1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng bắc bộ việt nam phục vụ phát triển du lịch

32 3,1K 15

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam phục vụ phát triển du lịch
Tác giả Trần Thị Minh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Phạm Hùng
Trường học Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Chuyên ngành Du lịch
Thể loại Luận văn
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 565,08 KB

Nội dung

Thực trạng khai thác Múa rối nước trong du lịch như: công tác tổ chức quản lý; cơ sở vật chất – kỹ thuật; nhân lực; xây dựng múa rối nước thành sản phẩm phục vụ phát triển du lịch; hoạt

Trang 1

Khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt

Abstract Tổng quan về Múa rối nước ở đồng bằng Bắc Bộ và vai trò của Múa rối nước

trong du lịch Thực trạng khai thác Múa rối nước trong du lịch như: công tác tổ chức quản lý; cơ sở vật chất – kỹ thuật; nhân lực; xây dựng múa rối nước thành sản phẩm phục vụ phát triển du lịch; hoạt động tuyên truyền, quảng bá và thu hút khách du lịch Một số giải pháp khai thác Múa rối nước trong phát triển du lịch

-Keywords Du lịch; Múa rối nước; Giá trị văn hóa; Đồng bằng Bắc Bộ; Nghệ thuật múa

du lịch đang là vấn đề cấp thiết

Ngoài những nhân tố như nền chinh trị ổn định, kinh tế đang trên đà phát triển Một trong những lợi thế nổi bật của Việt Nam chính là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú : di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, vườn quốc Gia Phong Nha – Kẻ Bàng; di sản văn hóa thế giới cố đô Huế, phố cổ Hội An; di sản văn hóa cần được bảo vệ Quan họ Bắc Ninh, di sản văn hóa phi vật thể Nhã Nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.Và hàng trăm, hàng nghìn các

di tích lịch sử được công nhận, điểm tham quan Du lịch trên địa bàn cả nước

Trong khi nguồn tài nguyên, các chương trình du lịch hết sức phong phú, thì các hoạt động bổ trợ đi kèm trong chương trình du lịch dường như còn đang rất hạn chế Trong số ít vốn văn hóa đặc sắc của dân tộc được khai thác, múa rối nước hiện nay dường như là hoạt động không thể thiếu đối với các du khách, đặc biệt là du khách nước

Trang 2

ngoài Đã đến Việt Nam, du khách không muốn bỏ lỡ được mục sở thị các tiết mục múa rối nước Tùy điều kiện và đặc tính du lịch, người ta có thể tìm chỗ xem ở trong Nam, ngoài Bắc Nhưng nếu có cơ hội, du khách vẫn để giành ra miền Bắc – Hà Nội hoặc các tỉnh lân cận để xem cho bằng được

2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Múa rối nước đã được đề cập tương đối cụ thể, chi tiết trong các tác phẩm của nhiều học giả nổi tiếng như Tô Sanh, Nguyễn Huy Hồng, Hữu Ngọc, Trung Dũng, Lê Văn Ngọ Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo, bài viết cùng chủ đề

Nghệ thuật múa rối nước,

Vai trò của nghệ nhân dân gian trong bảo tồn và phát huy nghệ thuật rối nước ở đồng bằng Bắc Bộ,

Cùng với đó, các nghiên cứu riêng biệt về một đơn vị phường rối tương đối đầy

đủ nhưng chưa tập trung:

Múa rối, môn nghệ thuật truyền thống của quê hương Nam Định, Đỗ Đình Thọ

Như vậy, đề tài tổng hợp về nghệ thuật múa rối nước dưới góc độ khai thác vào hoạt động du lịch trên phạm vị đồng bằng Bắc Bộ chưa có nghiên cứu cụ thể Đề tài

“khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam phục vụ phát triển Du lịch” là đề tài mới, chưa có nghiên cứu tiền nhiệm

3 Mục đích và nội dung nghiên cứu

Mục đích:

- Tìm hiểu nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam

- Nắm bắt được thực trạng khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước, đặc biệt trong Du lịch

- Dựa trên thành tựu và thực trạng, phân tích kiến giải, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao khả năng bảo tồn, phát huy nghệ thuật múa rối nước, khai thác phục vụ phát triển du lịch

Nội dung:

- Tập trung tìm hiểu nghệ thuật múa rối nước, các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, vận dụng khai thác trong Du lịch

Trang 3

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ hoạt động múa rối nước trên địa bàn các tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ, trong đó việc khai thác các giá trị, đặc biệt là giá trị văn hóa – nghệ thuật múa rối nước phục vụ hoạt động phát triển du lịch

Phạm vi nghiên cứu

Do tính phong phú của đề tài, sự giới hạn về không gian, thời gian và năng lực cá nhân, tác giả nghiên cứu việc khai thác nghệ thuật múa rối nước trong phạm vi vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tập trung phân tích vào các đơn vị tiêu biểu, đại diện khái quát cho tình hình chung của nhóm trong đề tài Theo tiêu chí:

+ Có hoạt động múa rối đang hoặc có khả năng tồn tại, hoạt động thường xuyên, + Có khách du lịch đến tham quan hoặc đi biểu diễn phục vụ các mục đích văn hóa xã hội, du lịch

+ Có những nét độc đáo riêng, cơ sở vật chất đủ để duy trì và phát triển

Theo đó, tác giả đề cập đến 14 phường rối nước dân gian, 04 phường rối cạn, tiêu biểu là phường múa rối dân gian Đào Thục và Đồng Ngư 03 trung tâm biểu diễn chuyên nghiệp là nhà hát múa rối việt Nam và nhà hát múa rối Thăng Long, Bảo tàng Dân tộc học

Do tính thời sự, mọi cơ sở đều biến đổi thích ứng phù hợp với thời đại, tác giửa tập trung nghiên cứu hoạt động khai thác và bảo tồn nghệ thuật múa rối nước từ những năm 2000 đến 2011

