Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống
1
/ 21 trang
THÔNG TIN TÀI LIỆU
Thông tin cơ bản
Định dạng
Số trang
21
Dung lượng
11,73 MB
Nội dung
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LỊCH SỬ
BÀI BÁOCÁO THỰC TẾ
TÌM HIỂUVỀCHÙATĂNGQUANG–
NGÔI CHÙAPHẬTGIÁONAMTÔNG
ĐẦU TIÊNỞ HUẾ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. Nguyễn Văn Đăng Nguyễn Thị Kim Thoa
Phan Thị Thảo
HUẾ, 08/2008
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài.
Phật giáo- Một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được truyền vào Việt
Nam từ rất sớm. Từ đầu công nguyên Phậtgiáo đã được truyền trực tiếp vào Việt
Nam. PhậtgiáoGiao Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa( còn gọi là PhậtGiáo
Nam Tông hay PhậtGiáo Nguyên Thuỷ), từ Budha tiếng Phạn đã được phiên âm
sang Tiếng Việt thành Bụt và trong con mắt của người Việt Nam nông nghiệp, Bụt
như một vị thần luôn có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ
xấu. Sau này sang thế kỷ IV- V, có thêm luồng Phậtgiáo Đại Thừa(còn gọi là Phật
giáo Bắc Tông) từ Trung Hoa tràn vào, chẳng mấy chốc nó đã lấn át và thay thế
luồng NamTông có trước đó. Từ đây Phậtgiáo Đại Thừa phát triển mạnh mẽ qua
các thời kỳ cùng với sự hưng vong của các triều đại phong kiến và được xem là
Phật giáo truyền thống.
Mãi đến giữa thế kỷ XX PhậtgiáoNamTông mới lại được hình thành với
công khai sáng của các Ngài Hoà Thượng Thiện Luật, Hoà Thượng Hộ Tông và
Hoà Thương Huệ Nghiêm.
Riêng ở Huế - một trung tâm phậtgiáo lớn ở Miền Trung (Việt Nam), từ lâu
chỉ có Phậtgiáo Đại Thừa Bắc Tông truyền thống, đến năm 1954, PhậtgiáoNam
Tông ở Huế bắt đầu bằng việc thành lập chùaTăngQuang do Hoà Thượng Hộ
Tông và Hoà Thượng Giới Nghiêm chủ trương. ChùaTăngQuang là ngôichùa
thuộc hệ PhậtgiáoNamTôngđầutiênở Huế, thành lập năm 1954, xong đến nay,
chưa có công trình nào nghiên cứu về chùa, có chăng chỉ là những bài viết ngắn
gọn của các vị Hoà Thượng để giới thiệu sơ qua vềngôichùa này. Trong quá trình
phát triển, chùaTăngQuang có nhiều đóng góp đối với nền văn hoá xã hội nói
chung và Giáo Hội PhậtGiáo nói riêng. Tuy nhiên còn rất nhiều vấn đề, thông tin
về chùa từ xưa đến nay vẫn là một câu hỏi lớn. Vì vậy, trong chuyến đi thực tế này,
chúng tôi quyết định chọn đềtài : “TìmhiểuvềchùaTăngQuang–ngôichùaPhật
Giáo NamTôngđầutiênở Huế”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tăng Quang Tự thành lập năm 1954 ở Huế. Thời kỳ này, PhậtGiáoNam
Tông còn rất xa lạ với đông đảo quần chúng và giới tăng ni từ trước tới nay chỉ tu
theo PhậtGiáo Bắc Tông truyền thống, khi mới ra đời ảnh hưởng của chùaTăng
Quang trong xã hội và các địa phương rất khiêm tốn, vì thế, hầu như không có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ vềngôichùa này. Từ năm 1975 đến nay, nhiều tác giả
nghiên cứu vềchùaở Huế trong đó có chùaTăngQuang như :
Hà Xuân Liêm ( 2000 ), Những ngôichùa Huế, NXB Thuận Hoá, Huế.
Thích Hải Ân và Hà Xuân Liêm (2001 ), Lịch sử PhậtGiáo xứ Huế, NXB
TPHCM.
Nguyễn Tối Thiện (1990 ) Lịch sử truyền bá PhậtGiáo Nguyên Thuỷ.
Nguyễn Văn Sáu, Lịch sử PhậtGiáoNamTông Việt Nam, ấn hành 1987.
