
        • 2.3.2.2. Phương pháp lấy mẫu (32)
      • 2.3.3. Quy trình thu thập bệnh nhân và dữ liệu nghiên cứu (32)
      • 2.3.4. Công cụ sử dụng trong nghiên cứu (33)
      • 2.3.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu (34)
        • 2.3.5.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (34)
        • 2.3.5.2. Chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 thông qua điểm số chất lượng cuộc sống theo bộ câu hỏi EORCT QOL-C30….24 2.3.5.3. Chỉ tiêu nghiên cứu cho mục tiêu 2: Phân tích một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất trong (35)
      • 2.3.6. Quy ước trong nghiên cứu (36)
      • 2.3.7. Phương pháp xử lý số liệu (36)
    • 2.4. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu (37)
  • Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (38)
    • 3.1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (38)
      • 3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu (39)
      • 3.1.2. Đặc điểm bệnh lý và điều trị ung thư của mẫu nghiên cứu (40)
      • 3.1.3. Đặc điểm liên quan đến dịch bệnh COVID-19 của mẫu nghiên cứu (42)
    • 3.2. Mục tiêu 1: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 thông qua điểm số chất lượng cuộc sống theo bộ câu hỏi EORCT QOL-C30 (45)
      • 3.2.1. Chất lượng cuộc sống tổng thể của bệnh nhân (45)
      • 3.2.2. Lĩnh vực các chức năng của bệnh nhân (46)
        • 3.2.2.1. Chức năng thể chất (46)
        • 3.2.2.2. Chức năng hoạt động (47)
        • 3.2.2.3. Chức năng cảm xúc (47)
        • 3.2.2.4. Chức năng nhận thức (48)
        • 3.2.2.5. Chức năng xã hội (49)
      • 3.2.3. Các triệu chứng liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (49)
      • 3.2.4. Lĩnh vực tài chính liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. 39 3.2.5. Điểm số chất lượng cuộc sống tổng thể và thành phần (50)
    • 3.3. Mục tiêu 2: Phân tích một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 (52)
      • 3.3.1. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống tổng thể của bệnh nhân 41 3.3.2. Các yếu tố liên quan đến các lĩnh vực chức năng của bệnh nhân (52)
        • 3.3.2.1. Các yếu tố liên quan đến chức năng thể chất của bệnh nhân (53)
        • 3.3.2.2. Các yếu tố liên quan đến chức năng hoạt động của bệnh nhân (54)
        • 3.3.2.3. Các yếu tố liên quan đến chức năng cảm xúc của bệnh nhân (54)
        • 3.3.2.4. Các yếu tố liên quan đến chức năng nhận thức của bệnh nhân (55)
        • 3.3.2.5. Các yếu tố liên quan đến chức năng xã hội của bệnh nhân (56)
      • 3.3.3. Các yếu tố liên quan đến lĩnh vực triệu chứng của bệnh nhân (56)
      • 3.3.4. Các yếu tố liên quan đến lĩnh vực tài chính của bệnh nhân (59)
  • Chương 4. BÀN LUẬN (61)
    • 4.1. Bàn luận về đặc điểm của mẫu nghiên cứu (61)
      • 4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu (61)
      • 4.1.2. Đặc điểm bệnh lý và điều trị ung thư của mẫu nghiên cứu (62)
      • 4.1.3. Đặc điểm liên quan đến dịch bệnh COVID-19 của mẫu nghiên cứu (63)
    • 4.2. Bàn luận về điểm số chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19 (63)
    • 4.3. Bàn luận về một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (66)
      • 4.3.1. Các yếu tố liên quan đến lĩnh vực chức năng của bệnh nhân (66)
      • 4.3.2. Các yếu tố liên quan đến lĩnh vực triệu chứng của bệnh nhân (67)
      • 4.3.3. Các yếu tố liên quan đến lĩnh vực tài chính của bệnh nhân (68)
      • 4.3.4. Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống tổng thể của bệnh nhân 58 4.4. Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu (69)
      • 4.4.1. Điểm mạnh (70)
      • 4.4.2. Hạn chế (70)
  • PHỤ LỤC (82)

Nội dung

TỔNG QUAN

Tổng quan về bệnh ung thư và hóa trị trong điều trị ung thư

1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm bệnh ung thư

Ung thư là một nhóm bệnh đặc trưng bởi sự tăng sinh bất thường và không kiểm soát của các tế bào, có khả năng xâm lấn các mô xung quanh Những tế bào này có thể di căn đến hạch bạch huyết hoặc các cơ quan xa, tạo ra các khối u mới, dẫn đến nguy cơ tử vong Ngoài ra, nhiều loại ung thư có khả năng tái phát sau điều trị, gây khó khăn trong việc quản lý bệnh và ảnh hưởng tiêu cực đến tiên lượng.

1.1.1.2 Dịch tễ bệnh ung thư

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 2020 ghi nhận khoảng 19,3 triệu ca mắc mới ung thư, với các loại ung thư phổ biến như ung thư vú (11,7%), ung thư phổi (11,4%), ung thư đại trực tràng (10%), ung thư tuyến tiền liệt (7,3%), ung thư dạ dày (5,6%), ung thư gan (4,7%), ung thư cổ tử cung (3,1%) và ung thư thực quản (3,1%) Ung thư đã trở thành nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai toàn cầu, với số ca tử vong tăng từ 9,6 triệu (năm 2018) lên 9,9 triệu (năm 2020) Gánh nặng ung thư ngày càng gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất, tâm lý và tài chính của cá nhân, gia đình, cộng đồng và hệ thống y tế toàn cầu.

2040, số lượng ca mắc mới có thể lên đến 30,2 triệu người [40], [81]

Theo số liệu năm 2020, Việt Nam ghi nhận khoảng 182.563 ca mắc mới và 122.690 ca tử vong do ung thư, xếp thứ 91/185 quốc gia về tỷ suất mắc mới và thứ 50/185 quốc gia về tỷ suất tử vong trên 100.000 người So với năm 2018, thứ hạng này đã giảm từ 99/185 xuống 91/185 về tỷ suất mắc mới và từ 56/185 xuống 50/185 về tỷ suất tử vong Điều này cho thấy tình hình ung thư tại Việt Nam đang có xu hướng gia tăng đáng lo ngại.

1.1.1.3 Các phương pháp điều trị ung thư Đặc tính cơ bản của bệnh ung thư là tế bào phát triển mạnh tại chỗ không chịu sự kiểm soát của cơ thể, xâm lấn rộng ra các vùng tổ chức xung quanh, di căn xa vào hệ thống bạch huyết và các cơ quan Do đó, điều trị bệnh ung thư tùy theo loại, giai đoạn bệnh, mô bệnh học, thể trạng người bệnh,…mà cần điều trị một hoặc phối hợp nhiều phương pháp trong đó phẫu thuật là phương pháp điều trị tại chỗ; xạ trị là phương pháp điều trị tại vùng; hóa chất, nội tiết, điều trị đích, miễn dịch là phương pháp điều trị toàn

➢ Các phương pháp điều trị tại chỗ, tại vùng:

Phẫu thuật ung thư là phương pháp điều trị triệt căn cho bệnh nhân ở giai đoạn sớm, khi tổn thương còn khu trú và chưa di căn xa Quy trình này bao gồm cắt bỏ toàn bộ khối u và một phần mô lành xung quanh, đồng thời vét hết hạch vùng để đảm bảo không còn tế bào ung thư sót lại Phẫu thuật thường được áp dụng cho các loại ung thư như dạ dày, đại trực tràng, vú, và cổ tử cung Đối với trường hợp bệnh ở giai đoạn muộn, phẫu thuật chỉ mang tính tạm thời, vì không thể loại bỏ hoàn toàn các tổ chức ung thư đã lan rộng, dẫn đến nguy cơ tái phát tại chỗ và di căn xa nếu chỉ điều trị bằng phẫu thuật đơn độc.

