Các phương pháp chủ yếu sử dụng trong nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hóa, Phương pháp xác định tỷ lệ tiêu hóa Invtro, Phương pháp tiêu hóa toàn phần (phương pháp cổ truyền), Phương pháp đánh giá tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng (Thu dưỡng chấp), Các phương pháp xác định mất mát N nội sinh, Phương pháp đánh giá tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn
Các phương pháp chủ yếu sử dụng trong nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hóa
Phương pháp xác định tỷ lệ tiêu hóa Invtro
Kỹ thuật in vitro đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu nhờ vào những lợi ích như đơn giản, chi phí thấp và không cần sử dụng động vật thí nghiệm Tuy nhiên, kết quả từ các nghiên cứu in vitro vẫn chưa được công nhận để áp dụng trong việc lập khẩu phần ăn Các phương pháp in vitro bao gồm thử nghiệm hóa học, thử nghiệm enzyme, thử nghiệm vi sinh vật, kỹ thuật quang phổ cận hồng ngoại (NIRS) và xét nghiệm miễn dịch, chủ yếu được sử dụng để đánh giá tiêu hóa tinh bột và protein ở gia cầm.
2.1.1 Phương pháp thử nghiệm enzyme
2.1.1.1 Nguyên lý của phương pháp
Trộn thức ăn hoặc nguyên liệu với dịch tiêu hóa, bao gồm enzyme dạ dày, tụy và ruột, tạo ra một hỗn hợp enzyme tinh khiết hoặc dịch tiêu hóa non Phương pháp này thường được áp dụng để đánh giá tỷ lệ tiêu hóa và phân giải protein.
Trong nghiên cứu sơ bộ, nhiều chế phẩm đệm đã được đánh giá để kiểm tra sự tương tác với thuốc thử so màu và ảnh hưởng đến tính ổn định của enzyme Các chất đệm natri acetate có pH 12,5 và 6,5 được xác định là phù hợp nhất để duy trì hoạt động của enzyme dịch tụy dựa trên glycerol, đồng thời tương thích với thuốc thử ninhydrin được sử dụng trong nghiên cứu.
Chuẩn bị enzyme/hỗn hợp enzyme: Enzyme có thể lấy trực tiếp từ con vật hoặc điều chế từ công nghiệp
Trộn enzyme với chất đệm và nguyên liệu thức ăn thường được thực hiện ở nhiệt độ 37 độ C, với thời gian tối thiểu là 30 phút, có thể kéo dài đến 96 giờ để đạt hiệu quả tối ưu.
Sau đó lấy mẫu, phân tích và đánh giá kết quả phân giải/tiêu hóa
2.1.2 Phương pháp Quang phổ cận hồng ngoại (Near Infrared Reflectance Spectroscopy - NIRS)
NRIS là kỹ thuật dùng để xác định thành phần hóa học trong các mẫu sinh học nguyên liệu, thực phẩm, dược phẩm và thức ăn chăn nuôi
2.1.2.1 Nguyên lý của phương pháp
Theo William (1998), khi có một chùm ánh sáng tới chiếu qua các mẫu sinh học, vùng ánh sáng cận hồng ngoại, bước sóng 750 – 2.500 nm được các liên kết C-H, N-H, O-
H có mặt trong các chất hữu cơ của mô sinh học hấp phụ, và việc đo phổ ánh sáng phản xạ từ các mẫu sinh học giúp thu thập thông tin về thành phần hóa học của chúng Các giá trị phổ thu được sẽ được phân tích bằng phần mềm máy tính, tạo ra ma trận các giá trị của phổ chất hữu cơ cần phân tích như protein thô và lipit Bằng cách áp dụng mô hình thống kê nhiều biến, mối quan hệ giữa phổ hấp phụ và thành phần hóa học có thể được mô tả, từ đó hỗ trợ chẩn đoán thành phần hóa học tại các máy phân tích như máy NIR.