Hoà Thượng Giới Nghiêm với tác phẩm Phậtgiáo Nguyên Thuỷ du nhập Việt
Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã có sự kế thừa của các công trình nghiên cứu
trước đó. Đồng thời mỗi công trình đều có nét riêng, có những phát hiện mới về
Tăng Quang Tự.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về
chùa Tăng Quang. Vì vậy, cần có một công trình chuyên biệt nghiên cứu vềngôi
chùa này nhằm hiểu rõ hơn vềPhậtGiáoNamTôngở Huế. Để từ đó chúng ta có ý
thức về việc bảo tồn và phát triển chùa trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng của bài báocáo này là TăngQuang Tự, từ khi thành lập 1954 đến nay.
4. Nguồn Tư liệu.
Nguồn tư liệuchứa đầy nhiều thông tin đặc biệt quan trọng là : Lịch sử truyền
bá PhậtGiáo Nguyên Thuỷ của tác giả Nguyễn Tối Thiện, xuất bản năm 1990 và
Lịch sử PhậtGiáoNamTông của Nguyễn Văn Sáu, 1987.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các nguồn tư liệu từ sách vở, mạng Internet,
các bài viết trên tạp chí của các tăng ni như Tỳ Kheo Thiện Minh, các công văn của
giáo hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam có liên quan đến đềtài này.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đềtài này chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu :
điền dã, khảo sát thực tế, sưu tầm, tra cứu, tập hợp tàiliệu có liên quan, phân tích,
so sánh, đối chứng, kết hợp với việc sử dụng phương pháp lôgic, phương pháp lịch
sử nhằm hoàn thành tốt bài báo cáo.
6. Đóng góp của bài báo cáo.
Trong khoảng thời gian tương đối ngắn, với điều kiện và khả năng tiếp cận,
tìm hiểu vấn đề còn nhiều hạn chế, được sự giúp giúp đỡ động viên của thầy giáo
và các Hoà Thượng ởchùaTăng Quang, cùng với sự say mê trách nhiệm trong quá
trình thực hiện về cơ bản bài báocáo đã đáp ứng được yêu cầu của đề tài. Bài báo
cáo này sẽ góp thêm một số mặt sau:
- Tập hợp, sưu tầm các nguồn tài liệu, khảo sát thực tế vềchùaTăngQuangđể
tiến hành xây dưng một thư mục tương đối đầy đủ phục vụ nghiên cứu đềtài và có
thể cho một số công trình nghiên cứu sau này sử dụng.
- Trình bày một cách cụ thể về lịch sử hình thành và phát triển của chùa cũng
như kiến trúc và cách thờ tự của chùaTăng Quang.
- Đánh giá về những hoạt động và những đóng góp của chùa đối với đời sống
văn hoá xã hội để từ đó các cơ quan chức năng cần có sự quan tâm hơn nữa đối với
sự tồn tại và phát triển của TăngQuang Tự.
7. Bố cục của bài báo cáo.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục, tàiliệu tham khảo, nội dung chính của
bài báocáo được bố cục như sau:
a. Lịch sử PhậtGiáoNamTông cố đô Huế
b. Lịch Sử và kiến trúc của chùaTăng Quang.
c. Những đóng góp của chùaTăngQuang trong đời sống văn hoá xã hội.
Với tinh thần trách nhiệm cùng nhiều nỗ lực trong quá trình thực hiện đềtài
nhưng bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học
nên bài báocáo này khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi rất mong
nhận được sự thông cảm, góp ý của thầy cô và bạn bè
NỘI DUNG
1.Lịch sử PhậtgiáoNamTông cố đô Huế.
Có thể nói PhậtGiáoNamTôngở Huế bắt đầu bằng việc thành lập chùaTăng
Quang vào năm 1954 do Hoà Thượng Hộ Tông và Hoà Thượng Giới Nghiêm ( trực
tiếp là Hoà Thượng Giới Nghiêm ) chủ trương xây dựng. Nếu như, PhậtGiáoNam
Tông Việt Nam được khai sáng nhờ công đức của các ngài Hoà Thượng Thiện
Luật, Hoà Thượng Hộ Tông và Hoà Thương Huệ Nghiêm thì PhậtGiáoNamTông
cố đo Huế được khai sáng và du nhập bởi Hoà Thượng Giới Nghiêm.