5 Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập tư liệu

- Phân tích, tổng hợp

- Khảo sát thực tế, điền dã

6 Bố cục luận văn:

Gồm 03 chương

Chương 1: Tổng quan về múa rối nước Tài nguyên du lịch múa rối nước

Chương 2: Thực trạng khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước trong Du lịch

Chương 3: Một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả khai thác các giá trị văn hóa của nghệ thuật múa rối nước phục vụ phát triển du lịch

7 Đóng góp mới của đề tài

- Tìm hiểu lại tương đối toàn diện hoạt động múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam

- Tập trung khai thác các giá trị văn hóa – nghệ thuật của nghệ thuật múa rối

nước vùng đồng bằng Bắc Bộ phục vụ hoạt động khai thác phục vụ du lịch

Trang 4

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC

TÀI NGUYÊN DU LỊCH MÚA RỐI NƯỚC

1.1 Tổng quan nghệ thuật múa rối

1.1.1 Khái niệm múa rối

Một số số nhận định cơ bản về nghệ thuật rối:

- Bắt nguồn từ những trò chơi ngẫu nhiên, tự phát đến có chủ định, truyền cảm

- Con rối là nhân vật chính, nhưng phụ thuộc sự phối hợp giữa nghệ thuật điêu khắc, kỹ thuật lắp ráp, bài trí sân khấu và nghệ thuật điều khiển con rối

- Có khả năng tập trung, quy tụ niều loại hình nghệ thuật (điêu khắc, hội họa, chèo, tuồng, ca trù, quan họ )

- Phụ thuộc chủ yếu vào tài điều khiển của diễn viên điều khiển con rối

Tô Sanh: “Múa rối: loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một cách cao độ; sự phối hợp giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình, kỹ thuật và điều khiển, con rối là phương tiện chủ yếu Nó có khả năng tập trung nhiều hình thức nghệ thuật sân khấu khác; Phục vụ mọi tầng lớp Múa rối có rất nhiều loại Nhân vật rối là trung tâm Người diễn viên điều khiển được che giấu kín Sân khấu cần phù hợp với kích thước của cả người và rối Múa rối chủ yếu dùng tài năng của người diễn viên điều khiển con rối.[57, Tr.32]

1.1.2 Các loại hình múa rối trên thế giới

Múa rối bao gồm múa rối cạn và múa rối nước Các loại hình múa rối bao gồm: + Rối tay

+ Rối

+ Rối dẹt

+ Rối bóng: Rối bóng bàn tay và rối bóng bìa, rối da

+ Rối cao su xốp

+ Rối đặt trên đầu

+ Rối đeo lưng

+ Rối sân khấu đen

+ Rối dây

1.1.3 Nghệ thuật múa rối ở Việt Nam

Nghệ thuật rối ở Việt Nam có từ lâu, phát triển cao trong kỷ nguyên Đại Việt (thế kỷ XI) Bị thiệt hại nặng nề của chính sách hủy diệt văn hóa bản địa của quân xâm lược Minh (Trung Quốc) và sự xem nhẹ của các triều đình Lê, Nguyễn (1428 – 1945)

Theo Tô Sanh, Trung Quốc có hình thức múa rối gần giống với Việt Nam, gọi là

“Bù nhìn nước”, scó từ thời Tống – ngang với thời Lý nước ta Tuy nhiên, múa rối nước

Trang 5

Việt Nam diễn trong ao, múa rối nước Trung Quốc diễn trong bể thiên về trò chơi hơn

là hí kịch Rối nước Việt Nam diễn ở những nơi công cộng, trong khi rối nước Trung Quốc chủ yếu diễn ở cung đình Điều quan trong hơn là sau đời Tống, không thấy nói đến múa rối nước nữa Ở Việt Nam ngày nay vẫn đang được duy trì

Ngoài Trung Quốc có thấy nhắc đến múa rối nước thời Tống, không thấy tồn tại múa rối nước ở quốc gia nào nữa, chỉ đề cập đến rối cạn

Như vậy, có thể nói rằng, nói đến múa rối nước là nói đến Việt Nam

1.2 Nghệ thuật múa rối nước

1.2.1 Nguồn gốc lịch sử nghệ thuật múa rối nước

Một số kết luận như sau:

- Xuất phát từ nghệ thuật tạo hình, trò chơi của nhân dân lao động Việt Nam, có

từ trước thời Lý [57, Tr.66]

- Hoạt động từng nhóm, từ trong một gia đình, một dòng họ vua chúa cung đình biết đến và, sử dụng từ trước thế kỷ XII, rồi phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần Có thể coi là thời kỳ cực thịnh của múa rối dân tộc

- Hình thức hoạt động, sinh hoạt: hoạt động thành từng gánh, từng phường, từng đội, biểu diễn lưu động từ trước thế kỷ thứ XVIII, đến ngày nay

- Những thuyết cho rằng múa rối nước có từ thời Hồng Bàng, thời Thượng cổ, Tiền Lý Nam Đế, thời Đinh, đều không có căn cứ

- Đất Sơn Tây (vùng chùa Thầy) là nơi có điều kiện hơn cả để phát sinh ra nghệ thuật múa rối nước dân tộc Hầu hết tôn Từ Đạo Hạnh là người sáng lập và là thần bảo

hộ

Ðến nay, chưa khẳng định rằng múa rối nước của ta hay là thủy khối lổi của Trung Quốc có trước Nhưng múa rối nước không phải gốc ở Trung Quốc Đối với thế giới, múa rối nước Việt Nam là một đóng góp độc đáo và đầy sáng tạo Với nghệ thuật múa rối nước, Việt Nam đã có vị trí xứng đáng của mình trong lịch sử sân khấu nghệ thuật của thế giới