NIRS được nhiều tác giả coi là một kỹ thuật tiềm năng và đáng tin cậy trong việc dự đoán tiêu hóa amino acid (Van Leeuwen và ctv 1991; Jackson và ctv, 1996) Phương pháp này cho kết quả nhanh hơn so với các phương pháp in vitro khác Tuy nhiên, việc hiệu chuẩn thiết bị yêu cầu một số lượng mẫu tương đối lớn với các giá trị in vivo đã biết, đây là nguyên nhân chính làm chậm sự phát triển của phương pháp này.
Công nghệ NIRS đang được nhiều nhà máy thức ăn chăn nuôi áp dụng để dự đoán hàm lượng protein, độ ẩm, lipid và khoáng tổng số trong thức ăn Tuy nhiên, các dữ liệu hiệu chỉnh cần được kiểm chứng thông qua so sánh thống kê với các dữ liệu độc lập (Ravindran và ctv 1999) để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy.
Phương pháp tiêu hóa toàn phần (phương pháp cổ truyền)
2.2.1 Nguyên lý của phương pháp
Vật nuôi được cung cấp khẩu phần ăn với khối lượng và hàm lượng dinh dưỡng cụ thể, đồng thời xác định lượng phân thải ra Lượng chất dinh dưỡng tiêu hóa được tính bằng sự chênh lệch giữa khối lượng và hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn tiêu thụ và khối lượng phân thải ra.
Trong nghiên cứu về vật nuôi và gia cầm thí nghiệm, việc xác định đối tượng nghiên cứu là rất quan trọng Cần chọn những con vật khỏe mạnh, nhanh nhẹn và phù hợp với độ tuổi cần thiết cho thí nghiệm.
Chuồng nuôi là các cũi tiêu hóa độc lập, được trang bị máng ăn, máng uống và hệ thống thu gom phân cùng nước tiểu riêng biệt Các cũi này có thể chứa một hoặc nhiều con trong mỗi lồng.
Nguyên liệu, thức ăn thí nghiệm:
Trước khi tiến hành thí nghiệm, nguyên liệu và thức ăn được kiểm tra chất lượng kỹ lưỡng Quá trình xay, nghiền và chế biến được thực hiện để đảm bảo độ mịn, kích thước mảnh và hạt của nguyên liệu phù hợp, giúp vật nuôi dễ dàng tiêu thụ.
Thí nghiệm được thực hiện qua nhiều giai đoạn, tùy thuộc vào số lượng khẩu phần nghiên cứu Mỗi giai đoạn bao gồm thời gian chuẩn bị để thích nghi và thời gian thí nghiệm để thu thập dữ liệu.
Thời gian chuẩn bị rất quan trọng để giúp thú cưng làm quen với môi trường sống mới Điều này không chỉ giúp chúng thích nghi nhanh chóng mà còn hình thành thói quen đi vệ sinh đúng chỗ Bên cạnh đó, thời gian này cũng cần thiết để thú cưng có thể thải ra một cách tự nhiên và thoải mái.
Để tối ưu hóa quá trình tiêu hóa, cần thực hiện 5 bước quan trọng: đầu tiên là loại bỏ thức ăn cũ trong đường tiêu hóa; thứ hai là làm quen với thức ăn thí nghiệm và xác định lượng ăn tối đa; cuối cùng, chúng ta có thể quan sát hành vi của con vật.
Trong chăn nuôi gia cầm, phương pháp này thường gặp khó khăn liên quan đến chất thải, bao gồm cả phân và nước tiểu Nhiều tác giả, như Okumura (1976), Paulson (1969), Sibbald (1976), Farrell (1978) và McNab cùng Blair (1988), khuyến cáo nên sử dụng gà trống tơ và thực hiện cắt bỏ manh tràng để cải thiện tình hình này.
Theo phương pháp của Farrell (1978), gà được huấn luyện để tiêu thụ toàn bộ lượng thức ăn trong ngày trong vòng 2 giờ, thực hiện 2 lần mỗi ngày, với mỗi lần kéo dài 1 giờ, trong thời gian 10 ngày.