Hoà Thượng Giới Nghiêm xuất gia Sa Di năm 1930 tại một ngôichùaở làng
Bãng Lãng, huyện Hương Trà thành phố Huế theo truyền thống Phậtgiáo Bắc
Tông. Lần đầutiên Ngài có ước nguyện theo giáo phái NamTông khi được thấy
các Sa môn của PhậtGiáoNamTông Lào “y bát trang nghiêm” vào kinh thành
Huế cầu quốc thái dân an theo sự thỉnh cầu của Hoàng Hậu Từ Cung
Cuối thập niên 1930, ở Sài Gòn – Gia Định có phái đoàn truyền giáo của Phật
Giáo nguyên Thuỷ do người Việt tu tập ở Campuchia mang về. Ngài và chín huynh
đệ nữa vào Sài Gòn gặp Hoà Thượng Thiện Luật, Hoà hượng Hộ Tông, Hoà
Thượng Huệ Nghiêm. Trong buổi gặp gỡ Ngài đã trao đổi rất nhiều về vấn đềPhật
pháp với các vị trong phái đoàn truyền giáo của hoà thượng Hộ Tông, cũng trong
buổi này Đức Giới Nghiêm đã được giải đáp những thắc mắc trong lòng nhiều năm
qua. Lời lẽ và đạo hạnh của phái đoàn truyền giáo của Hoà Thượng Hộ Tông đã thu
hút Đức Giới Nghiêm và 9 huynh đệ, Ngài được giới thiệu sang Campuchia làm
giới tử và xuất gia.
Năm 1944 Đức Giới Nghiêm giã từ quê hương, nơi đất khách quê người xa lạ,
sự ra đi của các huynh đệ cũ để trở về với đời thường đã thức tỉnh ngài và hun đúc
quyết tâm học tập.
Trên con đường tu học, ở đất nước chùa tháp Campuchia Đức Giới nghiêm
không ngừng tinh tấn. Kết quả là lúc 20 giờ 20 ngày 8/3/1947, Đức Giới Nghiêm
được thầy bổn sư cho thọ Đại Giới, xuất gia Tỳ Kheo theo PhậtGiáo Nguyên Thuỷ,
thầy thế độ là Hoà thượng Visuddhiransì và thầy Yết ma là Candanjira, sau này
Ngài cũng sang Thái để tiếp tục tu học.
Sau chín năm tu học ở Campuchia và Thái Lan, Ngài trở về Việt Namđể chia
sẻ hương vị Pháp bảo với đông bào trong nước và hợp tác với các vị trong phái
đoàn truyền giáo của Hoà thượng Hộ Tôngđể thành lập Giáo hội Tăng già Nguyên
Thuỷ Việt Nam. Quê hương của Đức Giới Nghiêm là Thừa Thiên Huế, nên Ngài
muốn đem hương vị pháp bảo này truyền bá trên vùng đất chôn rau cắt rốn của
mình, trước để đền ơn sinh thành của cha mẹ, sau là báo đáp thầy tổ đã nuôi lớn
tâm hồn mình. Đầu tiên, Ngài về Huế thăm gia đình và người thân, ghé thăm một
số vị tôn đức Bắc Tông. Sau đó, Ngài đến thăm chùa Phổ Đà ở Đà Nẵng, nơi Ngài
được thầy truyền thọ đại giới Tỳ Kheo theo truyền thống Bắc Tông. Tạichùa Phổ
Đà, Ngài giảng giáo lý Nguyên Thuỷ cho phật tử và chư tăng Bắc Tông. Đây cũng
chính là nơi manh nha để hình thành việc ra đời của chùa Tam Bảo– Đà Nẵng
1953 –ngôichùaPhậtGiáo Nguyên Thuỷ đầutiênở miền Trung. Phật tử thấy đạo
mới lạ và phong cách khả kính của Đức Giới Nghiêm khiến họ tăng thêm lòng tín
thành nơi Tam Bảo, nên họ rủ nhau đến quy y và học đạo với Đức Giới Nghiêm
ngày càng đông. Ngoài ra còn có nhiều vị tu sĩ trong truyền thống Bắc Tông quyết
định chuyển sang tu trì theo phái Nguyên Thuỷ của Đức Giới Nghiêm, điển hình
như Hoà thượng Hộ Nhẫn. Nhờ số lượng phật tử ngày càng đông, người xuất gia tu
học cũng khá nhiều nên ở đây đã thành lập được chùa Tam Bảo với sự hỗ trợ của
Ngài Hộ Tông, Ngài Bửu Chơn… Đấy cũng là những nhân tố thuận lợi cho việc
thành lập chùaTăngQuangở Huế sau này.