1.2.2 Khái niệm múa rối nước

Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu múa rối, mà chỗ diễn con rối

là ở mặt nước (ao, hồ hay bể rộng) Buồng trò của người biểu diễn là một cái nhà được cất giữa ao, hồ hoặc sát một mé hồ Người điều khiển ngâm mình dưới nước, nấp sau tấm mành mành điều khiển con rối (thông thường được làm bằng gỗ hoặc chất liệu không thấm nước) bằng cách khua sào có dính con rối ở dây và đầu sào Nước che kín các loại que, dây, máy Có nhiều loại rối nước: rối ao, rối bể, rối nước kết hợp với rối cạn v.v…Sân khấu hoặc nhà hát cố định của múa rối nước truyền thống là hệ thống nhà hai tầng tám mái xây bằng gạch, có từ lâu đời Múa rối nước là một bộ môn nghệ thuật

lỳ lạ chỉ thấy ở Việt Nam.[57, Tr.37]

Trang 6

1.2.3 Quá trình phát triển của nghệ thuật múa rối nước Việt Nam

Theo Tô Sanh, quá trình phát triển của nghệ thuật múa rối nước dân tộc trải qua

6 thời kỳ:

- Thời kỳ thứ nhất: một trò chơi của nhân dân lao động, thợ thủ công, nông dân, không phổ biến rộng Phạm vi một vài gia đình, dòng họ, địa phương Xuất hiện trước thời Lý

- Thời kỳ thứ hai: Hình thành một nhóm người chơi rối của nhân dân lao động, tiến lên xuất hiện gánh rối, phường rối, bắt đầu xuất hiện ở địa phương đông người xem, lan rộng ra các vùng lân cận Có thể có trước thời Lý, nhưng phát triển cực thịnh nhất vào thời này rồi theo từng giai đoạn

- Thời kỳ thứ ba: Có nhiều cơ sở múa rối Có sự giao lưu, thi đấu, học hỏi, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các phường, gánh rối Nội dung chủ yếu phản ánh cuộc sống lao động, sinh hoạt hàng ngày Các phường rối ghanh đua nhau tìm ra cái tôi để tôn vinh đơn vị mình và thu hút sự quan tâm của công chúng

- Thời kỳ thứ tư: Sau cách mạng tháng Tám Mục đích chủ yếu phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, phong trào phụng sự tổ quốc, coi nhẹ tính kinh tế Nhiều kho tàng rối cả về cơ sở vật chất và nội dung bị mất mát do chiến tranh

- Thời kỳ thứ năm (1954 – 1975): Hòa bình lặp lại trên miền Bắc Việt Nam Hoạt động rối và một số phường rối được phục hồi Múa rối trở thành tài sản của dân tộc, được sự quan tâm và đầu tư duy trì, phát triển

- Thời kỳ thứ sáu (sau 1975): Thống nhất nước nhà, độc lập tự do Múa rối nước trở thành mục tiêu phát triển của đất nước nhằm duy trì, đào tạo và phát triển phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân

1.2.4 Giá trị văn hóa – nghệ thuật múa rối nước

Ngoài giá trị văn hóa - nghệ thuật múa rối nước còn có giá trị lịch sử, giá trị kinh tế

Để có được bức tranh xã hội, lịch sử và đem ra biểu diễn cho khán giả, xuất phát từ các yếu tố cấu thành nên nghệ thuật múa rối nước để tạo nên giá trị văn hóa – nghệ thuật đặc trưng dưới đây

1.2.4.1 Con rối

1.2.4.2 Kỹ thuật biểu diễn

1.2.4.3 Kịch bản, ngôn từ

1.2.4.4 Nghệ nhân múa rối

Tùy thuộc vào khả năng và thế mạnh có thể tham gia vào một trong các vị trí: Nghệ nhân tạo hình quân rối

- Nghệ nhân sáng tạo tích trò và tích diễn :

- Nghệ sỹ biểu diễn:

+ Nghệ sỹ điều khiển rối:

Trang 7

+ Nghệ sỹ biểu diễn tích trò, tích diễn

1.2.4.5 Sân khấu múa rối nước

Sân khấu rối nước truyền thống

Sân khấu hiện đại (trong các trung tâm biểu diễn rối, phường, hội…)

Đối với sân khấu múa rối thùng hoặc múa rối bể, thì việc bố trí và khoảng cách

sẽ khác Nhìn chung mức độ thuận lợi của buổi biểu diến và quy mô khán giả không

được như biểu diễn tại thủy đình truyền thống

1.2.4.6 Âm nhạc trong nghệ thuật múa rối nước

- Nhạc cụ

- Giai điệu, lời thoại

1.2.4.7 Trang phục

1.3 Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam

1.3.1 Đặc điểm môi trường tự nhiên

Đồng bằng Bắc Bộ mang đầy đủ những tính chất và đặc điểm về môi trường tự nhiên của Việt Nam Những đặc điểm riêng biệt: địa hình chủ yếu là đồng bằng, khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa trung bình hàng năm lớn, độ ẩm cao Một năm có bốn mùa rõ rệt Cùng với mạng lưới sông ngòi dày đặc, đặc biệt là hệ thống các sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình với lượng phù sa bồi tụ lâu đời, đã tạo nên một nền văn minh sông Hồng, Đông Sơn rực rỡ

1.3.2 Đặc điểm môi trường xã hội

Đồng bằng Bắc Bộ từ lâu đã là địa bàn cư trú của cư dân người Việt cổ Do đó, khu vực này đã có lịch sử phát triển lâu đời Dân cư đông đúc, có trình độ học vấn, có kinh nghiệm làm ăn

Vùng là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước Trung tâm giao lưu dịch vụ, thương mại và du lịch của các tỉnh phía Bắc, trung tâm giao thông, giao thoa văn hóa, kinh tế quan trọng cả trong nước và nước ngoài

