Một số vấn đề lý luận về bệnh kinh nghiệm
1.1.1 Khái niệm kinh nghiệm và bệnh kinh nghiệm
Trong lịch sử triết học, vấn đề kinh nghiệm được các nhà triết học đặc biệt quan tâm, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về quá trình nhận thức của con người Hai trường phái chính có quan điểm đối lập là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm V.I Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” đã chỉ ra rằng việc giải thích khái niệm “kinh nghiệm” đã phân chia những người duy vật cổ điển và những người duy tâm cổ điển.
Dưới danh từ kinh nghiệm, có thể che giấu những đường lối duy vật và duy tâm trong triết học, cũng như khuynh hướng của Kant và Hume.
Thuật ngữ "kinh nghiệm" xuất phát từ tiếng Hy Lạp "empeiria", dùng để chỉ những kiến thức mà con người tích lũy được thông qua sự tiếp xúc, quan sát và thực nghiệm trong cuộc sống.
Kinh nghiệm, theo nghĩa thông thường, là hiểu biết thu được từ thực tiễn và thực hành, không phải từ lý thuyết hay sách vở Trong triết học, kinh nghiệm được định nghĩa là tri thức phát sinh từ sự tác động trực tiếp giữa chủ thể và khách thể, với khách thể được coi là một thực thể độc lập Kinh nghiệm không chỉ thuộc về nhận thức cảm tính mà còn là nền tảng cho việc khái quát hóa các lý luận khoa học.
Trong lịch sử triết học, có những cách hiểu khác nhau về khái niệm kinh nghiệm:
Chủ nghĩa kinh nghiệm và cảm giác luận khẳng định rằng kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của tri thức, do đó, nội dung tri thức chỉ bao gồm những gì đã được cảm nhận trước đó.
Chủ nghĩa kinh nghiệm duy tâm, đại diện bởi Beccôli và Hium, coi kinh nghiệm là tổng hợp các cảm giác, đồng thời không công nhận thực tại khách quan là nguồn gốc của kinh nghiệm.
Trường phái duy lý, với đại biểu là Đêcac và Xpinôza, khẳng định rằng tư duy logic không thể phụ thuộc vào kinh nghiệm, vì kinh nghiệm chỉ mang lại tri thức hỗn độn dễ dẫn đến sai lầm Chỉ có lý tính mới có khả năng đạt tới chân lý thông qua trực giác trực tiếp, mà không cần qua giai đoạn nhận thức cảm tính.
Chủ nghĩa thực chứng mới tập trung vào kinh nghiệm và cảm xúc của con người, không quan tâm đến những yếu tố ẩn sau những trải nghiệm đó, tức là không xem xét sự tồn tại của thế giới thực độc lập với ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận kinh nghiệm là yếu tố phản ánh hiện thực khách quan, nhưng không chỉ là nội dung thụ động của ý thức Kinh nghiệm được hình thành qua sự tác động trực tiếp của con người vào thế giới bên ngoài, và trong quá trình này, nó trở nên phong phú và chính xác hơn Nhờ những phát hiện và trải nghiệm thực tiễn, nhận thức cảm tính được điều chỉnh dần Do đó, kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, là phương tiện thiết yếu để làm phong phú khoa học, phát triển lý luận và thực hành.
* Khái niệm bệnh kinh nghiệm
Bệnh kinh nghiệm là hiện tượng xem nhẹ vai trò của lý luận trong công tác, dẫn đến việc tầm thường hóa lý luận và không chú trọng tổng kết thực tiễn Điều này còn thể hiện qua việc thiếu sự học tập nâng cao trình độ lý luận và không chủ động tiếp thu tri thức khoa học mới để áp dụng vào thực tế.
Bệnh kinh nghiệm là trạng thái nhận thức và hành động thực tiễn mà trong đó cá nhân hoặc nhóm người quá đề cao kinh nghiệm của mình, đồng thời xem nhẹ lý thuyết và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
1.1.2 Nhận thức và bệnh kinh nghiệm trong lịch sử
Trong quá trình phát triển của triết học, nhận thức luận luôn là chủ đề được các nhà triết học thảo luận, với mỗi trường phái và đại biểu có quan niệm riêng về kinh nghiệm, nguồn gốc và vai trò của nó trong nhận thức Sự phát triển của lý luận nhận thức phản ánh sự đa dạng trong quan điểm của từng trường phái triết học.
Nhà triết học Đê-mô-crít (khoảng 460 - đầu thế kỷ IV tr.CN) là người đầu tiên phát triển lý luận nhận thức, phân chia thành hai dạng tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức lý tính Ông coi kinh nghiệm cảm tính là điểm khởi đầu của nhận thức, nhưng cho rằng nó chỉ cung cấp tri thức "mờ tối", chưa đầy đủ và không đáng tin cậy, vì bản chất thực sự của các vật (nguyên tử) chỉ có thể được nhận thức qua tư duy lý tính Đê-mô-crít không đối lập tri thức kinh nghiệm với tri thức lý tính; ông cho rằng nguồn gốc của tri thức kinh nghiệm là những vật thể cảm giác, tồn tại trong "ý kiến chung" của con người, và công nhận nguồn gốc khách quan của tri thức này.
Nhà triết học duy tâm Platôn (427-347 tr.CN) đã phủ nhận mọi tri thức kinh nghiệm, chỉ công nhận tri thức tiên nghiệm, tức là tri thức có trước và ngoài kinh nghiệm Do đó, đối với Platôn, tri thức và sự hiểu biết chính là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã trải nghiệm ở một nơi nào đó.
A-ri-stốt (384-322 tr.CN) là nhà triết học cổ Hy-Lạp, người sáng lập môn logic học và nhiều lĩnh vực tri thức khác Ông cho rằng kinh nghiệm là bước thứ hai trong quá trình nhận thức, sau tri giác cảm tính Kinh nghiệm cung cấp cho con người tri thức về những sự vật cụ thể, nhờ vào trí nhớ, từ đó tạo nên tri thức kinh nghiệm Khoa học và nghệ thuật phát triển dựa trên kinh nghiệm A-ri-stốt cũng khẳng định rằng kinh nghiệm là tri thức về cái đơn nhất, trong khi nghệ thuật là tri thức về cái phổ biến Do đó, những người có tri thức trừu tượng nhưng thiếu kinh nghiệm thường dễ mắc sai lầm khi nhận thức cái phổ biến mà không hiểu cái đơn nhất bên trong nó.
THỰC TRẠNG BỆNH KINH NGHIỆM CỦA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRUNG TÂM BỒI DƢỠNG CHÍNH TRỊ TỈNH KIÊN GIANG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Những nhân tố tác động hình thành bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên các trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh Kiên Giang
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên trung tâm BDCT tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời tác động đến việc trang bị, hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận và niềm tin vào lý tưởng của Đảng cho học viên Những biểu hiện của bệnh kinh nghiệm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nhân tố cơ bản cần được khái quát hóa.
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, các yếu tố kinh tế - văn hóa xã hội
Xuất phát từ triết lý Mác-Lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cần nghiên cứu kỹ lưỡng tác động của môi trường xung quanh đối với sự hình thành tính cách, nhân cách và thói quen trong sinh hoạt cũng như công tác Theo báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kiên Giang, việc đánh giá kết quả thực hiện quyết định là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng này.
Theo QĐ/TGTW 1853 của Ban Tuyên giáo Trung ương, mặc dù kinh tế, văn hóa và xã hội đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến tâm lý của đội ngũ giảng viên.
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở phía Tây Nam của Việt Nam Tỉnh giáp với Vương quốc Campuchia ở phía Bắc, tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu ở phía Nam, An Giang, thành phố Cần Thơ và Hậu Giang ở phía Đông và Đông Nam, và Vịnh Thái Lan ở phía Tây Kiên Giang có diện tích tự nhiên là 6.346,27 km² và dân số đạt 1.683.149 người.
Tỉnh Kiên Giang có mật độ dân số 267 người/km², với 73,1% dân cư sống ở khu vực nông thôn và 26,9% ở thành phố Dân tộc chủ yếu là người Kinh, Khmer và Hoa, với sự phân bố dân số không đều, tập trung chủ yếu ven các trục giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một số đảo Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã nỗ lực đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX Mặc dù kinh tế tỉnh tiếp tục tăng trưởng với thu nhập bình quân đầu người đạt 39,179 triệu đồng (tương đương 1.880 USD), nhưng chất lượng và hiệu quả kinh tế còn thấp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng bộ, và tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng chậm Các lĩnh vực tiềm năng như nông-lâm-thủy sản, công nghiệp chế biến, du lịch và kinh tế biển chưa được khai thác hiệu quả Sự phát triển khu vực nông thôn còn chậm và chênh lệch thu nhập giữa thành phố và nông thôn vẫn cao (1,73 lần), trong khi kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Văn hóa xã hội đang được chú trọng, với nhiều vấn đề xã hội được giải quyết hiệu quả, đảm bảo chế độ cho các đối tượng chính sách và thực hiện tốt các chương trình giảm nghèo, với tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5% mỗi năm, hiện còn 5,73% Tuy nhiên, chương trình phát triển nguồn nhân lực triển khai chậm, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp và chính sách thu hút nhân lực chưa hiệu quả Đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư, đặc biệt ở vùng nông thôn sâu, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc, vẫn chậm được cải thiện; tình trạng tái nghèo và hộ cận nghèo còn cao, cho thấy giảm nghèo chưa bền vững.
Tình hình kinh tế, văn hóa và xã hội của nhân dân tỉnh, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trung tâm BDCT, đang chịu ảnh hưởng nặng nề từ tâm lý tiểu nông và tư duy dựa trên kinh nghiệm Bên cạnh đó, tâm lý tiểu tư sản cũng tác động mạnh mẽ, cho thấy rằng việc có bằng cấp sau đào tạo không đủ để thoát khỏi những tư duy này Cần có thời gian, phương pháp và hình thức thay đổi hiệu quả để cải thiện tình trạng hiện tại.
2.1.2 Trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giảng viên trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh Kiên Giang Đội ngũ giảng viên tuy được đào tạo căn bản có trình độ chuyên môn đại học, lý luận chính trị cao cấp, đều đạt chuẩn theo quy định của Ban Tuyên giáo Trung ương nhưng nhìn chung chủ yếu là được đào tạo thông qua hệ học tại chức Đây là cũng một trong những nguyên nhân tác động và hình thành nên bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên trung tâm BDCT Xét về hình thức đào tạo đây là một trong những hình thức mang lại hiệu quả khi tinh thần tự học tập, tự nghiên cứu của học viên mang tính tự giác, tích cực Hình thức đào tạo tại chức chỉ phát huy khi học viên là đội ngũ cán bộ, đảng viên đã kinh qua công tác thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức về thế giới quan đặc biệt là phương pháp luận hay phương pháp xử lý vấn đề được giải quyết một cách có hiệu quả; trong quá trình học, từng học viên có thể đối chiếu lại kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động với những nội dung lý luận, từ đó học viên kịp thời bổ sung những mảng trống, những hạn chế trong tri thức lý luận của chủ nghĩ Mác - Lênin và những tri thức chuyên môn Vì thế khi giảng viên trung tâm BDCT chưa kinh qua công tác thực tiễn tại địa phương và kiến thức thực tiễn là hết sức hạn chế, đồng thời, trong nội dung chương trình chuyên ngành về lý luận chính trị thời gian dành cho tự nghiên cứu, điều kiện nghiên cứu hết sức khó khăn nên không tránh khỏi việc “tầm chương, trích cú” theo kinh nghiệm của bản thân trong học tập lý luận và diễn giải, suy diễn theo lối tư duy của cá nhân Bên cạnh đó, một vài giảng viên tốt nghiệp từ ngành sư phạm, thời lượng trên giảng đường giành cho các môn học lý luận chính trị chuyên ngành chưa đảm bảo hiểu sâu sắc, có hệ thống các nội dung lý luận, đặc biệt là hiểu đúng, hiểu đầy đủ các nội dung trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
2.1.3 Ý thức học tập nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên trung tâm bồi dưỡng chính trị
Tinh thần và thái độ học tập của đội ngũ giảng viên tại trung tâm BDCT chưa được phát huy một cách thường xuyên và tích cực Trong bối cảnh thực tiễn luôn thay đổi và phát triển, việc tổng kết và nâng cao lý luận, tri thức khoa học là rất cần thiết Mặc dù các cơ quan chức năng đã triển khai các chương trình học tập cho cán bộ, nhưng đội ngũ giảng viên vẫn gặp khó khăn trong việc dành thời gian cho nghiên cứu và tiếp cận tri thức mới Nguyên nhân của sự ngại học tập này bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan, nhưng chủ yếu xuất phát từ ý thức và tinh thần học tập chưa cao của giảng viên.
