1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian ở đài phát thanh và truyền hình phú thọ

111 34 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 111
Dung lượng 2,35 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Một số khái niệm công cụ (18)
  • 1.2. Các quan điểm của nhà nước trong việc quảng bá, phát triển văn nghệ dân gian (29)
  • 1.3. Vai trò của tổ chức sản xuất (34)
  • 1.4. Vai trò của các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian (36)
  • 1.5. Quy trình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình văn nghệ dân gian (38)
  • 1.6. Những yêu cầu cơ bản đối với chương trình truyền hình về văn nghệ dân gian (43)
  • Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN TẠI ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH PHÚ THỌ (18)
    • 2.1. Giới thiệu về Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ (46)
    • 2.2. Tổ chức sản xuất các chương trình văn nghệ dân gian ở Đài Phát (49)
    • 2.3. Các nguồn lực tổ chức sản xuất chương trình văn nghệ dân gian trên sóng truyền hình Phú Thọ (64)
    • 2.4. Đánh giá chung (66)
  • Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG TRÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH PHÚ THỌ (46)
    • 3.1. Những vấn đề đặt ra (77)
    • 3.2. Yêu cầu thực tiễn khách quan đối với việc nâng cao chất lƣợng tổ chức sản xuất các chương trình văn nghệ dân gian (80)
    • 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất các chương trình văn nghệ dân gian trên sóng truyền hình Phú Thọ (82)
  • KẾT LUẬN (94)

Nội dung

Một số khái niệm công cụ

Tổ chức sản xuất là khái niệm quan trọng được áp dụng trong nhiều ngành nghề khác nhau Theo Từ điển Tiếng Việt, tổ chức được định nghĩa là việc sắp xếp và bố trí các bộ phận nhằm thực hiện một nhiệm vụ hoặc chức năng chung.

[Hoàng Phê, (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng]

Sản xuất là quá trình tạo ra vật phẩm cho xã hội thông qua việc sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động Hoạt động này có thể diễn ra nhờ sức lao động của con người hoặc máy móc, nhằm chế biến nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết cho cuộc sống.

(2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng]

Sản xuất là hoạt động kinh tế cốt lõi của con người, bao gồm quá trình tạo ra sản phẩm để sử dụng hoặc trao đổi Quyết định về sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố chính như: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và sản xuất cho ai Ngoài ra, giá thành sản xuất và cách tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực cần thiết cũng là những yếu tố quan trọng trong quá trình này.

Hệ thống sản xuất có các đặc tính:

Một là, hệ thống sản xuất chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm hay dịch vụ cho nhu cầu xã hội

Các hình thức sản xuất khác nhau có thể có đầu vào và đầu ra khác nhau, nhưng điểm chung của chúng là chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành kết quả đầu ra phục vụ cho đời sống con người.

Tổ chức sản xuất là những biện pháp và giải pháp cần thiết để duy trì sự kết nối giữa các cá nhân và bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất.

Tổ chức sản xuất là quá trình xây dựng các phương án và giải pháp để hình thành các bộ phận sản xuất liên kết chặt chẽ, đồng thời phân bổ chúng một cách hợp lý nhằm tối ưu hóa hiệu quả sản xuất.

Tổ chức sản xuất là quá trình kết nối nhân sự và quy trình lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội Điều này được thực hiện thông qua việc sử dụng tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động, tuân theo các quy tắc nghề nghiệp và quy trình nhất định.

Tổ chức sản xuất là quá trình phân chia quy trình sản xuất phức tạp thành các bước công việc đơn giản, từ đó áp dụng công nghệ, biện pháp phân công lao động và công cụ lao động phù hợp Mục tiêu là tìm giải pháp phối hợp hài hòa giữa các bộ phận để đạt hiệu quả cao nhất Do đó, tổ chức sản xuất đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất.

Truyền hình là hình thức truyền tải hình ảnh và âm thanh đến xa bằng sóng radio hoặc qua đường dây Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm này được định nghĩa rõ ràng, cho thấy vai trò quan trọng của truyền hình trong việc kết nối thông tin và giải trí.

Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, truyền hình không chỉ tái hiện cuộc sống thực mà còn mang đến một cái nhìn rõ nét và đẹp hơn về những gì đang diễn ra Người xem cảm nhận như họ đang trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia vào các sự kiện thực tế, tạo nên sự kết nối mạnh mẽ với nội dung mà truyền hình mang lại.

(1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội , tr.132]

Trong "Giáo trình báo chí truyền hình", PGS.TS Dương Xuân Sơn giải thích rằng thuật ngữ "Truyền hình" (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và Hy Lạp, trong đó "Tele" có nghĩa là "ở xa" và "videre" có nghĩa là "thấy được" Điều này cho thấy rằng dù phát triển ở bất kỳ quốc gia nào, tên gọi "truyền hình" đều mang ý nghĩa chung là khả năng nhìn thấy từ xa.

Truyền hình, dưới góc độ kỹ thuật, là hệ thống cho phép truyền tải hình ảnh và âm thanh từ trạm phát đến người xem qua một khoảng cách nhất định Phương thức truyền dẫn sử dụng khả năng lan truyền của sóng điện từ trong môi trường xác định, có thể là không gian hoặc bề mặt kim loại Khi sóng được phát ra vào không gian, nó được gọi là sóng vô tuyến, trong khi truyền trên bề mặt dây dẫn kim loại được gọi là sóng hữu tuyến.

Thuật ngữ “chương trình truyền hình” được hiểu qua hai khía cạnh chính Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, trường hợp đầu tiên, nó chỉ toàn bộ nội dung thông tin phát sóng trong một ngày, tuần hay tháng của từng kênh hoặc toàn bộ đài truyền hình Trường hợp thứ hai, chương trình truyền hình ám chỉ một hoặc nhiều tác phẩm hoàn chỉnh, kết hợp với các thông tin tài liệu khác, được tổ chức theo một chủ đề cụ thể với hình thức nhất quán, thời lượng ổn định và phát sóng định kỳ.

(1999), Tác phẩm báo chí, tr.142 ]

Theo PGS.TS Dương Xuân Sơn, chương trình truyền hình là sự kết hợp hợp lý giữa tin bài, bảng biểu, và tài liệu hình ảnh, âm thanh, bắt đầu bằng lời giới thiệu và nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt Mục tiêu của chương trình là đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả.

Trong cuốn sách “Sản xuất chương trình truyền hình” của TS Trần Bảo Khánh, khái niệm “chương trình truyền hình” được định nghĩa là “kết quả cuối cùng của quá trình giao tiếp với công chúng” Điều này cho thấy chương trình truyền hình không chỉ đơn thuần là thông tin mà còn ảnh hưởng đến tư duy và hành động của người xem Để đạt được hiệu quả cao, các tác phẩm tin, bài phát sóng cần được lựa chọn và sắp xếp hợp lý, giúp khán giả tiếp nhận nội dung một cách đầy đủ, hệ thống và sâu sắc.

