1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Vai trò của nhân tố chủ quan trong sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh

30 88 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai Trò Của Nhân Tố Chủ Quan Trong Sự Hình Thành, Phát Triển Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Thể loại bài tập nhóm seminar
Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 96,4 KB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • I. PHẨM CHẤT HỒ CHÍ MINH

    • 1. Lý tưởng cao cả, hoài bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to lớn

    • 2. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng

    • 3. Tận trung với nước, tận hiếu với dân

    • 4. Lòng yêu thương con người

    • 5. Lối sống giản dị

  • II. TÀI NĂNG HOẠT ĐỘNG, TỔNG KẾT THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN

  • III. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • IV. BẢN ĐÁNH GIÁ NHÓM MÔN TT HỒ CHÍ MINH

Nội dung

MỤC LỤC Trang I. Phẩm chất Hồ Chí Minh.................................................................... 1 1. Lý tưởng cao cả, hoài bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to 2 lớn..................................................................................................... 2. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và 7 cách mạng......................................................................................... 3. Tận trung với nước, tận hiếu với dân............................................... 10 4. Lòng yêu thương con người............................................................. 13 5. Lối sống giản dị................................................................................ 16 II. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận.................. 19 III. Tài liệu tham khảo............................................................................. 21 IV. Bản nhận xét đánh giá thành viên nhóm........................................... 23 I. PHẨM CHẤT HỒ CHÍ MINH “Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ Người ngồi đó, với cây chì đỏ Vạch đường đi, từng bước, từng giờ...” “Sáng tháng năm” Tố Hữu Những vần thơ xúc động trong thi phẩm “Sáng tháng năm” của thi sĩ Tố Hữu đã khắc họa chân thực chân dung của chủ tịch Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc, người đã cống hiến cả cuộc đời vì sự tự do độc lập của dân tộc, người luôn đau đáu nỗi niềm trăn trở về một cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân... Hình ảnh người cha già ngày đêm trăn trở về việc nước, việc dân ấy còn được khắc họa rõ nét qua những vần thơ của nhà thơ Việt Phương: “Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa.” Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có lý tưởng cao cả và hoài bão cứu dân cứu nước, khát vọng cứu nước thoát khỏi xiềng xích nô lệ, thoát khỏi cảnh lầm than, cơ cực để theo kịp các quốc gia, các cường quốc năm châu trên thế giới. Ở Người, ta còn thấy ánh lên tư tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân, thương dân như con cùng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng. Chưa dừng lại ở đó, Người còn sở hữu tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận. Chính những phẩm chất này là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng giúp hình thành, phát triển hệ tư tưởng Hồ Chí Minh vô cùng sâu sắc, là tài sản quý báu của dân tộc ta. 1. Lý tưởng cao cả, hoài bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to lớn Ý chí và lý tưởng của Bác sớm được hình thành và phát triển thông qua sự giáo dục của đấng sinh thành, từ hoàn cảnh gia đình và quê hương. Người sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, lớn lên cùng với sự phát triển lâu đời của truyền thống anh dũng của vùng quê địa linh nhân kiệt. Ngay từ khi còn nhỏ, cha của Người, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã còn truyền cho Người một lòng nhiệt huyết, chí khí mạnh mẽ và động lực vượt qua mọi gian nan để vươn tới sự nghiệp lớn cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc. Tính cách, ý chí của người dân xứ Nghệ, lòng yêu nước, thương dân của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc tới Nguyễn Tất Thành và theo suốt cuộc đời Hồ Chí Minh sau này. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm làm việc và rất thương người, đều là những người yêu nước, đã tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt bớ tù đày. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em. Trong những năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè; còn phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố... Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức của Nguyễn Sinh Cung. Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan. Trong những người mà ông Sắc thường gặp gỡ có ông Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con người nhiệt huyết ấy trong lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai: Tạm dịch: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương”. “Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách, Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”. Câu thơ đã tác động nhiều đến Nguyễn Tất Thành và góp phần định hướng cho người thiếu niên sớm có hoài bão lớn. Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Đó là nạn thuế khóa nặng nề cùng với việc nhân dân bị bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh, làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng thiêng nước độc. Những cuộc ra đi không có ngày về, nhân dân lầm than, ai oán. Khoảng tháng 91905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do Bình đẳng Bác ái. Những cụm từ đầy hoa mỹ của người Pháp đã thôi thúc ước nguyện đến xem nước Pháp và các nước khác của chàng trai trẻ. Trong một lần trả lời phỏng vấn nhà báo Nga (1923), Bác Hồ từng nói: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài.” Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Người nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bức bóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, Bác đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”. Tháng 41908, Người tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao động. Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người Pháp và cả người Việt Nam, cũng có những người yêu nước. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Tháng 21911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết vào Sài Gòn.Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành cũng hay đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo cho các thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ có những chuyến đi xa. Nghị lực phi thường để vượt qua những sóng gió, và kiên định trên con đường cứu nước cứu dân. Chứng kiến những phong trào yêu nước liên tiếp thất bại trong thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc quyết định không đi theo con đường của cụ Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh mà sẽ sang phương Tây. Nguyễn Sinh Cung Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nô lệ, đói khổ, lầm than. Quê hương có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Thời gian 10 năm sống ở Kinh đô Huế trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, tiếp xúc với nền văn hóa mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới. Nhìn lại các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu; Phong trào Đông Kinh nghĩa thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ, Anh rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định chính xác và táo bạo là xuất dương tìm đường cứu nước. Mặc dù một người bạn Bác từ chối đi cùng, Người vẫn một mực khẳng định sẽ làm mọi thứ từ đôi bàn tay trắng, “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”. “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” lời tâm sự của Bác với một người bạn mà Bác rủ đi cùng. Trước khi đặt chân lên chuyến tàu Latouche Tréville, Bác đã đi bộ từ Phan Thiết tới Sài Gòn vì trong đầu chỉ nghĩ về việc đi tìm con đường cứu nước. Nghĩ đến cuộc hành trình lênh đênh trên biển hàng vạn dặm, anh không khỏi băn khoăn. Anh quyết định bộc lộ tâm trạng của mình với một người bạn: Tôi đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm. Anh muốn đi với tôi không? Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Nguyễn Tất Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay của mình một cách tự tin và kiên quyết. Ngày 561911, một thủy thủ dẫn Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba, lên tàu gặp thuyền trưởng Mai Xen và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Ngày 561911, tàu Ami Rau La Tu Sơ Tơ Rê Vin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Pháp), mang theo một người thanh niên Việt Nam đầy lòng yêu nước, thương dân, ôm ấp một hoài bão lớn lao: Tìm hiểu nền văn minh của thế giới, ra sức học hỏi để trở về giúp nước. Một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành. Công việc trên tàu luôn rất cực khổ, đói rét luôn đeo bám Văn Ba. Có lần Người suýt chết đuổi vì một lần sóng to, nhưng sau tất cả gian truân, anh Văn Ba đã lần lượt tới Pháp, Anh, Mỹ, Nga... để tiếp tục làm thuê kiếm sống. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết rất xúc động về những tháng năm khó khăn vất vả của Người: “Có nhớ chăng, hỡi gió rét thành Ba Lê? Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Ðôn, ngươi có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya? Ðời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi, Những đất tự do, những trời nô lệ, Những con đường cách mạng đang tìm đi. Ðêm mơ nước, ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.” Những ngày ở Pháp (1917), trước mỗi buổi sáng đi làm Bác đều đặt một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà. Đến chiều về, Người lấy viên gạch đó ra, bọc vào những báo cũ rồi mang về giường cho đỡ rét. Không chỉ có cái đói, cái rét xứ người luôn thường trực, Nguyễn Ái Quốc còn nhiều lần bị giám sát, đe dọa tính mạng từ những kẻ thù. Đó là bản án tử hình vắng mặt (1929) và những ngày bị thực dân Anh bắt giam tại Hồng Kông (1931),... Suốt 30 năm bôn ba qua gần 30 nước Á, Âu, Phi, Mĩ, Bác tranh thủ vừa học hỏi, vừa nghiên cứu để tìm ra con đường phù hợp nhất để cứu nước nhà. Trong tâm nguyện của Người luôn là ý niệm “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, nỗi trăn trở ấy cũng khiến Người thao thức nhiều đêm... “Đêm nay Bác ngồi đó Đêm nay Bác không ngủ Vì một lẽ thường tình Bác là Hồ Chí Minh.” “Đêm nay Bác không ngủ” Minh Huệ 2. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng Có thể thấy rằng, nét độc đáo trong phong cách tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng của Hồ Chí Minh được coi là cơ sở cho việc hình thành những luận điểm, tư tưởng đặc sắc mang dấu ấn Hồ Chí Minh, tạo nên sự khác biệt giữa Hồ Chí Minh với nhiều nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo tiền bối và đương thời. Với Hồ Chí Minh, các tư tưởng có một sự kết nối chặt chẽ với nhau tạo nên một sự thống nhất, phù hợp với quy luật của cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển chung của nhân loại. Đầu tiên, độc lập là không phụ thuộc, không bắt chước, không theo đuôi, giáo điều, tránh lối cũ, đường mòn và tự mình phải luôn tìm tòi, suy nghĩ. Tiếp theo, tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ, làm chủ bản thân và công việc của mình, tự mình thấy trách nhiệm trước đất nước và dân tộc. Sáng tạo trong Hồ Chí Minh