Thời gian cho quá trình thí nghiệm
Ngày Giờ Thời gian sau khi rút thức ăn (giờ) Công việc
1 16:00 8 Cho ăn glucose 30 g/ con (pha nước)
2 16:00 32 Cho ăn thức ăn thí nghiệm
3 8:00 48 Cho ăn thức ăn thí nghiệm – Thu phân
3 16:00 56 Cho ăn thức ăn thí nghiệm – Thu phân
4 8:00 72 Cho ăn thức ăn thí nghiệm – Thu phân
4 16:00 80 Cho ăn thức ăn thí nghiệm – Thu phân
Đảm bảo gà ăn hết trong vòng 1 giờ và thu phân thải ra 2 lần mỗi ngày Sau mỗi lần thu phân, tiếp tục cho gà ăn trong 1 giờ Quy trình này lặp lại cho đến ngày thứ 4, với việc thu phân diễn ra 32 giờ sau lần cho ăn cuối cùng.
Khay hứng phân đặt bên dưới củi tiêu hóa (lồng) gà, trải giấy nylon (đã cân trọng lượng) lên khay để thu phân
Hình 1: Thu chất thải của gà thí nghiệm
Mỗi lần thu phân, cần lấy khay ra, loại bỏ lông và vảy, sau đó cân tổng trọng lượng của phân và giấy nylon Cuối cùng, trừ đi trọng lượng của giấy nylon ban đầu để tính được trọng lượng phân thải ra.
Phân thu được trong 3 ngày trộn chung, làm lạnh, sấy khô ở nhiệt độ 56 o C trong 3 ngày, sau đó đem bảo quản lạnh và phân tích
Bước 3: Lấy mẫu đi phân tích và tính toán kết quả
Sau khi phân tích các mẫu nguyên liệu, thức ăn và chất thải, chúng tôi đã xác định được các giá trị dinh dưỡng và tỷ lệ tiêu hóa của khẩu phần Dinh dưỡng của khẩu phần được tính toán một cách chính xác để đảm bảo hiệu quả tối ưu trong chế độ ăn uống.
Tỷ lệ tiêu hoá chất dinh dưỡng của khẩu phần
Tỷ lệ tiêu hoá : (TLTH)
Trong đó: c giá trị dinh dưỡng của khẩu phần ăn vào,
7 d giá trị dinh dưỡng thải ra trong phân
Phương pháp đánh giá tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng (Thu dưỡng chấp)
2.3.1 Nguyên lý của phương pháp
Vật nuôi được cung cấp khẩu phần ăn với khối lượng và thành phần dinh dưỡng đã được xác định, dựa trên lượng dưỡng chất thu được từ dịch tiêu hóa hồi tràng Lượng chất dinh dưỡng tiêu hóa được tính bằng sự chênh lệch giữa dưỡng chất có trong thức ăn và dưỡng chất có trong dịch hồi tràng.
Để nghiên cứu về vật nuôi, cần xác định đối tượng cụ thể và lựa chọn những con vật khỏe mạnh Chuồng nuôi nên được thiết kế với các cũi tiêu hóa riêng biệt, có đầy đủ máng ăn và máng uống, đảm bảo điều kiện sống bình thường cho vật nuôi.
Nguyên liệu, thức ăn thí nghiệm:
Trước khi tiến hành thí nghiệm, nguyên liệu và thức ăn thí nghiệm được kiểm tra chất lượng kỹ lưỡng Quá trình này bao gồm việc xay, nghiền để đảm bảo độ mịn, kích thước hạt phù hợp, giúp vật nuôi có thể dễ dàng tiêu thụ.