Các quan điểm của nhà nước trong việc quảng bá, phát triển văn nghệ dân gian

Đảng ta luôn xem trọng việc xây dựng và phát triển nền văn hóa – văn nghệ truyền thống của dân tộc từ khi thành lập cho đến nay Qua từng giai đoạn lịch sử, Đảng đã đưa ra các chủ trương và đường lối phù hợp nhằm phát triển văn hóa, đáp ứng thực tiễn của đất nước.

Theo Đảng và Nhà nước, văn hóa – văn nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng con người Nghị quyết 23-NQ/TW năm 2008 của Bộ Chính trị khẳng định rằng văn hóa, văn học và nghệ thuật là động lực lớn trong việc tạo dựng nền tảng tinh thần cho xã hội và phát triển toàn diện con người Việt Nam.

Vào ngày 24 tháng 12 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1905/QĐ-TTg, phê duyệt Dự án công bố và phổ biến tài sản văn hóa văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam trong giai đoạn I (2008 – 2012).

Vào ngày 26 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1598/QĐ-TTg phê duyệt Dự án công bố và phổ biến tài sản văn hóa văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam trong giai đoạn II, kéo dài từ năm 2013 đến 2017.

Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước Văn hóa cần được xem xét ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội, nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời thể hiện sự thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng nhân văn, dân chủ và khoa học.

Tại Đại hội Đại biểu Hội Văn nghệ dân gian nhiệm kỳ VIII (2020-

Vào năm 2025, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, nhấn mạnh rằng văn hóa dân gian, bao gồm văn học và nghệ thuật dân gian, là sản phẩm sáng tạo, lưu giữ và trao truyền của nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử Khối di sản văn hóa - văn nghệ dân gian của 54 dân tộc vô cùng phong phú, chứa đựng những giá trị tinh thần quý báu gắn liền với đời sống con người Đại hội đã đề ra phương hướng hoạt động cho nhiệm kỳ VIII (2020-2025), trong đó khẳng định Hội Văn nghệ dân gian cần nâng cao tinh thần trách nhiệm và khơi dậy tình yêu đối với việc nghiên cứu, sưu tầm văn nghệ dân gian của các dân tộc Hội cũng sẽ tiếp tục khám phá các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời nghiên cứu sâu sắc các Nghị quyết của Đảng nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của tổ chức Hội và hội viên, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và điều chỉnh tư duy về văn hóa để phù hợp với thực tiễn đất nước Mặc dù có những đổi mới trong nội dung xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, tinh thần coi trọng văn hóa và mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt Đặc biệt, đối với tỉnh Phú Thọ, điều này càng trở nên quan trọng hơn trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.

Phú Thọ, vùng đất Tổ và cái nôi của văn hóa Lạc Việt, là kinh đô đầu tiên của Việt Nam Nơi đây bảo tồn nhiều di sản văn hóa phong phú, bao gồm cả di sản văn hóa phi vật thể và vật thể, gắn liền với thời đại các Vua Hùng, tạo nên diện mạo văn hóa đặc sắc của vùng đất này.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một chính sách quan trọng và liên tục của tỉnh, nhằm gìn giữ những nét độc đáo không thể tìm thấy ở nơi khác.

Di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc tại tỉnh Phú Thọ rất phong phú và đặc sắc, mang đậm sắc thái cội nguồn và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển của tỉnh và đất nước Phú Thọ xác định di sản văn hóa là nguồn lực, tiềm năng và điểm tựa cho sự sáng tạo, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hóa xã hội Trong nhiều năm qua, tỉnh đã triển khai các chủ trương, chính sách và biện pháp tích cực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa bền vững, hướng tới một tầm nhìn chiến lược trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Thọ đến năm 2020” Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt xác định mục tiêu

Phú Thọ đang được xây dựng thành trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, với thành phố Việt Trì trở thành "Thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam" Tỉnh đã triển khai Dự án "Phục dựng các lễ hội truyền thống tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2010", tổ chức nhiều lễ hội hàng năm, kết hợp giáo dục truyền thống và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thể hiện lòng tri ân đối với các Vua Hùng và tổ tiên Việc bảo tồn và khôi phục lễ hội truyền thống, đặc biệt là Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày càng hiệu quả, cùng với các chương trình du lịch liên vùng như "Du lịch về cội nguồn 3 tỉnh Phú Thọ – Yên Bái – Lào Cai" Các chương trình quảng bá lễ hội, như "Linh diệu muôn đời đất Tổ Hùng Vương" và "Huyền thoại mẹ Âu Cơ", đã để lại ấn tượng sâu sắc cho du khách trong và ngoài nước.

Phú Thọ, với nhiều chương trình và dự án khoa học, đã chú trọng phát triển di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Hát Xoan Những đề tài này không chỉ mang tính thực tiễn mà còn đạt hiệu quả cao, như dự án "Xây dựng hồ sơ khoa học về Đền Hùng và các di tích thời đại" Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tại miền quê di sản này đang được triển khai mạnh mẽ.

Nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa Hùng Vương tại Phú Thọ bao gồm các hoạt động như nghiên cứu tín ngưỡng Hùng Vương, hát Xoan và hệ thống tín ngưỡng, tục thờ cúng Hùng Vương Các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế, như hội thảo về hát Xoan và tín ngưỡng Hùng Vương, đã góp phần quảng bá và củng cố giá trị di sản vùng đất Tổ Ngoài ra, việc xây dựng các điểm du lịch gắn với lễ hội truyền thống cũng nhằm phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm và hỗ trợ nguồn lực cho việc trùng tu, tôn tạo các di tích tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng qua các Quyết định số 959/QĐ-TTg (03/9/2004), số 2069/QĐ-TTg (10/12/2009) và số 1319/QĐ-TTg Những quyết định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lịch sử của lễ hội Đền Hùng.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng - Trung tâm thực hành Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vương

Ngày 20/4/2009, Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Thọ đã ra Nghị quyết số 179/2009/NQ-HĐND về quy hoạch phát triển văn hóa tỉnh Phú Thọ đến năm

2020, trong đó chủ trương phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian làm nền tảng tinh thần vững chắc để Phú Thọ kinh tế, xã hội và con người

Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, trong đó nổi bật là Hát Xoan Phú Thọ Đề án này nhằm bảo vệ và phát triển nghệ thuật Hát Xoan, một di sản văn hóa đặc sắc của Việt Nam.

Vai trò của tổ chức sản xuất

Việc sản xuất chương trình truyền hình yêu cầu một đội ngũ chuyên nghiệp hoạt động theo quy trình thống nhất, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất Mỗi thành viên trong ê-kíp có nhiệm vụ và vai trò riêng, nhưng sự phối hợp nhịp nhàng là điều cần thiết Thực hiện đúng quy trình và phối hợp ăn ý không chỉ nâng cao chất lượng chương trình mà còn tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian sản xuất.