Như đã nói, việc du nhập và truyền bá PhậtGiáo Nguyên Thuỷ vào Huế là
một thành công rất lớn của Đức Giới Nghiêm. Dù gặp rất nhiều khó khăn, cuối
cùng ngôichùaPhậtGiáoNamTôngđầutiênở Huế cũng được thành lập năm
1954. Đây là cơ sở ban đầu cho việc tụ tập và phát triển Phậtgiáo Nguyên Thuỷ ở
Huế. Lúc đầuchùa chỉ là một ngôi nhà lá đơn sơ để Ngài Giới Nghiêm dừng chân
tu thiền và dạy đạo cho Phật tử hữu duyên. Nhờ oai lực của Tam Bảo và đức độ
của Ngài nên Phật tử thành tâm mua đất để xây chùa cho Đức Giới Nghiêm và chư
tăng tu hành.
Đến 1959 chùaTăngQuangtiến hành trùng tu Chánh điện và xây dựng Bảo tháp
Tôn Trí Xá lợi Đức Phật Thích Ca. Năm 1963, Xá Lợi Đức Phật Thích Ca chính thức
được cung thỉnh về tôn thờ tạiBảo tháp của chùaTăngQuang cho đến nay.
2. Lịch sử hình thành và kiến trúc chùaTăng Quang.
Lịch sử hình thành và phát triển của chùaTăng Quang
Chùa Tăng Quang, tên tiếng Pàli: Sangharànsyaràma, chùa toạ lạc ở số 1/1
đường Nguyễn Chí Thanh , phường Phú Hiệp – Thành phố Huế. Dân địa phương
thường gọi là “chùa Áo Vàng” – cách gọi giản dị và mộc mạc của người dân dành
cho ngôichùa có những vị sư mặc áo màu vàng lõi mít, không giống như những
ngôi chùaở Huế lúc đó . Tại vùng này, ngày xưa có một địa điểm gọi là Hồ Ông
Mười (tức ông Hoàng Mười) mà ngày nay được cải tạo thành trường phổ thông
trung học Gia Hội. Lúc bấy giờ, ở Huế có Tăng mà không có Tự, nên ông Nguyễn
Thiện Đông và bà Nguyễn Thị Cúc - một trong những thiện nam tín nữ đầutiên hộ
trì Tam Bảo của PhậtGiáo Nguyên Thuỷ ở Huế đã xin phép Đức Giới Nghiêm cho
thành lập một ngôichùaPhậtGiáo Nguyên Thuỷ ở Huế để chư tăng có nơi tu hành
và phật tử có nơi cúng dường. Được sự đồng ý của Đức Giới Nghiêm, hai ông bà ra
sức vận động và quyên góp tài chính để mua căn nhà số 1/1 đường Võ Tánh -
Thành phố Huế và lập nên ngôi chùa, tức TăngQuang Tự ngày nay. Chính nhờ
thiện nam Nguyễn Thiện Đông và tín nữ Nguyễn Thị Cúc cùng các quý ông bà là
những phật tử có đức tin kiên cố đã thường xuyên hỗ trợ mà chùaTăngQuang
được kiến tạo nên. Cũng chính nhờ cơ sở này mà PhậtGiáo Nguyên Thuỷ có nơi
bám trụ và phát triển cho đến ngày hôm nay tại thành phố Huế.
Thượng toạ Định Lực - một trong những vị trụ trì chùaTăngQuang cho biết:
“chùa được xây dựng năm 1954 với hình thức cải gia vi tự - tức là mua lại căn nhà
cũ, sửa chữa đôi chút cho phù hợp để làm thành chùa. Đại diện thí chủ dâng cúng là
ông Nguyễn Thiện Đông và bà Nguyễn Thị Cúc. Hoà thượng Giới Nghiêm đại diện
chư tăng chứng minh” [tài liệu 7].Chùa TăngQuang thời kì này không có gì đặc biệt
vì đó chỉ là một ngôi nhà lá đơn sơ với vài ba liêu thất để chư tăng hành đạo.