- Gà được nuôi trong cũi tiêu hóa, chuồng nuôi, thời gian cho gà thích ghi với thức ăn thí nghiệm từ 10-14 ngày: một ngày cho ăn 3 lần
Vào ngày cuối cùng, sau khi gà được cho ăn trong 4 giờ, quá trình giết mổ và thu mẫu được thực hiện Gà được cố định bằng cách phá vỡ trung khu điều khiển vận động não, theo nghiên cứu của Engberg và các cộng sự (2004) cùng với Nguyen Thi Kim Dong (2005).
Sau khi thực hiện phẫu thuật xoang bụng, bác sĩ sẽ tách lấy đoạn hồi tràng dài từ 15 – 20 cm, tính từ van hồi – manh tràng (Kadim và Moughan, 2008) hoặc từ túi thừa Meckel đến điểm cách van hồi – manh tràng 4 cm (Jamroz và cộng sự, 2001; Bryden và Li, 2010), đồng thời thu thập dịch hồi tràng.
Hình 1: Hệ thống tiêu hóa của gia cầm
- Chất thải hồi tràng của các con gà trong cùng 1 đơn vị thí nghiệm, sau đó được trữ ở nhiệt độ âm -20 0 C ngay sau khi thu mẫu
- Cuối cùng các mẩu được sấy khô ở 60 0 C, nghiền mịn để phân tích
Bước 3: Phân tích và tính toán kết quả
Tỷ lệ tiêu hóa (%) của các chất dinh dưỡng trong nguyên liệu hoặc khẩu phần được xác định dựa trên tỷ lệ các chất dinh dưỡng và chất chỉ thị có trong thức ăn cũng như trong dịch tiêu hóa, theo công thức cụ thể.
% CT trong TĂ * % DC trong dịch tiêu hóa TLTH (%) = 100- (100 * -)
% CT trong dịch tiêu hóa * % DC trong TĂ
TLTH – Tỷ lệ tiêu hóa
Phương pháp đánh giá tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn
2.4.1 Nguyên lý của phương pháp
Tiêu hóa hồi tràng tiêu chuẩn (SID-standardized ilead digestibility) là tiêu hóa hồi tràng biểu kiến sau khi hiệu chỉnh với mất mát nội sinh cơ bản
SID được tính theo công thức:
Trong đó: SID và AID tính theo %
SID-standardized ilead digestibility: Tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng biểu kiến tiêu chuẩn
AID: Apparent ilead digestibility: Tỷ lệ tiêu hóa hồi tràng biểu kiến
EAL: Endogenous Amino acids Loss: là mất mát nội sinh (protein hay axit amin) cơ bản sau khi ăn khẩu phần không có protein ( mg/kg DMI)
AAF- Amino aicd in Feed là hàm lượng protein/a xit amin trong khầu phần ăn thí nghiệm (mg/kg DM)
Các phương pháp xác định mất mát N nội sinh
2.5.1 Khẩu phần không chứa N (Nitrogen free diet –NFD)
Bảng 1: Một số khẩu phần không chứa N đã được sử dụng trong nghiên cứu cho gia cầm
Thành phần thức ăn trong khẩu phần (kg)
Phương pháp này được sử dụng phổ biến để xác định sự mất mát Nitơ (N) trong cơ thể động vật Giả định rằng động vật tiêu thụ khẩu phần không chứa N trong nhiều ngày, N có thể được tìm thấy trong dưỡng chấp hoặc phân, từ đó được coi là mất mát N cơ bản Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để xác minh phương pháp này.
11 pháp này (Blok và ctv, 2017; Lyagi and Adeo (2014); Kong và Adeola 2013; Adedekum và ctv (2007))
2.5.2 Sử dụng khẩu phần có protein tiêu hóa cao (Casein hay gluten hạt mì)
Bảng 2 trình bày các khẩu phần thức ăn giàu protein được sử dụng trong thí nghiệm xác định sự mất mát protein và axit amin nội sinh (Adedokun và cộng sự, 2007).
Thành phần thức ăn trong khẩu phần (kg)
Phương pháp này hiện đang được áp dụng rộng rãi, cho thấy tỷ lệ tiêu hóa thực sự của protein và các axit amin trong khẩu phần đạt từ 99% đến 100% Đồng thời, nguồn protein không ảnh hưởng đến sự mất mát protein và axit amin nội sinh (Adedokum và cộng sự, 2007).