1.3.1 Vai trò của tổ chức sản xuất đối với chất lượng chương trình

Tổ chức sản xuất tốt là yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng chương trình truyền hình Tác phẩm truyền hình, với sự sáng tạo đa dạng, được đánh giá qua nhiều tiêu chí khác nhau như đề tài mới lạ, kịch bản hấp dẫn và hình ảnh đẹp Các tiêu chí này chủ yếu được xác định trong quá trình tổ chức sản xuất, trong đó tiền kỳ đóng vai trò quyết định cho việc ghi hình và cung cấp chất liệu cho hậu kỳ Một tiền kỳ chất lượng cao tạo nền tảng cho việc hoàn thiện ghi hình và hậu kỳ, mặc dù không thể phủ nhận vai trò quan trọng của khâu hậu kỳ trong việc tổ chức và phát huy sức mạnh của hình ảnh, âm thanh và kịch bản.

1.3.2 Vai trò của tổ chức sản xuất đối với nguồn lực sản xuất

Tổ chức sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu quy mô sử dụng nguồn lực và nâng cao hiệu quả sản xuất Các Đài truyền hình hiện nay cần cải thiện chất lượng và giảm chi phí để cạnh tranh với các đơn vị truyền thông mới Việc tổ chức sản xuất khoa học và chính xác, cùng với sự điều phối hợp lý giữa các chức danh, sẽ giúp tối ưu hóa quy trình và sử dụng kinh phí hiệu quả Tuy nhiên, nếu có bất kỳ khâu nào không theo kế hoạch, chi phí sản xuất có thể tăng lên và thời gian thực hiện sẽ bị kéo dài Đặc biệt, trong bối cảnh cộng đồng dân tộc thiểu số, sự phối hợp trong sản xuất chương trình có thể gặp khó khăn nếu không có kinh phí, dẫn đến việc tăng chi phí hoàn thành nhiệm vụ.

Vai trò của các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững, trong xã hội hiện đại, báo chí và truyền thông đại chúng là kênh giao lưu và truyền tải văn hóa nhanh nhất và hiệu quả nhất Những đặc trưng của báo chí giúp nó tác động kịp thời đến đông đảo người dân, trên phạm vi rộng lớn với nhiều phương thức và phương tiện đa dạng Do đó, báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển các giá trị văn hóa trong cộng đồng.

Tại Hội thảo “Báo chí với bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc” diễn ra vào ngày 24/10/2014, GS Hoàng Chương, Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam, đã nhấn mạnh vai trò thiết yếu của báo chí trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Ông cho rằng báo chí không chỉ là công cụ quan trọng trong việc quảng bá văn hóa mà còn góp phần thúc đẩy việc ra đời Luật Di sản Văn hóa, đồng thời giúp ngăn chặn sự xâm hại đối với di sản văn hóa.

Bên cạnh đó, còn phát huy, tôn vinh những tài năng, nghệ thuật dân tộc từ xa xưa và các thế hệ nghệ sĩ tài năng kế tiếp…”

NSND Vương Duy Biên, Nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và

Du lịch nhấn mạnh rằng báo chí truyền thông cần đóng vai trò đồng hành trong việc bảo tồn văn hóa, bằng cách vừa biểu dương những mô hình địa phương thực hiện tốt, vừa phê phán những nơi chưa làm tốt Nhiệm vụ của báo chí không chỉ là tuyên truyền, mà còn phải giải thích cho công chúng hiểu về giá trị và vẻ đẹp của di sản văn hóa dân tộc.

Các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian thuộc loại hình báo chí truyền hình, đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh và phát triển văn hóa – văn nghệ Chúng không chỉ cung cấp thông tin mà còn góp phần bảo tồn và quảng bá giá trị văn hóa dân gian.

Thông tin tuyên truyền về đặc trưng văn nghệ dân gian và giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc giúp nâng cao nhận thức của công chúng Đồng thời, nó cung cấp thông tin hữu ích cho các cơ quan chức năng và những người làm công tác quản lý, nghiên cứu văn hóa trong việc bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn nghệ dân gian.

Chúng tôi tích cực tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện các chủ trương của Đảng, cũng như các chính sách và pháp luật của Nhà nước liên quan đến di sản văn hóa và văn hóa – nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.

Các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian không chỉ phản ánh vẻ đẹp của văn hóa truyền thống, mà còn khơi dậy lòng tự hào dân tộc và phát huy vai trò của các dân tộc trong việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa nghệ thuật của mình.

Các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ra thế giới, khẳng định những đóng góp to lớn của nền văn hóa Việt vào kho tàng văn hóa nhân loại Chúng không chỉ giới thiệu những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc mà còn thúc đẩy giao lưu và hội nhập văn hóa với các quốc gia, dân tộc khác.

Bài viết nhằm phát hiện và tôn vinh những cá nhân có đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ, truyền dạy và phát triển các loại hình nghệ thuật dân tộc từ xưa đến nay.

Góp phần đấu tranh và phê phán các biểu hiện phản cảm trong văn hóa nghệ thuật, đồng thời lên án những hành vi xâm hại văn hóa dân tộc Cần loại bỏ hủ tục và quan niệm lạc hậu, không còn phù hợp với chuẩn mực văn hóa của thời đại mới.

Khuyến khích và phát huy khả năng sáng tạo giá trị mới trong cộng đồng dân tộc, đồng thời thúc đẩy nỗ lực khôi phục và bảo tồn phong tục, tập quán, cũng như văn hóa bản địa quý giá của các dân tộc.

Quy trình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình văn nghệ dân gian

Quy trình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình văn nghệ dân gian khác nhau giữa hình thức truyền hình trực tiếp và hình thức có hậu kỳ Trong chương trình trực tiếp, mọi hoạt động diễn ra ngay tại thời điểm phát sóng, yêu cầu sự chuẩn bị kỹ lưỡng và khả năng ứng biến cao Ngược lại, chương trình có hậu kỳ cho phép biên tập và chỉnh sửa nội dung sau khi ghi hình, mang lại sự hoàn thiện và chuyên nghiệp hơn cho sản phẩm cuối cùng.

Để sản xuất một chương trình truyền hình văn nghệ dân gian phát sóng trực tiếp, quy trình tổ chức thường bao gồm các bước sau: xác định nội dung chương trình, lên kế hoạch sản xuất, chuẩn bị thiết bị và nhân sự, tiến hành ghi hình và cuối cùng là phát sóng trực tiếp.