Như vậy, với lợi thế lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, dân cư đông đúc, nền văn hóa có cơ hội bồi tụ bên bờ sông Hồng, lượng di tích lịch sử và truyền thống văn hóa dày đặc, đậm nét Đồng bằng sông Hồng là quê hương của nhiều loại hình nghệ

thuật dân gian cổ truyền, trong đó nghệ thuật múa rối nước

1.4 Nghệ thuật múa rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam

1.4.1 Sân khấu múa rối truyền thống

Hiện nay, Việt Nam có 14 phường rối nước dân gian, các phường rối nước dân gian này đều tập trung tại khu vực đồng bằng Bắc Bộ

1.4.1.1 Phường rối Hồng Phong

1.4.1.2 Phường rối Bùi Thượng

1.4.1.3 Phường rối Thanh Hải

Trang 8

1.4.1.4 Phường rối Chàng Sơn

1.4.1.5 Phường rối Thạch Xá

1.4.1.6 Phường rối Bình Phú

1.4.1.7 Phường rối Nhân Hòa

1.4.1.8 Phường rối Nghĩa Trung

1.1.4.9 Phường rối Nam Chấn

1.4.1.10 Phường rối Nam Giang

1.4.1.11 Phường rối Đông Các

1.4.1.12 Phường rối Nguyên Xá

1.4.1.13 Phường rối Đồng Ngư

1.4.1.14 Phường rối Đào Thục

1.4.2 Sân khấu múa rối chuyên nghiệp

1.4.2.1 Nhà hát múa rối Việt Nam

1.4.2.2 Nhà hát múa rối Thăng Long

1.4.2.3 Đoàn rối Hải Phòng

1.4.3 Các điểm tham quan

Bảo tàng Dân tộc học

1.5 Những vấn đề đặt ra của việc khai thác nghệ thuật múa rối nước trong du lịch

1.5.1.Tính tất yếu của việc khai thác nghệ thuật múa rối nước trong du lịch

Múa rối nước là một trong số những đại diện của văn hóa Việt Nam Hình ảnh trực quan, sinh động được hiện lên rõ nét, khán giả thấy được bức tranh cuộc sống sinh hoạt, tín ngưỡng hàng ngày của người dân Việt Nam

Du lịch là một đại sứ văn hóa, bắc cầu nối du khách đến với Việt Nam Những địa danh đẹp và hấp dẫn, những món ăn ngon, tiêu biểu, những cơ sở vật chất – kỹ thuật

có tiêu chuẩn, chọn lọc, dịch vụ được trau chuốt, và đặc biệt là những nét văn hóa độc đáo, chỉ riêng có ở Việt Nam là những tiêu chí quyết định mang du khách đến với Việt Nam Vì vậy múa rối nước là một trong số những yếu tố thúc đẩy nhu cầu du lịch

1.5.2 Những vấn đề đặt ra trong khai thác nghệ thuật múa rối nước phục vụ phát triển du lịch

Căn cứ vào tính tất yếu của việc khai thác nghệ thuật múa rối nước, những kinh nghiệm khai thác nghệ thuật truyền thống phục vụ phát triển du lịch, chúng tôi thấy rằng

có 06 vấn đề nổi trội dưới đây cần nghiên cứu:

1 Vấn đề tổ chức quản lý

2 Vấn đề cơ sở vật chất – kỹ thuật

3 Vấn đề nhân lực

4 Vấn đề sản phẩm

Trang 9

5 Vấn đề tuyên truyền, quảng bá và thu hút du khách

6 Vấn đề về bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật múa rối nước

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Được coi là độc đáo của riêng Việt Nam, rối nước hứa hẹn đem lại cho du khách trong nước và quốc tế những cảm nhận rieng biệt, sinh động Để làm được điều đó, thì việc tổ chức quản lý, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật; đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ và tâm huyết; các giả pháp tuyên truyền, quảng bá và thu hút khách, cùng với việc bảo tồn và phát huy giá trị đặc sắc của rối nước cần có những bước đi cụ thể

Chương 2 THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ TRONG DU LỊCH

2.1 Công tác tổ chức - quản lý

2.1.1 Công tác tổ chức - quản lý hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch hiện nay thuộc sự quản lý của cơ quan Nhà nước Trung ương

là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hiện nay, Bộ bao gồm 22 đơn vị quản lý Nhà nước Trong đó, Tổng cục Du lịch là cơ quan chuyên trách Trung Ương về hoạt động Du lịch Tại các tỉnh, thành, là các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tại cấp huyện, các phòng Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý trực tiếp hoạt động du lịch tại cơ sở

Ngoài ra còn có Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, trực

thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam theo quy định của pháp luật

Các đơn vị lữ hành thuộc sự quản lý của cơ quan Nhà nước về Du lịch trực tiếp

tại địa phương Đây chính là nhân tố cầu nối đưa du khách đến với nghệ thuật múa rối

Họ là những người tiếp xúc trực tiếp với du khách Như vậy, tuy không có vai trò quản

lý hoạt động múa rối nước, song các đơn vị lữ hành ảnh hưởng rất lớn đến việc khai thác nghệ thuật múa rối nước trong du lịch

2.2.1 Cơ quan quản lý hoạt động nghệ thuật múa rối nước

2.2.1.1.Cơ quan quản lý Nhà nước

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch trong phạm vi cả nước và du lịch theo quy định của pháp luật

Trang 10

Trong số các đơn vị và thành viên trực thuộc, hai đơn vị liên quan trực tiếp đến việc quản lý hoạt động nghệ thuật múa rối nước, là Cục Di sản và Cục Nghệ thuật biểu diễn