Năm 1959 chùa được xây dựng lại với mô hình kiến trúc tân kỳ, không giống
hình thức lúc ban đầu - chỉ là hình thức cải gia vi tự, tạm thời có địa điểm để chư
tăng cư ngụ hành đạo và hành pháp. Thời kỳ này chùaTăngQuangtiến hành trùng
tu chánh điện và xây dựng bảo tháp. Ngày khánh thành có sự chứng minh của Hoà
Thượng Hộ Tông, Hoà thượng Bửu Chơn, Hoà thượng Thiện Luật cùng với hơn 60
vị từ kheo từ miền Nam ra tham dự. Cũng trong năm này, chùa được xây dựng và
kết giới sìmà theo truyền thống của PhậtGiáo Nguyên Thuỷ.
Năm 1963, chùaTăngQuangtiến hành trùng tu và xây dựng lại, các công
trình xây dựng thời kỳ này gần như tồn tại cho đến ngày nay.
Như vậy ta thấy rằng, từ khi được xây dựng cho đến nay chùa đã được trùng
tu, sửa chữa nhiều lần, nhờ oai lực của Tam Bảo, nhờ đạo hạnh của các vị tu sĩ, nhờ
đức tin kiên cố và sự hỗ trợ không ngừng của những thiện nam tín nữ, nhìn chung
trong lịch sử chùaTăngQuang liên tục được tu bổ. Tuy vậy, trong quá trình từ khi
thành lập đến nay, chùa cũng có những giai đoạn phát triển và cũng có những khúc
quanh cùng với lịch sử đấu tranh Cách mạng của đất nước ta.
Kiến trúc chùaTăng Quang:
Đại sư Viên Minh từng nói: “Kiến trúc là một trong những đặc trưng của nền
văn hoá… kiến trúc phản ánh đặc trưng văn hoá, phản ánh tư tưởng, tâm hồn, trí
tuệ… mà qua đó chúng ta có thể đoán được sự hưng vong của khuynh hướng hay
trường phái phát sinh ra nó” [9: 4]. ChùaTăngQuang là ngôichùa của PhậtGiáo
Nam Tông, đến với chùaTăng Quang, chúng ta dễ nhận thấy sự khác biệt so với
những ngôichùa khác: Không tôn- nghiêm- cao-khiết như chùa Tịnh Độ Tông,
không huyền - bí- thâm- u như chùa Mật Tông, cũng không hồn nhiên, dung dị như
chùa Thiền Tông. ChùaTăngQuang với kiến trúc đơn giản cho ta cảm nhận nét
giản dị, thực tế, trong sáng, trầm ổn và thanh thoát, hay cụ thể hơn là sáng sủa,
thông khoát, cao nhã, thanh nhu và mạnh mẽ.
Kiến trúc chùaTăngQuang thay đổi qua các thời kỳ xây dựng. Thời kỳ
đầu( 1954) kiến trúc chùa không có gì đặc biệt vì đó chỉ là ngôi nhà lá đơn sơ. Thời
kỳ thứ hai(1959), chùa trùng tu và xây dựng Bảo tháp. Chánh điện thờ Phật, tuy
không lớn nhưng đường nét kiến trúc hoàn toàn khác biệt với những ngôichùa xứ
Huế ngày đó. Lối kiến trúc này mô phỏng theo kiến trúc Campuchia và Thái, tuy
nhiên do thiếu tàiliệu và chưa quen với mô típ kiến trúc và họa tiết trang trí chùa
tháp Thái – Miên nên những người thợ xây dựng thời ấy chưa thể hiện được nghệ
thuật độc đáo, tinh xảo của mô típ kiến trúc này.
Thời kỳ thứ ba(1963) chùaTăngQuang được xây dựng tương đối hoàn chỉnh
và hiện trạng ấy tồn tại cho đến ngày nay. Các công trình xây dựng trong chùa hiện
nay gồm Chánh điện, Bảo tháp, tăng xá, nhà khách, trai đường và linh đường.
Ngoài Chánh điện và Bảo tháp, các công trình còn lại xây cất bình thường, không
có gì đặc biệt về kiến trúc.