Bước 1: Xác định đề tài

Bước 2: Sau khi xác định chủ đề, tiến hành khảo sát là bước quan trọng tiếp theo, chia thành hai giai đoạn Giai đoạn đầu tiên tập trung vào việc khảo sát địa hình và kiểm tra các phương tiện kỹ thuật hiện có để đảm bảo khả năng tổ chức chương trình trực tiếp Nếu cần thiết, có thể bổ sung hoặc thay thế thiết bị Giai đoạn thứ hai liên quan đến việc khảo sát khả năng ghi hình, nhằm đảm bảo thu được những hình ảnh lý tưởng Công việc này bao gồm tìm hiểu về địa hình, khí hậu, thời tiết và bối cảnh để lựa chọn những góc máy đẹp nhất Người khảo sát cần chú ý đến các yếu tố kỹ thuật như ánh sáng, chuẩn bị đạo cụ và tận dụng các yếu tố tự nhiên để tối ưu hóa quá trình ghi hình.

Bước 3 trong quy trình sản xuất chương trình là xây dựng kịch bản, một công việc vô cùng quan trọng để định hình nội dung Kịch bản truyền hình không chỉ là xương sống của chương trình mà còn là nền tảng tư tưởng cho các nội dung được trình bày Sau khi hoàn thiện kịch bản, nhà tổ chức sản xuất cần phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, đảm bảo lựa chọn những người phù hợp với từng hoàn cảnh Việc tạo dựng một ê-kíp làm việc ăn ý sẽ giúp hạn chế những khúc mắc trong quá trình thực hiện chương trình.

Bước 4: Ghi hình và phát sóng Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, mọi người cần tuân thủ phân công lao động để đảm nhận vai trò của mình trong sự kiện Chương trình truyền hình trực tiếp diễn ra đồng thời với sự kiện, vì vậy thời điểm và cơ hội chỉ có một lần Tất cả hình ảnh và âm thanh được phát sóng trực tiếp, mọi sai sót xuất hiện trên hình đều không thể thay đổi.

Bước 5: Tổ chức rút kinh nghiệm

1.5.2 Quy trình tổ chức sản xuất chương trình có hậu kỳ

Các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian có hậu kỳ nhìn chung được thực hiện theo các bước như sau:

Bước 1 – Khảo sát, lựa chọn loại hình văn nghệ dân gian

Văn nghệ dân gian đa dạng với nhiều loại hình khác nhau Để dàn dựng chương trình, phóng viên và biên tập viên cần lựa chọn thời điểm phù hợp, xác định đề tài có sức hút với công chúng và phù hợp với kế hoạch sản xuất của cơ quan Bên cạnh đó, họ cũng phải xem xét tính khả thi của việc chuyển thể loại hình nghệ thuật đó thành chương trình truyền hình.

Sau khi xác định đề tài, đội ngũ sản xuất chương trình truyền hình tiến hành khảo sát thực tế, một bước quan trọng để đảm bảo quá trình ghi hình diễn ra thuận lợi Khảo sát giúp ê kíp xác định góc tiếp cận và khả năng thực hiện chương trình, đồng thời kiểm tra các yêu cầu và kế hoạch đã đề ra Trong quá trình này, ê kíp cần phát huy tư duy sáng tạo để hình dung góc máy, hình ảnh lên hình, cũng như xử lý các vấn đề phát sinh liên quan đến âm thanh, ánh sáng và sự xuất hiện của nhân vật.

Bước 2 - Xây dựng kịch bản chương trình

Kịch bản chương trình là yếu tố quan trọng để đảm bảo sự thống nhất và logic trong quá trình sản xuất Thông thường, kịch bản chỉ mang tính dự kiến và cần được xem xét lại để đảm bảo nội dung phù hợp, chất lượng tốt và độc đáo Sau khi phê duyệt, kịch bản sẽ chính thức được đưa vào sản xuất Với sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành truyền hình hiện nay, kịch bản mới lạ và hấp dẫn là điều cần thiết để thu hút khán giả Đặc biệt, các chương trình văn nghệ dân gian cần đổi mới và sáng tạo để không bị nhàm chán, khi mà khán giả có nhiều lựa chọn hơn bao giờ hết.

Bước 3 – Tiến hành sản xuất tiền kì

Sau khi chuẩn bị xong kịch bản, địa điểm và phương tiện sản xuất, quá trình ghi hình sẽ bắt đầu Ghi hình là bước quan trọng để quay lại các cảnh theo kịch bản, yêu cầu đạo diễn chọn góc quay chuẩn và bắt trọn khoảnh khắc Đối với chương trình thông tấn, thường chỉ cần 1 máy quay, nhưng chương trình văn nghệ cần từ 2 đến 3 máy quay, thậm chí có thể sử dụng flycam hoặc steadicam để tạo sự sinh động Cần chú ý đến cỡ cảnh và động tác máy để tránh rung lắc, vì việc ghi hình lại rất khó khăn, nhất là trong những sự kiện như lễ hội Bố cục khung hình cũng cần được chỉnh sửa hợp lý để có những hình ảnh đẹp nhất Trong quá trình ghi hình, sản phẩm có thể không hoàn toàn giống kịch bản do thực tế thay đổi, yêu cầu sự linh hoạt từ đội ngũ thực hiện, nhưng vẫn phải giữ vững chủ đề của chương trình Sau khi ghi hình, dữ liệu sẽ được xử lý trong giai đoạn sản xuất hậu kỳ.

Bước 4 – sản xuất hậu kỳ (dựng hình)

Giai đoạn sản xuất hậu kỳ bao gồm việc viết và phê duyệt lời bình, thể hiện lời bình, dựng hình theo kịch bản, chọn tiếng động và lồng nhạc nền Sau khi phóng viên hoàn thành lời bình, cần có sự phê duyệt từ Lãnh đạo phòng trước khi phát thanh viên đọc và tiến hành dựng Dựng hình là quá trình kết nối hình ảnh, tiếng động và lời bình thành một sản phẩm hoàn chỉnh, trong đó hình ảnh được tổ chức lại và các yếu tố phụ trợ như lời bình, tiếng động và âm nhạc sẽ nâng cao khả năng thể hiện, hoàn thiện chương trình.

Quá trình dựng hình yêu cầu sự sáng tạo và công phu từ kỹ thuật viên và biên tập viên trong việc lựa chọn các kỹ xảo hình ảnh và âm thanh, nhằm nâng cao ấn tượng và giá trị của hình ảnh, đồng thời làm cho chương trình trở nên sinh động và hấp dẫn hơn Tuy nhiên, cần tránh lạm dụng kỹ xảo để không làm mất đi tính chân thực của hình ảnh và âm thanh tự nhiên.