Cục nghệ thuật biểu diễn

Cục Di sản văn hóa

2.2.1.2 Các tổ chức xã hội

Liên chi hội múa rối Việt Nam (Unima Việt Nam)

Tập hợp các chi hội thành viên là các phường rối nước dân gian, phường rối cạn dân gian và các đơn vị rối chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp trên toàn lãnh thổ Việt Nam

Nhiệm vụ: quy tụ và thiết lập các mối quan hệ về nghề nghiệp và kinh nghiệm giữa các nhà hát, phường rối; động viên các nghệ sĩ sáng tạo những tác phẩm có chất lượng cao; đào tạo, bồi dưỡng các tài năng trẻ, tăng cường tổ chức giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, mở rộng thị trường múa rối trên quốc tế, tư vấn, trình Hội nghệ sỹ sân khấu và Cục nghệ thuật biểu diễn tổ chức các kỳ liên hoan múa rối và các đợt lưu diễn ở nước ngoài, và mời các đoàn múa rối nước ngoài đến biểu diễn tại Việt Nam

Cả nước hiện có 4 nhà hát chuyên nghiệp với 196 nghệ sĩ, diễn viên, hai đoàn múa rối bán chuyên nghiệp, 03 đoàn rối cạn cổ truyền và 14 phường rối nước cổ truyền với trên

300 nghệ sĩ, nghệ nhân và các đội múa rối tại các địa phương trên toàn quốc

2.1.1.3 Các tổ chức phi chính phủ

Quỹ Việt Nam – Thụy Điển

Thuộc Chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam – Thụy Điển giai đoạn

1-1-2004 đến 31-12-2007, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình Với 10 triệu Curon Thụy Điển (tương ứng với 1,5 triệu USD), Quỹ có mục đích hỗ trợ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu mới nảy sinh, có tính ứng dụng cao, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của quá trình phát triển, đặc biệt là các đề tài nghiên cứu liên ngành, liên quan tới các lĩnh vực công nghệ sinh học, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, văn hóa, xã hội

Cơ quan chủ quản: Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) Cơ quan thực hiện tại Việt Nam: Văn phòng chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam – Thụy Điển (PMU)

Thông tin liên hệ:

Văn phòng Chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam – Thụy Điển

Phòng 390, Khách sạn Hoà Bình, 27 Lý Thường Kiệt, Hà Nội

Tel: 84-4-9362866 Fax: 84-4-9362867

Email: vnsarec.pmu@fpt.vn

Website: http://www.sarec.gov.vn

Mục tiêu dự án

Trang 11

Về năng lực: Nâng cao năng lực quản lý của PMU/MOST nhằm giúp Bộ Khoa

học và Công nghệ quản lý Chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam - Thụy Điển theo đúng Hiệp định đã ký giữa hai nước thực hiện trong giai đoạn 2004-2007

Về nghiên cứu: Văn phòng chương trình được thành lập nhằm mục đích quản lý và

điều phối các dự án trực thuộc Chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam – Thụy Điển

do đó sẽ không thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học

Hoạt động chính

- Hỗ trợ các dự án phân bổ ngân sách 2004 – 2007, xây dựng các kế hoạch hoạt động và ngân sách cho từng năm;

- Ký hợp đồng và chuyển kinh phí cho các dự án theo kế hoạch đã được duyệt;

- Quản lý tài chính của Chương trình;

- Liên kết các dự án thuộc Chương trình;

- Soạn thảo Sổ tay quản lý Chương trình/Dự án thuộc Chương trình Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam – Thụy Điển;

- Soạn thảo qui chế về Quỹ nghiên cứu;

- Đóng vai trò là Thư ký cho Hội đồng tư vấn khoa học;

- Thường xuyên thực hiện các chuyến giám sát tới các dự án;

- Tổ chức các cuộc họp Ban chỉ đạo, các cuộc họp điều phối viên Tiểu chương trình;

- Tổ chức các cuộc họp lập kế hoạch thường niên, các đợt kiểm điểm năm giữa Việt Nam và Thụy Điển;

- Hỗ trợ công tác kiểm toán Chương trình/Dự án

Nhân sự chủ chốt của dự án

1 Giám đốc dự án: Ông Thạch Cần,

2 Phó Giám đốc dự án: Ông Trần Dũng Tiến,

3 Cán bộ chương trình: Ông Lục Gia Thái,

4 Kế toán Chương trình: Nguyễn Phương Thắng

Các kết quả đạt được:

 Năng lực quản lý hành chính và tài chính của Văn phòng PMU được tăng cường

 Tăng cường mối liên kết hợp tác giữa các đối tác Việt Nam và đối tác Thụy Điển

 Các hướng dẫn về quản lý hành chính và tài chính dự án, hướng dẫn thực hiện Quĩ nghiên cứu của Chương trình

 Một số hoạt động đào tạo như lớp học, hội thảo về các chủ đề liên quan đến quản

lý dự án và hoạt động điều phối, liên kết sẽ được PMU tổ chức cho các cán bộ có liên quan của các dự án trong Chương trình

Quỹ Ford

Quỹ Ford bắt đầu thực hiện tài trợ ở Việt Nam từ đầu những năm 1990, và được

Trang 12

cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội vào tháng 10/1996 Trong những năm này quỹ đã phê duyệt hơn 625 tài trợ, với tổng số tiền là 84.5 triệu đô la, cho các tổ chức và cá nhân ở Việt Nam, cũng như cho các cơ quan nước ngoài hoạt động vì lợi ích của Việt Nam Trong năm 2007, hoạt động tài trợ ở Việt Nam tổng cộng

là 10 triệu đô la

Quỹ thực hiện tài trợ trong sáu lĩnh vực: Tài chính Phát triển; Giáo dục và Học thuật; Môi trường và Phát triển; Hợp tác Quốc tế; Truyền thông, Văn hoá và Nghệ thuật; và Tình dục và Sức khoẻ Sinh sản

Sứ mệnh của Quỹ Ford:

- Tăng cường các giá trị dân chủ

- Giảm nghèo đói và bất công

Quỹ Ford Việt Nam

Tầng 14, Toà nhà Pacific Place, 83B Lý Thường Kiệt

Hoàn Kiếm, Hà Nội, VIỆT NAM Tel (+84) 4-946-1428

Fax (+84) 4-946-1417

ford-hanoi@fordfound.org

*Tài trợ của Quỹ Ford ở Việt Nam từ (1996-2007)

- Giáo dục và Học thuật: Cải thiện việc đào tạo, xây dựng nguồn trí lực và hỗ trợ nghiên cứu khoa học xã hội: 17.852.200 USD

- Tài chính Phát triển: cải thiện khả năng tiếp cận đến các dịch vụ tài chính cho các hộ gia đình có thu nhập thấp, các nhóm dân tộc thiểu số và phụ nữ 1.296.900 USD

- Môi trường và Phát triển: thúc đẩy việc tạo lập sự phồn thịnh bền vững tại các cộng đồng thiệt thòi phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên 13.177.975 USD

- Tình dục và Sức khoẻ Sinh sản: Xây dựng năng lực và cam kết đảm bảo để các nhóm người dễ bị tổn thương có thể thực thi quyền tiếp cận thông tin và dịch vụ

về sức khoẻ tình dục và sinh sản 16.380.583 USD

- Hợp tác quốc tế: Đào tạo về quan hệ quốc tế và đa dạng hoá các mối quan

hệ với Hoa Kỳ 24.009.214 USD

- Truyền thông nghệ thuật và văn hóa: Xây dựng kiến thức về quản lý văn hóa

Trang 13

Ca nương (02) Nghệ sỹ

biểu diễn (16) (16)

nghệ thuật, tài liệu hóa và bảo tồn các truyền thống đa dạng của Việt Nam, tái phát triển ngành công nghiệp điện ảnh, khuyến khích nghệ sỹ thu hút sự chú ý của thế giới xung quanh 11.663.700 USD

2.2.1.4 Cơ cấu tổ chức, quản lý các đơn vị múa rối

Sân khấu múa rối chuyên nghiệp: đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân Vì

vậy, tùy thuộc vào quy mô và tình hình hoạt động của mỗi đơn vị, có thể có sự khác biệt Song nhìn chung đều theo mô hình doanh nghiệp dưới sự quản lý của Nhà nước

Cơ cấu tổ chức quản lý Nhà hát múa rối Việt Nam:

6 Đoàn biểu diễn I

7 Đoàn biểu diễn II

8 Đoàn biểu diễn III

9 Đội nhạc

10 Tổ chức trực thuộc

11 Trung tâm thiết kế, trang trí, tạo hình

12 Ban quản lý rạp

2.1.4.2 Cơ cấu tổ chức sân khấu múa rối truyền thống

Mỗi phường rối có quan niệm và cách thức phân bổ nhân lực quản lý bộ máy tổ chức phường, hội của mình khác nhau sao cho hiệu quả nhất Nhưng nhìn chung, cơ cấu

tổ chức có mô hình gần giống với mô hình cơ cấu tổ chức – quản lý của phường rối nước Đồng Ngư Cụ thể như sau:

Do đặc thù là phường rối dân gian, cơ cấu tổ chức mang hình thức phường hội, mỗi thành viên kiêm nhiều vị trí và làm các việc trong phường Ở phường rối Đồng Ngư, trưởng phường (Ông Nguyễn Thành Lai) kiêm vai trò tạo hình rối những con rối mới, sữa chữa, tu

Trang 14

bổ rối cũ; thiết kế, sáng tạo các vật dụng phụ vụ rối Đôi khi vì điều kiện nhân sự, trưởng phường kiêm vai trò người dẫn chương trình và hát cùng với ca nương

2.2 Thực trạng cơ sở vật chất – kỹ thuật

2.2.1 Thực trạng cơ sở vật chất – kỹ thuật Du lịch

2.2.1.1 Cơ sở vật chất – kỹ thuật sân khấu múa rối truyền thống

Cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ biểu diễn chủ yếu là khu vực Thủy đình Thủy đình có tuổi thọ cao nhất là ở chùa Thầy, vào khoảng thế kyr XVII Năm 2011, Bảo tàng Dân tộc học đang thiết kế xây dựng lại theo mô hình này

Hiện nay, được sự quan tâm của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, các nhà hảo tâm, cư dân bản địa và đặc biệt là chính những nghệ nhân dân gian yêu mến nghề rối vun đắp, mỗi phường rối đều có thủy đình được xây dựng tương đối khang trang Kinh phí trung bình cho mỗi thủy đình, và việc tu sửa, làm mới con giống, các thiết bị đi kèm phục vụ biểu diễn, khán đài… vào khoảng gần 1 tỷ đồng

Phần lớn các thủy đình hiện nay tại các phường rối như Đồng Ngư, Thanh Hải, Thạch Xá, Chàng Sơn…được xây mới lại (hoặc duy tu, sửa chữa) là vào năm 2000 –

2003 dưới sự tài trợ tích cực của quỹ Ford và quỹ Việt Nam – Thụy Điển

2.2.1.2 Cơ sở vật chất – kỹ thuật sân khấu múa rối chuyên nghiệp

Nhà hát múa rối Việt Nam: 03 sân khấu biểu diễn Thủy đình ngoài trời 360 chỗ

chuyên biểu diễn múa rối nước truyền thống Rạp mới xây dựng, trong rạp có hai sân khấu: Một chuyên biểu diễn Rối cạn tại tầng 2 với 280 chỗ, sân khấu tầng 1 với 230 chỗ, có thể biểu diễn tất cả các loại hình nghệ thuật khác (Rối nước truyền thống, rối nước kết hợp rối cạn và nghệ thuật đương đại)