Phương pháp này dựa vào nghiên cứu về khẩu phần chứa protein có tỷ lệ tiêu hóa cao, sử dụng phân tích hồi quy để xem xét mối liên hệ giữa lượng protein thô, axit amin hồi tràng và lượng vật chất khô ăn vào Nghiên cứu này đã ngoại suy kết quả khi lượng protein thô được cho ăn bằng không (Furyua và Kaji, 1989) Tuy nhiên, phương pháp này hiện nay ít được áp dụng.
Phương pháp xác định giá trị năng lượng của thức ăn
Phương pháp này dựa vào các phương trình hồi quy có sẵn để phân tích thành phần hóa học của thức ăn và tính toán giá trị năng lượng Đây là cách xác định giá trị năng lượng của thực phẩm thông qua những công thức đã được nghiên cứu và áp dụng.
ME (kcal/kg) = 38,6 CP + 66,2 EE – 14,1CF +36,4 NFE +K
Trong đó: CP là protein thô, EE là chất béo, CF là xơ thô, NFE; dẫn xuất tinh bột,
K là hệ số điều chỉnh (Nguồn Lã Văn Kính, 2003)
Một công thức khác được công bố bởi Carre và ctv, 2013 như sau:
ADMn (MJ/kgDM) = 15,08 + 18,84 L -14,98 Ash – 14,98 WICW
ADM: Apparent digestible energy – Năng lượng tiêu hoa biểu kiến
WICW: Water insoluble cell-wall – Vách tế bào không tan trong nước
Gần đây, nhóm tác giả Dragan và cộng sự (2012) đã phát triển một phương pháp xác định năng lượng dựa trên quá trình phân giải chất hữu cơ trong phòng thí nghiệm Phương pháp này sử dụng công thức cụ thể để tính toán năng lượng, góp phần nâng cao hiểu biết về khả năng phân hủy chất hữu cơ.
ME (MJ/kg DM) = -0,41 + 0,1769 x EDOM
Trong đó: ME: là năng lượng trao đổi
EDOM – Enzyme digestible organic matter – Tiêu hóa chất hưu cơ bởi enzyme
Phương pháp thử nghiệm sinh vật học trực tiếp đã được áp dụng từ sớm, dựa trên nguyên tắc cho động vật ăn một khẩu phần thức ăn có giá trị năng lượng xác định Sau khi thu thập chất thải, hàm lượng GE được phân tích để tính toán giá trị năng lượng trao đổi, dựa trên sự chênh lệch giữa năng lượng thô tiêu thụ và năng lượng thô thải ra Hiện nay, có hai phương pháp chính để định lượng lượng thức ăn vào và chất thải, bao gồm phương pháp thu chất thải tổng số và phương pháp sử dụng chất chỉ thị trong khẩu phần.
