1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH

42 51 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Về Biến Đổi Khí Hậu Ở Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Hồng, Nguyễn Tuyết Phượng, Trần Mộng Khanh, Nguyễn Hoàng Duy, Nguyễn Hữu Huy Hoàng
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Tri Quang Hưng
Trường học Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Quản lí tài nguyên và môi trường
Thể loại tiểu luận nhóm
Năm xuất bản 2017
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 42
Dung lượng 1 MB

Cấu trúc

  • Chương I (7)
    • 1.1. Khái niệm biến đổi khí hậu (climate change) (7)
    • 1.2. Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu (7)
    • 1.3. Sự cần thiết của thích ứng với biến đổi khí hậu (9)
    • 1.4. Tình hình biến đổi khí hậu ở Việt Nam (10)
    • 1.5. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh (15)
      • 1.5.1. Vị trí địa lý (16)
      • 1.5.2. Kinh tế (17)
      • 1.5.3. Giao thông vận tải (17)
      • 1.5.4. Khí hậu (18)
      • 1.5.5. Một số thách thức đối với TP.HCM hiện nay (18)
  • Chương II (21)
    • 2.1. Các biểu hiện của biến đổi khí hậu ở thành phố Hồ Chí Minh (21)
      • 2.1.1. Nhiệt độ tăng cao (21)
      • 2.1.2. Mưa thay đổi bất thường (23)
      • 2.1.3. Nước biển dâng (25)
      • 2.1.4. Gió Bão (30)
    • 2.2. Tính dễ bị tổn thương của TP HCM do BĐKH (31)
      • 2.2.1. Nguồn nước và vệ sinh môi trường (31)
      • 2.2.2 Công nghiệp (32)
      • 2.2.3 Nông nghiệp và hệ sinh thái (32)
      • 2.2.4 Nguồn năng lượng (32)
      • 2.2.5 Sức khỏe cộng đồng (33)
      • 2.2.6 Giao thông vận tải (34)
    • 2.3. Thành phố Hồ Chí Minh thích ứng với biến đổi khí hậu (35)
      • 2.3.1. Sức khỏe cộng đồng (35)
      • 2.3.2. Năng lượng (35)
      • 2.3.3. Công nghiệp (36)
      • 2.3.4. Nông nghiệp và hệ sinh thái (37)
      • 2.3.5. Giao thông vận tải (38)
      • 2.3.6. Nguồn nước (39)
    • Chương 3 (40)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (42)

Nội dung

Biến đổi khí hậu là sự thay đổi hệ thống khí hậu của trái đất và những thành phần liên quan như bầu khí quyển, thủy quyển (đại dương), sinh quyển, thạch quyển (đất đai). Nó gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhiều thành phần và khả năng tự phục hồi cũng như sinh sản của nhiều hệ sinh thái trên trái đất. Trước đây biến đổi khí hậu diễn ra trong một khoảng thời gian dài do tác động của các yếu tố tự nhiên, nhưng trong những năm gần đây, nó chủ yếu xảy ra do tác động của con người như sử dụng các nhiên liệu hóa thạch

Khái niệm biến đổi khí hậu (climate change)

Hệ thống khí hậu Trái Đất bao gồm khí quyển, lục địa, đại dương, băng quyển và sinh quyển, với các quá trình khí hậu diễn ra qua sự tương tác liên tục giữa các thành phần này Thời gian hồi tiếp của từng thành phần rất khác nhau, và nhiều quá trình vật lý, hóa học, sinh hóa có thể tăng cường hoặc hạn chế biến đổi khí hậu Theo Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu, biến đổi khí hậu được định nghĩa là những ảnh hưởng có hại đến môi trường vật lý và sinh học, gây ra tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, hệ thống kinh tế - xã hội, cũng như sức khỏe và phúc lợi của con người.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự thay đổi của hệ thống khí hậu bao gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển và thạch quyển, do cả nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo Những thay đổi này, được gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp bởi hoạt động của con người, đã làm thay đổi cấu trúc của khí quyển trái đất Biến đổi khí hậu tự nhiên và nhân tạo đã được quan sát trong một khoảng thời gian nhất định (UNFCCC).