2.2.1.3 Cơ sở vật chất – kỹ thuật tại các điểm Tham quan – Du lịch

Nhận thấy sự độc đáo và hấp dẫn du khách của nghệ thuật múa rối nước, hiện nay tại một số điểm tham quan – du lịch có tổ chức khai thác hoạt động múa rối nước trong du lịch Điển hình có các đơn vị sau:

Bảo tàng dân tộc học Bảo tàng dân tộc học không phải là đơn vị múa rối chuyên

nghiệp Song đây là nơi trung gian giới thiệu đến du khách gần như nguyên gốc nghệ thuật múa rối nước dân gian

Quy mô và kết cấu của Bảo tàng: 2 khu vực chính Một khu bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường liên hoàn với nhau, tổng diện tích 2.480m2, trong đó 750

m2 dùng làm kho bảo quản hiện vật Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng

2 ha, bắt đầu xây dựng năm 1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006 Không gian trưng bày ngoài trời của Bảo tàng DTHVN rộng khoảng 2 ha, giới thiệu những phong cách kiến trúc đặc trưng của một số dân tộc ở Việt Nam Hiện

Trang 15

nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn 1 ha đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha Tại phần đất mở rộng này, từ giữa năm

2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng, mang tên “nhà Cánh diều”, để giới thiệu

về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là các dân tộc ở Đông Nam Á Đây sẽ

là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng

Tính ưu việt của Bảo tàng: là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về văn

hoá của đủ 54 dân tộc Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom Đồng thời, đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc

Khu du lịch Việt Phủ Thành Chương

được xây dựng tại xã Hiền Ninh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội Là tác phẩm nghệ thuật, văn hóa độc đáo của họa sĩ Thành Chương Được xây dựng từ năm 2001, ý tưởng ban đầu

là tạo dựng một không gian văn hóa, nghệ thuật, tâm linh rất Việt Nam dành cho riêng ông

và gia đình Sau đó, công trình thu hút sự chú ý của công chúng Năm 2009 trở thành điểm đến của nhiều các chính trị gia, nhà ngoại giao và công chúng yêu văn hóa Việt

Lịch mở cửa: các ngày trong tuần, từ thứ Ba đến Chủ nhật, từ 09h00 sáng đến

17h30 (Mùa hè); 17h00 (Mùa đông) Nghỉ thứ 2 (Lịch có thể thay đổi không áp dụng cho các đoàn đã đặt trước.) Phòng Trưng bày Nghệ thuật: Từ 10h đến 11h30 và từ 14h đến 16h30 Phòng vé sẽ đóng cửa 30 phút trước khi giờ tham quan kết thúc

Vé vào cửa: Gi100.000 VNĐ/vé/người lớn; 50.000 VNĐ/vé/trẻ em Mỗi vé kèm

theo 01 Sách Hướng Dẫn (tiếng Việt/tiếng Anh), bản sơ đồ và nội quy tham quan Việt Phủ có thu phí chụp ảnh đám cưới 4.000.000 VNĐ/một đám cưới Việt Phủ Thành Chương với hoạt động biểu diễn nghệ thuật và nghệ thuật múa rối nước

Đến thăm Việt phủ Thành Chương, du khách có thể thưởng thức nghệ thuật ẩm thực miền Bắc truyền thống tại nhà hàng Hương Việ,t kết hợp xem một chương trình biểu diễn rối nước đích thực với sân khấu ngoài trời, chương trình ca nhạc truyền thống với ca trù, quan họ, đàn bầu, chầu văn với múa hầu đồng tại nhà hát Long Đình

Khu du lịch sinh thái Minh Hải

Khu du lịch sinh thái Minh Hải thuộc Công ty gốm sứ Minh Hải, có địa chỉ tại làng Bát Tràng, xã Minh Hải huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội

Cách thủ đô Hà Nội 9km về phía Đông Nam, diện tích 100.000 m2, điểm tham quan nghỉ dưỡng cuối tuần lý tưởng, có khả năng đón tiếp khoảng 1000 du khách/ngày

Trang 16

Khu du lịch là nơi tập hợp tinh hoa của các làng nghề truyền thống Việt Nam như dệt lụa Vạn Phúc, gỗ Đồng Kỵ, mộc mỹ nghệ Sơn Đồng, sản phẩm thêu Khoái Nội, chạm bạc Đồng Xâm, ngoài ra còn có gốm Chăm, gốm Đồng Nai, thổ cẩm thêu Sa Pa,

đá quý Lục Ngạn…đặc biệt là gốm sứ Bát Tràng

Ngoài các hoạt động tham quan, giải trí, khu du lịch có các chương trình biểu diễn nghệ thuật: múa rối nước, hát chèo, hát quan họ, chầu văn, ca trù, do các nghệ nhân làng ĐàoThục, Luy Lâu, Bắc Ninh thể hiện Để làm được điều đó, khu du lịch đã đầu tư một nhà thuỷ đình kiên cố để trình diễn múa rối nước

Được biết, đã có một số công ty du lịch hợp tác khai thác và xây dựng tour thử nghiệm tại Minh Hải, như OSC, APEC, Vinatour và bắt đầu có hiệu ứng tốt từ du khách nước ngoài

2.3 Thực trạng nhân lực

2.3.1 Thực trạng nhân lực sân khấu múa rối chuyên nghiệp

Nhìn chung, về cơ cấu nhân lực, trình độ sân khấu múa rối chuyên nghiệp có cách phân bổ tương đối tương tương đồng nhau

Nhà hát múa rối Thăng Long: Số lượng thành viên đoàn rối nước 20 người hai

đoàn diễn với 70% diễn viên trình độ Đại học, 8 nhạc công, 5 kỹ thuật viên và các phòng ban chức năng Nhà Hát có nhà sáng tác, đạo diễn riêng, 5 NSƯT, 6 nghệ sỹ xuất sắc, nhiều diễn viên tài năng trẻ Ngoại ngữ chủ yếu bao gồm tiếng Anh, tiếng Pháp

Nhà hát múa rối Việt Nam: Hiện nay có 97 thành viên trong biên chế, được đào tạo

bài bản, chuyên nghiệp, được tuyển dụng từ các trường, đặc biệt là trường Đại học sân khấu – Điện ảnh, các khoa như kịch hát dân tộc, chèo, tuồng, cải lương, âm nhạc dân tộc Các nghệ

sỹ điều khiển con rối, được tuyển chọn từ những sinh viên có tố chất đào tạo lý thuyết tại trường sân khấu điện ảnh, thực hành tại Nhà hát múa rối Việt Nam Đội ngũ thuyết minh viên biết ngoại ngữ chủ yếu là tiếng Anh, Pháp, tiếng Hàn Quốc, Trung Quốc

2.3.2 Thực trạng nhân lực sân khấu múa rối truyền thống

Số thành viên dao động trong khoảng từ 15 – 20 người Phần đông là nam giới Hiện nay có sự tham gia của nữ giới, chủ yếu trong vai trò ca nương, nhạc công Một bộ phận nhỏ có thể điều khiển con rối Các thành viên có độ tuổi khác nhau, nhưng chủ yếu

ở độ tuổi trung niên Có nghề nghiệp, công việc chính chủ yếu là làm nông và nghề thủ công, nghề phụ Khi có yêu cầu gác lại công việc đồng áng đi diễn múa rối

Về thu nhập, tiền công: Tính theo ngày công chia đều cho các thành viên theo quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể, không mang tính làm kinh tế nuôi sống gia đình, chỉ mang tính động viên các thành viên gắn bó với nghề, bảo tồn và giữ gìn văn hóa quê hương, đem lại niềm vui, tiếng cười cho khán giả

Về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực: Trước đây chỉ chọn nam giới Hiện nay chọn

cả nữ giưới, tính bí mật vấn được duy trì Một bộ phận các bạn trẻ được truyền tâm

Ngày đăng: 17/01/2014, 14:07

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu các dân tộc – viện sân khấu 1994 Nxb Văn hóa dân tộc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu các dân tộc
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
2. Bảo tàng dân tộc học (2002) – Phường rối Phú Bình, liên hoan quốc tế về múa rối tại Hà Nội (6 – 15/12/2002). Tư liệu bảo tàng dân tộc học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phường rối Phú Bình, liên hoan quốc tế về múa rối tại Hà Nội
3. Quốc Bảo, Rối nước Việt Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối nước Việt Nam
4. Trần Lâm Biền, Đôi nét về nghệ thuật tạo hình trong nghệ thuật rối Việt, Tạp chí văn hóa nghệ thuật số 2, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đôi nét về nghệ thuật tạo hình trong nghệ thuật rối Việt
5. Vương Duy Biên, Giá trị mỹ thuật trong nghệ thuật múa rối, Tạp chí văn hóa nghệ thuật số 2, 2001, Trang 19 – 20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giá trị mỹ thuật trong nghệ thuật múa rối
6. Hà Văn Cầu, Múa rối nước Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian số 1, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hà Văn Cầu, "Múa rối nước Việt Nam", Tạp chí Văn hóa dân gian số 1
7. Hoàng Bảo Châu, Sân khấu rối bóng Ấn Độ và sân khấu rối bóng Đông Nam Á, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 1, 1998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sân khấu rối bóng Ấn Độ và sân khấu rối bóng Đông Nam Á
8. Huyền Chiêm, Múa rối trên đường phát triển, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Múa rối trên đường phát triển
9. Nguyễn Thị Chiến, Khai thác di sản văn hóa như là một tài nguyên du lịch, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2, 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khai thác di sản văn hóa như là một tài nguyên du lịch
10. Đoàn Văn Chúc, Văn hóa học, Viện văn hóa & Nxb Văn hóa thông tin, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa học
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
11. Chuyện rối nước dân gian ngày xuân, Báo Văn nghệ số 198, 10/02/1967 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuyện rối nước dân gian ngày xuân
12. Lý Khắc Cung, Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
13. Pham Đức Dương, Sân khấu múa rối – con rối – sứ giả của thế giới tâm linh, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2, 2001, Trang 25 – 28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sân khấu múa rối – con rối – sứ giả của thế giới tâm linh
14. Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, Quy chế công nhận nghệ nhân dân gian Việt Nam, Tạp chí nguồn sáng dân gian số 2, 2002, trang 7 – 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy chế công nhận nghệ nhân dân gian Việt Nam
15. Hoàng Kim Dung, Phác họa bức tranh múa rối chuyên nghiệp, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2/2006, trang 58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phác họa bức tranh múa rối chuyên nghiệp
16. Hoàng Kim Dung, Nghệ thuật múa rối với công chúng thiếu nhi, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 1/1988 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật múa rối với công chúng thiếu nhi
17. Hoàng Kim Dung, Về nghệ thuật rối nước, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 3/1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về nghệ thuật rối nước
18. Trọng Dũng, Lớp múa rối nước chuyên nghiệp đầu tiên, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2/2001, trang 42 – 43 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lớp múa rối nước chuyên nghiệp đầu tiên
19. An Đông, Trên đại lộ hội nhập quan trọng là cách đi, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 2/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trên đại lộ hội nhập quan trọng là cách đi
20. Tạ Đức, Nguồn gốc rối bóng Giava đến cội nguồn rối nước Việt Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 5/1986 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn gốc rối bóng Giava đến cội nguồn rối nước Việt Nam

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w