là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù; sẵn sàng từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, tìm tòi, đề xuất những cái mới để có thể trả lời được những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống đặt ra. Phê phán đối với Người chính là đưa ra những quan điểm và lập luận nhận định phản bác những tư duy, lối mòn về mặt lý thuyết quá xa rời với thực tiễn; đối với Hồ Chí Minh, học luôn với đi đôi với hành. Cuối cùng là đổi mới, chính là việc không chỉ luôn học tập, kế thừa và phát huy những điều quý giá của những người đi trước mà luôn cập nhập những gì mới nhất, để đem lại những tư duy, những làn gió mới góp phần đưa dân tộc tiến gần hơn đến quốc tế. Chính đặc điểm này trong phẩm chất của Người đã giúp Người có thể kế thừa, phát triển và đổi mới sáng tạo nhiều hệ thống tư tưởng tốt đẹp và tạo nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là tài sản quý giá của dân tộc ta. Cụ thể, với chủ nghĩa yêu nước động lực, sức mạnh giúp dân tộc ta tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong quá trình dựng, giữ nước và phát triển đất nước, Người đã chú ý kế thừa, phát triển truyền thống này, đặc biệt là tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng kế thừa phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp và phong tục tập quán quý báu của dân tộc Việt Nam nhưng cũng cố gắng xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của con người, của đất nước. Bên cạnh việc gìn giữ, phát huy những truyền thống tinh hoa của dân tộc, Người cũng học hỏi những tinh hoa của nhân loại. Cụ thể, với Nho giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị đức để quản lý xã hội, kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình không có chiến tranh các dân tộc của quan hệ hữu nghị và hợp tác. Người cũng kế thừa đổi mới phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của con người trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Đối với phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác, đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý khuyên con người sống hòa đồng gắn bó và đất nước của đạo Phật. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo đạo Phật đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh. Với Lão giáo, Hồ Chí Minh kế thừa phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên và phải bảo biết bảo vệ môi trường sống. Người khuyên cán bộ Đảng viên ít lòng tham về vật chất, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Với Chủ nghĩa Mác Lênin, Người có nói: Học Chủ nghĩa Mác Lênin không phải học thuộc lòng câu chữ như một con vẹt, mà cốt là nắm được nội dung tư tưởng và phương pháp để ứng xử với con người và công việc đạt kết quả cao. Trên lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại để kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành nên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về Cách Mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin trong thời đại mới trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các vấn đề xây dựng Đảng Nhà nước Văn hóa con người đạo đức Hồ Chí Minh đều có những lý luận điểm bổ sung phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước để có trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Việc đổi mới sáng tạo cũng được thể hiện trong cách lựa chọn đường lối giải phóng dân tộc của Người. Khác với các nhà cách mạng đi trước, Hồ Chí Minh không lựa chọn sang phương Đông mà quyết định đường lối phương Tây, cụ thể là người đã sang nước Pháp để tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là sự lựa chọn hết sức táo bạo trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Cũng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, nếu như Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, Phan Chu Trinh chủ trương giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền, thì Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh tán thành Quốc tế Cộng sản, tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh và Lênin chính là cuộc gặp gỡ đi vào lịch sử, tạo bước ngoặt tiền đề lớn trong tư duy đổi mới và cách mạng của Người. Nhờ có học thuyết của V.I.Lênin, người cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy con đường rõ rệt để giải phóng các dân tộc thuộc địa, trong đó có dân tộc Việt Nam. Ngày 2711924, báo Sự Thật Liên Xô đăng bài của Nguyễn Ái Quốc “Lênin và các dân tộc thuộc địa” nói lên niềm khao khát tự do, độc lập của các dân tộc thuộc địa khắp năm châu được ánh sáng học thuyết Lênin vạch đường, chỉ lối. Tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V, tham luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa tháng 71924, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh cần tập trung sức lực để thực hiện những di huấn của V.I. Lênin về vấn đề thuộc địa cũng như những vấn đề khác. Sinh thời, Bác thấy chúng ta thường tách rời lý luận với thực tiễn. Đây là nhược điểm không chỉ trong tư duy mà cả trong hành động. Chính vì vậy, Bác đã để lại cho chúng ta những luận điểm vô giá: Thực hành sinh ra hiểu biết; hiểu biết tiến lên lý luận; lý luận lãnh đạo thực hành. Đây không chỉ đặc sắc trong diễn đạt mà là kết quả của hành động khoa học, hiện đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là những dẫn chứng nói lên phong cách độc lập, tự chủ, không giáo điều, đề cao đề cao sự đổi mới, sáng tạo trong cách mạng của Hồ Chí Minh. Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh còn là sự gắn bó giữa, sự kết hợp hài hòa, sáng tạo giữa sự nhận thức của ý chí, tình cảm với đồng bào, với nhân dân, tình cảm yêu đất nước, yêu quê hương. Bác có thể nói là một người giàu tình cảm, giàu trí tuệ, cả cuộc đời Bác đã dành hết tư duy, tình cảm cho đất nước, cho nhân dân.