Kiến trúc chùaTăngQuang hiện nay được mở đầu bằng cổng Tam quan, có
ba lối vào, lối giữa rộng và lớn hơn so với hai lối hai bên. Theo Đại đức Tánh Hiền
thì kiểu cổng này không giống với kiểu cổng thường thấy ở các chùaPhậtGiáo
Nam Tôngở Việt Nam và trên thế giới. Thường thì các chùaNamTông chỉ làm
một cổng lớn và cổng phụ để dành cho Phật tử ra vào. Trên mỗi cánh cổng của
chùa TăngQuang đều có trang trí. Cánh cổng giữa trang trí bánh xe tượng trưng
cho Thập nhị nhân duyên, hai cánh cổng hai bên là bánh xe tượng trưng cho Bát
chính đạo, mặt tiền cánh cổng đắp dòng chữ “Tăng Quang Tự”.
Từ cổng Tam Quan vào trong chùa du khách sẽ đi bằng hai lối bên tả và bên
hữu. Ở giữa hai lối này đặt một cái chung đỉnh và một hồ sen bán nguyệt tự tạo,
mặc dù kích thước nhỏ bé nhưng chung đỉnh làm cho ngôichùa thêm phần oai
nghiêm và hồ sen trắng làm cho cảnh chùa thêm thanh khiết, nhẹ nhàng. Đi hết cái
sân nhỏ là đến ngôi Chánh điện và toà Bảo tháp tôn trí Xá Lợi Đức Phật. Chánh
điện và Bảo tháp được kiến tạo chung một địa điểm. Chánh điện ởtầng trệt, Bảo
tháp được xây ở trên và nằmvề phía mặt tiền của Chánh điện, trước thềm Chánh
điện là bậc tam cấp, bên tả và bên hữu đều có trang trí tượng rồng đá chầu.
Ngoài ra còn có hai cây Shala Long thọ trồng mỗi bên, loài cây này tương
truyền là nơi Đức Phật đàn sanh và nhập diệt. Từ bên ngoài nhìn vào Chánh điện,
du khách sẽ nhận ra vẻ tôn nghiêm, thanh tịnh và trầm hùng - phần nào là nhờ dáng
dấp uy nghi vời vợi của ngôiBảo tháp. Đây cũng chính là điểm gây chú ý cho
khách thập phương, không chỉ là độ cao mà còn là kiểu dáng và sắc vàng phủ trùm
lên toàn bộ toà tháp và Phật điện có thể dễ dàng nhận ra đây là ngôichùaPhậtGiáo
Nguyên Thuỷ.
Bảo tháp hình vuông, cao khoảng 25m, có 6 tầng mái. Nổi bật trên nền trời
với biểu tượng toà sen xoè cánh trên đỉnh. Mặt tiền của tầng tháp đắp nổi dòng chữ
Sangharànsyaràma ( TăngQuang Tự) theo hình bán nguyệt, phía dưới dòng chữ là
phù điêu Đức Phậtngồi thiền định, bên trái khỉ chúa dâng quả, bên phải bạch tượng
quỳ hầu, mảng phù điêu này thể hiện câu chuyện Đức Phật khuyên dạy các thầy Tỳ
kheo ở thành Kosambi không được nên Ngài lặng lẽ vào rừng nhập hạ mà không có
một Tỳ kheo nào theo hầu cả, trong thời gian nhập hạ ở núi rừng chỉ có khỉ và voi
là thị giả ngài mà thôi. Dưới hình Đức Phật có dòng chữ “Theravada” (Phật Giáo
Nguyên Thuỷ) nằm ngay chánh môn của Phật điện.
Cửa vào Chánh điện cũng có ba cửa, một cửa lớn ở giữa và hai cửa phụ hai
bên, ngoài ra Chánh điện còn có hai cửa phụ ở bức tường bên trái và bên phải.
Chánh điện cao và thoáng mát, nền được lát bằng gạch hoa, trên bốn bức tường treo
nhiều bức ảnh thể hiện lịch sử của Đức Phật. Ngoài ra, còn có hai đầu voi trắng trên
hai cột ở cửa ra vào.
Trong Chánh điện có một pháp toạ để pháp sư giảng pháp và hai tủ Tam tạng
Thánh điển Pàli tiếng Thái. Phía trái còn đặt một cái chuông bằng đồng. Phía dưới
hai tủ Tam tạng là hai thùng phước sương.
