Trào phúng sẽ không còn là trào phúng nữa nếu sự việc mà nó phản ánh không còn tính thời sự”. Xét về tất cả mọi phương diện như xã hội, tư tưởng, văn hóa, chính trị, … thì hiện thực khách quan đương thời ảnh hưởng rất nhiều đến các tác giả trào phúng ở thế kỉ này, tiêu biểu là Tú Xương – một bậc thầy sáng tác thơ văn trào phúng.
NHÀ THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG
Con người
Trần Tế Xương, tên thật là Trần Duy Uyên, sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870, là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, được biết đến với tên gọi Tú Xương Ông sinh ra tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nho gia có nguồn gốc từ họ Phạm, sau đó đổi thành họ Trần Ông nội của Trần Tế Xương là Trần Duy Năng, và cha ông, Trần Duy Nhuận, cũng là một nhà nho nhưng không thành công trong các kỳ thi Trần Tế Xương là con trưởng trong gia đình có 9 người con, gồm 6 trai và 3 gái.
Trong sách “Văn Đàn bảo giám”, ghi nhận rằng nhà thơ Tế Xương trước kia có tên là Trần Cao Xương và không bao giờ sử dụng tên Kế Xương Theo cuộc điều tra đăng trên báo Đông Dương năm 1932, ông chỉ sử dụng tên Tế Xương và đổi thành Trần Cao Xương do lận đận trong thi cử Con trai của ông, ông Bột, cũng xác nhận điều này, và có câu thơ thể hiện nỗi buồn về việc thi hỏng.
“Tế đổi làm Cao nên sự thể Kiên trông ra Tiệp, hỡi trời ôi”
(Hỏng thi khoa Quý Mão)
Nên người ta lại càng chắc chắn lời con của ông Tú nói ra là đúng vậy. [6,tr5]
Năm 1906, nhà thơ thi trượt khoa thi cuối cùng Đến ngày 29 tháng 1 năm 1907 thì ông mất, khi đó chỉ mới 37 tuổi.
Thời đại
Cuộc đời ông phản ánh giai đoạn lịch sử đau thương của đất nước, khi Việt Nam chịu sự xâm lược của thực dân vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX Thời kỳ này chứng kiến sự chuyển mình từ một xã hội phong kiến thuần túy sang một xã hội thuộc địa đầy hỗn loạn, được mô tả như một "thuộc địa nữa phong kiến".
Năm 1873, khi Tú Xương mới ba tuổi, thực dân Pháp tấn công Hà Nội và Nam Định, đánh dấu những ngày thơ ấu u ám của ông Đến năm 1884, triều đình ký hàng ước, dâng đất nước cho giặc, khiến ký ức về các phong trào khởi nghĩa chống Pháp dần phai nhạt Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng năm 1896, phong trào đấu tranh dường như tắt hẳn Năm 1897, Pháp thiết lập chế độ cai trị, gây ra nhiều biến động xã hội, đặc biệt ở thành phố Tú Xương lớn lên trong bối cảnh chế độ thực dân nửa phong kiến, khi nền kinh tế tư bản phát triển đã làm xáo trộn trật tự xã hội và đời sống tinh thần của nhân dân Thơ của Tú Xương phản ánh sự chuyển mình của xã hội từ phong kiến sang thực dân, với những chân dung con người và mối quan hệ xã hội đáng cười, đáng chê trách, thể hiện sinh động tâm trạng của ông trong thời kỳ giao thời đầy biến động.
Sinh ra trong một xã hội Việt Nam đầy biến động và bất ổn, nhà thơ chứng kiến sự phát triển của những thói hư tật xấu như cờ bạc, rượu chè và ma túy Bên cạnh đó, các hủ tục như ma chay, cưới xin kém văn minh, bói toán và mê tín dị đoan vẫn tồn tại Tuy nhiên, với tâm hồn học thức và tài năng thơ ca, nhà thơ luôn nuôi ước mơ học hành thành đạt, mong muốn có một cuộc sống tử tế và ý nghĩa.
Vào năm 1886, khi mới 16 tuổi, ông đã bắt đầu tham gia kỳ thi hương và kiên trì theo đuổi đến tám kỳ thi trong các năm 1886, 1888, 1891, 1894, 1897, 1900, 1903 và 1906 Phong cách phóng khoáng và không tuân theo lối văn khuôn sáo, cùng với cách thức thi cử “chọn nhân tài” của chế độ thực dân phong kiến thời bấy giờ, đã khiến ông gặp nhiều khó khăn trong việc đạt được thành công.