Phẩm chất Hồ Chí Minh

Lý tưởng cao cả, hoài bão lớn lao cứu nước và ý chí nghị lực to 2 lớn 2 Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và 7 cách mạng 3 Tận trung với nước, tận hiếu với dân

Ý chí và lý tưởng của Hồ Chí Minh được hình thành từ sự giáo dục của cha mẹ và ảnh hưởng của quê hương Sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước, Người lớn lên trong bầu không khí truyền thống anh dũng của vùng đất Nghệ An Cha của Người, cụ Nguyễn Sinh Sắc, đã truyền cho Người lòng nhiệt huyết và chí khí mạnh mẽ để theo đuổi sự nghiệp cứu nước Tính cách và lòng yêu nước của cụ đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Tất Thành, đồng thời cũng lan tỏa tới các anh chị của Người, những người cũng tham gia phong trào yêu nước và chịu nhiều đau thương dưới chế độ thực dân Nỗi đau mất mẹ và em ở tuổi 11 đã khiến Nguyễn Sinh Cung thêm kiên cường, và những năm sống ở Huế đã mở ra cho Người nhiều trải nghiệm mới mẻ.

So với quê hương xứ Nghệ, Huế nổi bật với những ngôi nhà lớn và các cung điện uy nghiêm Nguyễn Sinh Cung nhận thấy sự phân hóa rõ rệt trong xã hội Huế, từ những người Pháp thống trị tàn ác đến các quan lại Nam triều bệ vệ nhưng nhút nhát, trong khi phần lớn người lao động sống trong khổ cực Những hình ảnh về nông dân rách rưới, phu khuân vác và trẻ em lang thang đã in sâu vào tâm trí ông Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành thường nghe các thầy và sĩ phu yêu nước bàn luận về thời cuộc, từ đó ông dần hiểu được nỗi lo âu của cha chú trước cảnh nước mất nhà tan Ông Sắc, một trong những người bạn của Nguyễn, thường gặp gỡ ông Phan Bội Châu, người cũng đầy trăn trở về vận mệnh đất nước và thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai khi say.