Xạ trị là phương pháp sử dụng tia bức xạ ion hóa năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư, đặc biệt hiệu quả trong việc điều trị các tế bào đã xâm lấn ra vùng xung quanh khối u mà không thể phẫu thuật Phương pháp này có thể được áp dụng độc lập, như trong trường hợp ung thư vòm họng, hoặc kết hợp với phẫu thuật và hóa trị Khi ung thư phát triển lớn, xạ trị thường được thực hiện trước phẫu thuật để giảm kích thước khối u và hạn chế di căn, hoặc sau phẫu thuật để tiêu diệt các tế bào ung thư còn sót lại Sự kết hợp giữa xạ trị và hóa trị giúp tăng cường hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư tại những khu vực mà hóa trị không đủ mạnh.

➢ Các phương pháp điều trị toàn thân:

Khoảng 1/3 bệnh nhân ung thư được chẩn đoán ở giai đoạn tại chỗ, cho phép điều trị bằng các phương pháp tại chỗ Tuy nhiên, khoảng 2/3 bệnh nhân khi phát hiện đã ở giai đoạn muộn, có di căn xa hoặc nghi ngờ di căn xa, đòi hỏi phải áp dụng các phương pháp điều trị toàn thân như hóa trị, điều trị nội tiết, điều trị nhắm đích và điều trị miễn dịch.

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc hóa chất để tiêu diệt tế bào ung thư trong cơ thể bệnh nhân Mặc dù mục tiêu chính là các tế bào ung thư phát triển không kiểm soát, nhưng hóa chất cũng ảnh hưởng đến các tế bào lành, dẫn đến nhiều tác dụng phụ không mong muốn Do đó, việc lựa chọn phác đồ và liều lượng phù hợp là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả điều trị và giảm thiểu tác động xấu đến sức khỏe toàn thân.

5 lượng hóa chất đưa vào cơ thể cần cân nhắc cả yếu tố hiệu quả và nguy cơ gặp các tác dụng không mong muốn [5], [6], [7]

Ngoài việc điều trị ung thư bằng hóa trị và xạ trị, các phương pháp điều trị khác như điều trị nội tiết, điều trị đích và miễn dịch cũng có thể được áp dụng Những phương pháp này thường không mang lại hiệu quả điều trị triệt căn và được lựa chọn dựa trên đặc điểm của bệnh, tính khả dụng cũng như mong muốn của bệnh nhân.

1.1.2 Hóa trị trong điều trị ung thư

1.1.2.1 Vai trò của hóa trị trong điều trị ung thư

Hóa trị liệu là phương pháp điều trị ung thư hiệu quả, giúp loại bỏ và ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân Vai trò của hóa trị liệu thay đổi tùy thuộc vào loại ung thư và từng tình huống lâm sàng cụ thể.

- Hóa trị điều trị chính: thường áp dụng cho bệnh nhân ung thư giai đoạn di căn

Trong giai đoạn IV của bệnh ung thư, khi bệnh đã lan tràn hoặc không còn phương pháp điều trị hiệu quả, mục tiêu chính là giảm nhẹ triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, đồng thời kéo dài tuổi thọ Hóa chất có thể được sử dụng trong điều trị triệt căn cho một số loại ung thư như bệnh bạch cầu cấp tính, u lympho ác tính không Hodgkin, bệnh Hodgkin, ung thư tế bào mầm và ung thư biểu mô tuyến.

Hóa trị bổ trợ được áp dụng cho bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao sau khi điều trị tại chỗ nhằm tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại và ngăn ngừa tái phát Tiêu chí đánh giá nguy cơ tái phát bao gồm vị trí, kích thước khối u, đặc điểm sinh học của khối u nguyên phát, và mức độ hạch vùng, với nguy cơ có thể thay đổi ở các giai đoạn I, II, III Nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh hóa trị bổ trợ hiệu quả trong việc kéo dài thời gian sống không bệnh và tổng thể cho bệnh nhân ung thư vú, đại tràng, dạ dày, và khối u Wilms.

Hóa trị tân bổ trợ (neoadjuvant chemotherapy) là phương pháp điều trị hóa chất được áp dụng trước khi thực hiện các liệu pháp điều trị tại chỗ như phẫu thuật hoặc xạ trị Mục tiêu chính của phương pháp này là thu nhỏ kích thước khối u nguyên phát, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các phương pháp điều trị tiếp theo; tiêu diệt các tổn thương vi di căn đã xuất hiện; và đánh giá mức độ nhạy cảm của tế bào ung thư đối với hóa chất điều trị.

Hóa trị tân bổ trợ đã chứng minh hiệu quả trong việc lựa chọn phác đồ điều trị bổ trợ sau phẫu thuật hoặc xạ trị cho bệnh nhân ung thư Phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với các bệnh nhân ung thư vú tiến triển tại chỗ, ung thư thanh quản, thực quản và bàng quang.

1.1.2.2 Tác dụng không mong muốn của hóa trị

Hóa trị, mặc dù hiệu quả trong quản lý bệnh ung thư, có thể gây ra nhiều tác dụng không mong muốn, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Những triệu chứng này không chỉ làm thay đổi nhận thức của bệnh nhân về liệu pháp điều trị mà còn tác động đến vấn đề tâm lý của họ Các tác dụng không mong muốn phổ biến của hóa trị bao gồm ảnh hưởng đến da, móng, tóc và hệ tiêu hóa Dưới đây là một số tác dụng không mong muốn thường được đề cập của hóa trị.

Tổng quan về chất lượng cuộc sống

1.2.1 Khái niệm về chất lượng cuộc sống và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe

Khái niệm "chất lượng cuộc sống" lần đầu tiên được đề cập vào năm 1920, nhưng chỉ đến thập niên 1960 mới bắt đầu thu hút sự chú ý và trở nên phổ biến trong những năm gần đây.

Chất lượng cuộc sống là một khái niệm đa chiều, được định nghĩa bởi Tổ chức Y tế Thế giới vào năm 1993 như là cách mà mỗi cá nhân cảm nhận về các khía cạnh cuộc sống dựa trên nền văn hóa và hệ thống giá trị của họ Định nghĩa này nhấn mạnh sự liên quan đến mục tiêu, kỳ vọng, tiêu chuẩn và sở thích cá nhân Chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phức tạp, bao gồm đặc điểm thể chất, tình trạng tâm lý, mức độ độc lập trong sinh hoạt, các mối quan hệ xã hội, niềm tin cá nhân và mối liên hệ với môi trường sống.

[72] Năm 2000, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa CLCS là “cảm

Chất lượng cuộc sống (CLCS) là một khái niệm đa chiều, bao gồm những đánh giá chủ quan về cả khía cạnh tích cực và tiêu cực của cuộc sống Nó liên quan đến 8 giác hạnh phúc và sự hài lòng trong cuộc sống, bao gồm sức khỏe, giải trí, văn hóa, quyền lợi, giá trị, niềm tin, mong muốn và các điều kiện sống CLCS khó định nghĩa do ảnh hưởng của nhiều yếu tố tiềm ẩn như chức năng, tình trạng và nhận thức về sức khỏe, cũng như sự hạnh phúc và lối sống của mỗi cá nhân.