Cũng giống như xác định tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng Giá trị năng lượng trao đổi được tính theo công thức
Giá trị năng lượng tiêu hóa biểu kiến (Apparent Metabolizable Energy - AME) được tính toán theo phương trình sau với phương pháp thu phân tổng số:
AME = (GEi × Qi - GEe × Qe)/Qi
Trong đó: GEi là mật độ năng lượng tổng số trong thức ăn ăn vào (cal/g); GEe là mật độ năng lượng tổng số trong trong chất thải (cal/g);
Qi là lượng thức ăn ăn vào (g);
Qe là lượng chất thải thải ra (g)
Giá trị AME được tính toán theo phương trình sau với phương pháp dùng chất chỉ thị:
AME (KJ/g) = GEi - (Ti/Te) × Gee
Trong đó: GEi là mật độ năng lượng tổng số trong thức ăn ăn vào (KJ/g);
GEe là mật độ năng lượng tổng số trong trong chất thải (KJ/g);
Ti là tỉ lệ % chất chỉ thị trong thức ăn;
Te là tỉ lệ % chất chỉ thị trong chất thải
14 Đối với gia cầm: các nhà khoa học thường tính đến giá trị năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh nito:
Năng lượng trao đổi hiệu chình được tính theo công thức: (Theo Lammers và ctv (2008)
MEn = AME - 8,22 x NR với NR = (Nd-Ne x AIAd/AIAe) x 10
Nd là lượng nito có trong khẩu phần thí nghiệm
Ne là lượng nito có trong chất thải
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hóa của gia cầm
2.7.1 Giống gia cầm Điều này được thể hiện rất rõ, các giống gà ta, gà địa phương có tỷ lệ lợi dụng thức ăn nói chung và tiêu hóa năng lượng nói riêng thấp hơn gà công nghiệp Khả năng tiêu hóa của gà thịt cao hơn gà đẻ ( Mtei và ctv, 2019)
Tuổi của gia cầm ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tiêu hóa năng lượng, với sự phát triển của hệ thống tiêu hóa gắn liền với từng giai đoạn tuổi Ruột non của gia cầm phát triển nhanh chóng và hoàn thiện sau 6-7 ngày tuổi (Nitsan và ctv., 1991; Obst và Diamond, 1992) Enzyme tiêu hóa cũng tăng cường trong 14 ngày đầu (Nitsan và ctv., 1991; Sell và ctv, 1991) Theo báo cáo của Uni và ctv (1995), chiều cao của lông nhung và chiều rộng của ruột tăng từ 25 đến 100% trong giai đoạn từ 4 đến 10 ngày tuổi Do đó, trong giai đoạn phát triển và trưởng thành của hệ thống tiêu hóa ở gia cầm non, khả năng sử dụng chất dinh dưỡng thường kém, đặc biệt là trong 7 đến 10 ngày đầu tiên.
Nghiên cứu của Zelenka và Ceresnakova (2005) chỉ ra rằng tỷ lệ tiêu hóa tinh bột ở gà thịt và gà đẻ có sự khác biệt đáng kể giữa các lứa tuổi khác nhau Kết quả này được thể hiện rõ trong Bảng 3, cho thấy sự thay đổi trong khả năng tiêu hóa tinh bột theo độ tuổi của gà.
Bảng 3: Tỷ lệ tiêu hóa tinh bột của gà thịt và gà đẻ
Ngày tuổi Tỷ lệ tiêu hóa tinh bột của gà thịt (Ross 208) -%
Tỷ lệ tiêu hóa tinh bột của gà đẻ (Isa Brown) -%
2.7.3 Thành phần –nguyên liệu thức ăn
Nguyên liệu và khẩu phần ăn trong chăn nuôi có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu hóa của động vật Tỷ lệ tiêu hóa không chỉ phụ thuộc vào thành phần hóa học mà còn bị tác động bởi các loại thức ăn được sử dụng trong khẩu phần.
Hàm lượng xơ trong khẩu phần đóng vai trò quan trọng trong hệ tiêu hóa của động vật, bao gồm miệng, dạ dày, ruột non, ruột già và các cơ quan như gan, tụy Các bộ phận này phối hợp với nhau thông qua hệ thống thụ cảm để giám sát quá trình tiêu hóa và hấp thu, nhờ vào tín hiệu phản hồi từ hormone và hệ thần kinh Điều này giúp tối thiểu hóa sự thay đổi dinh dưỡng trong máu và điều hòa việc cung cấp chất dinh dưỡng đến các cơ quan khác nhau Hàm lượng xơ ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa và hấp thu, từ đó điều tiết và cung cấp dinh dưỡng cho các mô và cơ quan mà không cần tiếp xúc trực tiếp với đường tiêu hóa.