“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương”.

“Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách, Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”.

Câu thơ đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Tất Thành, giúp hình thành hoài bão lớn cho người thiếu niên Khi trưởng thành, anh càng nhận thức rõ thân phận khổ cực của người dân mất nước, đối mặt với nạn thuế khóa nặng nề và bị bắt làm phu xây dựng đường Những cuộc ra đi không hẹn ngày về khiến nhân dân sống trong lầm than Vào tháng 9/1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy cho theo học lớp dự bị tại Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở Vinh, nơi anh lần đầu tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái, khơi dậy ước mơ khám phá nước Pháp và thế giới Trong một cuộc phỏng vấn năm 1923, Bác Hồ đã chia sẻ về những ảnh hưởng này.

Khi tôi mười ba tuổi, tôi lần đầu tiên nghe ba từ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái Chúng tôi tin rằng mọi người da trắng đều là người Pháp, như cách mà người Pháp đã nói Từ đó, tôi khao khát khám phá nền văn minh Pháp và tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của những từ này, vì vậy tôi quyết định tìm cách ra nước ngoài.

Những chuyến đi này giúp

Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ.

Những người dân lam lũ, đói khổ đang âm thầm nung nấu trong lòng ngọn lửa phản kháng, mong muốn tiêu diệt bọn áp bức và bóc lột của thực dân phong kiến.

Trước cảnh thống khổ của nhân dân, Bác đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”.

Vào tháng 4 năm 1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, đánh dấu khởi đầu cho cuộc đấu tranh suốt đời của Người vì quyền lợi của nhân dân lao động Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, anh đã tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp và được giảng dạy bởi các thầy giáo yêu nước, cả người Pháp lẫn người Việt Sự ảnh hưởng từ các thầy giáo và tài liệu tiến bộ đã khơi dậy trong Nguyễn Tất Thành ý muốn tìm hiểu tình hình các nước phương Tây và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại.

Vào tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Phan Thiết và đến Sài Gòn, nơi anh dành thời gian gặp gỡ các thanh niên tại các xóm thợ nghèo Tại đây, anh chứng kiến sự khổ cực và đọa đày của nhân dân lao động Để thực hiện ước mơ khám phá thế giới, Nguyễn Tất Thành thường ghé thăm các cửa hàng gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên giặt quần áo cho thủy thủ tàu Pháp, với hy vọng tìm kiếm công việc trên tàu.

Nguyễn Ái Quốc, với nghị lực phi thường, đã quyết định không đi theo con đường của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh mà chọn hướng đi mới để cứu nước Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lăng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến nỗi khổ của nhân dân và truyền thống đấu tranh anh dũng của quê hương Thời gian sống ở Kinh đô Huế đã giúp ông tiếp xúc với nền văn hóa mới và phong trào Duy Tân, từ đó mở rộng hiểu biết về các phong trào yêu nước như Cần Vương, Đông Du, và nhiều cuộc khởi nghĩa khác Mặc dù khâm phục các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành đã nhận ra rằng thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến chí hướng của mình.

Nguyễn Tất Thành quyết định táo bạo xuất dương tìm đường cứu nước, mặc dù một người bạn từ chối đi cùng Người khẳng định sẽ làm mọi việc từ hai bàn tay trắng để sống và tiếp tục hành trình "Tôi muốn ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác Sau khi quan sát, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta," đó là tâm sự của Bác với người bạn mà Người đã rủ đi cùng.

Trước khi lên tàu Latouche Tréville, Bác đã đi bộ từ Phan Thiết tới Sài Gòn, với tâm trí chỉ hướng về con đường cứu nước Trước cuộc hành trình dài trên biển, anh cảm thấy băn khoăn và đã chia sẻ tâm trạng của mình với một người bạn.

Tôi dự định khám phá nước Pháp và các quốc gia khác để học hỏi kinh nghiệm và sau đó trở về hỗ trợ cộng đồng của mình Tuy nhiên, việc đi một mình có thể gặp nhiều rủi ro Bạn có muốn đồng hành cùng tôi trong chuyến đi này không?

- Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?