Biến đổi khí hậu là sự thay đổi trong trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hoặc khu vực trong khoảng thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm Những thay đổi này xảy ra do các yếu tố tự nhiên như động lực của trái đất và bức xạ mặt trời, đồng thời bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của con người.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay chủ yếu do hoạt động của con người, bên cạnh các yếu tố tự nhiên như động lực của trái đất và bức xạ mặt trời Thuật ngữ BĐKH, hay còn gọi là sự ấm lên toàn cầu (Global warming), đã trở thành đồng nghĩa với BĐKH hiện đại kể từ thế kỷ XX.

Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu toàn cầu là một hiện tượng không thể tránh khỏi, bất kể nỗ lực kiểm soát mức phát thải khí nhà kính của chúng ta Nguyên nhân chính là lượng khí thải hiện tại trong khí quyển sẽ tiếp tục dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ và mực nước biển trong thế kỷ tới.

Chuyên gia khí hậu Gerald Meehl và nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khí quyển quốc gia Mỹ (NCAR) đã sử dụng mô hình khí hậu máy tính để dự đoán tác động của việc kiểm soát khí thải nhà kính ở các mức khác nhau Nghiên cứu này xem xét phản ứng chậm chạp của đại dương đối với ấm lên toàn cầu Kết quả cho thấy, để duy trì lượng khí thải nhà kính ở mức năm 2000, cần phải cắt giảm mạnh mẽ lượng CO2 hơn so với Nghị định thư Kyoto Ngay cả trong trường hợp này, nhiệt độ toàn cầu vẫn sẽ tăng thêm 0,4–0,6 độ C trong thế kỷ XXI, tương đương với mức tăng trong thế kỷ XX.

Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng phát xả khí nhà kính, đặc biệt là CO2 và Metan, là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu từ năm 1950, khi tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng gia tăng Việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch, sản xuất xi măng, phá rừng, và chăn nuôi đại gia súc đã làm gia tăng lượng khí thải Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học Berne, nồng độ CO2 trong khí quyển hiện đang ở mức cao nhất trong 800.000 năm Nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu là sự gia tăng hoạt động thải khí nhà kính và khai thác quá mức các bể hấp thụ khí như rừng và hệ sinh thái biển Để hạn chế biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto đã được thiết lập nhằm kiểm soát và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu.

CO2 là khí nhà kính chủ yếu do con người phát thải vào khí quyển, chủ yếu từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí Ngoài ra, CO2 cũng được sinh ra từ các hoạt động công nghiệp, bao gồm sản xuất xi măng và cán thép.

+ CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than

+ N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp

+ HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản uất HCFC-22

+ PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm

+ SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê

Sự cần thiết của thích ứng với biến đổi khí hậu

Sự nóng lên toàn cầu đang gây ra những tác động và mối đe dọa nghiêm trọng, trong đó nhiệt độ nước biển tăng dẫn đến hiện tượng giãn nở nhiệt của đại dương Đồng thời, nước từ băng tan trên đất liền cũng góp phần làm mực nước biển dâng cao Trong thế kỷ 20, mực nước biển đã tăng lên 0,17 mét.

Sự nóng lên toàn cầu dự kiến sẽ làm gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão nhiệt đới, lũ lụt, và hạn hán, ngay cả khi nhiệt độ trung bình chỉ tăng nhẹ Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường và các lĩnh vực kinh tế-xã hội như nguồn nước, nông nghiệp, an ninh lương thực, sức khỏe con người, và đa dạng sinh học Thay đổi trong lượng mưa có thể dẫn đến tình trạng thiếu nước hoặc lũ lụt, trong khi nhiệt độ tăng cao có thể làm thay đổi mùa sinh trưởng cây trồng và gia tăng nguy cơ mắc bệnh Mực nước biển dâng cao sẽ làm tăng nguy cơ bão và thiệt hại cho các khu vực ven biển, đặc biệt là ở những quốc đảo và vùng đồng bằng thấp Để tồn tại trong bối cảnh biến đổi khí hậu, con người, cây cối và động vật cần thích ứng bằng cách thay đổi hành vi hoặc di cư đến những khu vực mới.