Ở ngoài Chánh điện, phía trái là tăng xá hai tầng mới được xây lại vào năm
2000 – 2001, khi dãy nhà cũ dùng làm tăng xá bị hư hỏng nghiêm trọng sau trận lũ
1999. Trận lũ lịch sử này đã làm hư hại chùa.Hiện nay cạnh nhà Tăng xá còn có
công trình kỷ niệm trận lũ lịch sử này. Công trình do bác sĩ Lý Văn Kim(USA)
cúng dường, hoàn thành vào 1/2001. Sau lưng tăng xá là nhà khách, trai đường ở
sau Chánh điện. Bên phải Chánh điện là ngôi nhà vừa mới tu sửa, xây dựng lại,
dùng làm nơi dạy học ngoại ngữ và Phật pháp cho các em thiếu nhi địa phương.
Ngoại trừ Chánh điện, các công trình còn lại như tăng xá, trai đường, nhà khách…
đều xây bình thường để đáp ứng nhu cầu sử dụng
Hệ thống thời tự trong ngôi chánh điện:
Nếu như các chùa hệ phái Đại Thừa Bắc Tông thường thờ Phật Tam Thế (quá
khứ, hiện tại,vị lai), cùng với việc thờ tự các Ngài như: Phật Di Lặc, Ca Diếp Tôn
Giả, An Nam Tôn Giả… Thì chùaTăngQuang–ngôichùa thuộc hệ phái Nam
Tông lại có nét khác biệt, trong Chánh điện chỉ tôn thờ duy nhất Phật Thích Ca.
Trên bệ thờ là tượng Phật toạ thiền. Bên phải là tượng Phật thời niên thiếu,
bên trái là tượng Phật lúc nhập diệt. Cách thờ tự này cho ta thấy rõ tư tưởng cũng
như giáo lý của hệ phái NamTông rất trung thành với giáo lý Nguyên Thuỷ, chỉ
tôn thờ Phật Thích Ca. Khác hẳn với các ngôichùa Bắc Tông, do trong quá trình
phát triển bị ảnh hưởng từ Trung Hoa mà phát sinh ra nhiều đấng tôn thờ như: Phật
A Di Đà, Ca Diếp…
Ngoài ra, hiện nay trong Chánh điện của chùaTăngQuang phía dưới bệ thờ
Phật Thích ca còn có bàn thờ các vị tiền sư. Bên phải là bàn thờ Hoà Thượng Hộ
Tông - người khai sáng PhậtGiáo Nguyên Thuỷ ở Việt Nam. Bên trái, là bàn thờ
[...]... chùaTăngQuang đối với đời sống văn hoá – xã hội TăngQuang là ngôichùaPhậtGiáo Nguyên Thuỷ đầutiênở Huế Cho đến nay chùa mới 54 tuổi, thời gian đó chưa phải là dài, tuy vậy, những đóng góp của ngôichùa đối với đời sống văn hoá – xã hội tại Huế nói chung và với Giáo Hội PhậtGiáo Việt Nam nói riêng đã có nhiều thành tựu 3.1.Nghi thức: Tôn giáo gắn liền với nghi thức Nghi thức của chùaTăng Quang. .. kiến trúc của các chùaPhậtgiáoNamTông khác như: chùa Thiền Lâm, chùa Huyền Không Sơn Trung, chùa Huyền Không Sơn Thượng… chùaTăngQuang cũng đã để lại nhiều nét đẹp kiến trúc mang tính đặc thù của mình để làm phong phú hơn nghệ thuật kiến trúc chùaPhậtGiáoNamTôngở Huế KẾT LUẬN TăngQuang Tự là ngôichùađầutiên của PhậtGiáoNamTông xứ Huế Chùa là minh chứng cho sự thành công trên con đường... tìm về với những giá trị văn hoá dân tộc, những yếu tố văn hoá mang tính tâm linh thì việc quan tâm nâng cấp chùaTăngQuang là việc làm rất cần thiết Bởi lẽ, dù kiến trúc của chùachưa thật nổi bật, dù bề dày lịch sử có phần khiêm tốn so với các ngôichùa khác ở Huế, những ngôi Quốc Tự hàng trăm năm thì chùaTăngQuang vẫn có giá trị lớn với lịch sử PhậtGiáoNamTông xứ Huế Chùa là cơ sở đầu tiên. .. hoá: ChùaTăngQuang là ngôichùaPhậtgiáo Nguyên Thuỷ đầutiênở Huế Có thể nói rằng, do quá quen với PhậtGiáo Bắc Tông truyền thống nên sự hiện diện của những vị tu sĩ theo hệ phái NamTôngởchùa lúc đầu gây