Bước 5 – Duyệt và phát sóng: Để chương trình được phát sóng trên ti vi, nó cần được phê duyệt bởi các cấp lãnh đạo Tại Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, sau khi biên tập viên và kỹ thuật viên hoàn thiện chương trình, sẽ trình Lãnh đạo phòng chuyên môn duyệt lần 2, tiếp theo là Ban Giám đốc Nếu chương trình đáp ứng yêu cầu, nó sẽ được đưa vào danh mục phát sóng; ngược lại, nếu không đạt yêu cầu, ê kíp thực hiện sẽ phải quay lại khâu hậu kỳ để chỉnh sửa.

Sau khi Ban Giám đốc phê duyệt, tác phẩm đạt yêu cầu sẽ được phát sóng Phát sóng là giai đoạn cuối cùng để chương trình có thể đến tay khán giả qua màn hình ti vi.

Bước 6 – Tiếp nhận và xử lý sự phản hồi của khán giả

Phản hồi từ khán giả ngày càng trở thành yếu tố quan trọng mà các nhà Đài chú trọng, xem như kênh đánh giá chất lượng chương trình Dựa trên những phản hồi này, các Đài sẽ điều chỉnh chương trình để nâng cao chất lượng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khán giả.

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN TẠI ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH PHÚ THỌ

Giới thiệu về Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ

Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ là đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, có nhiệm vụ sản xuất và phát sóng các chương trình phát thanh truyền hình theo quy định của Luật báo chí Đài chịu sự hướng dẫn chuyên môn từ Đài tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam, đồng thời tuân thủ quản lý nhà nước về báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông.

2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển

Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, tiền thân là Đài Truyền thanh Phú Thọ, được thành lập vào ngày 19/9/1956 Trong những năm đầu hoạt động, với chỉ 6 cán bộ, Đài đã hoàn thành nhiều sự kiện quan trọng của tỉnh và truyền tải kịp thời các chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân Đài đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.

Vào ngày 7 tháng 9 năm 1993, kênh 7 VHF đã phát sóng chương trình truyền hình đầu tiên, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của ngành Phát thanh – Truyền hình tại quê hương Đất Tổ.

Vào ngày 19/5/2010, Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ đã chính thức khai trương website tại địa chỉ http://phuthotv.vn, đánh dấu sự ra đời của phương tiện báo chí thứ ba trong cơ quan báo nói - báo hình.

Vào ngày 29/3/2014, Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ đã chính thức đưa sóng truyền hình lên vệ tinh Vinasat1, đạt tỷ lệ tiếp cận 100% cho người dân trong tỉnh Sự kiện này không chỉ nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền mà còn định hướng dư luận, giúp triển khai hiệu quả các Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng, cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước Điều này đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội, đồng thời giữ vững ổn định quốc phòng và an ninh cho tỉnh Phú Thọ.

Vào ngày 26/3/2016, Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ đã hoàn tất việc chuyển đổi sang sản xuất và phát sóng tín hiệu truyền hình chuẩn HD Đồng thời, đơn vị cũng cho ra mắt ấn phẩm PTV, đánh dấu sự phát triển của một cơ quan báo chí đa phương tiện với bốn phương tiện truyền thông hội tụ.

Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ cam kết phát triển các chương trình Thời sự, Chuyên đề, Khoa giáo và Văn nghệ với phương châm “nhanh, đúng, trúng, hay”, nhằm mang đến nội dung nhanh nhạy, thiết thực, đa dạng và đậm bản sắc.

Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ đang nỗ lực đổi mới để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đồng thời kêu gọi hợp tác trong sản xuất và trao đổi chương trình Đài cũng tìm kiếm tài trợ để phát sóng các chương trình phim truyện, thông tin kinh tế, văn hóa, văn nghệ và gameshow truyền hình Slogan của Đài thể hiện cam kết này.

“PTV – luôn bên bạn, hợp tác để hướng tới thành công!”

2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ là đơn vị sự nghiệp, trực thuộc UBND tỉnh Phú Thọ, thực hiện chức năng là cơ quan báo chí của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Phú Thọ, thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chức năng Báo chí (phát thanh, truyền hình và Trang thông tin điện tử); góp phần giáo dục, nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân bằng các chương trình phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử

Lập kế hoạch hàng năm và dài hạn để thực hiện nhiệm vụ được giao, đồng thời tham gia xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển sự nghiệp phát thanh, truyền thanh, truyền hình Tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch đã được phê duyệt theo sự phân công của UBND cấp tỉnh và các cấp có thẩm quyền.

Chúng tôi sản xuất và phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình, cùng với nội dung thông tin trên trang điện tử bằng tiếng Việt, các ngôn ngữ dân tộc và tiếng nước ngoài, tất cả đều tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.

Phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất các chương trình phát thanh, truyền hình phát sóng trên sóng Đài quốc gia

Hướng dẫn chuyên môn và kỹ thuật cho các Đài Truyền thanh - Truyền hình tại các huyện, thành phố trong tỉnh theo quy định pháp luật; phối hợp với UBND các huyện, thành phố để chỉ đạo sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình cho Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh; tuyên truyền các mục tiêu phát triển về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, và văn hóa - xã hội của địa phương.

Nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử; tổ chức đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật theo quy định pháp luật là những hoạt động quan trọng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong ngành này.

Tổ chức các hoạt động quảng cáo và kinh doanh, tiếp nhận tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, đồng thời quản lý lao động, vật tư, tài sản và ngân sách nhà nước Sử dụng nguồn thu từ quảng cáo, dịch vụ, kinh doanh và tài trợ theo quy định pháp luật.

Thực hiện các chế độ và chính sách liên quan đến nâng bậc lương, tuyển dụng, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, cùng những chế độ khác cho viên chức và người lao động theo quy định của pháp luật là rất quan trọng.

Tổ chức sản xuất các chương trình văn nghệ dân gian ở Đài Phát

2.2.1 Vai trò của các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian ở Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ

Các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nội dung và hình thức thể hiện phong phú, đồng thời chiếm một thời lượng đáng kể trong khung chương trình phát sóng của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ.

Thông qua các chương trình truyền hình về văn nghệ dân gian trên sóng truyền hình Phú Thọ, khán giả có cơ hội tiếp cận và hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa phong phú của vùng miền Những chương trình này không chỉ mang đến cái nhìn sâu sắc về di sản văn hóa dân gian mà còn góp phần bảo tồn và phát huy những nét đẹp truyền thống trong đời sống hiện đại.

Phó Giám Đốc Phó Giám Đốc

Phòng Dịch vụ và Quảng cáo

TKBT và thông tin điện tử

Phòng Văn nghệ và giải trí

Phòng Kỹ thuật và công nghệ

Phòng Chuyên đề và Dân tộc - Miền núi

Giám đốc văn hóa và văn nghệ dân gian tại tỉnh có nhiệm vụ hiểu biết về phong tục và tập quán của các dân tộc địa phương Điều này giúp người xem mở rộng kiến thức và phát triển thái độ trân trọng các giá trị văn hóa đặc trưng của từng vùng miền.