Vào năm 1894, tại khoa thi Hương thứ tư dưới triều Thành Thái, ông đã đạt được bằng Tú tài thiên thủ khi 24 tuổi, mặc dù chỉ đứng cuối bảng Sự nỗ lực không ngừng trong việc học hành của ông nhằm có được tấm bằng cử nhân đã giúp ông vượt qua nỗi tủi phận và thoát khỏi cảm giác thua kém so với anh em miền Bắc.
Vào năm 1906, trong lần thi cuối cùng, Trần Tế Xương đã đổi tên thành Trần Cao Xương nhưng vẫn không đạt được thành công Ông nhận ra rằng trong thời kỳ nhiễu nhương này, không có chỗ đứng cho những người như mình trong “cửa Khổng sân Trình” Chấp nhận số phận, ông sống trong môi trường thị dân bị chi phối bởi chế độ thực dân nửa phong kiến, nơi nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn Tuy nhiên, ông không chấp nhận cuộc sống hèn nhát mà chọn con đường “nhập thế” của một “nhà nho - quân tử” với dòng máu kiên cường của kẻ sĩ Bắc Hà.
"Nhập thế cục bất khả vô văn tự" nhấn mạnh rằng cuộc sống không thể thiếu văn chương Những bài thơ có vẻ ngông nghênh, cợt nhả, và bất cần thực chất chỉ là lớp vỏ bên ngoài, trong khi bên trong chứa đựng những tâm tư sâu sắc của một văn nhân nhạy cảm với thời cuộc.
“Non non, nước nước, tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ”…
Ông luôn cảm thấy hổ thẹn, phản ánh lòng tự trọng và sự liêm sỉ Thơ ca về học hành và thi cử đã có nhiều, nhưng để chạm đến tận cùng cảm xúc của "người trong cuộc," không ai có thể sánh bằng nhà thơ Tú Xương.
“Học đã sôi cơm nhưng chửa chín Thi không ăn ớt thế mà cay”
Tú Xương là một nhà thơ tài hoa nhưng sinh ra trong thời kỳ đầy biến động của đất nước, khi mà văn hóa, thi cử và các truyền thống bị xáo trộn bởi sự xâm lược của thực dân Pháp Trong bối cảnh xã hội loạn lạc, nền Nho học và chế độ khoa cử lỗi thời đã không còn phù hợp, dẫn đến tỷ lệ người thất học lên tới 95% Thực dân Pháp đã thay đổi chế độ thi cử, loại bỏ kinh nghĩa và thơ phú, thay vào đó là các bài luận quốc văn và câu hỏi về địa lý, toán học, khiến cho vị thế của nhà nho ngày càng bấp bênh Sinh ra trong một gia đình Nho giáo và được giáo dục theo hệ tư tưởng Nho gia, Tú Xương vẫn mang trong mình những giá trị phong kiến, nhưng lại sống trong một xã hội thành thị đang thay đổi, tạo nên những nét khác biệt trong tâm lý và cốt cách so với các trí thức phong kiến trước đó.
VĂN CHƯƠNG TRẦN TẾ XƯƠNG
Trào phúng
Trào phúng, với ngôn từ bình dị, là một thể loại nghệ thuật đặc sắc trong văn học Việt Nam, phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội thông qua tiếng cười mỉa mai và châm biếm Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trào phúng sử dụng các yếu tố hài hước để chỉ trích những tiêu cực trong xã hội PGS.TS Vũ Thanh nhấn mạnh rằng tính thời sự là đặc điểm nổi bật của thể loại này, vì nếu sự việc không còn tính thời sự, trào phúng sẽ mất đi ý nghĩa Thực tế khách quan đương thời ảnh hưởng lớn đến các tác giả trào phúng, tiêu biểu là Tú Xương, người đã phản ánh sự mục nát của chế độ phong kiến và sự thất bại của cách mạng Việt Nam, dẫn đến sự sụp đổ niềm tin vào xã hội của ông Trong bối cảnh đó, những trí thức có tư tưởng Nho giáo vừa bị coi khinh, vừa chìm đắm trong thú vui ăn chơi.
“Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”
Tú Xương hoàn toàn từ chối nỗi đau lòng của gia đình, khiến ông không còn nơi nào để gửi gắm niềm tin và hy vọng Bên ngoài, con người chỉ cười đùa và châm biếm, nhưng ẩn sâu bên trong là những âm thanh than thở từ đáy lòng, thể hiện nỗi buồn riêng tư.
“Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn, Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Ngao ngán tình chung cơn gió thoảng, Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông.
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện;
Bút bút nghiêng nghiêng khéo dở tuồng.
Ngủ quách, sự đời thay kẻ thức, Bên chùa chú trọc đã hồi chuông.”
Trào phúng trong thơ văn của Tú Xương không chỉ đơn thuần là phê phán xã hội hay phản ánh hiện thực xấu xa, mà còn hướng đến nhiều tầng lớp nhân dân Đối tượng bị trào phúng bao gồm những kẻ tham nhũng, bán nước cầu vinh và những người quay lưng với truyền thống dân tộc Đặc biệt, nhân vật trào phúng lớn nhất chính là Tú Xương, người đã tách biệt bản thân khỏi những điều nhơ nhuốc, nhằm thức tỉnh tâm hồn và sự trong sạch của mình cũng như xã hội Ông đề cao lòng tự trọng với những giá trị giản dị, đồng thời thể hiện tâm lý bất mãn và thất thế qua cách ứng xử trữ tình độc đáo Như GS Trần Đình Sử đã nhận định, “tiếng cười của Tú Xương có một ý nghĩa mới: tiếng cười giải thoát”, mở ra một phạm vi mới cho cuộc sống tự do và cá nhân trong thời đại của ông.
Tự trào, một nhánh của thể loại trào phúng, là hình thức châm biếm chính bản thân mình, nơi tác giả sử dụng ngôn từ sắc sảo để phê phán và vạch trần chính mình Tác phẩm của Tú Xương phản ánh sự thối nát của thời đại, dẫn đến niềm tin bị bào mòn, qua đó thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, triết lý và thái độ sống của ông.
Trong bối cảnh xã hội đầy giả dối, con người thường che giấu những khía cạnh xấu xa bên trong bằng vẻ bề ngoài hào nhoáng Dù phê phán những người xung quanh, chính tác giả cũng không tránh khỏi những tật xấu của bản thân, khiến ông phải tự cười để quên đi nỗi buồn thường trực.
“Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.”
(Phú thi hỏng khoa Canh Tý)
“Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.”
Ông không ngại ngần thể hiện bản thân, với nụ cười cợt nhả sống giữa khuôn phép và phi khuôn phép, thể hiện giọng điệu cá tính Ít ai có thể nhận thức được sai lầm của mình và tự châm biếm chính mình Khi đọc thơ của Tú Xương mà chưa tìm hiểu sâu, người ta dễ dàng thấy những "cái xấu" của ông: từ dung mạo với "mắt thao láo, mặt xanh", cách ăn mặc "áo hàng tàu, khăn nhiễu tím", đến phong cách sống "ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi" và tính ỷ lại vào vợ "tiền bạc phó cho con mụ kiếm" Ông cũng thể hiện sự trễ nãi trong tài năng nhưng vẫn luôn tự đắc.
“Ta nghĩ như ta có dại gì,
Ai chơi, chơi với, chẳng cần chi, Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất,
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì. Ăn mặc vẫn ra người thiệp thếGiang hồ cho biết bạn tương triGặp thời, gặp vận nên bay nhảy,
Cho thỏa rằng sinh chẳng lỗi thì.”
Là một bậc thầy văn chương với tấm lòng yêu nước và sự liêm khiết, ông không thể trở thành quan chỉ vì sự thiếu hụt trong việc học chữ Quốc ngữ Mặc dù ông luôn tự thấy những nghịch lý trong cuộc sống của mình, thời cuộc chính là nguyên nhân cốt lõi cho những bất công đó Người tài năng và đức độ chỉ có thể đạt đến bằng tú tài và sống trong cảnh nghèo nàn, trong khi những kẻ xu nịnh và dốt nát lại được vinh danh và sống trong giàu sang.
“Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông, Tưởng rằng ốm nặng hóa ra không.
Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng. Đất biết bao giờ sang vận đỏ?
Trời làm cho bõ lúc chơi ngông!
Gần chùa gần cảnh ta tu quách, Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng.”
( Mùa nực mặc áo bông)
Ông Tú chỉ có một chiếc áo bông để tiếp khách, trong khi cả gia đình đều "rách rưới con như bố" Mùa hè oi ả, ông vẫn mặc áo bông, tạo nên một cảnh tượng buồn cười nhưng cũng đầy thương cảm Gia đình Nho nghèo đến nỗi nếu ở gần chùa, tác giả sẽ chọn đi tu, vì quanh năm có sẵn "áo sồng" để mặc, không cần phải tiếp khách một cách trang trọng, nhưng thực chất lại không có gì.
Ông Tú Xương đã sáng tác bài thơ "Tự trào" để thể hiện sự trào phúng đầy bản lĩnh và cá tính của mình Qua việc kết hợp giữa niềm đam mê khoa cử và phản ứng trước những bất công của xã hội, ông đã tạo nên sắc thái tự trào độc đáo Bài thơ mở đầu bằng việc sử dụng thành ngữ để thể hiện sự ngông cuồng, mang đến một cái nhìn châm biếm về cuộc sống.
“Lúc túng toan lên bán cả trời Trời cười thằng bé nó hay chơi.”
Tú Xương tự trào bản thân qua thành ngữ “bán trời không văn tự”, thể hiện sự liều lĩnh trong lúc khó khăn Tuy nhiên, chính ông trời cũng mỉm cười trước sự ngông cuồng của ông, đồng thời chỉ ra tật xấu “hay chơi” của Tú Xương Ông nhắc đến sự “nhàn rỗi” do thời cuộc và bất công, nhưng cũng không quên diễn đạt một cách hoa mỹ về cuộc sống “phong lưu”.
“Ô hay công nợ âu là thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời”
Sự mỉa mai trong cuộc sống thể hiện rõ nét qua mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái bên trong và bên ngoài Mặc dù sống trong cảnh thiếu thốn, con người vẫn luôn tỏ ra rằng mọi thứ đều ổn, cuộc đời chỉ là một trò chơi kéo dài suốt đời Trò chơi này được hình thành từ những nghịch cảnh do sự tha hóa của chế độ cũ và sự lố bịch của xã hội mới Tất cả sự “phong lưu” và hào nhã ấy đều xuất phát từ tình yêu thương và sự nuông chiều của bà Tú, một người phụ nữ nhân hậu, chu đáo, vừa là trụ cột kinh tế vừa chăm lo cho gia đình.
Ông thường gọi vợ mình là “con mụ” với giọng điệu chân chất, thể hiện tình cảm gần gũi Bà Tú không chỉ là người vợ tần tảo nuôi năm con và một chồng, mà còn là “một cái ngân hàng sống”, cung cấp mọi điều kiện vật chất cần thiết cho gia đình Bà là nguồn sống và sự hỗ trợ vững chắc cho cả nhà, luôn làm việc không ngừng nghỉ để đảm bảo cuộc sống ổn định.
Ông Tú sống phong lưu suốt đời, với những thú vui tiêu khiển không lúc nào ngơi nghỉ Dù kính trọng và yêu thương vợ, ông vẫn không thể nghe lời khuyên của bà Trong những lúc say mê chè, rượu và cả những thú vui khác, ông thường cảm thấy hối hận, càng thêm yêu thương và muốn nịnh bợ vợ để xoa dịu tâm trí Cuối cùng, khi nghĩ về sự oan trái của tài năng mình, ông không khỏi bật cười, nhưng trong tiếng cười ấy lại ẩn chứa sự ngao ngán, bất lực và cô đơn giữa xã hội và mọi người xung quanh.
“Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng Khéo khéo không mà nó cũng rơi”
Tư duy trào phúng của Tú Xương phản ánh sự lạc lõng và cô đơn của ông trong xã hội đương thời, nơi mà ông cảm nhận được sự vô dụng của những giá trị truyền thống Ông nhận ra rằng tư tưởng cũ không còn phù hợp với những biến đổi mới mẻ, lố bịch của xã hội Mặc dù ông khao khát thi cử và mong muốn đóng góp cho dân tộc, nhưng sự thất bại lại khiến ông chán nản Giữa văn hóa truyền thống và ảnh hưởng của phương Tây, Tú Xương cảm thấy mình đứng ở vị trí mơ hồ, không phải là quan, cũng không phải là dân Ông tự phủ định bản thân, biến mình thành hình ảnh nhỏ bé, thảm hại, và sử dụng tự trào như một bút pháp nghệ thuật để chỉ trích xã hội, làm nổi bật bi kịch của trí thức trong bối cảnh thực dân phong kiến.
Trong bối cảnh xã hội đầy nghịch lý và vô lý, các nhà thơ thường dùng ngòi bút để khai thác những mâu thuẫn, biến chúng thành tiếng cười châm biếm Họ nhìn nhận những rối loạn xã hội một cách sắc sảo, phê phán các vấn đề chính trị và xã hội Thơ thế trào trở thành công cụ để mổ xẻ và bóc trần sự thật, giễu nhại hiện thực Những tác phẩm này không chỉ phản ánh thực tại tối tăm của nền Hán học Nho gia ở nước ta, mà còn thể hiện sự căm ghét đối với những kẻ đạt được thành công không nhờ tài năng mà nhờ "nhà nước cho" Ý bỡn cợt sâu sắc của các nhà thơ được thể hiện qua từng câu chữ, với những lời mỉa mai chua chát phản ánh sự bất công và thối nát của trường thi Khi trường thi được mở ra, nó trở nên vô cùng hoành tráng.
“Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn tới trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa, Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê quét đất mụ đầm ra.”
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)
Và những “nhân tài” được “nhà nước cho đỗ” có tài thế này đây:
“Sơ khảo khoa này bác cử Nhu Thực là vừa dốt lại vừa ngu Văn trường nào phải là đơn thuốc, Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu.”