Hàm lượng xơ trong khẩu phần có ảnh hưởng đến AID, với một số nghiên cứu cho thấy xơ hòa tan như pectin làm giảm khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng trong ruột non, trong khi xơ không hòa tan chỉ ảnh hưởng nhỏ đến sự hấp thu ở cuối hồi tràng Sự giảm AID có thể do mất mát nội sinh của axit amin và đường amino tăng lên khi hàm lượng chất xơ tăng Nguồn chất xơ cũng ảnh hưởng đáng kể đến các mất mát nội sinh của axit amin và độ nhớt của chất xơ Một nghiên cứu cho thấy mất mát nội sinh của axit amin bị ảnh hưởng bởi mức xơ khẩu phần, nhưng ở mức xơ cao hơn, không có sự gia tăng thêm về mất mát này.
2.7.4 Kỹ thuật chế biến thức ăn –kích kỡ thức ăn
Kỹ thuật chế biến nguyên liệu trong sản xuất thức ăn thường sử dụng hơi nước và nhiệt độ, đặc biệt đối với thức ăn chứa protein và hỗn hợp Tuy nhiên, quá trình này có thể gây hư hại cho protein và axit amin do nhiệt, dẫn đến giảm tỷ lệ tiêu hóa ở lợn Các phản ứng hóa học như phản ứng Maillard, racemic hóa, phản ứng phân giải và liên kết chéo xảy ra trong quá trình chế biến làm giảm tính khả dụng của axit amin Đánh giá tỷ lệ tiêu hóa axit amin hồi tràng giúp xác định chính xác hơn giá trị dinh dưỡng của axit amin so với việc chỉ dựa vào hàm lượng tổng số Mặc dù axit amin có thể được hấp thu, nhưng nếu chúng bị hư hại về cấu trúc, sẽ không thể tham gia vào các phản ứng trao đổi chất, và điều này chỉ có thể được ước lượng thông qua việc đo các axit amin hoạt động sinh lý.
Nghiên cứu của Mtei và cộng sự (2019) cho thấy việc xay hoặc nghiền hạt ngũ cốc làm tăng khả năng tiếp cận enzyme tiêu hóa, từ đó cải thiện tỷ lệ tiêu hóa thức ăn Đối với gà thịt và gà đẻ, kích thước nghiền của hạt ngô (mịn, trung bình, thô) không ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô, tinh bột và năng lượng Tuy nhiên, tỷ lệ tiêu hóa nitrogen và chất béo lại bị ảnh hưởng bởi kích thước thức ăn, đặc biệt là ở gà đẻ, nơi kích thước thức ăn rõ rệt ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa vật chất khô, tinh bột và năng lượng.
Quá trình ép đùn (Extrusion) có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ tiêu hóa thức ăn của gà, vì nó liên quan mật thiết đến tinh bột trong hạt ngũ cốc trong khẩu phần ăn và enzyme amylose cùng amylopectin trong hệ tiêu hóa của gia cầm (Muhammad và ctv, 2015; Nayak, Berrios, & Tang, 2014; Lankhorst ctv.).
Bổ sung enzyme ngoại sinh nhằm vào chất xơ không hòa tan và hòa tan có thể giúp giải phóng dinh dưỡng từ vách tế bào, từ đó nâng cao khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng.
18 khả năng tiếp cận các enzyme tiêu hóa được cải thiện (Stefanello và ctv 2016; Cowieson,
Enzyme Xylanase có khả năng thủy phân hemicellulose trong thành tế bào, từ đó cải thiện khả năng tiếp cận của các enzyme nội sinh đến các thành tế bào Nghiên cứu cho thấy enzyme này giúp giảm thiểu sự mất axit amin nội sinh (AA), đặc biệt thông qua việc điều chỉnh hoạt động của amylase và chất nhầy.
Nghiên cứu của Stefanello và cộng sự (2016) chỉ ra rằng việc bổ sung enzyme xylanase vào khẩu phần ăn cho gà thịt Cobb 500, với thành phần chính là bắp và đậu nành khô, đã làm tăng tỷ lệ tiêu hóa protein thô và năng lượng trao đổi một cách tuyến tính (P