Chương trình truyền hình về văn nghệ dân gian tại Phú Thọ không chỉ nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ và quảng bá văn hóa địa phương mà còn khuyến khích sự phối hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo, nhân dân và Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ trong việc sản xuất các chương trình truyền hình.

2.2.2 Đặc điểm các chương trình văn nghệ dân gian trên truyền hình Phú Thọ

Theo báo cáo năm 2019 của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, tổng số chương trình truyền hình sản xuất là 7.493 chương trình, bao gồm các thể loại như Thời sự, Chuyên mục, phóng sự, tạp chí, bản tin, văn nghệ, giải trí, thể thao và chương trình trực tiếp Tuy nhiên, tỷ lệ chương trình về văn nghệ dân gian chỉ chiếm 1,07% trong tổng số chương trình.

Biểu đồ 2.1 Tỉ lệ các chương trình văn nghệ dân gian trong cơ cấu các chương trình truyền hình của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ năm 2019

Thời sự Chuyên mục, phóng sự, Khác

Các chương trình văn hóa và văn nghệ trên truyền hình được sản xuất dưới nhiều thể loại khác nhau, bao gồm phóng sự, chương trình ca múa nhạc, kí sự, giao lưu tọa đàm, chuyên đề và tạp chí truyền hình.

Khung giờ phát sóng các chương trình văn hóa, văn nghệ, đặc biệt là văn nghệ dân gian, thường được sắp xếp vào cuối tuần để thu hút người xem Tuy nhiên, thời gian phát sóng có thể thay đổi do các chương trình thời sự và chuyên đề khác Các chương trình văn nghệ cũng có thời lượng khác nhau, như chương trình ca múa nhạc từ 25 đến 30 phút, tạp chí văn nghệ 15 đến 20 phút, hoặc lồng ghép vào chương trình thiếu nhi với thời lượng 15 phút Do đó, việc bố trí và sắp xếp các chương trình này cần linh hoạt để phù hợp với khung chương trình tổng thể.

Các chương trình văn nghệ dân gian phong phú nhưng không có tính định kỳ, nội dung thay đổi theo từng thời điểm tuyên truyền Ví dụ, vào dịp Tết tháng 1 và tháng 2, nhiều lễ hội dân gian diễn ra cùng với các chương trình ca nhạc phản ánh hoạt động văn hóa của địa phương Tháng 3 âm lịch, Lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức, tập trung vào việc tuyên truyền các hoạt động văn nghệ gắn liền với tín ngưỡng thời cúng Hùng Vương.

Chương trình thời sự và chuyên đề của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ thường xuyên đề cập đến văn nghệ dân gian Đặc biệt, các chương trình của phòng Văn nghệ và Giải trí cùng một số chương trình của phòng Chuyên đề và Dân tộc – Miền núi cần được khảo sát kỹ lưỡng hơn vì thể hiện rõ nét nội dung này.

Trong năm 2019, phòng Văn nghệ và Giải trí đã phát sóng 575 chương trình truyền hình, trong đó có 55 chương trình về văn nghệ dân gian, chiếm gần 9,6% Phòng Chuyên đề và Dân tộc - Miền núi đã sản xuất 864 chương trình tiếng phổ thông và 52 chương trình tiếng dân tộc Mường và Cao Lan, với 25 chương trình về văn nghệ dân gian, chiếm hơn 2,7%.

Bảng 2.1-1: Các chương trình văn nghệ dân gian do phòng Văn nghệ và Giải trí sản xuất năm 2019 Tháng Tên chương trình Thể loại

Chào năm mới Tường thuật 30 24/1

Chúng em vui đón xuân Ca nhạc thiếu nhi 15 28/1

Về miền lễ hội Ca nhạc 30 29/1

Chuyện của mầm Xoan Phim ca nhạc 25 30/1

Trích đoạn chèo “Việc làng” Sân khấu 15 1/2

(27 Tết) Vui học tiếng Anh: Tết cổ truyền Thiếu nhi 15 4/2

Về miền lễ hội cội nguồn Ca nhạc 25 4/2

(30 Tết) Đất cội nguồn: Sắc màu bản

(1 Tết) Đẹp cùng PTV: Áo dài Tết Giải trí 5 10/2

(6 Tết) Những câu hỏi vì sao: Tìm hiểu Tết Nguyên đán Thiếu nhi 15 16/2 Đất cội nguồn: Tháng giêng về miền lễ hội Chuyên mục 10 19/2

Tháng 3 Đất cội nguồn: Văn Lang, mảnh đất của văn hóa dân gian

Chuyên mục 10 19/3 Đất cội nguồn: Về thăm làng

Câu Xoan trẩy hội Ca nhạc 20 27/3

Em yêu câu hát quê hương Ca nhạc 20 31/3

Tìm lại nét duyên câu Ghẹo Phim tài liệu 25 3/4

Câu Xoan An Thái Ca nhạc 25 5/4 Đất cội nguồn: Dấu ấn thời đại Hùng Vương Chuyên mục 10 9/4

Về Giỗ Tổ nghe chuyện bánh

Những câu hỏi vì sao: Về miền lễ hội Thiếu nhi 15 13/4 Đất cội nguồn: Dấu ấn văn hóa Gò Mun trên quê hương đất Tổ

Hát Xoan trường tồn và lan tỏa Phim tài liệu 25 29/4

Khoảnh khắc cuộc sống: Lễ

Thực hành tín ngƣỡng thờ Mẫu ở đền Tam Giang Chuyên mục 10 21/5

Tháng 6 Đất cội nguồn: Đặc sắc cơm lam người Mường Chuyên mục 10 11/6

Câu Xoan quê tôi Ca nhạc 25 26/6

Tín ngƣỡng nông nghiệp trong đời sống Phim tài liệu 15 29/6

Tháng 7 Đất cội nguồn: Nơi mẹ Âu

Cơ bay về trời Chuyên mục 10 16/7 Chuẩn hóa hát chầu văn trong tín ngƣỡng thờ Mẫu tam phủ ở Phú Thọ

Tháng 9 Đất cội nguồn: Về Đền Hùng, nhớ câu nói của Bác

Sự tích bánh chƣng, bánh giầy và phong tục thờ cúng hoàng tử Lang Liêu

Mỗi tháng, chương trình Thiếu nhi "Câu chuyện tuổi thơ" được phát sóng vào thứ 3 tuần lẻ, giới thiệu một câu chuyện cổ tích hoặc truyền thuyết Việt Nam phù hợp với trẻ em, kéo dài 15 phút Trong năm 2019, đã có tổng cộng 24 chương trình Thiếu nhi được phát sóng.

Các chương trình văn nghệ dân gian thường diễn ra vào đầu năm, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán và các lễ hội truyền thống của các dân tộc Đây là thời điểm diễn ra nhiều hoạt động vui chơi, mừng năm mới, thể hiện nét văn hóa đặc sắc Tuy nhiên, trong một số tháng như tháng 8, tháng 10 và tháng 11, không có chương trình nào về văn nghệ dân gian.