Trữ trình
Có lúc thông qua hình ảnh của trời hạn hán Tú Xương thể hiện nỗi trăn trở của mình đối với nước nhà:
“Tình cảnh nhà ai nông nỗi ấy Quạt mo phe phẩy một mình tôi”
Dẫu không ít lần ta bắt gặp trong thơ Tú Xương những lời tự nhủ của ông:
Trong bài thơ, tác giả thể hiện sự mâu thuẫn giữa việc muốn nhắm mắt làm ngơ trước thực tại và nỗi đau xót khi không thể làm vậy Giọng điệu trào phúng được sử dụng để châm biếm cuộc sống, trong khi giọng điệu trữ tình lại bộc lộ sâu sắc tâm tư và tình cảm của tác giả đối với quê hương đất nước.
Trong thơ của Tú Xương, ban ngày ông thể hiện sự châm biếm và mỉa mai trước những thói đời đảo điên, trong khi ban đêm, nỗi buồn và sự cô đơn sâu kín của ông được bộc lộ rõ ràng Ông cảm nhận sự cô đơn trong bóng tối, thể hiện tâm trạng não nề qua những vần thơ của mình.
“Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cảViệc gì mà thức một mình ta?”
Bài thơ mở ra hình ảnh đêm khuya với tiếng trống canh ba, cho thấy Tú Xương thao thức không ngủ suốt đêm Ông trằn trọc, đếm từng tiếng trống vang vọng, thể hiện sự tỉnh thức trong cô đơn Âm thanh trống canh dội lại như giấc mộng vàng giữa thời thế đảo điên, khi các nhà Nho mất vị thế trước ảnh hưởng của Tây học Tú Xương không thể dùng tài năng của mình để phụng sự đất nước trong thời kỳ Nho mạt Hình ảnh thơ được mở rộng khi ông khẳng định bản thân vừa tỉnh dậy từ giấc chiêm bao.
Sự "chợt" trong tác phẩm của Tú Xương gợi lên cảm giác giật mình, khiến người đọc tự hỏi về ý nghĩa của giấc chiêm bao Liệu sự thức tỉnh của ông có phải là sự tỉnh thức của một thiền sư hay của một nhà Nho trước những ảo ảnh của cuộc đời? Có thể thấy, sự tỉnh thức của Tú Xương là sự hòa quyện giữa hai tư tưởng, phản ánh nỗi băn khoăn của một nhà Nho tài tử Ông không còn niềm tin vào xã hội phong kiến và những minh quân như Nghêu – Thuấn Giấc chiêm bao của ông chính là cái "giật mình" của một người nhận ra thực trạng đất nước đang lâm nguy và rơi vào tay giặc.
Bài thơ của Tú Xương thể hiện sự chuyển biến từ cái riêng tư đến cái chung, khi ông đặt ra câu hỏi về sự tỉnh thức của cá nhân trong bối cảnh xã hội đang chìm trong giấc ngủ say Ông nhận thức rõ ràng rằng đất nước đang rơi vào tay giặc và chế độ phong kiến đã mục nát, đặt ra câu hỏi ai sẽ là người lãnh đạo trong hoàn cảnh này Trong khi mọi người vẫn mê man, Tú Xương cảm thấy đơn độc và bất lực trước thực tại tăm tối, với nỗi đau đớn và sự trăn trở về việc tại sao mình phải "thức" khi xung quanh vẫn còn chìm trong giấc mộng.
Bài thơ khắc họa nỗi cô đơn và đau khổ của nhân vật, thể hiện qua câu hỏi tu từ không lời đáp mà Tú Xương đặt ra Dù thức trong đêm khuya, ông vẫn chờ đợi một tiếng vang vọng, nhưng không ai đáp lại Điều này phản ánh nỗi niềm ưu tư của một nhà Nho trong bối cảnh xã hội phong kiến đang suy thoái.
Khi màn đêm buông xuống, thơ Tú Xương bộc lộ sâu sắc những nỗi niềm trầm mặc và cô đơn Tiếng cười trong tác phẩm của ông dần nhường chỗ cho những tiếng nấc nghẹn ngào của một tâm hồn lạc lối trước những biến động của thời cuộc Tâm trạng lẻ loi, bế tắc của người trí thức giữa bầu không khí tối tăm đã được Tú Xương khắc họa rõ nét trong bài thơ “Đêm dài”.
“Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa Đêm sao đêm mãi thế ru mà?
Trong không gian lạnh lẽo bao quanh, tuyết phủ dày đặc, chỉ nghe thấy tiếng gà gáy trong đêm Chim vẫn còn trú ngụ trong tổ, trong khi bướm và ong chưa xuất hiện trong vườn hoa Ai đang tìm kiếm ta giữa bầu không khí tĩnh lặng này? Hãy cẩn thận khi soi sáng, kẻo làm rối ren mọi thứ.
Tú Xương đã thể hiện rõ nỗi niềm của mình trong đêm dài, ngay khoảnh khắc ông:
“Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa Đêm sao đêm mãi thế ru mà?”
Hai câu đề đã cho thấy rõ không gian màn đêm che lấp, một hành động
Tú Xương trong tác phẩm của mình thể hiện sự "sực tỉnh" khi nhìn ra bầu trời "ngỡ sáng lòa", nhưng thực tế đêm vẫn còn dài, cho thấy sự kéo dài vô tận của bóng tối Những từ như "đêm", "sao", "mãi" phản ánh sự hoài nghi và nỗi cô đơn trong tâm hồn ông Mặc dù ông nghĩ rằng trời đã sáng, thực tế vẫn là đêm tối kéo dài, biểu trưng cho nỗi niềm của một người "tỉnh" giữa xã hội còn "mơ" Trong bối cảnh xã hội Nho mạt và đất nước bị đô hộ, Tú Xương cất tiếng kêu thống khổ, tìm kiếm tiếng nói tri âm giữa bóng tối Sự tỉnh thức của ông trở nên cô độc và khao khát ánh sáng giữa đêm đen.
Mặc dù ánh sáng có vẻ rực rỡ, nhưng thực tế lại ảm đạm và đầy hy vọng mong manh Ngay từ câu mở đầu, tác giả đã khắc họa một bức tranh đêm tối kéo dài, phản ánh thực tại tăm tối và tình hình xã hội hiện tại.
Bức tranh đêm tối được ông mở rộng cả hình ảnh lẫn âm thanh:
Đêm tối bao trùm với cái lạnh “lạnh lùng” khiến không gian trở nên tĩnh lặng và cô đơn Trong bầu không khí giá rét “bốn bề”, con người cảm thấy sự cô độc trong tâm tư càng thêm sâu sắc Cảm giác lạnh lẽo không chỉ từ thời tiết mà còn từ những suy tư, nỗi niềm không lời.
Trong đêm tối, không gian bị bao trùm bởi “ba phần tuyết”, tạo nên cảm giác nặng nề và u ám Ông cố gắng tìm kiếm một sự tri âm nhưng mọi thứ trở nên mờ mịt, khiến nhãn quan của ông bị thu hẹp Cái lạnh từ không gian càng làm tăng thêm sự cô đơn trong đêm.
Trong không gian tĩnh lặng, "bốn bề" xâm lấn vào tâm hồn, tạo cảm giác lẻ loi giữa đêm tối Âm thanh duy nhất vang lên là "một tiếng gà", làm nổi bật sự tĩnh mịch, trong khi từ láy "xao xác" càng nhấn mạnh vẻ đẹp tĩnh lặng của khung cảnh.
Cụm từ “một” và “tiếng gà” trong bài thơ thể hiện không gian cô đơn, thiếu sức sống, khiến con người càng thêm lẻ loi trong “năm canh” Thời gian kéo dài, từng canh trôi qua, tác giả rơi vào bi kịch khi không tìm được sự kết nối với không gian xung quanh Không gian rộng lớn “bốn bề” chỉ “lạnh lùng” vì tuyết phủ, và thời gian dằng dặc của đêm buồn chỉ được phá vỡ bởi âm thanh duy nhất từ tiếng gà xa xăm Tú Xương cố gắng tìm kiếm sự đồng cảm, lắng nghe để kết nối tâm hồn, nhưng chỉ nhận lại sự tĩnh lặng của màn đêm, thể hiện nỗi cô đơn sâu sắc Nghệ thuật đối trong câu thơ cũng góp phần làm nổi bật cảm xúc này.
Tú Xương sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế, tạo sự đối lập giữa các từ loại, không gian và thời gian Sự xuất hiện của số từ “ba” bên cạnh “một” làm cho không gian trở nên rộng lớn, từ đó âm thanh bị chìm lắng, phản ánh nỗi cô đơn và sự vô vọng của con người.
Không thể tìm sự kết nối với con người, thi nhân cố gắng tìm sự kết nối giữa mình với không gian nhưng sự kết nối bị đứt gãy:
“Chim chóc hãy còn nương cửa tổ Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa”
Giữa không gian đêm, “chim chóc” vẫn còn ở “tổ” chưa bay ra, “bướm ong” thì vẫn còn say giấc “chưa thấy lượn vườn hoa” Hình ảnh “chim chóc”,
Mối liên hệ giữa trào phúng và trữ tình
Trữ tình và trào phúng là hai khía cạnh của một hiện tượng duy nhất, theo Nguyễn Lộc: “Trữ tình và trào phúng là sự khúc xạ và là những lăng kính khác nhau của cùng một tâm hồn.” Sự châm biếm và đả kích chỉ thực sự có chiều sâu khi được xây dựng trên nền tảng cảm xúc trữ tình Do đó, sự kết hợp hài hòa giữa trào phúng và trữ tình, với trữ tình là yếu tố chủ đạo, là điều cần thiết để tạo ra tác phẩm nghệ thuật sâu sắc và ấn tượng.
Thơ Tú Xương nổi bật với những bài thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh và trìu mến, đặc biệt là những tác phẩm viết về bà Tú Ông thể hiện tình cảm sâu sắc dành cho vợ qua những câu thơ trữ tình, ngọt ngào và đầy sự dịu dàng.
“Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ:
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ.
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng gầy;
Người ung dung, tính hạnh khoang hòa [ ]”
Bà Tú được hình dung là một người phụ nữ trang nhã với những đức tính đẹp đẽ, được Tú Xương khắc họa rõ nét trong thơ Ông luôn tìm cách thể hiện những phẩm hạnh tốt đẹp của bà, bất chấp những thất bại trong sự nghiệp hay lối sống phóng khoáng của chồng.
“Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở;
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở”
Và vẫn cần mẫn, tần tảo buôn bán để lo cho chồng cho con:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”
Bà Tú là niềm an ủi lớn nhất của ông Tú, giúp ông vượt qua những đau đớn trong cuộc đời Mỗi khi nhắc đến vợ, nụ cười của ông thể hiện niềm tự hào, sự biết ơn và trân trọng dành cho bà Ông đã khắc họa hình ảnh bà Tú vào thơ ca Việt Nam, tôn vinh những đức tính hy sinh và chịu thương chịu khó của bà.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quãng công”
Tiếng cười trìu mến của ông dành cho bà Tú là điểm tựa cho ông tiếp tục cười với đời, thể hiện sự sâu sắc trong triết lý nhân sinh của thơ văn Tú Xương Cái cười không chỉ đơn thuần là niềm vui, mà còn mang nhiều tầng nghĩa, phản ánh cái nhìn của nhà thơ về các hiện thực xã hội thời bấy giờ Sự tổng hòa của các tiếng cười trong tác phẩm tạo nên cái nhìn nhân sinh đa chiều nhưng sắc nét, mang đến cho độc giả một cách tiếp cận mới mẻ về xã hội đương thời.
Trong Thơ văn Tú Xương, Nguyễn Đình Chú – Lê Mai nhận định rằng:
Tú Xương là một nhà thơ điển hình với cách tiếp cận cả hiện thực và trữ tình, trong đó chân trái đại diện cho hiện thực và chân phải biểu trưng cho lãng mạn Ông sử dụng chân phải để làm nổi bật chân trái, tạo ra một sự hòa quyện giữa hai yếu tố này, giúp thơ ca của ông mang đậm tính lãng mạn Những bài thơ của Tú Xương thường chứa đựng tiếng cười xen lẫn nỗi tiếc nuối, phản ánh sự chuyển mình của xã hội trước ảnh hưởng của thực dân Pháp Văn hóa Pháp đã làm thay đổi cách thức học hành của các nho sĩ, khiến cho những kiến thức truyền thống trở nên lạc hậu và không còn phù hợp, nhường chỗ cho các môn học mới như địa lý và toán học.
“Đạo học ngày nay đã chán rồi Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ, Trình có ông tiên, thứ chỉ tôi”
Đạo học Thánh hiền mà các nhà Nho theo đuổi đã bị thay đổi bởi quy định của thực dân Pháp, khiến nhiều người từ bỏ Cô hàng sách “lim dim ngủ” vì không còn khách mua, trong khi thầy khóa cũng chỉ biết “nhấp nhỏm ngồi” Những biến động này khiến sĩ tử đi thi phải “liều lĩnh đấm ăn xôi” trước những thay đổi đột ngột Tú Xương, một trong những sĩ tử, lúng túng với việc viết chữ Quốc ngữ, không biết phải làm thế nào cho đúng.
Tú Xương thể hiện nỗi tiếc nuối trước sự thay đổi đột ngột trong xã hội, khi giá trị của Nho học dần suy tàn và lớp Nho sĩ bị đào thải Ông nhấn mạnh rằng ở kỳ thi cuối cùng, nếu không đỗ bảng vàng, thì mọi nỗ lực học tập suốt đời sẽ trở nên vô nghĩa, do sự thay đổi của Pháp luật không còn cho phép thi chữ Hán như trước.
“Nghe nói khoa này sắp đổi thi Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá, còn bia miệng Vứt bút lông đi, giắt bút chì”
Tú Xương nhận thức rõ rằng "khoa này sắp đổi thi", vì vậy ông khuyên các thầy đồ nên "đỗ mau đi" để tránh lãng phí cả đời học hành của mình.