2.1.4 Phụ trách giảng dạy ở nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung Đội ngũ giảng viên ở trung tâm BDCT phải đảm nhận nhiều nội dung ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ; đồng thời, học viên tại trung tâm BDCT đa dạng về thành phần, ngành nghề từ công chức, viên chức nhà nước cho đến quần chúng ưu tú, người dân tham gia sản xuất kinh doanh giỏi nhiều trình độ học vấn khác nhau, nhưng học viên tại trung tâm BDCT mặt bằng chung là thấp so với mặt bằng chung nên trong quá trình nhận thức của học viên gặp nhiều khó khăn khi giảng viên trình bày các nội dung mang tính lý luận, mang tính khái quát hoá, trừu tượng hoá Xuất phát từ nội dung phải truyền đạt nhiều lĩnh vực và đối tượng học viên có trình độ học vấn thấp và không đồng đều, vì thế giảng viên cần phải trình bày nhiều tri thức kinh nghiệm trong cuộc sống, trong thực tiễn công tác, lâu dần hình thành phương pháp truyền đạt kinh nghiệm, không thể hướng dẫn học viên khái quát từ những tri thức kinh nghiệm trong cuộc sống, công tác thành lý luận
2.1.5 Sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền và Ban Giám đốc trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh Kiên Giang cấp uỷ Đảng cấp huyện, Ban Giám đốc trung tâm BDCT nhận thức chưa sâu sắc về vị trí, vai trò của đội ngũ giảng viên trung tâm BDCT nên trong công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trung tâm BDCT để nâng cao trình độ LLCT, chuyên môn nghiệp vụ chưa được thường xuyên và có hệ thống, mặt khác việc bố trí, sử dụng chưa hài hoà, vẫn còn tư tưởng “vì người bố trí công việc”; tuyển dụng nguồn giảng viên chưa đảm bảo tiêu chuẩn, hoặc khi đã tuyển dụng thì không cử tham gia học tập để đạt chuẩn, lại có trường hợp giảng viên trung tâm BDCT có thâm niên công tác, hoặc giảng dạy đạt kết quả tốt do yêu cầu phải điều động sang các ban, ngành khác Bên cạnh đó, chưa thật sự quan tâm tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên trẻ tham gia tổng kết thực tiễn, tiếp cận thực tiễn để nâng lên tầm lý luận.
Thực trạng bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên các trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh Kiên Giang
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên tại trung tâm BDCT tỉnh Kiên Giang thể hiện qua những đặc điểm riêng biệt Một số biểu hiện nổi bật bao gồm sự thiếu đổi mới trong phương pháp giảng dạy, sự ngại thay đổi và khả năng thích ứng kém với các phương pháp học tập hiện đại.
Đội ngũ giảng viên tại trung tâm BDCT tỉnh Kiên Giang chủ yếu có trình độ đại học chuyên môn từ các ngành lý luận như Triết học, Kinh tế chính trị và quản lý nhà nước, với phần lớn có chứng chỉ cao cấp lý luận chính trị Tuy nhiên, ảnh hưởng của "bệnh kinh nghiệm" đã tác động tiêu cực đến quá trình học tập và nghiên cứu của họ, khi mà nhiều giảng viên chưa tham gia đào tạo chuyên ngành về lý luận chính trị và phải vừa làm vừa học Điều này dẫn đến việc họ không nhận thức đầy đủ về vai trò của lý luận, coi nó như những kinh nghiệm cá nhân, từ đó tạo ra thái độ đơn giản hóa trong nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị.
Thứ hai, biểu hiện bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên trung tâm
Đội ngũ giảng viên tại BDCT tỉnh Kiên Giang chủ yếu giảng dạy dựa trên kinh nghiệm cá nhân và kinh nghiệm của người khác, dẫn đến việc thiếu hệ thống và phương pháp giảng dạy khoa học Nhiều giảng viên lý luận chính trị dựa vào kinh nghiệm cá nhân và suy diễn chủ quan, không có cơ sở khoa học vững chắc Hầu hết giảng viên chỉ qua lớp tập huấn mà chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ sư phạm, nên trong quá trình giảng dạy, họ thường sao chép nội dung từ những giảng viên trước mà không điều chỉnh cho phù hợp với từng bài học và đối tượng học viên Điều này dẫn đến việc giảng dạy trở nên máy móc, chắp vá và thiếu tính sáng tạo, không đáp ứng được yêu cầu của việc giảng dạy hiện đại.
Thứ ba, biểu hiện của bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên trung tâm
BDCT không thường xuyên tiếp thu tri thức mới từ các ngành khoa học, bao gồm cả khoa học xã hội nhân văn và khoa học tự nhiên Chủ nghĩa Mác nhấn mạnh việc tổng kết thành tựu khoa học và thực tiễn để làm phong phú thêm các nguyên lý của mình, giúp lý luận của chủ nghĩa Mác phát triển liên tục cùng với sự thay đổi của cuộc sống Như Lênin đã nói, điều này là rất quan trọng.
Chúng ta không coi lý luận của Mác là bất khả xâm phạm, mà tin rằng nó chỉ là nền tảng cho sự phát triển khoa học xã hội chủ nghĩa Thực tiễn luôn vận động và phát triển, và các nhà kinh điển đã dành thời gian nghiên cứu sâu sắc các ngành khoa học để bổ sung và chứng minh lý luận của mình Do đó, nếu giảng viên tại trung tâm BDCT không cập nhật tri thức khoa học mới, các bài giảng về lý luận chính trị sẽ thiếu thuyết phục và mất đi tính cách mạng, khoa học.
Giảng viên tại trung tâm BDCT tỉnh Kiên Giang thường thiếu cơ hội tham gia tổng kết thực tiễn và nghiên cứu khoa học, dẫn đến việc tiếp thu kiến thức chủ yếu qua kinh nghiệm chủ quan từ đồng nghiệp và thông tin không chính thống Họ chủ yếu nắm bắt tình hình qua báo cáo của các cấp cơ sở, nhưng những thông tin này thường thiếu tính hệ thống và chứng cứ khoa học, khiến cho việc trình bày bài giảng không thể khái quát hóa thành lý luận Hơn nữa, đội ngũ giảng viên cũng không có điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học hoặc tổng kết các vấn đề thực tiễn, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy.
Dựa trên những biểu hiện của bệnh và kinh nghiệm của đội ngũ giảng viên tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị tỉnh Kiên Giang, có thể nhận định rằng có nhiều tác động tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giảng dạy của giảng viên tại đây.
Ảnh hưởng đầu tiên của bệnh kinh nghiệm ở giảng viên trung tâm BDCT là làm giảm chất lượng và hiệu quả giảng dạy, do giảng viên giữ vai trò chủ thể trong công tác này Việc vi phạm nguyên tắc giảng dạy lý luận chính trị, như tầm thường hóa tri thức và kinh nghiệm hóa lý luận, dẫn đến sự mất mát tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn Hệ quả là giảng viên không thể truyền đạt một cách hệ thống và khoa học về lý luận Mác - Lênin, khiến học viên chỉ tiếp nhận những mảng tri thức rời rạc, ảnh hưởng tiêu cực đến việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận của họ trong quá trình công tác.
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên tại trung tâm BDCT đã ảnh hưởng tiêu cực đến tri thức của học viên, khi họ tiếp thu kiến thức một cách chắp vá từ kinh nghiệm sống của giảng viên Điều này dẫn đến việc hình thành phương pháp tư duy theo lối kinh nghiệm, cản trở sự phát triển phương pháp luận duy vật biện chứng của học viên Hơn nữa, trong quá trình giảng dạy, các nội dung lý luận và trích dẫn từ các nhà kinh điển thường bị hiểu sai hoặc không đầy đủ, dẫn đến việc giảng viên suy diễn theo cách riêng của mình, ảnh hưởng đến chất lượng truyền đạt kiến thức.
Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ giảng viên trung tâm DBCT dẫn đến việc tầm thường hóa lý luận, ảnh hưởng đến bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác cũng như tri thức khoa học nói chung Sự chia cắt nhỏ các môn học làm mất đi tính hệ thống trong chương trình giảng dạy Do chưa hiểu sâu sắc tri thức lý luận và các vấn đề thuộc về bản chất, giảng viên thường suy diễn theo lối cá nhân, dẫn đến việc trích dẫn các tác phẩm kinh điển một cách sai lệch, làm biến đổi nội dung một cách nghiêm trọng.
Giảng viên trung tâm BDCT khi rơi vào tình trạng "mắc" bệnh kinh nghiệm sẽ không nhận ra tầm quan trọng của việc cập nhật tri thức mới, dẫn đến bài giảng thiếu sức thuyết phục Họ chỉ chú trọng vào kiến thức đã có mà không so sánh với tri thức khoa học hiện tại, gây ra sự phản tác dụng và làm cho bài giảng thiếu sự sống động Kết quả là những giảng viên này trở thành những nhà "kinh viện" trong bối cảnh giáo dục hiện nay.