Các chương trình văn nghệ dân gian có nội dung phong phú, tập trung phản ánh hoạt động thực tế và phong tục tập quán trong các dịp lễ, tết của dân tộc Chương trình nhấn mạnh vẻ đẹp và bản sắc văn hóa đặc trưng của từng loại hình nghệ thuật Nhiều chương trình được đầu tư kỹ lưỡng như "Về miền lễ hội", "Việc làng", "Sắc màu bản Mường", "Tiếng hát làng Xoan", và các phim tài liệu như "Hát Xoan trường tồn và lan tỏa", "Tìm lại nét duyên câu Ghẹo", cùng phim ca nhạc cho thiếu nhi "Chuyện của mầm Xoan" đã tạo dấu ấn mạnh mẽ và nhận được phản hồi tích cực từ khán giả.

Mặc dù vậy, có thể nhận thấy trong các chương trình kể trên, nhiều chương trình có nội dung đề cập đến loại hình nghệ thuật Hát Xoan, như:

Phim ca nhạc dành cho thiếu nhi "Chuyện của mầm Xoan" kể về Bùi Như Quỳnh, 7 tuổi, cháu nội của Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lịch, người truyền dạy Hát Xoan cho em từ nhỏ Dù không được bạn bè đón nhận trong một cuộc thi văn nghệ, Quỳnh vẫn tiếp tục biểu diễn cùng các nghệ nhân tại đình làng và thu hút sự chú ý của khách du lịch quốc tế Nhờ sự động viên từ bà nội và cô giáo, em nhận ra giá trị văn hóa của Hát Xoan và truyền cảm hứng cho các bạn nhỏ cùng học hỏi để quảng bá di sản văn hóa quê hương Chương trình đã tham dự Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 39 năm 2019, đánh dấu sự tham gia lần đầu của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ trong lĩnh vực phim ca nhạc cho thiếu nhi, và cũng được trao giải Khuyến khích tại Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại.

(Một số hình ảnh trong phim ca nhạc “Chuyện của mầm Xoan”)

Chương trình tài liệu "Hát Xoan trường tồn và lan tỏa" nghiên cứu sâu về các đặc điểm nghệ thuật của Hát Xoan, bao gồm lời ca, âm nhạc, phong tục, điệu múa và trang phục Qua phỏng vấn các chuyên gia văn hóa dân gian và nhạc sĩ nổi tiếng, chương trình làm nổi bật quá trình gìn giữ và truyền dạy Hát Xoan, cùng với tâm huyết của những người gắn bó với di sản này Đồng thời, chương trình cũng khám phá sự ảnh hưởng của Hát Xoan trong âm nhạc hiện đại và sự lan tỏa của nó ra ngoài vùng Đất Tổ Phú Thọ Với mục tiêu cung cấp cái nhìn toàn diện về Hát Xoan - di sản văn hóa phi vật thể quý giá của nhân loại, chương trình hứa hẹn mang đến cho người xem sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa đặc sắc của tỉnh Phú Thọ.

(Hình ảnh trong Phim tài liệu “Hát Xoan trường tồn và lan tỏa”)

Các nguồn lực tổ chức sản xuất chương trình văn nghệ dân gian trên sóng truyền hình Phú Thọ

2.3.1 Nguồn nhân lực Ở Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, nguồn nhân lực để thực hiện sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp là một ê-kip được lập riêng, đƣợc lựa chọn từ các phòng chuyên môn Đa phần trong số họ là những người thạo việc hơn, tay nghề và bản lĩnh có phần trội hơn so với những người khác

Phòng Văn nghệ và Giải trí – Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ hiện có 12 nhân viên, được giao nhiệm vụ tổ chức các chương trình văn nghệ, ca múa nhạc, giải trí, thể thao và chương trình dành cho thiếu nhi trên sóng phát thanh và truyền hình Đội ngũ gồm 1 trưởng phòng với trình độ đại học Ngữ Văn và hơn 20 năm kinh nghiệm, cùng 2 phó trưởng phòng với chuyên môn đại học Báo chí và Sân khấu Điện ảnh Tất cả phóng viên và biên tập viên đều có trình độ đại học, chuyên ngành ngữ văn, sân khấu điện ảnh, văn hóa và báo chí.

Sau nhiều năm làm việc trong lĩnh vực truyền hình và sản xuất chương trình văn nghệ, đội ngũ phóng viên, biên tập viên hiện nay đã có trình độ chuyên môn đồng đều và tinh thần ham học hỏi, tích cực trong công việc, qua đó nâng cao chất lượng các chương trình Phòng Văn nghệ và Giải trí là một tập thể đoàn kết, luôn quan tâm và hỗ trợ nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị Tuy nhiên, phòng vẫn thiếu chức danh phụ trách âm thanh và ánh sáng chuyên nghiệp, dẫn đến khó khăn trong quá trình sản xuất các chương trình văn nghệ đặc thù.

Phòng Chuyên đề và Dân tộc – Miền núi gồm 16 nhân viên, có trách nhiệm sản xuất các chương trình chuyên đề và khoa giáo Nội dung của các chương trình này phản ánh, bình luận, hướng dẫn và tư vấn về nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội.

Phòng có 1 trưởng phòng với trình độ đại học Luật và 2 phó trưởng phòng, trong đó 1 có trình độ đại học Luật và 1 có trình độ đại học ngoại ngữ Các phóng viên trong phòng đều có trình độ cao đẳng, đại học với chuyên môn từ các ngành ngữ văn, báo chí, luật, phát thanh và truyền hình Đề tài về dân tộc thiểu số được giao cho 1 phó trưởng phòng phụ trách, cùng với một số phóng viên chuyên trách, bao gồm 2 phóng viên là người dân tộc thiểu số, thông thạo tiếng Mường và Cao Lan Mặc dù số lượng phóng viên, biên tập viên đông, nhưng kinh nghiệm và năng lực chưa đồng đều; một số phóng viên có khả năng làm nhiều việc, trong khi một số chỉ thực hiện được các chương trình đơn giản Điều này vừa là hạn chế, nhưng cũng tạo điều kiện để phóng viên chuyên sâu vào từng mảng đề tài, nâng cao chất lượng chương trình Các phóng viên và biên tập viên cũng thường xuyên phối hợp thực hiện chương trình Tạp chí dân tộc.

VTV5 – Đài truyền hình Việt Nam, việc giao lưu chương trình và chia sẻ kinh nghiệm với Đài trung ương mang lại cơ hội quý giá cho phóng viên và biên tập viên trong việc nâng cao kỹ năng và chuyên môn của họ.