Hình ảnh “bút lông” mực Tàu đã ăn sâu vào tư tưởng của Nho sĩ, nhưng những giá trị này giờ đây đã bị “vứt bỏ” Chiếc “bút lông” đại diện cho văn hóa Nho học cũ, trong khi “bút chì” biểu trưng cho tư tưởng mới của phương Tây Chữ Nho và chữ Quốc ngữ đối chọi nhau, khiến Tú Xương nuối tiếc cho thời kỳ vàng son của Hán học đã bị đào thải Lớp văn nhân Nho sĩ cuối cùng nếu không đỗ khoa thì sự học của họ xem như vứt bỏ, không thể tiến thân hay giúp đời Động từ “vứt” ở đầu câu kết thúc bài thơ thể hiện sự phủ nhận hoàn toàn giá trị Hán học, khiến Nho sĩ trở thành những kẻ lạc loài, hoang mang Ông cười đời nhưng cũng cười chính mình, giọng cười châm biếm đầy xót xa, mâu thuẫn với thực tại mà không biết tìm kiếm nơi nào cho mình Tiếng cười về đạo học bị phủ nhận thực chất là tiếng khóc của thi nhân, khóc cho chính tầng lớp của mình Khi nỗi đau quá lớn, con người bật thành tiếng cười, đó là tiếng cười ngạo nghễ nhưng đầy đau khổ của một nhà Nho.
Thi pháp Tú Xương kết hợp giữa hiện thực và trữ tình, sử dụng yếu tố trữ tình để làm nổi bật những sự việc đời thường Sự đan xen giữa trào phúng và trữ tình tạo nên một giọng điệu sâu sắc, mỉa mai, phản ánh số phận lận đận của ông Ông đã dành cả cuộc đời để thi cử với hy vọng đạt được danh vọng, nhưng chỉ dừng lại ở cấp độ Tú tài sau tám lần thi, trong khi những người không học hành lại dễ dàng thành công.
“đầu lạy quan xin” là đủ để được vinh danh bảng vàng Điều này đã khiến ông phải thốt lên rằng:
“Bụng buồn còn muốn nói năng chi, Đệ nhất buồn là cái hỏng thi!
Một việc văn chương thôi cũng nhảm, Trăm năm thân thế có ra gì?”
Trước khi đối với Tú Xương việc học quan trọng thì nay chỉ còn là chuyện
Ông cười cho số phận long đong của mình và tự hỏi “trăm năm thân thế có ra gì?”, một câu hỏi không cần câu trả lời vì ông đã biết kết quả Nụ cười của ông không chỉ là sự tự giễu về việc học hành không thành công, mà còn là tiếng cười chua xót trước nỗi nhục của đất nước khi rơi vào tay giặc Chính sự thất bại này đã khiến cuộc sống của Tú Xương trở nên khó khăn và cực nhọc.
“Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi”
“Một đoàn rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng”
Tú Xương tự châm biếm bản thân và thể hiện sự chua chát trong cuộc sống gia đình qua thơ văn, phản ánh cảnh ngộ túng thiếu Việc thi hỏng liên tục và không thể lo cho gia đình khiến ông hoài nghi về giá trị bản thân, tự nhận mình là kẻ vô dụng và cười nhạo chính mình.
“Trời đất sinh ra chán vạn nghề:
Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê.
Bác này mới thật thái vô tích Sáng vác ô đi, tối vác về!”
Lời thơ của Tú Xương phản ánh cuộc đời ông với nỗi trăn trở về sự bất lực trong việc hỗ trợ gia đình, khi mà "tiền bạc phó cho con mụ kiếm" Dù vậy, ông không bỏ lỡ bất kỳ cuộc vui nào trong cuộc sống Tiếng cười của ông mang nỗi bi kịch, thể hiện sự mất niềm tin vào thực tại Nhiều lần, ông đã tự hỏi về ý nghĩa cuộc sống của mình.
“Trời sinh ta ở trên đời biết chi?”
“Sống lâu, lâu để làm gì?”
Tú Xương, một nhà Nho trong xã hội phong kiến, đã đặt ra những câu hỏi sâu sắc về cuộc đời mà không tìm được lời giải đáp, dẫn đến bi kịch cá nhân Tiếng cười của ông trở thành những cơn sóng dữ, giày xéo nội tâm khi ông vật lộn với thực tại phũ phàng và không biết cách thoát khỏi nó Từ đó, có thể thấy rằng sự đấu tranh nội tâm và những khúc mắc không được giải quyết đã tạo nên nỗi đau trong tâm hồn Tú Xương.