cho người dân nhiều bỡ ngỡ và sự hiếu kỳ Tuy nhiên, trong hơn nửa thế kỷ qua, những đóng góp tích cực của chùa và đạo hạnh của chư tăng nơi đây đã để lại hình ảnh đẹp của PhậtGiáo Nguyên Thuỷ... trụ trì chùaTăngQuang là đại đức Tánh Hiền, chùa hiện có 8 chư tăngNgôichùa đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa, về cơ bản chùaTăngQuang đã được xây dựng khá hoàn chỉnh và vững chãi Tuy nhiên, qua quan sát thực tế thì hiện nay chùaTăngQuang còn tồn tại một số bất cập Thứ nhất , quang cảnh trước chùa là một hồ rộng cỏ dại mọc um tùm, không lấy làm mỹ quan Thứ hai, chùa là nơi thờ tự Đức Phật Thích... thức PhậtgiáoNamTông– đơn giản nhưng trang trọng và tôn nghiêm, nếu chỉ một lần đến cúng dường chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó Khi Phật tử cúng dường, chư tăng có lời động viên, khích lệ tu hành tinh tấn trau dồi Phước thiện, làm lành tránh dữ, lấy nhân quả làm gốc Sau đó Chư Tăng tụng kinh chúc phúc, và Phật tử hồi hướng phước báu Cũng như các chùaNamTông khác ở Việt Nam, các tu sĩ chùaTăng Quang. .. Sáu, Lịch sử PhậtGiáoNamTông Việt Nam, ấn hành 1987 7 Tỳ Kheo Thiện Minh, PhậtGiáoNamTông cố đô Huế, Nguyệt san giác ngộ, tháng 9/2002 8 Tỳ Kheo Thiện Minh, Vài nét về sự phát triển của Phậtgiáo Nguyên Thuỷ tại Việt Nam, Nguyệt san giác ngộ, số 88, tháng 7/2003 9 Huyền Không văn bút, đặc san của Tăng ni sinh, số ra ngày 22-5-2002 10 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam (1999), NXB Giáo Dục tái... nữa, đó sẽ là cơ sở để nhân ra biết bao hạt giống Bồ Đề TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Phật học tinh yếu, NXB Phương Đông 2 Thích Hải Ân – Hà Xuân Liêm(2001), Lịch sử PhậtGiáo xứ Huế, NXB TPHCM 3 Hà Xuân Liêm( 2006 ), Những ngôichùa Huế, NXB Thuận Háo, Huế 4 Nguyễn Tài Thư( 1988 ), Lịch sử PhậtGiáo Việt Nam, Khoa học xã hội 5 Nguyễn Tối Thiện, Lịch sử truyền bá PhậtGiáo Nguyên Thuỷ,... người dân Huế Họ gọi chùaTăngQuang là chùa Áo Vàng Hình ảnh tu sĩ chùaTăngQuang y bát trang nghiêm đi khất thực trên khắp các nẻo đường làm sống lại hình bóng Đức Phật và chư tăng hàng ngàn năm trước Giờ đây, người dân Cố đô đã quá quen thuộc với người tu sĩ tam y, nhất bát đó chính là hình ảnh đẹp và gần gũi của PhậtGiáo Nguyên Thuỷ Về phương diện văn học, chư TăngchùaTăngQuang đã có nhiều sáng... song ngữ Pàli - Việt Như vậy về mặt nghi lễ, chùaTăngQuang đã góp phần mới mẻ và phong phú thêm cho sinh hoạt tín ngưỡng của PhậtGiáotại cố đô Huế 3.2.Lễ hội: Lễ hội Phậtgiáo Nguyên Thuỷ thường căn cứ trên kinh điển và lịch sử cuộc đời, lịch sử hoằng pháp của Đức Tôn sư Lễ hội của PhậtGiáo Nguyên Thuỷ không hoàn toàn giống với lễ hội Phậtgiáo bình thường TạichùaTăng Quang, có một số lễ hội trong . chùa Tăng Quang – ngôi chùa Phật
Giáo Nam Tông đầu tiên ở Huế”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tăng Quang Tự thành lập năm 1954 ở Huế. Thời kỳ này, Phật Giáo. KHOA HỌC
KHOA LỊCH SỬ
BÀI BÁO CÁO THỰC TẾ
TÌM HIỂU VỀ CHÙA TĂNG QUANG –
NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG
ĐẦU TIÊN Ở HUẾ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên