1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phát triển đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh tuyên quang hiện nay

100 8 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát Triển Đội Ngũ Trí Thức Trẻ Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Tỉnh Tuyên Quang Hiện Nay
Tác giả Ma Thị Khiết
Người hướng dẫn TS. Trần Hải Minh
Trường học Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Triết Học
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 1,19 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Lí luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam (13)
  • 1.2. Vai trò của đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay (29)
  • 1.3. Yêu cầu đối với đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay (33)
  • Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRẺ (13)
    • 2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang (37)
    • 2.2. Thành tựu và hạn chế trong công tác phát triển đội ngũ trí thức trẻ (55)
    • 2.3. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác phát triển đội ngũ trí thức trẻ (76)
  • Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRẺ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY (37)
    • 3.1. Phương hướng phát triển đội ngũ trí thức trẻ để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay (80)
    • 3.2. Giải pháp phát triển đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay (83)
  • KẾT LUẬN (94)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (95)

Nội dung

Lí luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

1.1.1 Bản chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội, giúp xã hội từ giai đoạn tiền công nghiệp tiến tới giai đoạn công nghiệp Quá trình này nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp trong toàn bộ các lĩnh vực của một vùng kinh tế hoặc nền kinh tế cụ thể Nó đánh dấu sự chuyển biến từ nền kinh tế sản xuất nhỏ và nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về CNH do các khía cạnh tiếp cận khác nhau Tại Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương khóa VII Đảng Cộng sản Việt Nam, CNH được xem xét trong mối quan hệ với HĐH, và hội nghị đã khẳng định tầm quan trọng của sự kết hợp này.

Chuyển đổi số (CNH, HĐH) là quá trình cải cách toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý kinh tế - xã hội Quá trình này chuyển từ việc sử dụng lao động thủ công sang ứng dụng công nghệ và phương pháp hiện đại, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội Sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ là yếu tố then chốt trong việc thực hiện chuyển đổi này.

Cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa (CNH) là chuyển đổi lao động thủ công, lạc hậu thành lao động kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, nhằm đạt được năng suất lao động xã hội cao.

HĐH, hay hiện đại hóa, là quá trình đưa những yếu tố của thời đại ngày nay vào cuộc sống, phản ánh sự phát triển và tiến bộ của con người Quá trình này được thể hiện qua sự cải tiến trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ, ảnh hưởng đến sản xuất, tổ chức, quản lý và điều hành xã hội HĐH không chỉ là sự thay đổi trong cơ chế hoạt động xã hội mà còn là nỗ lực chống lại sự tụt hậu trước sự bùng nổ của khoa học công nghệ hiện đại trên toàn cầu.

CNH và HĐH là hai quá trình khác nhau nhưng lại liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau, góp phần tạo ra sự phát triển toàn diện về kinh tế và xã hội.

Để định nghĩa một cách đầy đủ về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là điều không dễ dàng, bởi vì đây là một quá trình phức tạp và khó khăn Hiện nay, CNH, HĐH được hiểu là một quá trình rộng lớn, bao gồm nhiều khía cạnh cơ bản khác nhau.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) không chỉ liên quan đến công nghệ mà còn bao trùm tất cả các ngành và lĩnh vực hoạt động của một quốc gia Quá trình này thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tối ưu hóa nguồn lực và lợi thế của đất nước Những đặc điểm và xu hướng trong phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu lao động trong các lĩnh vực đời sống xã hội Do đó, CNH, HĐH là căn cứ quan trọng để định hướng nguồn lực con người, đáp ứng nhu cầu về các loại lao động trong từng giai đoạn.

Cơ cấu ngành trong nền kinh tế đóng vai trò quan trọng như “bộ xương” của nền kinh tế, thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành và lĩnh vực hoạt động Sự thay đổi trong một ngành sẽ tác động đến các ngành khác, nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, đồng thời tạo ra cơ cấu kinh tế tối ưu Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với việc phân công lại lao động xã hội, trong đó tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm, trong công nghiệp tăng, và lao động trí tuệ ngày càng chiếm ưu thế so với lao động đơn giản Tốc độ tăng trưởng lao động trong ngành dịch vụ cũng nhanh hơn so với ngành sản xuất vật chất.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) sẽ thúc đẩy sự hình thành cơ cấu kinh tế mới, bao gồm ba ngành chính: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển và điều kiện của từng quốc gia Tại Việt Nam, nông nghiệp hiện chiếm ưu thế, và trong giai đoạn đầu, nông nghiệp sẽ giữ vị trí trung tâm, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa thiết yếu và tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp Khi nhu cầu cơ bản được đáp ứng, nông nghiệp sẽ đứng sau công nghiệp, tạo cơ hội cho ngành công nghiệp phát triển Mặc dù CNH không đồng nghĩa với phát triển công nghiệp, nhưng sự phát triển của công nghiệp là điều kiện cần thiết cho quá trình này Để CNH, HĐH diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, cần phát triển các dịch vụ sản xuất và đời sống, cùng với việc đảm bảo hệ thống kết cấu kinh tế - kỹ thuật, mặc dù dịch vụ chưa thể đứng ở vị trí hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân trong tất cả các giai đoạn của quá trình này.

Cơ cấu kinh tế cần được thiết kế phù hợp với xu hướng tiến bộ khoa học và công nghệ toàn cầu, tận dụng lợi thế quốc gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế Quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế là liên tục, giai đoạn trước phải tạo nền tảng cho giai đoạn sau, đồng thời cần được bổ sung và hoàn thiện thường xuyên trong suốt quá trình phát triển.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là quá trình hiện đại hóa và trang bị công nghệ tiên tiến cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là những ngành có vai trò quan trọng.

Từ những năm 80 của thế kỷ XX, trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ, quá trình toàn cầu hóa xã hội đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp mới Cuộc cách mạng này không chỉ đổi mới công cụ và tư liệu sản xuất, thay thế lao động thủ công bằng máy móc, mà còn tái cấu trúc toàn bộ công nghệ sản xuất, tạo ra những bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất Sự đột phá này bao gồm cải tiến thiết bị, nâng cao chất lượng con người, tối ưu hóa thông tin và cải tiến tổ chức quản lý, hướng tới hiện đại hóa phương pháp sản xuất và quản lý khoa học tiên tiến.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã ảnh hưởng sâu rộng đến mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh công nghiệp hóa (CNH) hiện nay Việc trang bị và cập nhật công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại hóa (HĐH), bao gồm việc áp dụng các quy trình và phương pháp công nghệ tiên tiến dựa trên sự phát triển của khoa học và kỹ thuật Điều này không chỉ cần thiết mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình CNH, HĐH tại Việt Nam hiện nay.

CNH, HĐH không phải là mục đích tự thân mà là phương thức phổ biến để đạt được mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia Tất cả các nước muốn thoát khỏi tình trạng lạc hậu đều phải tiến hành quá trình CNH, HĐH, coi đây như một nấc thang tất yếu để trở nên giàu có và hùng mạnh Quá trình này thúc đẩy sự phát triển xã hội tới trình độ cao hơn và văn minh hơn CNH, HĐH diễn ra phức tạp trên nhiều bình diện của đời sống kinh tế, xã hội, mang tính đặc thù riêng cho từng dân tộc và quốc gia, nhưng có những nội dung chung như việc trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế và thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ và hợp lý.

Vai trò của đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Trong quá trình đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, đội ngũ trí thức đóng vai trò then chốt Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, trí thức trở thành nguồn lực quan trọng, quyết định sự phát triển và sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển bền vững.

Trí thức là khái niệm đa dạng và phức tạp, phản ánh sự phát triển qua từng giai đoạn lịch sử, với nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt là trong nhóm trí thức trẻ Thuật ngữ "trí thức" có nguồn gốc từ tiếng La tinh "Intelligentina," mang nghĩa là thông minh và có trí tuệ Mặc dù khái niệm này đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới, nhưng vẫn tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức.

Theo Từ điển triết học, trí thức được định nghĩa là một tập hợp xã hội bao gồm những người làm nghề lao động trí óc như kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và những người làm công tác khoa học, cùng với một bộ phận lớn viên chức.

Trí thức được định nghĩa là một nhóm xã hội bao gồm những cá nhân làm việc trong lĩnh vực lao động trí óc phức tạp và có trình độ học vấn chuyên môn cần thiết Sự tồn tại của trí thức như một nhóm xã hội đặc biệt gắn liền với sự phân công lao động giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

Theo Từ điển tiếng Việt - Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Hà Nội

(2010) viết: “Trí thức là người chuyên làm việc lao động trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình” [53, tr.1322]

Trong từng giai đoạn lịch sử và với những cách tiếp cận khác nhau, mỗi quốc gia có những định nghĩa riêng về "trí thức" Tại Việt Nam, khái niệm trí thức được đề cập trong Nghị quyết số

NQ/TW khóa X nhấn mạnh rằng trí thức là lực lượng lao động trí óc có trình độ học vấn cao, tư duy độc lập và sáng tạo, đóng góp vào việc tạo ra sản phẩm có giá trị cho xã hội Đảng coi trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế Việc xây dựng đội ngũ trí thức không chỉ nâng cao trí tuệ dân tộc mà còn củng cố sức mạnh đất nước, tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng và cải thiện chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị Đội ngũ này không chỉ có chuyên môn cao mà còn thể hiện chính kiến rõ ràng về các vấn đề chính trị - xã hội.

Trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, nổi bật với lao động trí óc và tính sáng tạo, đòi hỏi sự độc lập trong tư duy để áp dụng kiến thức và kinh nghiệm vào công việc hiệu quả Trí thức trẻ chưa có khái niệm cụ thể, nhưng có thể xác định qua độ tuổi và trình độ chuyên môn Theo Luật thanh niên Việt Nam, thanh niên được định nghĩa là công dân từ 16 đến 30 tuổi, trong đó trí thức trẻ được hiểu là những công dân từ 22 đến 30 tuổi, có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên và chuyên làm việc trí óc.

Trí thức trẻ Việt Nam sở hữu những thế mạnh đặc biệt như khả năng tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học, công nghệ và quản lý hiện đại Họ năng động, sáng tạo và chủ động học hỏi những tiến bộ của nhân loại Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn cơ cấu dân số vàng, đây là cơ hội lớn để tận dụng lực lượng trẻ nhằm phát triển và đầu tư cho tương lai, đồng thời cũng là thách thức cần phải đối mặt.

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, giữ vai trò quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay Họ không chỉ là lực lượng xung kích trên mặt trận khoa học, công nghệ và văn hóa mà còn là những người sản xuất trực tiếp, tổng kết và truyền bá tri thức cho các thế hệ sau Sự phát triển của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự phát triển của đội ngũ trí thức, luôn sát cánh cùng giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động, cống hiến tài năng để thực hiện các mục tiêu dân tộc và tiến bộ xã hội Nghị quyết 27 - NQ/TW khóa X đã khẳng định điều này.

Tri thức luôn là nền tảng cho sự tiến bộ xã hội, với đội ngũ trí thức đóng vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo và truyền bá tri thức Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực quan trọng, góp phần tạo nên sức mạnh cho mỗi quốc gia Lịch sử cho thấy các nước tư bản mất hàng trăm năm để thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), trong khi các nước Đông Nam Á cũng cần gần nửa thế kỷ Việt Nam bước vào thời kỳ CNH, HĐH khi khoa học và công nghệ đã có những thành tựu vượt bậc, tạo cơ hội rút ngắn khoảng cách trong quá trình phát triển Để đạt được thành công trong CNH, HĐH, cần xây dựng nguồn nhân lực mạnh mẽ, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, với sức khỏe, trình độ và năng lực chuyên môn, trong đó đội ngũ trí thức là một phần quan trọng.

Trong xã hội hiện đại, nhu cầu về đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng Trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, các quốc gia đang nỗ lực hướng tới kinh tế tri thức Trí thức trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực Xu hướng hiện nay cho thấy sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay ngày càng mờ nhạt, đặc biệt khi xã hội chuyển từ công nghiệp sang thông tin Những người trí thức không chỉ là những người có bằng cấp cao mà còn bao gồm những cá nhân sáng tạo, có trí tuệ và gắn bó với sự nghiệp, lý tưởng của dân tộc.

CNH, HĐH là con đường phát triển tất yếu mà mọi quốc gia phải trải qua, thể hiện quy luật phổ biến trong quá trình phát triển toàn cầu Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh CNH, HĐH, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất là rất cần thiết, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến người lao động và trí thức.

Đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước Họ không chỉ sở hữu tri thức và kỹ năng mà còn là nguồn nhân lực chủ chốt, tiên phong trong nền kinh tế tri thức Trí thức trẻ đáp ứng các yêu cầu của CNH, HĐH, góp phần tăng năng suất lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời ảnh hưởng tích cực đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Trong bối cảnh xã hội hiện đại và sự phát triển của khoa học công nghệ, đội ngũ trí thức trẻ càng có vai trò quan trọng, là lực lượng sản xuất trực tiếp, với khả năng sáng tạo và năng động để cải tiến công cụ sản xuất và áp dụng công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phục vụ cho quá trình CNH, HĐH.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRẺ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

2.1.1 Khái quát về tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang, tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, tọa lạc tại trung tâm của núi rừng Việt Bắc hùng vĩ, nổi bật với sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên và đa dạng về truyền thống lịch sử - văn hóa của các tộc người Với tọa độ địa lý từ 21°30' đến 20°40' vĩ độ Bắc, Tuyên Quang là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích khám phá vẻ đẹp thiên nhiên và bản sắc văn hóa độc đáo.

Tỉnh Tuyên Quang, nằm ở vị trí địa lý từ 104°0'53" đến 103°0'40" kinh độ đông, giáp với tỉnh Hà Giang ở phía bắc và tây bắc, Yên Bái ở phía tây, Thái Nguyên và Bắc Kạn ở phía đông và đông bắc, cùng Phú Thọ và Vĩnh Phúc ở phía nam Tuyên Quang có tổng diện tích tự nhiên 587.038,5 ha, chiếm 1,78% tổng diện tích cả nước, trong đó 70% là đồi núi Tỉnh đã trải qua nhiều lần chia tách và sáp nhập, hiện có 1 thành phố, 6 huyện với 7 phường, 5 thị trấn và 129 xã Địa hình Tuyên Quang chuyển tiếp từ núi sang đồi, chủ yếu thấp dần từ bắc - tây bắc xuống nam - đông nam, bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi dày đặc, là nơi giao thoa của các cánh cung Đông Triều - Tam Đảo và sông Gâm, cùng với khối núi thượng nguồn sông Chảy Địa hình còn bị chia cắt ở phía tây bởi dãy núi Con Voi, tạo nên sự phức tạp với hơn 73% diện tích là đồi núi.

Tuyên Quang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng từ khí hậu lục địa Bắc Á Trung Hoa, với mùa đông lạnh và hai mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 9, và mùa đông khô ráo từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.260mm đến 2.410mm, phân bố không đều, chủ yếu tập trung vào mùa hạ Nhiệt độ trung bình trong năm từ 22 đến 24 độ C, độ ẩm trung bình đạt 85%, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loại cây trồng nhiệt đới.

Tuyên Quang, một tỉnh miền núi nghèo, nằm xa trung tâm kinh tế và thương mại của cả nước, hiện không có đường sắt và đường không, chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống đường bộ quốc lộ 2, quốc lộ 37 và quốc lộ 279 để kết nối với các tỉnh khác Với địa hình bị phân cắt mạnh và lượng mưa dồi dào, Tuyên Quang sở hữu mạng lưới thủy văn dày đặc, đạt mật độ trung bình 0.98km/km2 Sông Lô dài 145km chảy qua tỉnh, cùng với 18 phụ lưu lớn như sông Gâm và sông Phó Đáy, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông đường thủy Sông Lô đặc biệt quan trọng, là tuyến đường thủy duy nhất nối Tuyên Quang với Hà Giang và các tỉnh phía nam như Hà Nội Ngoài ra, sông Chảy là ranh giới giữa Tuyên Quang và Yên Bái, nhưng bị hạn chế do thủy điện Thác Bà Hệ thống sông ngòi, suối phong phú như sông Năng, ngòi Là, ngòi Quẵng đã bồi đắp phù sa, hình thành những cánh đồng bằng phẳng, thuận lợi cho nông nghiệp.

Mạng lưới sông ngòi ở Tuyên Quang đóng vai trò thiết yếu trong sản xuất và đời sống, cung cấp giao thông đường thủy và nguồn nước cho nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản Sông Lô và sông Gâm còn mang lại tiềm năng thủy điện, với một số công trình thủy điện tại các huyện Chiêm Hóa, Sơn Dương đang cung cấp điện cho mạng lưới quốc gia và thúc đẩy sản xuất công nghiệp Tuy nhiên, hệ thống sông suối ở Tuyên Quang thường dốc và có nhiều ghềnh thác, cộng với khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt, dẫn đến tình trạng ngập lụt vào mùa mưa.

Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, bao gồm khoáng sản nhiên liệu, kim loại, khoáng chất công nghiệp, vật liệu xây dựng, và nước nóng - nước khoáng Trên địa bàn tỉnh có 200 mỏ và 86 điểm khoáng sản, trong đó nổi bật là hai điểm than Tuyên Quang và Linh Đức Các khoáng sản kim loại như quặng titan, mangan, chì - kẽm, sắt, thiếc, antimon, và vàng bạc phân bố rộng rãi tại các huyện Chiêm Hóa, Sơn Dương, và Nà Hang Hệ thống sông suối dày đặc cũng giúp cung cấp nhiều loại khoáng sản vật liệu xây dựng, phân bố dọc theo các bãi bồi bên bờ và lòng các sông Lô, Gâm, Chảy, và Phó Đáy Những khoáng sản này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp trong tỉnh.

Bên cạnh đó, Tuyên Quang còn được thiên nhiên ban tặng những điểm nước nóng, nước khoáng tự nhiên như điểm Mỹ Lâm và điểm Bình

Ca đã thu hút đông đảo du khách mỗi năm nhờ vào hoạt động thăm dò và khai thác, mang lại cơ hội nghỉ dưỡng kết hợp với chữa bệnh Điều này đã góp phần tạo ra nguồn thu lớn cho ngành du lịch của tỉnh.

Tỉnh Tuyên Quang có tổng diện tích tự nhiên là 587.038,5 ha, thuộc mức trung bình so với cả nước Là một tỉnh miền núi với dân số thấp, Tuyên Quang có bình quân diện tích tự nhiên 0,87 ha/người.

Tuyên Quang sở hữu đất đai màu mỡ, phù hợp cho việc phát triển các vùng chuyên canh như chè, mía và lạc, cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến Tổng diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đạt 531.211,10 ha, chiếm 90,54% diện tích tự nhiên, bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản và các loại đất nông nghiệp khác Đất phi nông nghiệp chiếm 7,46% với 43.795,50 ha, bao gồm đất ở, đất chuyên dùng và các loại đất khác Ngoài ra, diện tích đất chưa sử dụng lên tới 11.726,12 ha, tương ứng 20% diện tích tự nhiên.

* Đất đai Tuyên Quang đƣợc phân chia làm các khu vực sau :

Khu vực núi cao phía Bắc tỉnh Tuyên Quang bao gồm huyện Na Hang và các xã vùng cao của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn, chiếm hơn 50% diện tích tự nhiên của tỉnh Khu vực này rất thích hợp cho việc khoanh nuôi rừng tự nhiên, trồng rừng, cũng như phát triển kinh tế lâm - nông nghiệp.

Khu vực núi thấp ở tỉnh bao gồm các xã phía Nam của các huyện Chiêm Hoá, Hàm Yên, Yên Sơn và Sơn Dương, chiếm 40% diện tích tự nhiên của tỉnh Với độ dốc phổ biến từ 100 đến 250, khu vực này rất thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực và các loại cây ngắn ngày khác.

Khu vực đồi và thung lũng dọc sông Lô, sông Phó Đáy, bao gồm Thành phố Tuyên Quang và các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, chiếm khoảng 10% diện tích tự nhiên của tỉnh Đây là địa bàn trọng điểm cho sản xuất công nghiệp và phát triển các trung tâm kinh tế - xã hội lớn Lâm nghiệp là tiềm năng quan trọng cho sự phát triển kinh tế, với độ che phủ rừng đạt 63% vào năm 2005 Rừng Tuyên Quang sở hữu hệ thực vật phong phú, bao gồm 760 loài thuộc 349 chi và 126 họ, với nhiều loài cây gỗ cao và các loại thực vật bậc cao khác Tỉnh cũng có 18 loài thực vật quý hiếm theo danh mục sách đỏ Việt Nam như trầm hương, nghiến và hoàng đàn, thể hiện giá trị sinh thái và tiềm năng bảo tồn của khu vực.

Tuyên Quang, với dân số gần 730 nghìn người vào năm 2013, là nơi sinh sống của 23 dân tộc khác nhau Theo Cục Thống kê tỉnh, mật độ dân số trung bình năm 2010 đạt 124 người/km², tăng 1,25% so với 5 năm trước, xếp thứ 9 cả nước và thứ 5 trong vùng trung du, miền núi phía Bắc Thành phố Tuyên Quang có mật độ cao nhất với 764 người/km², phản ánh vai trò trung tâm kinh tế và xã hội của tỉnh Đa số cư dân sống bằng nông nghiệp, chủ yếu tập trung ở nông thôn, gần nguồn nước và các khu vực giao thông Mật độ dân số của Tuyên Quang thấp hơn trung bình cả nước, nhưng có sự chênh lệch lớn giữa thành phố và nông thôn, gây khó khăn trong phân công lao động và ảnh hưởng đến đời sống xã hội.

Dân số trong độ tuổi lao động tại Tuyên Quang chiếm 54,7%, với lực lượng lao động trong công nghiệp đạt 10,2%, ngành lâm, thuỷ sản 13,6%, và dịch vụ 3,1% Hơn 70% lao động thuộc về lĩnh vực nông nghiệp và nghề tự do, trong khi nguồn lao động chủ yếu là người trẻ.

Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm sút kinh tế trong nước, tỉnh Tuyên Quang đã chủ động lãnh đạo và triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế Tỉnh đã tận dụng hiệu quả các chính sách của chính phủ nhằm kích cầu và thúc đẩy kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sản xuất.

Thành tựu và hạn chế trong công tác phát triển đội ngũ trí thức trẻ

2.2.1 Khái quát về đội ngũ trí thức trẻ tỉnh Tuyên Quang

Việc phát triển đội ngũ trí thức trẻ tại Việt Nam, đặc biệt là ở Tuyên Quang, là rất quan trọng Đầu tư vào giáo dục và đào tạo trí thức trẻ là một trong những chiến lược hàng đầu của Đảng, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước.

Những chủ thể có khả năng lao động sáng tạo và được đào tạo chuyên môn là những chủ nhân tương lai của đất nước Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc, đã dạy rằng “vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm thì phải trồng người” Để một quốc gia và chế độ xã hội tồn tại và phát triển, việc chăm lo, bồi dưỡng và giáo dục thế hệ tương lai là điều vô cùng quan trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng này trong việc xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay Việc phát triển đội ngũ trí thức trẻ trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, nhằm đảm bảo có một lực lượng trí thức mạnh mẽ về cả số lượng lẫn chất lượng Điều này đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Hiện nay, tính đến hết năm 2014, toàn tỉnh có trên 11.000 cán bộ, công chức, viên chức có trình độ đại học trở lên (so với năm 2008 tăng trên 3.300 người)

Trong đó, tỷ lệ trí thức trẻ đạt 37,62% ( tăng 6,35% so với năm 2008) [2, tr.47]

Tỷ lệ trí thức trẻ tại Tỉnh ngày càng tăng, chiếm một phần quan trọng trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức Việc khai thác hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao này sẽ mang lại lợi thế lớn, giúp đội ngũ trí thức trẻ đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức trẻ tại tỉnh đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng Từ năm 2000, đã thực hiện 44 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học - công nghệ cấp tỉnh và nhà nước, mang lại nhiều sáng kiến trong nông nghiệp, lâm nghiệp, khoa học xã hội, và môi trường Các dự án nổi bật bao gồm sản xuất giống lúa thuần năng suất cao, giống ngô lai, và cải tiến công suất nhà máy xi măng Đội ngũ này cũng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, và tuyên truyền chính sách của nhà nước Họ tham gia tích cực vào quản lý hệ thống chính trị, hỗ trợ cấp ủy và chính quyền địa phương trong việc triển khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng an ninh Những đóng góp này có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ trí thức Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém Nghị quyết Trung ương bảy, khóa X đã nhấn mạnh vấn đề này.

Số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức ở Tuyên Quang chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, với cơ cấu bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi và giới tính Thiếu hụt trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và các tập thể khoa học mạnh đã tạo ra những yếu kém trong đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ Do đó, cần thiết phải xây dựng một đội ngũ trí thức mạnh về số lượng và chất lượng, khắc phục sự bất hợp lý trong cơ cấu Sự thống nhất giữa chất lượng, số lượng và cơ cấu sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò của đội ngũ này trong việc phát triển kinh tế tri thức Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đội ngũ trí thức trẻ cần được trang bị kiến thức khoa học và công nghệ tiên tiến để trở thành những người sáng tạo, nhạy bén với cái mới, đồng thời đáp ứng các yêu cầu mới trong quá trình phát triển của tỉnh.

Thứ nhất, về số lượng trí thức trẻ

Trong những năm qua, các cấp ủy đảng và chính quyền tỉnh đã chú trọng vào việc phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ Sự quan tâm này đã dẫn đến sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng của đội ngũ trí thức, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Số lượng trí thức trẻ là yếu tố quan trọng quyết định sức mạnh của đội ngũ trí thức, giúp họ phát huy vai trò hiệu quả trong công việc Mặc dù số lượng trí thức trẻ đã tăng nhanh trong những năm qua, nhưng chỉ chiếm 37,62% trong tổng số cán bộ công chức, viên chức có trình độ đại học Họ hiện diện ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng vẫn còn hạn chế và chưa khai thác hết khả năng sáng tạo Do đó, cần tăng cường số lượng trí thức trẻ, đặc biệt ở những lĩnh vực mà tỉnh đang thiếu hụt, thông qua việc ban hành các danh mục thu hút ngành nghề tập trung vào các ngành sản xuất có thế mạnh.

Tuyên Quang, một tỉnh miền núi với đặc thù nông nghiệp chiếm ưu thế, vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do sản xuất phân tán và thiếu quy hoạch Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp còn chậm, dẫn đến năng suất và chất lượng thấp, chưa hình thành sản xuất hàng hóa chuyên nghiệp Mặc dù đã có những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tốc độ vẫn còn chậm và chưa tạo động lực cho sản xuất kinh doanh Thiếu đội ngũ trí thức trẻ có chuyên môn sâu là một trong những nguyên nhân chính, khi nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn thất nghiệp hoặc không đúng chuyên ngành Tuy nhiên, có những cá nhân như anh Nguyễn Văn Bách, mặc dù có nhiều bằng cấp nhưng đã quyết định theo đuổi nông nghiệp, thành công với mô hình trồng chanh bốn mùa, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm Điều này cho thấy sự cần thiết của những trí thức trẻ dám nghĩ, dám làm để đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Sản xuất công nghiệp tại Tuyên Quang đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế địa phương, mặc dù tỉnh có nhiều tiềm năng khoáng sản nhưng chưa khai thác hiệu quả Nhiều khu công nghiệp như Long Bình An và Sơn Nam - Sơn Dương đã được xây dựng, nhưng mức thu hút vốn đầu tư còn thấp Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đang thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, và năng lượng mới Để đáp ứng yêu cầu của các dây chuyền sản xuất hiện đại, cần có đội ngũ trí thức trẻ, được đào tạo chuyên sâu và có khả năng sáng tạo, nhạy bén với cái mới, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp trong tỉnh.

Trong những năm qua, ngành du lịch và dịch vụ đã phát triển nhanh chóng, đóng góp lớn vào nguồn thu của tỉnh Các nhóm dịch vụ như du lịch, vận tải, thông tin liên lạc, tài chính và ngân hàng đang cần đội ngũ trí thức trẻ để nâng cao vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Ngành y tế đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt bác sĩ, với tỷ lệ chỉ 6,2 bác sĩ/10.000 dân, điều này cũng phản ánh tình hình chung của nhiều tỉnh thành trong cả nước Để khắc phục vấn đề này, tỉnh đã thành lập Hội Thầy thuốc trẻ, thu hút sự tham gia của nhiều y bác sĩ, góp phần khám chữa bệnh và cấp phát thuốc miễn phí cho các vùng khó khăn Sự tận tâm và nhiệt huyết của các thầy thuốc đã giúp nhiều người dân được cứu chữa kịp thời Do đó, việc phát triển đội ngũ bác sĩ và thu hút nhân tài từ các trường đại học y, cả trong và ngoài nước, là cần thiết để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Ngành giáo dục Tuyên Quang hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt giáo viên đạt chuẩn, đặc biệt là trong các lĩnh vực ngoại ngữ, tin học, âm nhạc và mỹ thuật, mặc dù số lượng cán bộ công chức trong ngành giáo dục chiếm tỷ lệ cao Điều này trở nên nghiêm trọng hơn khi nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Trường Cao đẳng sư phạm Tuyên Quang (nay là Đại học Tân Trào) ở các chuyên ngành như Văn - Sử, Tiểu học, Toán - Lý không tìm được việc làm.

Thứ hai, về chất lượng

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam đặt ra yêu cầu mới cho nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao Đội ngũ trí thức trẻ, với nền tảng đào tạo vững chắc và chuyên môn sâu, cần có khả năng sáng tạo và tư duy độc lập Để xây dựng một đội ngũ trí thức mạnh, cần chú trọng cả số lượng và chất lượng, vì hai yếu tố này có mối quan hệ tương hỗ Chất lượng đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, được đánh giá qua thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách sống, và khả năng nghiên cứu, sáng tạo, cũng như tiếp thu tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới Do đó, việc đánh giá chất lượng đội ngũ trí thức trẻ cần xem xét tổng thể năng lực và phẩm chất, thể hiện qua kết quả hoạt động khoa học của họ.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRẺ TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH TUYÊN QUANG HIỆN NAY

Ngày đăng: 11/11/2021, 18:52

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Quang Lộc (2000), Bản lĩnh người trí thức chân chính, Trung tâm Unessco thông tin tư liệu lịch sử Việt Nam,Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản lĩnh người trí thức chân chính, Trung tâm Unessco thông tin tư liệu lịch sử Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Quang Lộc
Năm: 2000
3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy (2010), Các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang
Tác giả: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, Ban Tuyên giáo tỉnh ủy
Năm: 2010
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2008), Nghị quyết số 27 - NQ/TƯ “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Tác giả: Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Năm: 2008
5. Ban Tư tưởng - Văn hóaTrung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
Tác giả: Ban Tư tưởng - Văn hóaTrung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
6. Ban Tư tưởng - Văn hóaTrung ương (2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh
Tác giả: Ban Tư tưởng - Văn hóaTrung ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2007
7. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư trưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư trưởng Hồ Chí Minh
Tác giả: Hoàng Chí Bảo
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2006
8. Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị Lịch (1998), Trí thức trong công cuộc đổi mới ở đất nước, Nxb Lao Động, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trí thức trong công cuộc đổi mới ở đất nước
Tác giả: Nguyễn Quốc Bảo, Đoàn Thị Lịch
Nhà XB: Nxb Lao Động
Năm: 1998
10. Hoàng Đình Cúc (2009), “Phát triển bền vững ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Triết học, tháng 8 (219) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển bền vững ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí "Triết học
Tác giả: Hoàng Đình Cúc
Năm: 2009
11. Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang (2014),Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê 2013
Tác giả: Cục Thống kê tỉnh Tuyên Quang
Nhà XB: Nxb Thống kê
Năm: 2014
12. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng phát triển đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tác giả: Phạm Tất Dong
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2001
14. Trần Thị Tâm Đan(1996), “Phát huy và phát triển nguồn nhân lực trẻ”, Tạp chí Cộng sản, số 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “"Phát huy và phát triển nguồn nhân lực trẻ”, Tạp chí "Cộng sản
Tác giả: Trần Thị Tâm Đan
Năm: 1996
15. Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV, tháng 10 năm 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XV
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1986
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1993
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1994
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 1996
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1997
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2001
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2006
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương khóa X
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2008

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w