2.3.2 Phương tiện kỹ thuật và cơ chế tài chính

Phòng Văn nghệ và Giải trí có 3 phóng viên sử dụng 3 camera chất lượng cao, có khả năng quay hình ảnh full HD, cùng với 2 đèn chuyên dụng Với trang thiết bị hiện có, các phóng viên có thể sản xuất các chương trình văn nghệ dân gian đáp ứng yêu cầu phát sóng Tuy nhiên, khi tổ chức sản xuất vào buổi tối, ekip gặp khó khăn do thiếu thiết bị ánh sáng.

Thiết bị thu, phát âm thanh của Đài được quản lý bởi Phòng Kỹ thuật và Công nghệ, cung cấp cho phóng viên và biên tập viên khi cần thiết để thực hiện tác nghiệp Hiện tại, Đài sở hữu 10 bộ micro không dây cài áo và 1 thiết bị phát âm thanh TOA, đáp ứng tốt yêu cầu công việc hiện tại.

Các phóng viên và biên tập viên chủ yếu sử dụng phương tiện cá nhân để thực hiện công việc tác nghiệp Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, khi được Ban Giám đốc giao nhiệm vụ tham gia các chương trình quan trọng của Đài, họ mới được phép sử dụng phương tiện chung của cơ quan.

- Cơ chế tài chính: các phóng viên có chế độ công tác phí và chế độ nhuận bút (theo quy định của nhà nước và của cơ quan).

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG TRÌNH VĂN NGHỆ DÂN GIAN TRÊN SÓNG TRUYỀN HÌNH PHÚ THỌ

Ngày đăng: 11/11/2021, 17:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đức Dũng (2002), Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sáng tạo tác phẩm báo chí
Tác giả: Đức Dũng
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
4. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản
Tác giả: Nguyễn Thị Trường Giang
Nhà XB: Nxb Chính trị - Hành chính
Năm: 2011
5. Nguyễn Thị Trường Giang (2014), Phê và tự phê trong tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh, Tạp chí Người làm báo, Hội nhà báo Việt Nam, số 367, tháng 9/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phê và tự phê trong tư tưởng báo chí Hồ Chí Minh
Tác giả: Nguyễn Thị Trường Giang
Năm: 2014
6. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam và Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển
Tác giả: Vũ Quang Hào
Năm: 2004
7. Vũ Quang Hào (2012), Chút cảm nhận riêng của khán giả về phóng sự phát trên VTV1, Tham luận tại Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 32, Nghệ An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chút cảm nhận riêng của khán giả về phóng sự phát trên VTV1
Tác giả: Vũ Quang Hào
Năm: 2012
8. Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Nâng cao chất lượng chương trình Thời sự của Đài truyền hình Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ báo chí học, Học viện Báo chí và truyên truyền, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng chương trình Thời sự của Đài truyền hình Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hiền
Năm: 2011
2. Hội văn nghệ dân gian Phú Thọ (2008), Hát xoan Phú Thọ, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hát xoan Phú Thọ
Tác giả: Hội văn nghệ dân gian Phú Thọ
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2008
3. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam (2007), Nghệ nhân dân gian, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ nhân dân gian
Tác giả: Hội văn nghệ dân gian Việt Nam
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2007
5. Nguyễn Đỗ Hiệp (2013), “Hát đúm của người Việt ở Bắc Bộ”, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hát đúm của người Việt ở Bắc Bộ
Tác giả: Nguyễn Đỗ Hiệp
Năm: 2013
6. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (2001), “Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn nghệ dân gian
Tác giả: Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam
Nhà XB: Nxb Văn hóa - Thông tin
Năm: 2001
7. Đoàn Hải Hƣng (2011), Những làng văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc ở tỉnh Phú Thọ, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những làng văn hóa, văn nghệ dân gian đặc sắc ở tỉnh Phú Thọ
Tác giả: Đoàn Hải Hƣng
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2011
8. Phạm Minh Hương (2018), “Hát trống quân”, Luận án tiến sĩ Âm nhạc học, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hát trống quân
Tác giả: Phạm Minh Hương
Năm: 2018
9. Đinh Văn Hường (2007), Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các thể loại báo chí thông tấn
Tác giả: Đinh Văn Hường
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2007
10. Vũ Thanh Hường (2003), “Tổ chức sản xuất các chương trình trò chơi truyền hình”, Luận văn Thạc sỹ Báo chí học, Học viện Báo chí và truyên truyền, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức sản xuất các chương trình trò chơi truyền hình”
Tác giả: Vũ Thanh Hường
Năm: 2003
11. Trần Bảo Khánh (2002), Sản xuất chương trình truyền hình, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sản xuất chương trình truyền hình
Tác giả: Trần Bảo Khánh
Nhà XB: Nxb Văn hóa- Thông tin
Năm: 2002
12. Trần Bảo Khánh (2011), Công chúng truyền hình Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công chúng truyền hình Việt Nam
Tác giả: Trần Bảo Khánh
Nhà XB: Nxb Thông tấn
Năm: 2011
13. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam, Nxb Thanh niên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành trình vào thế giới Folklore Việt Nam, Nxb
Tác giả: Vũ Ngọc Khánh
Nhà XB: Nxb "Thanh niên
Năm: 2005
14. Đỗ Phương Lan (2013), Tổ chức sản xuất các chuyên đề truyền hình của Đài PT-TH Yên Bái, Luận văn Thạc sỹ truyền thông đại chúng, Học viện Báo chí và truyên truyền, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức sản xuất các chuyên đề truyền hình của Đài PT-TH Yên Bái
Tác giả: Đỗ Phương Lan
Năm: 2013
15. Đỗ Chí Nghĩa (2014), Nhà báo và sáng tạo báo chí trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà báo và sáng tạo báo chí trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tác giả: Đỗ Chí Nghĩa
Nhà XB: Nxb Thông tin và Truyền thông
Năm: 2014
16. Đỗ Chí Nghĩa (chủ biên) - Đinh Thị Thu Hằng (2014), Báo chí và mạng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí và mạng xã hội
Tác giả: Đỗ Chí Nghĩa (chủ biên) - Đinh Thị Thu Hằng
Nhà XB: Nxb Lý luận chính trị
Năm: 2014

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức tại Đài PT&TH Phú Thọ - Tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian ở đài phát thanh và truyền hình phú thọ
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức tại Đài PT&TH Phú Thọ (Trang 49)
Bảng 2.1-1: Các chương trình văn nghệ dân gian do phòng Văn nghệ - Tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian ở đài phát thanh và truyền hình phú thọ
Bảng 2.1 1: Các chương trình văn nghệ dân gian do phòng Văn nghệ (Trang 52)
Bảng 2.2-2: Các chương trình văn nghệ dân gian do phòng Chuyên đề - Tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình văn nghệ dân gian ở đài phát thanh và truyền hình phú thọ
Bảng 2.2 2: Các chương trình văn nghệ dân gian do phòng Chuyên đề (Trang 59)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w