Vào ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba, bắt đầu hành trình mới của mình trên tàu Ami Rau La Tu Sơ Tơ Rê Vin, khi được nhận làm phụ bếp Với lòng yêu nước và khát vọng lớn lao, anh quyết tâm tìm hiểu nền văn minh thế giới để trở về giúp dân tộc Dù công việc trên tàu đầy khó khăn, đói rét luôn bám theo, Văn Ba đã vượt qua nhiều thử thách, suýt chết đuối trong một cơn sóng lớn, và tiếp tục hành trình đến Pháp, Anh, Mỹ, Nga để kiếm sống Những năm tháng gian khổ ấy đã được nhà thơ Chế Lan Viên ghi lại một cách xúc động.

“Có nhớ chăng, hỡi gió rét thành Ba Lê?

Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá

Sương mù London gợi nhớ về những giọt mồ hôi rơi giữa đêm khuya Cuộc sống bồi tàu trôi nổi theo sóng biển, trong khi người tìm kiếm khắp nơi, từ châu Mỹ đến châu Phi, để tìm kiếm tự do giữa những vùng đất còn nô lệ.

Những con đường cách mạng đang được khám phá, với hình ảnh nước nhà hiện lên trong giấc mơ Cảnh sắc quê hương tươi đẹp hiện ra qua những cánh đồng xanh mướt Dù thưởng thức những món ngon, lòng vẫn nặng trĩu vì Tổ quốc Không thể yên lòng khi ngắm nhìn một nhành hoa trong bối cảnh hiện tại.

Trong những ngày sống ở Pháp vào năm 1917, Nguyễn Ái Quốc thường đặt một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà mỗi buổi sáng trước khi đi làm, và chiều về, ông mang viên gạch đó về giường để giữ ấm Không chỉ phải đối mặt với cái đói và cái rét, ông còn thường xuyên bị giám sát và đe dọa tính mạng từ kẻ thù Điều này được thể hiện qua bản án tử hình vắng mặt vào năm 1929 và những ngày bị thực dân Anh giam giữ tại Hồng Kông vào năm 1931.

Lòng yêu thương con người

“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mọi kiếp người.” - Tố Hữu

Hồ Chí Minh không chỉ là người anh hùng giải phóng dân tộc, mà còn là người luôn yêu thương con người Hai hình ảnh này hòa quyện, bổ sung cho nhau, làm nổi bật phẩm chất và đạo đức cao đẹp của Bác.

Tình cảm của Hồ Chí Minh không chỉ là sự kế thừa truyền thống “yêu nước, thương dân” từ dân tộc, mà còn là sự tích lũy sâu sắc từ những trải nghiệm và cảm nhận trong suốt hành trình tìm đường cứu nước và sự nghiệp giải phóng dân tộc Tình yêu thương ấy đã vượt qua mọi ranh giới, trở thành phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.

“Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già.”

Tình thương yêu của Bác Hồ vô cùng rộng lớn, bao trùm tất cả các tầng lớp nhân dân Bác thể hiện tình cảm từ cụ già, khi gửi biếu lụa vào dịp xuân, đến các em nhỏ với những món quà trung thu Bác cũng không quên những người dân công phải ngủ ngoài rừng và các chiến sĩ đang gác tại biên cương.

Khi Bác Hồ bị Tưởng Giới Thạch bắt giam, trong hoàn cảnh “Mười bốn trăng tê tái gông cùm”, Người đã trải qua nhiều lần bị giải đi giữa cái lạnh giá Dù vậy, lòng Bác vẫn luôn hướng về những số phận lao động khổ cực, thể hiện sự thương cảm sâu sắc của Người.

“Phu đường vất vả lắm ai ơi Dãi nắng dầm mưa chẳng nghỉ ngơi Ngựa xe hành khách thường qua lại Biết cảm ơn anh được mấy người.”

Để vượt qua nỗi đau của bản thân và thấu hiểu gian khổ của người khác, cần có một trái tim rộng mở Đối với nông dân, những người phải chịu đựng nhiều khó khăn, từ thiên tai đến bom đạn, để sản xuất lúa gạo, Bác luôn thể hiện sự quan tâm và thăm hỏi tận tình.