Khái niệm chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) đã được phát triển từ những năm 1980, bao gồm các khía cạnh của chất lượng cuộc sống tổng thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần Mặc dù có nhiều định nghĩa về HRQOL, nhưng hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào được chấp nhận.

HRQOL, hay Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, được định nghĩa là khả năng hoạt động của con người trong cuộc sống hàng ngày và cảm nhận về hạnh phúc trong các lĩnh vực sức khỏe thể chất, tinh thần và xã hội.

Định nghĩa thứ hai về HRQOL (Health-Related Quality of Life) liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống (CLCS), là một khái niệm toàn diện bao gồm tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân Trong khi đó, HRQOL chỉ tập trung vào những yếu tố liên quan đến sức khỏe cá nhân, không bao gồm các khía cạnh phi sức khỏe như hoàn cảnh kinh tế và chính trị.

HRQOL, hay Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, được định nghĩa là các khía cạnh của hạnh phúc mà cá nhân tự nhận thức là có liên quan đến hoặc bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc quá trình điều trị Định nghĩa này nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố sức khỏe trong việc hình thành chất lượng cuộc sống của mỗi người.

Định nghĩa thứ tư của HRQOL nhấn mạnh giá trị của sức khỏe, với HRQOL được coi là các giá trị tham chiếu cho những trạng thái sức khỏe khác nhau Những giá trị này đóng vai trò quan trọng trong việc tính toán QALYs (Quality adjusted life years), tức là số năm sống trong tình trạng sức khỏe tối ưu, và được sử dụng để đo lường lợi ích của các can thiệp y tế.

Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (CLCS) là khái niệm đa chiều, phản ánh sự ảnh hưởng của bệnh tật và liệu pháp điều trị lên bệnh nhân, được tự đánh giá bởi chính họ Việc đánh giá CLCS là một phần quan trọng trong việc đo lường kết quả đầu ra của bệnh nhân và các can thiệp y tế.

Hiện nay, việc phân biệt giữa hai khái niệm CLCS và CLCS liên quan đến sức khỏe vẫn gặp nhiều khó khăn CLCS phản ánh tổng thể về con người, bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân Việc tách biệt hai khái niệm này không dễ dàng, vì tất cả các khía cạnh của CLCS đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến CLCS liên quan đến sức khỏe.

1.2.2 Mô hình chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe

Mô hình lý thuyết về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) tổng hợp các khía cạnh và mối liên hệ giữa chúng, đóng vai trò quan trọng trong việc chọn lựa công cụ đo lường và kiểm tra giả thuyết về quan hệ nhân quả trong cấu trúc phức tạp của HRQOL Mô hình này cũng định hướng các biện pháp can thiệp cho các giai đoạn bệnh khác nhau Năm 1995, Wilson và Cleary giới thiệu mô hình CLCS liên quan đến sức khỏe, nhấn mạnh tầm quan trọng của các biến số lâm sàng trong việc ảnh hưởng đến triệu chứng, chức năng và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Năm 2015, mô hình HRQOL được sửa đổi, giữ lại năm miền chính và đơn giản hóa bằng cách loại bỏ các yếu tố phi y tế, từ đó tạo điều kiện cho nghiên cứu và thực hành HRQOL hiệu quả hơn Mô hình lý thuyết này là nền tảng cho việc phát triển các công cụ đánh giá chất lượng cuộc sống, giúp so sánh và lựa chọn công cụ phù hợp nhất.

Hình 1.1 Mô hình chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe của Wilson và Cleary đã được sửa đổi [32]

Chức năng thể chất, hoạt động, tâm lý và xã hội.

Các yếu tố sinh học, sinh lý học và lâm sàng:

Các xét nghiệm, đánh giá thể chất, phương pháp điều trị, giai đoạn bệnh

Các triệu chứng về thể chất, cảm xúc, nhận thức của bệnh nhân

Nhận thức chung về sức khỏe: Đánh giá chủ quan về tất cả các khía cạnh của sức khỏe

Chất lượng cuộc sống tổng thể:

Mô tả mức độ hạnh phúc hoặc hài lòng với CLCS nói chung Đặc điểm cá nhân:

Yếu tố nhân khẩu học: tuổi, dân tộc, học vấn, việc làm, … Lối sống: tập thể dục, hút thuốc, uống rượu, hoạt động thể chất Đặc điểm môi trường:

Môi trường xã hội: tình trạng hôn nhân, trách nhiệm với con cái, trách nhiệm và hỗ trợ xã hội

Môi trường vật lý: môi trường sống

Hỗ trợ kinh tế: thu nhập, chính sách bảo hiểm

1.2.3 Đo lường chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe

Trong hai thập kỷ qua, Hiệp hội Quốc tế về nghiên cứu chất lượng cuộc sống (ISOQOL) đã thúc đẩy nghiên cứu về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe trên toàn cầu Chất lượng cuộc sống (CLCS) là khái niệm chủ quan, được đánh giá qua các bộ câu hỏi tự trả lời của bệnh nhân Hiện có hơn 800 bộ công cụ khác nhau để đánh giá CLCS, chia thành hai loại: công cụ chung và công cụ đặc hiệu cho bệnh Công cụ chung được sử dụng rộng rãi cho mọi nhóm dân số, giúp so sánh CLCS giữa các bệnh nhân khác nhau, như bộ câu hỏi FACIT Trong khi đó, công cụ đặc hiệu cho bệnh tập trung vào tình trạng bệnh lý hoặc phương pháp điều trị, phản ánh tốt hơn sự thay đổi lâm sàng Một số bộ công cụ đo lường HRQOL, đặc biệt cho bệnh nhân ung thư, được liệt kê cùng với ưu nhược điểm trong các bảng tương ứng.

Bảng 1.1 Một số bộ công cụ đo lường chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe

Bộ công cụ chung Bộ công cụ cho BN ung thư

Medical Outcomes Study Short-Form

Functional Assessment of Cancer Therapy General (FACT-G) [22]

European Organization for the Research and Treatment of Cancer Quality of Life

Questionnaire Core 30-item (EORTC QLQ- C30) [12]

Cancer Rehabilitation Evaluation System (CARES) [54]

Bảng 1.2 Ưu điểm và nhược điểm của một số bộ công cụ đo lường HRQOL Ứng dụng Ưu điểm Nhược điểm

- Báo cáo và theo dõi kết quả trong các buổi khám lâm sàng

-Theo dõi sức khỏe dân số

- Ước tính gánh nặng của các bệnh tật khác nhau

- Là điểm cuối trong các thử nghiệm lâm sàng

- Có thể sử dụng trên các bệnh và quần thể

- Cho phép so sánh cùng một chỉ số giữa các bệnh, mức độ sức khỏe và độ tuổi

- Đánh giá QOL chi tiết bằng điểm số

- Có thể không nhạy cảm với sự thay đổi như các công cụ dành riêng cho bệnh ung thư

- Không đưa ra một điểm CLCS tổng thể

Bộ công cụ cho bệnh nhân ung thư:

- Đánh giá đầy đủ tất cả các khía cạnh của HRQoL

- Sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng đa văn hóa

- Nhạy hơn với các sự khác biệt nhỏ hoặc thay đổi nhỏ theo thời gian

- Tính đặc hiệu cho đối tượng nghiên cứu

- Dễ quản lý và có thể tự quản lý

- Dễ thu thập và tính điểm

- Cung cấp một giá trị QOL tổng thể

- Thường chỉ áp dụng với bệnh cụ thể

Trong lĩnh vực ung thư, bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống được thiết kế đặc biệt nhằm đo lường các mối quan tâm của bệnh nhân, như triệu chứng và tác động của điều trị EORCT QOL-C30 và FACT-G là hai bộ câu hỏi phổ biến nhất cho bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất, cả hai đều đánh giá toàn diện các khía cạnh của chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) Tuy nhiên, EORCT QOL-C30 chú trọng vào tình trạng sức khỏe và triệu chứng, trong khi FACT-G tập trung vào khía cạnh tâm lý xã hội.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá tác động của hóa trị lên chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân, lựa chọn bộ công cụ EORTC QLQ-C30 do tính hiệu quả của nó trong việc đo lường CLCS Bộ công cụ này yêu cầu khoảng 11-12 phút để hoàn thành và bệnh nhân tự điền mà không cần hỗ trợ EORTC QLQ-C30 đã chứng minh khả năng xuất sắc trong việc đánh giá CLCS của bệnh nhân, đặc biệt trong một nghiên cứu với mẫu bệnh nhân đa dạng văn hóa Thêm vào đó, phiên bản tiếng Việt của bộ công cụ này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí dịch thuật so với các bộ công cụ khác.

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất

1.3.1 Lợi ích của đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất

Trong lĩnh vực ung thư hiện nay, việc đo lường Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) là công cụ quan trọng để đánh giá hiệu quả điều trị và là một trong những chỉ tiêu nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng HRQOL không chỉ giúp xác định các vấn đề về thể chất và tâm lý của bệnh nhân mà còn cung cấp thông tin thiết yếu về tình trạng bệnh, tác dụng phụ của hóa chất, từ đó hỗ trợ lập kế hoạch điều trị hợp lý hơn và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh Chỉ số Chất lượng cuộc sống cũng được sử dụng để đánh giá tiến triển và tiên lượng bệnh bên cạnh các chỉ số lâm sàng, đồng thời giúp so sánh hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau.

Đo lường Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe (HRQOL) ở bệnh nhân ung thư đang hóa trị là cần thiết để đánh giá tác động của hóa trị và đề xuất các can thiệp phù hợp Nhiều thử nghiệm lâm sàng hiện nay đã tích hợp việc đo lường CLCS nhằm đánh giá hiệu quả của các can thiệp liên quan đến hóa trị, như các nghiên cứu chứng minh vai trò quan trọng của việc tư vấn sử dụng hóa chất bởi dược sỹ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

1.3.2 Các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất

1.3.2.1 Các yếu tố về nhân khẩu học của bệnh nhân

Nhiều nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra mối quan hệ giữa chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất và các yếu tố nhân khẩu học Đặc biệt, độ tuổi có ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng cuộc sống của họ Một nghiên cứu cho thấy bệnh nhân trong độ tuổi từ 40 đến 60 gặp nhiều vấn đề hơn, cụ thể là họ đạt điểm cao hơn trên thang điểm triệu chứng tiêu chảy và khó khăn tài chính so với các nhóm tuổi khác.

Nghiên cứu cho thấy, bệnh nhân trên 65 tuổi có chất lượng cuộc sống tốt hơn trong lĩnh vực tâm lý Điều này được giải thích bởi sự phụ thuộc tài chính vào con cái, giúp họ giảm bớt lo lắng về vấn đề tài chính.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng giới tính ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang hóa trị Một nghiên cứu cắt ngang trên 352 bệnh nhân hóa trị tại một bệnh viện ở Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy nữ giới có sức khỏe thể chất và hoạt động xã hội kém hơn nam giới, đồng thời điểm số chức năng nhận thức của nữ giới cũng thấp hơn so với nam giới.

Nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập cá nhân và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang hóa trị Cụ thể, bệnh nhân nghỉ hưu hoặc làm nội trợ thường có sức khỏe tổng quát tốt hơn và ít gặp triệu chứng buồn nôn, nôn so với những bệnh nhân tham gia hoạt động kinh tế Đặc biệt, nhóm bệnh nhân làm nông nghiệp hoặc kinh doanh cho thấy chức năng hoạt động kém hơn so với các nhóm nghề nghiệp khác.

1.3.2.2 Các yếu tố về bệnh lý và điều trị ung thư

Loại ung thư có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân trong quá trình hóa trị, với mỗi loại ung thư tác động đến các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống của người bệnh.

Ung thư vùng đầu cổ thường gây ra nhiều ảnh hưởng đến chức năng vật lý, với các triệu chứng như khó nuốt, khó nói, khô miệng, đau và mệt mỏi Đối với ung thư đại trực tràng, chất lượng cuộc sống (QOL) tổng quát kém thường liên quan đến tình trạng tâm lý căng thẳng và giai đoạn bệnh Ngoài ra, bệnh nhân ung thư vú cũng được ghi nhận có chức năng xã hội kém.

15 nhất, ngược lại bệnh nhân ung thư đại trực tràng lại có chức năng này tốt nhất [64]

Tình trạng bệnh và số chu kỳ hóa chất có ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư hóa trị Bệnh nhân ở giai đoạn I, II, III có tâm lý tốt hơn so với bệnh nhân giai đoạn IV Những bệnh nhân đã di căn xa thường có chức năng thể chất kém hơn so với những người chưa có di căn Số chu kỳ hóa chất cũng tạo ra sự khác biệt về triệu chứng như mệt mỏi, buồn nôn, đau và chán ăn, với những bệnh nhân trải qua ≤ 2 chu kỳ hóa trị có điểm số triệu chứng xấu hơn so với nhóm > 2 chu kỳ Đặc biệt, các triệu chứng này cải thiện đáng kể ở nhóm bệnh nhân đã trải qua hơn 2 chu kỳ hóa trị.

Các phác đồ hóa chất gây ra tác dụng không mong muốn khác nhau, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt rõ rệt giữa điểm trung bình chức năng nhận thức và các triệu chứng như mất ngủ, đau, táo bón ở bệnh nhân dùng các phác đồ hóa trị khác nhau Cụ thể, phác đồ chứa 5-Fluorouracil (5-FU) kết hợp với Cyclophosphamid và Doxorubicin gây ra nhiều tác dụng phụ hơn so với các phác đồ như 5-FU + Leucovorin, 5-FU + Cyclophosphamid + Methotrexat và Taxol.

1.3.2.3 Các yếu tố về đặc điểm chức năng, triệu chứng

Cường độ đau và tình trạng mệt mỏi có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân Những bệnh nhân trải qua cơn đau có chất lượng cuộc sống thấp hơn so với những người không bị đau Phân tích thống kê cho thấy chất lượng cuộc sống của bệnh nhân giảm dần theo mức độ cường độ đau từ không có đến rất nhiều Hơn nữa, bệnh nhân ít mệt mỏi thường có chất lượng cuộc sống tốt hơn so với những người mệt mỏi nhiều.

Buồn nôn và nôn là tác dụng phụ phổ biến của hóa trị, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư Nghiên cứu cho thấy rằng những triệu chứng này có tác động đáng kể đến sức khỏe thể chất và tâm lý của bệnh nhân Nhiều bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống, như EORCT QOL-C30 và FACT-G, cũng bao gồm các thang đo để xác định mức độ của các triệu chứng này Hơn nữa, các yếu tố liên quan đến chức năng và khó khăn tài chính cũng có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

CLCS của bệnh nhân ung thư đang hóa trị [50]

1.3.3 Một số nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất bằng bộ công cụ EORTC QLQ-C30

Adriana Cristina Nicolussi và cộng sự (2014) tiến hành nghiên cứu cắt ngang trên

Nghiên cứu trên 152 bệnh nhân ung thư đang hóa trị tại hai trung tâm ở Brazil sử dụng bộ công cụ EORCT QOL-C30 nhằm đánh giá chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe và mối liên quan giữa các đặc điểm nhân khẩu học, bệnh học và điều trị ung thư Kết quả cho thấy điểm trung bình sức khỏe tổng quát đạt 74,91 ± 23,36, trong khi điểm trung bình các chức năng thể chất, nhận thức và xã hội dao động từ 72,92 đến 77,11, được coi là tốt gần đạt mức tối đa 100 Tuy nhiên, các lĩnh vực như chức năng cảm xúc, triệu chứng đau, mệt mỏi, mất ngủ và chán ăn bị ảnh hưởng nhiều Đặc biệt, bệnh nhân nữ, độ tuổi từ 40 đến 60, có hoạt động kinh tế và mắc các loại ung thư như dạ dày, phổi, thần kinh và da, cũng như những bệnh nhân có di căn hoặc điều trị phẫu thuật/xạ trị đồng thời, cho thấy điểm số thấp hơn ở một số chức năng và gặp nhiều triệu chứng hơn.

Năm 2014, Harminder Singh và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất tại một trung tâm chăm sóc cấp ba ở Ấn Độ Nghiên cứu gồm 131 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 49,05 ± 14,35, được chia thành ba nhóm dựa trên số chu kỳ hóa trị: nhóm 1 (1-2 chu kỳ), nhóm 2 (3-4 chu kỳ) và nhóm 3 (≥ 5 chu kỳ) Kết quả cho thấy CLCS tổng thể cải thiện đáng kể ở các nhóm có số chu kỳ hóa trị cao hơn Bên cạnh đó, các triệu chứng như mất ngủ, đau, chán ăn, táo bón và khó khăn tài chính cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm.

Uwamahoro (2017) đã tiến hành đánh giá chất lượng cuộc sống (CLCS) của bệnh nhân ung thư đang hóa trị tại một bệnh viện đa khoa ở Rwanda, Đông Phi Kết quả cho thấy điểm trung bình CLCS tổng thể là 28,76 (SD = 20,03), phản ánh chất lượng cuộc sống kém Mặc dù tình trạng chức năng chung được đánh giá là tốt với điểm trung bình 51,55 (SD = 19,12), nhưng bệnh nhân lại gặp phải suy giảm chức năng xã hội với điểm trung bình chỉ đạt 28,08 (SD = 34,11) Các triệu chứng mà bệnh nhân gặp phải có điểm trung bình 61,13 (SD = 17,10), trong đó đau (78,76; SD = 35,05) và mệt mỏi (78,08; SD = 23,56) là phổ biến nhất Ngoài ra, hầu hết bệnh nhân cũng báo cáo gặp khó khăn tài chính, cho thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của họ.

17 vực này là 98,63 (SD = 11,70), góp phần giải thích cho việc bệnh nhân có CLCS kém

Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19

COVID-19, do chủng mới của virus Corona gây ra, là một bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp tính lần đầu được phát hiện tại thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019 Đại dịch này đã tác động sâu sắc đến mọi khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là đối với bệnh nhân ung thư, khi họ thường cảm thấy mệt mỏi và lo lắng về nguy cơ nhiễm bệnh cũng như ảnh hưởng của dịch đến quá trình điều trị Tại Việt Nam, đợt bùng phát COVID-19 lần thứ ba được ghi nhận từ ngày 27/01/2021, tuy nhiên tình hình dịch không quá căng thẳng Tính đến ngày 21/03/2021, cả nước đã ghi nhận tổng cộng 2572 ca bệnh, trong đó có 908 ca mắc mới từ ngày 27/01/2021, phân bố tại 13 tỉnh thành.

Một số bệnh nhân ung thư có nguy cơ dịch tễ cao đã phải hoãn điều trị hóa chất do các quy định giãn cách xã hội, dẫn đến khó khăn trong việc đến bệnh viện Tình trạng này đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của họ Mặc dù nhiều nghiên cứu toàn cầu đã được thực hiện để đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư trong thời gian dịch COVID-19, nhưng tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu tương tự.

19 nghiên cứu nào được công bố

Năm 2020, Stefan S Jeppesen và cộng sự đã tiến hành khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư tại Đan Mạch trong bối cảnh dịch COVID-19 Nghiên cứu bao gồm các câu hỏi về nhân khẩu học, lo lắng về tác động của dịch bệnh đến điều trị ung thư và thăm khám ngoại trú, cùng bộ câu hỏi EORCT QOL-C30 Kết quả cho thấy 9% bệnh nhân từ chối thăm khám do sợ nhiễm COVID-19, và 80% có lo ngại về nguy cơ nhiễm bệnh Điểm trung bình chất lượng cuộc sống tổng thể và chức năng cảm xúc lần lượt là 71,3 và 82,8, không có sự khác biệt lâm sàng so với thời điểm chưa có dịch Phân tích đa biến chỉ ra rằng điểm chất lượng cuộc sống tổng thể và chức năng cảm xúc thấp hơn liên quan đến mức độ lo lắng về COVID-19 tăng dần.

Năm 2020, Magdalena Ciążyńska và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu chất lượng cuộc sống của 238 bệnh nhân ung thư giai đoạn III và IV đang điều trị hóa chất trong bối cảnh dịch COVID-19, so sánh với 8066 bệnh nhân cùng giai đoạn trước khi dịch bùng phát Kết quả cho thấy điểm chất lượng cuộc sống tổng thể, cũng như chức năng nhận thức và xã hội của bệnh nhân trong giai đoạn dịch bệnh thấp hơn đáng kể so với nhóm đối chiếu, trong khi không có sự khác biệt về chức năng thể chất, hoạt động và cảm xúc Bên cạnh đó, điểm trung bình của các triệu chứng cũng kém hơn, với mất ngủ và mệt mỏi là những vấn đề nghiêm trọng nhất, tiếp theo là chán ăn.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 03/2021 đến tháng 05/2021

- Địa điểm nghiên cứu: bệnh viện K, bệnh viện Ung bướu Hà Nội

Đối tượng nghiên cứu

- Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư có khối u rắn

- Bệnh nhân được nhập viện để điều trị hóa chất toàn thân, từ chu kỳ thứ 2 trở lên trong khoảng thời gian nghiên cứu

- Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên

- Bệnh nhân mắc từ 2 bệnh ung thư trở lên

Bệnh nhân đang điều trị ung thư có thể nhận hóa xạ trị đồng thời hoặc sử dụng các loại thuốc điều trị khác như thuốc điều trị đích, thuốc điều trị miễn dịch và thuốc điều trị nội tiết trong khoảng thời gian từ chu kỳ hóa trị trước đến thời điểm phỏng vấn.

- Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu

- Bệnh nhân không thể tự tham gia trả lời bộ câu hỏi.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang, khảo sát với bộ câu hỏi bệnh nhân tự điền

2.3.2 Cỡ mẫu và phương pháp lấy mẫu

Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang ước lượng giá trị trung bình được tính theo công thức:

Z 1 −  / 2 : hệ số tin cậy, với độ tin cậy α = 0,05 thì Z 1 −  / 2 = 1,96

 : độ lệch chuẩn (lấy từ nghiên cứu trước đây hoặc nghiên cứu thử)

 : mức sai số tương đối chấp nhận, lấy  = 5%

: điểm trung bình chất lượng cuộc sống tổng thể (lấy từ nghiên cứu trước đây hoặc nghiên cứu thử)

Theo số liệu từ Tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư châu Âu (EORTC), với giá trị trung bình  = 61,3 và độ lệch chuẩn  = 24,2 đối với bệnh nhân ung thư ở tất cả các giai đoạn, ước tính cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho toàn bộ nghiên cứu là N = 240 bệnh nhân.

Mẫu nghiên cứu được chọn theo hai bước:

Để tiến hành nghiên cứu, bước đầu tiên là phân tầng và ước tính tỷ lệ mẫu cần lấy tại mỗi bệnh viện Sau đó, cần xác định số lượng bệnh nhân được lấy tại từng khoa của mỗi bệnh viện dựa vào số giường kế hoạch Cụ thể, bệnh viện K cơ sở Tân Triều có 6 khoa lâm sàng từ Nội 1 đến Nội 6, trong khi bệnh viện Ung bướu Hà Nội cũng có 6 khoa lâm sàng bao gồm: Nội 1, Nội 2, Nội tổng hợp theo yêu cầu, Nội tiêu hóa theo yêu cầu, Nội vú - phụ khoa - đầu cổ theo yêu cầu, và Nội tổng hợp điều trị ban ngày theo yêu cầu.

- Bước 2: Sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận tiện tại từng khoa

2.3.3 Quy trình thu thập bệnh nhân và dữ liệu nghiên cứu

Hàng ngày, tại các khoa phòng điều trị hóa chất, nghiên cứu viên tiếp cận những bệnh nhân đến điều trị theo lịch hẹn

Nghiên cứu viên thu thập thông tin về bệnh ung thư của bệnh nhân thông qua phiếu kê khai thuốc hoặc trao đổi trực tiếp, nhằm đảm bảo bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn lựa chọn liên quan đến tình trạng bệnh, giai đoạn và phương pháp điều trị trước khi mời tham gia nghiên cứu.

Sau khi lựa chọn bệnh nhân, nghiên cứu viên sẽ giới thiệu về nghiên cứu và cung cấp Bản thông tin cho đối tượng tham gia (PHỤ LỤC 1) Tiếp theo, bệnh nhân được mời tham gia nghiên cứu và sẽ ký xác nhận đồng ý tham gia (PHỤ LỤC 2).

Mỗi bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được nghiên cứu viên giới thiệu phiếu câu hỏi (PHỤ LỤC 3) và phát cho bệnh nhân để họ tự trả lời.

Sau khi bệnh nhân hoàn thành phiếu câu hỏi, nghiên cứu viên sẽ thu lại và kiểm tra để đảm bảo tất cả các câu hỏi đã được trả lời đầy đủ Nếu phát hiện có câu trả lời còn thiếu, nghiên cứu viên sẽ trao đổi với bệnh nhân để tìm hiểu lý do và hỗ trợ họ hoàn thành các câu trả lời một cách tối đa.

Bài viết cung cấp thông tin quan trọng về đặc điểm bệnh lý và phương pháp điều trị ung thư, bao gồm giai đoạn bệnh, phác đồ hóa chất, và số chu kỳ hóa chất Những dữ liệu này được rà soát và bổ sung đầy đủ từ bệnh án giấy tại khoa lâm sàng của bệnh viện K, cùng với hệ thống bệnh án điện tử tại khoa Dược của bệnh viện Ung bướu Hà Nội.

Mỗi bệnh nhân đạt tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu sẽ được cấp một mã bệnh nhân (ID) duy nhất Mã ID này được thống nhất trong toàn bộ nghiên cứu và sẽ được sử dụng trong quá trình nhập liệu và xử lý dữ liệu.

2.3.4 Công cụ sử dụng trong nghiên cứu

Nghiên cứu đã sử dụng bộ công cụ EORTC QLQ-C30 phiên bản 3.0, được dịch sang tiếng Việt và phát triển bởi tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư châu Âu Bộ công cụ này bao gồm 30 câu hỏi, được thiết kế để đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư, với các thang đo chức năng như thể chất, và thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể ở câu 29 và 30.

Bài viết đề cập đến các khía cạnh quan trọng trong việc đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, bao gồm hoạt động, cảm xúc, nhận thức và xã hội Các triệu chứng được đo lường qua các câu hỏi liên quan đến mệt mỏi, đau, buồn nôn, khó thở, mất ngủ, chán ăn, tiêu chảy, táo bón và vấn đề tài chính Mỗi câu hỏi từ 1 đến 28 được chấm điểm từ 1-4, phản ánh mức độ ảnh hưởng từ không có đến rất nhiều Điểm số từ câu 29 và 30 sử dụng thang điểm 1-7 Chất lượng cuộc sống tổng thể và các chức năng được đánh giá cao hơn cho thấy tình trạng sức khỏe của bệnh nhân tốt hơn, trong khi các triệu chứng và vấn đề tài chính có mối tương quan ngược lại.

*Nguyên tắc tính điểm cho bộ công cụ EORCT QLQ-C30 [30]:

- Tính giá trị trung bình của các câu hỏi trong thang đo: gọi là điểm thô Điểm thô Raw Score của mỗi thang đo (RS): RS I 1 I 2 I n n

Trong đó n là số câu hỏi trong thang đo và I1, I2, …, In là điểm số bệnh nhân lựa chọn của từng câu hỏi trong thang đo

- Biến đổi tuyến tính để chuẩn hóa điểm số thô: điểm số theo thang điểm 100 Điểm các thang đo chức năng: S 1 RS 1 100 range

23 Điểm các thang đo triệu chứng và lĩnh vực tài chính: 1

= −  Điểm thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể: 1

Range được xác định bằng hiệu số giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của RS Đối với các câu hỏi có 4 lựa chọn trả lời, từ câu 1 đến câu 28, việc tính toán range là rất quan trọng để đánh giá sự phân bố của dữ liệu.

RS sẽ dao động từ 1 đến 4 vì vậy range = 3 Với các câu hỏi có 7 lựa chọn trả lời (câu

Nghiên cứu sử dụng bộ công cụ EORCT QOL-C30 cùng với các câu hỏi bổ sung để thu thập thông tin về nhân khẩu học, đặc điểm bệnh học, điều trị ung thư và ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với bệnh nhân Những thông tin này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Bộ câu hỏi EORCT QOL-C30 đã được thử nghiệm trên khoảng 30 bệnh nhân trước khi tiến hành nghiên cứu chính thức Dựa trên phản hồi từ bệnh nhân trong quá trình thử nghiệm, một số từ ngữ trong bộ câu hỏi đã được điều chỉnh để đảm bảo bệnh nhân hiểu đúng nghĩa của bản gốc, mặc dù vẫn giữ nguyên nội dung của bản chuyển ngữ từ tổ chức nghiên cứu và điều trị ung thư Châu Âu.

2.3.5 Các chỉ tiêu nghiên cứu

2.3.5.1 Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu

• Đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu

- Số lượng bệnh nhân được đưa vào mẫu nghiên cứu, số lượng và tỷ lệ bệnh nhân điều trị tại bệnh viện K và bệnh viện UBHN

Bệnh nhân có những đặc điểm đa dạng, bao gồm độ tuổi trung bình, độ tuổi thấp nhất và cao nhất Số lượng và tỷ lệ bệnh nhân được phân chia theo các nhóm tuổi, giới tính, nơi cư trú, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, cũng như phân nhóm thu nhập và nghề nghiệp.

• Đặc điểm bệnh lý và điều trị ung thư của mẫu nghiên cứu:

Số lượng và tỷ lệ bệnh nhân mắc các loại ung thư được phân loại theo giai đoạn bệnh, thời gian chẩn đoán, và tiền sử điều trị như phẫu thuật, xạ trị Ngoài ra, số chu kỳ hóa chất đã điều trị, đặc điểm của phác đồ hóa chất, cùng với tình trạng bệnh mắc kèm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tình hình sức khỏe của bệnh nhân.

• Đặc điểm liên quan đến dịch bệnh COVID-19 của mẫu nghiên cứu

Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu

Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả đối tượng sẽ nhận được thông tin chi tiết về mục tiêu và nội dung nghiên cứu Họ sẽ được thông báo rằng việc tham gia là hoàn toàn tự nguyện và sẽ ký vào bản thoả thuận đồng ý tham gia.

Thông tin thu thập từ các đối tượng nghiên cứu sẽ được sử dụng hoàn toàn cho mục đích nghiên cứu và được bảo mật tuyệt đối Dữ liệu công bố sẽ chỉ mang tính chất tổng quát, không chỉ định danh bất kỳ bệnh nhân nào.

- Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh của bệnh viện Ung bướu Hà Nội

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

BÀN LUẬN

Ngày đăng: 12/11/2021, 11:38

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Huỳnh Ngọc Vân Anh, Hoàng Thị Quỳnh và cộng sự (2018), "Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư đang điều trị tại các khoa nội tại bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh", Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư đang điều trị tại các khoa nội tại bệnh viện Ung bướu TP. Hồ Chí Minh
Tác giả: Huỳnh Ngọc Vân Anh, Hoàng Thị Quỳnh và cộng sự
Năm: 2018
2. Bùi Vũ Bình, Đỗ Thị Ánh và cộng sự (2015), "Khảo sát chất lượngcuộc sống của bệnh nhân ung thư và một số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viên đại học Y Hà Nội năm 2015", Báo cáo Hội nghị khoa học chào mừng 65 năm truyền thống Bệnh viện quân y 103 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát chất lượngcuộc sống của bệnh nhân ung thư và một số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viên đại học Y Hà Nội năm 2015
Tác giả: Bùi Vũ Bình, Đỗ Thị Ánh và cộng sự
Năm: 2015
4. Bộ Y Tế (2019), Hướng dẫn thực hành dược lâm sàng cho dược sĩ trong một số bệnh không lây nhiễm, Nhà xuất bản y học, tr 199 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn thực hành dược lâm sàng cho dược sĩ trong một số bệnh không lây nhiễm
Tác giả: Bộ Y Tế
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 2019
8. Trần Văn Hùng, Nguyễn Duy Phong và cộng sự (2019), "Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của người bệnh ung thư đang được điều trị tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2019", Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 03-2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của người bệnh ung thư đang được điều trị tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2019
Tác giả: Trần Văn Hùng, Nguyễn Duy Phong và cộng sự
Năm: 2019
12. Aaronson N. K., Ahmedzai S., et al. (1993), "The European Organization for Research and Treatment of Cancer QLQ-C30: a quality-of-life instrument for use in international clinical trials in oncology", J Natl Cancer Inst, 85(5), pp. 365-76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The European Organization for Research and Treatment of Cancer QLQ-C30: a quality-of-life instrument for use in international clinical trials in oncology
Tác giả: Aaronson N. K., Ahmedzai S., et al
Năm: 1993
13. Abou Hayah, Bayumi El, et al. (2016), "Factors Affecting Quality of Life among Cancer Patients with Chemotherapy at Qena University Hospital in Upper Egypt", 5, pp. 168-173 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Factors Affecting Quality of Life among Cancer Patients with Chemotherapy at Qena University Hospital in Upper Egypt
Tác giả: Abou Hayah, Bayumi El, et al
Năm: 2016
14. Akhtari-Zavare M., Mohd-Sidik S., et al. (2018), "Determinants of quality of life among Malaysian cancer patients: a cross-sectional study", Health Qual Life Outcomes, 16(1), pp. 163 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Determinants of quality of life among Malaysian cancer patients: a cross-sectional study
Tác giả: Akhtari-Zavare M., Mohd-Sidik S., et al
Năm: 2018
15. Baffert K. A., Darbas T., et al. (2021), "Quality of Life of Patients With Cancer During the COVID-19 Pandemic", In Vivo, 35(1), pp. 663-670 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quality of Life of Patients With Cancer During the COVID-19 Pandemic
Tác giả: Baffert K. A., Darbas T., et al
Năm: 2021
16. Bakas Tamilyn, McLennon Susan M., et al. (2012), "Systematic review of health- related quality of life models", Health and Quality of Life Outcomes, 10(1), pp.134 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Systematic review of health-related quality of life models
Tác giả: Bakas Tamilyn, McLennon Susan M., et al
Năm: 2012
17. Ballatori E., Roila F., et al. (2007), "The impact of chemotherapy-induced nausea and vomiting on health-related quality of life", Support Care Cancer, 15(2), pp.179-85 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The impact of chemotherapy-induced nausea and vomiting on health-related quality of life
Tác giả: Ballatori E., Roila F., et al
Năm: 2007
18. Boonsiri Metavee, Duangthipnate Sophon %J JOURNAL OF THE MEDICAL ASSOCIATION OF THAILAND (2018), "Impact of Chemotherapy Side Effects on Quality of Life of Thai Cancers Patients Assessed by Dermatology Life Quality Index [DLQI] and Chemotherapy induced Alopecia Distress Scale [CADS]", 101(8), pp. 95 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Impact of Chemotherapy Side Effects on Quality of Life of Thai Cancers Patients Assessed by Dermatology Life Quality Index [DLQI] and Chemotherapy induced Alopecia Distress Scale [CADS]
Tác giả: Boonsiri Metavee, Duangthipnate Sophon %J JOURNAL OF THE MEDICAL ASSOCIATION OF THAILAND
Năm: 2018
19. Bower J. E. (2014), "Cancer-related fatigue--mechanisms, risk factors, and treatments", Nat Rev Clin Oncol, 11(10), pp. 597-609 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cancer-related fatigue--mechanisms, risk factors, and treatments
Tác giả: Bower J. E
Năm: 2014
20. Bower J. E., Bak K., et al. (2014), "Screening, assessment, and management of fatigue in adult survivors of cancer: an American Society of Clinical oncology clinical practice guideline adaptation", J Clin Oncol, 32(17), pp. 1840-50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Screening, assessment, and management of fatigue in adult survivors of cancer: an American Society of Clinical oncology clinical practice guideline adaptation
Tác giả: Bower J. E., Bak K., et al
Năm: 2014
21. Cella D., Chang C. H., et al. (2002), "Advances in quality of life measurements in oncology patients", Semin Oncol, 29(3 Suppl 8), pp. 60-8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Advances in quality of life measurements in oncology patients
Tác giả: Cella D., Chang C. H., et al
Năm: 2002
9. Nguyễn Thành Lam, Hà Mạnh Phương và cộng sự (2019), "Tình trạng đau và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư điều trị tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên từ tháng 1 – 6 năm 2019&#34 Khác
10. Nguyễn Phương Linh (2019), Phân tích việc sử dụng phác đồ dự phòng nôn và buồn nôn do hóa trị liệu trên bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện ung bướu Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Trường Đại học Dược Hà Nội Khác
11. Nguyễn Ngọc Minh (2019), Phân tích việc sử dụng phác đồ dự phòng nôn và buồn nôn do hóa trị liệu trên bệnh nhân ung thư tại Bệnh viện K cơ sở Tân Triều, Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Trường Đại học Dược Hà Nội Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1. Mô hình chất lượngcuộc sống liên quan đến sức khỏe của Wilson và Cleary đã được sửa đổi [32] - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 1.1. Mô hình chất lượngcuộc sống liên quan đến sức khỏe của Wilson và Cleary đã được sửa đổi [32] (Trang 21)