Bác thường xuyên thăm hỏi và động viên công nhân trong quá trình sản xuất, khuyến khích họ hăng hái thi đua lập chiến công Những chuyến thăm của Bác không chỉ dừng lại ở cánh đồng mà còn đến từng hợp tác xã và thôn xóm, thể hiện sự quan tâm đến đời sống và công việc của mọi người.

“Bác vẫn về kia những sớm trưa Hỏi lò than, xưởng máy, giàn tơ Hỏi anh, hỏi chị công nhân ấy Vàng ngọc thi đua được mấy giờ.”

Bác luôn cảm thấy đau xót khi chứng kiến đồng bào bị áp bức và kìm kẹp, nhưng lại vui mừng khi nhận tin thắng lợi Tình yêu của Bác dành cho thiếu niên nhi đồng là điều đặc biệt, và Bác thường nhắc nhở các cán bộ, chiến sĩ cùng đồng bào rằng: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em có cơm ăn, có áo ấm, được đi học.”

Bác Hồ dành tình yêu thương và sự tin tưởng cho thanh niên, coi họ như những người thân trong gia đình Sự hy sinh của thanh niên trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc là nỗi đau thấu tận trong trái tim Bác.

Bác Hồ là một vị lãnh tụ hiếm có, người đã dành tình thương mênh mông cho mọi số phận và tất cả kiếp người Như nhà thơ Tố Hữu đã viết, tình cảm của Bác đối với nhân dân thật sâu sắc và bao la.

“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa Chỉ biết quên mình cho hết thảy

Như dòng sông chảy nặng phù sa”

Hồ Chí Minh, người cách mạng vĩ đại, mang trong mình tình yêu thương sâu sắc đối với nhân dân và con người Ông chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để mang lại độc lập và hạnh phúc cho dân tộc Tình yêu thương của Người đặc biệt dành cho những người nghèo khổ, bị áp bức, không phân biệt màu da hay dân tộc Hồ Chí Minh khẳng định rằng tình yêu thương là điều kiện tiên quyết cho cách mạng, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản Tư tưởng lớn của Người là yêu thương đồng bào và đất nước, thể hiện qua khát vọng mãnh liệt: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Đây chính là nền tảng tư tưởng đạo đức và lý tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.

Lối sống giản dị

“Nhà gác đơn sơ một góc vườn

Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn Giường mây, chiếu cói, đơn chăn gối

Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn”

“Theo chân Bác” - Tố Hữu

Những vần thơ trên đã khắc họa lối sống rất đỗi giản dị của vị lãnh tụ kính yêu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương giản dị với cuộc sống hàng ngày trong sáng và thanh bạch Dù giữ vị trí lãnh đạo cao nhất, Người vẫn yêu thích những món ăn quê hương như cá kho và cà muối, và ăn uống rất thanh đạm Sau bữa ăn, Người tự tay thu dọn bát đũa gọn gàng Trang phục hàng ngày của Người là bộ bà ba nâu và đôi dép cao su, trong khi khi tiếp khách hay tham dự sự kiện quan trọng, Người chỉ mặc bộ kaki và giày vải Trong thời gian ở chiến khu, Người sống chung với cán bộ và nhân viên, cùng ăn ở và sinh hoạt như mọi người Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Người trở về Hà Nội cùng Trung ương Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện đức tính khiêm tốn và giản dị trong lối sống mà còn qua cách nói, viết và làm việc Dù sở hữu tri thức uyên bác và là một nhà chính trị, ngoại giao, nhà báo, nhà thơ tài ba, Người luôn gần gũi, không cao đạo hay hàn lâm Hồ Chí Minh truyền tải những tư tưởng lớn một cách tự nhiên, đơn giản, dễ hiểu, đi thẳng vào lòng dân Khi tiếp xúc với nhân dân, cử chỉ và lời nói của Người luôn mộc mạc, dân dã, thể hiện sự kết nối sâu sắc với quần chúng, ngay cả trong những khoảnh khắc trọng đại như khi đọc Bản tuyên ngôn độc lập trước hàng nghìn người.

“Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”

Bác Hồ không chỉ thể hiện sự quan tâm đến nhân dân qua lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể và thiết thực Người thường xuyên thăm hỏi chiến sĩ trên mặt trận, cùng họ hành quân, và kiểm tra điều kiện sống của các gia đình, tập thể Bác trực tiếp xuống ruộng làm việc, hướng dẫn bà con về nông nghiệp và thủy lợi, cũng như thăm các cơ quan, nhà máy, trường học Bác luôn chủ động tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó xây dựng mối quan hệ gần gũi và thân thiện Sự giản dị của Bác không chỉ là phong cách sống mà còn là bài học cho mọi người, thể hiện tấm lòng nhân hậu và đồng cảm Người thanh cao, giản dị nhưng không hề giản đơn, luôn theo đuổi mục tiêu cao cả mà không màng danh lợi.

Tôi khao khát một đất nước hoàn toàn độc lập, nơi người dân được tự do và có đủ cơm ăn áo mặc, cùng với cơ hội học hành cho tất cả mọi người.

Nét sống giản dị, thanh cao của Hồ Chí Minh đã hình thành những quan điểm về chuẩn mực đạo đức Cách Mạng, trong đó Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là cốt lõi Ông nhấn mạnh rằng các đức tính này có mối quan hệ chặt chẽ và cần được thực hiện bởi mọi người, đặc biệt là cán bộ đảng viên, để làm gương cho dân Hồ Chí Minh cảnh báo rằng nếu cán bộ không giữ đúng những giá trị này, họ có thể trở thành hủ bại, gây hại cho dân Ông khẳng định rằng một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm là dân tộc giàu mạnh về vật chất và tinh thần, đồng thời là nền tảng cho đời sống mới và các phong trào thi đua yêu nước Cần, Kiệm, Liêm, Chính là bốn đức tính cơ bản của con người, thiếu một trong số đó thì không thể thành người.

Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận

Hồ Chí Minh là một nhân vật có vốn sống và kinh nghiệm cách mạng phong phú, luôn tích cực tìm hiểu và phân tích giữa nhiều học thuyết và tình huống phức tạp Ông phát triển những luận điểm đúng đắn và sáng tạo dựa trên việc nghiên cứu tài liệu và trải nghiệm thực tiễn tại 30 quốc gia Qua đó, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc về chủ nghĩa đế quốc, thực dân và bản chất thủ đoạn của chúng.

Qua nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm phong phú từ việc sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, và tham gia phong trào cộng sản quốc tế, Bác đã tích lũy được sự hiểu biết sâu sắc về phong trào giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển Đảng Cộng sản.

Nghệ thuật ngoại giao của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tài năng xuất sắc của Người trong hoạt động chính trị mà còn trong việc tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận Từ một người tay không đi tìm đường cứu nước, Bác đã khéo léo thích nghi với môi trường mới, tìm kiếm công việc, phát hành sách báo, và tham gia sáng lập Đảng tại nước ngoài Sự sắc sảo trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Bác thành công trong những nỗ lực này Bác luôn vận dụng phương pháp ứng xử nhạy bén và sáng tạo, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động đối ngoại, đồng thời thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương Sự am hiểu và vận dụng nhuần nhuyễn của Bác trong lĩnh vực này đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử.

Ngũ tri trong triết lý Phương Đông bao gồm "biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến" Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự hiểu biết này, ông luôn nhận thức rõ mình muốn gì và con đường mình phải đi Ông biết cách tránh những cạm bẫy, hiểu rõ kẻ thù và nắm vững nghệ thuật phân biệt giữa những điều có thể và không thể, đồng thời không ngừng mở rộng giới hạn của khả năng Câu nói của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định giá trị của tri thức và sự linh hoạt trong hành động.

Hồ Chí Minh, với sự giác ngộ về đường lối cách mạng đúng đắn, đã mở các lớp huấn luyện lý luận cho những nhà hoạt động cách mạng và người lao động, nhằm nâng cao dân trí và đào tạo tri thức mới Ông không chỉ là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam mà còn hiện thực hóa tư tưởng và lý luận cách mạng, tổng kết thực tiễn Bên cạnh việc xác định mục tiêu cách mạng dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức lãnh đạo cách mạng Ông cũng là người sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất và quân đội nhân dân Việt Nam, khai sinh nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Ngày đăng: 17/10/2021, 14:29

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w