Bảng 1.2. Ưu điểm và nhược điểm của một số bộ công cụ đo lường HRQOL - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 1.2. Ưu điểm và nhược điểm của một số bộ công cụ đo lường HRQOL (Trang 23)
Hình 3.1. Sơ đồ kết quả lựa chọn bệnh nhân - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.1. Sơ đồ kết quả lựa chọn bệnh nhân (Trang 38)
Một số đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.1.  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
t số đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.1. (Trang 39)
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân nghiên cứu (N=270) Đặc điểm Số lượng  Tỉ lệ (%)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.1. Đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân nghiên cứu (N=270) Đặc điểm Số lượng Tỉ lệ (%) (Trang 39)
Bảng 3.2 cho thấy, trong các loại ung thư có khối u rắn thì số lượng bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa chiếm tỷ lệ nhiều nhất (38,1%); sau đó đến ung thư vú (22,2%),  ung thư phổi (21,1%), ung thư phụ khoa (11,1%), ung thư vùng đầu cổ (5,2%), có 2,2%  bệnh - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.2 cho thấy, trong các loại ung thư có khối u rắn thì số lượng bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa chiếm tỷ lệ nhiều nhất (38,1%); sau đó đến ung thư vú (22,2%), ung thư phổi (21,1%), ung thư phụ khoa (11,1%), ung thư vùng đầu cổ (5,2%), có 2,2% bệnh (Trang 41)
Hình 3.3. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lo lắng liên quan đến dịch bệnh - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.3. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lo lắng liên quan đến dịch bệnh (Trang 43)
Hình 3.4. Phân bố bệnh nhân về mức độ lo lắng giữa bệnh ung thư và dịch bệnh COVID-19 (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.4. Phân bố bệnh nhân về mức độ lo lắng giữa bệnh ung thư và dịch bệnh COVID-19 (N = 270) (Trang 44)
Hình 3.5 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của các câu hỏi trong thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể. - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.5 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của các câu hỏi trong thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể (Trang 45)
Hình 3.5. Phân bố bệnh nhân theo các đáp án lựa chọn trong thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.5. Phân bố bệnh nhân theo các đáp án lựa chọn trong thang đo chất lượng cuộc sống tổng thể (N = 270) (Trang 45)
Hình 3.6 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của các câu hỏi trong thang đo chức năng thể chất:  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.6 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của các câu hỏi trong thang đo chức năng thể chất: (Trang 46)
Hình 3.7 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của thang đo chức năng hoạt động - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.7 mô tả tần suất phân bố bệnh nhân theo các mức lựa chọn của thang đo chức năng hoạt động (Trang 47)
Hình 3.8. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng cảm xúc (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.8. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng cảm xúc (N = 270) (Trang 48)
Hình 3.9. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng nhận thức (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.9. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng nhận thức (N = 270) (Trang 48)
Hình 3.10. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng xã hội (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.10. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo chức năng xã hội (N = 270) (Trang 49)
Hình 3.11. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo các triệu chứng mệt mỏi, buồn nôn và nôn, đau (N = 270)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Hình 3.11. Phân bố bệnh nhân theo các mức độ lựa chọn trong thang đo các triệu chứng mệt mỏi, buồn nôn và nôn, đau (N = 270) (Trang 50)
Bảng 3.7. Điểm số trung bình chất lượngcuộc sống tổng thể, các chức năng, triệu chứng và lĩnh vực tài chính (N = 270) - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.7. Điểm số trung bình chất lượngcuộc sống tổng thể, các chức năng, triệu chứng và lĩnh vực tài chính (N = 270) (Trang 51)
Các yếu tố liên quan đến chức năng thể chất trong mô hình tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng 3.9 dưới đây:  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
c yếu tố liên quan đến chức năng thể chất trong mô hình tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng 3.9 dưới đây: (Trang 53)
Mô hình tuyến tính bảng 3.11 giải thích rằng 43,8% tình trạng chức năng cảm xúc của bệnh nhân kém hơn có liên quan đến bệnh nhân nữ; cư trú tại các tỉnh ngoài Hà  Nội; có lo lắng về việc nhiễm dịch bệnh COVID-19; điểm cao hơn của các triệu chứng  mệt mỏi, - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
h ình tuyến tính bảng 3.11 giải thích rằng 43,8% tình trạng chức năng cảm xúc của bệnh nhân kém hơn có liên quan đến bệnh nhân nữ; cư trú tại các tỉnh ngoài Hà Nội; có lo lắng về việc nhiễm dịch bệnh COVID-19; điểm cao hơn của các triệu chứng mệt mỏi, (Trang 55)
Các yếu tố liên quan đến chức năng xã hội trong mô hình tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng 3.13 dưới đây:  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
c yếu tố liên quan đến chức năng xã hội trong mô hình tuyến tính đa biến được trình bày trong bảng 3.13 dưới đây: (Trang 56)
Bảng 3.15. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng đau trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N = 203) - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.15. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng đau trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N = 203) (Trang 57)
Bảng 3.14. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng mệt mỏi trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N = 203)  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.14. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng mệt mỏi trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N = 203) (Trang 57)
Bảng 3.16. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng mất ngủ trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N=203) - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
Bảng 3.16. Các yếu tố liên quan đến triệu chứng mất ngủ trong mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (N=203) (Trang 58)
Phần 1: Bảng đánh giá chất lượngcuộc sống của bệnh nhân ung thư - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
h ần 1: Bảng đánh giá chất lượngcuộc sống của bệnh nhân ung thư (Trang 86)
PHỤ LỤC 4. HÌNH PHÂN BỐ BỆNH NHÂN THEO CÁC MỨC ĐỘ LỰA CHỌN CỦA MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG KHÁC - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
4. HÌNH PHÂN BỐ BỆNH NHÂN THEO CÁC MỨC ĐỘ LỰA CHỌN CỦA MỘT SỐ TRIỆU CHỨNG KHÁC (Trang 90)
PHỤ LỤC 5. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TỔNG THỂ - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
5. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TỔNG THỂ (Trang 91)
PHỤ LỤC 6. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG, TRIỆU CHỨNG VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TỔNG THỂ  - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
6. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM CHỨC NĂNG, TRIỆU CHỨNG VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG TỔNG THỂ (Trang 93)
PHỤ LỤC 7. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VỚI CÁC CHỨC NĂNG - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
7. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN VỚI CÁC CHỨC NĂNG (Trang 94)
PHỤ LỤC 8. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM CÁC TRIỆU CHỨNG VỚI CÁC CHỨC NĂNG - Phân tích chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung đang điều trị hoá chất tại một số bệnh viện chuyên khoa ung bướu trong giai đoạn dịch bệnh covid 19
8. BẢNG MỐI LIÊN QUAN ĐƠN BIẾN GIỮA ĐẶC ĐIỂM CÁC TRIỆU CHỨNG VỚI CÁC CHỨC NĂNG (Trang 99)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w