Tình hình biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Trong 70 năm qua, nhiệt độ trung bình hàng năm đã tăng lên với mức trung bình 0,1°C mỗi thập kỷ, dao động từ 0,07 đến 0,15°C Đặc biệt, nhiệt độ trung bình trong 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000) cao hơn so với 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960).

Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội cao hơn trung bình nhiều năm (1961 - 1990) 0,7 o C

Trong thập kỷ 1991 - 2000, nhiệt độ trung bình năm tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh đều cao hơn so với thập kỷ 1931 - 1940, với mức tăng lần lượt là 0,8 o C, 0,4 o C và 0,7 o C Đặc biệt, vào năm 2007, nhiệt độ trung bình năm tại cả ba thành phố này tiếp tục cao hơn so với mức trung bình của các thập kỷ trước đó, với sự chênh lệch từ 0,8 - 1,3 o C tại Hà Nội, 0,4 - 0,5 o C tại Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh.

Bảng 1: So sánh nhiệt độ trung bình năm ( o C) các thập kỷ

Thập kỷ Hà Nội Đà Nẵng TP Hồ Chí Minh

Nhiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 ở 3 nơi nói trên cũng có xu thế tương tự, tăng 0,5 - 1,1 o C đối với tháng 1 và 0,5 - 0,8 o C đối với tháng 7

Bảng 2: So sánh nhiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 ( o C) các thập kỷ 1991 - 2000 và 1931 - 1940

Thập kỷ Hà Nội Đà Nẵng TP Hồ Chí Minh

Lượng mưa trong các khu vực tại Việt Nam đang có sự biến đổi không đồng nhất; cụ thể, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh ghi nhận xu hướng giảm trong 20 năm qua, trong khi Đà Nẵng lại chứng kiến sự gia tăng Tại các tỉnh Nam Trung Bộ, lượng mưa cũng đang giảm, dẫn đến tình trạng khô hạn ngày càng gia tăng Đặc biệt, lượng mưa lớn nhất trong 24 giờ đã có xu hướng tăng lên trong những thập kỷ gần đây.

- Hoạt động của bão trên Biển Đông có xu thế giảm trong 4 thập kỷ qua (1961

Từ năm 1991 đến 2000, số lượng bão ảnh hưởng đến Việt Nam đã giảm rõ rệt Cụ thể, trong năm 2007, chỉ có 4 cơn bão đổ bộ và tác động trực tiếp đến nước ta, ít hơn 3 cơn so với trung bình nhiều năm.

Bảng 3: Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và số bão ảnh hưởng đến Việt Nam trong 4 thập kỷ qua (1961 - 2000)

Thập kỷ Bão Biển Đông Bảo ảnh hưởng đến Việt Nam

Số liệu 2007 theo công điện hàng tháng

Số lượng cơn bão mạnh đang gia tăng, với mùa bão kéo dài hơn về cuối năm và số cơn bão ảnh hưởng đến các tỉnh phía Nam cũng tăng lên.

Trong ba thập kỷ qua, tần số hoạt động của không khí lạnh ở Bắc Bộ đã giảm rõ rệt, từ 288 đợt trong thập kỷ 1971-1980 xuống 287 đợt trong thập kỷ 1981-1990, và chỉ còn 249 đợt trong thập kỷ 1991-2000.

Số ngày mưa phùn ở Hà Nội đã giảm đáng kể qua các thập kỷ, từ trung bình 29,7 ngày mỗi năm trong giai đoạn 1961 - 1970 xuống còn 14,5 ngày/năm trong giai đoạn 1991 - 2000.

- Mực nước biển trung bình quan trắc được trong khoảng 50 năm qua ở các trạm Cửa Ông và Hòn Dấu cho thấy, trung bình mỗi thập kỷ tăng lên 2,5 - 3,0cm

- Hiện tượng ENSO (El Nino và La Nina) ảnh hưởng đến nước ta mạnh mẽ hơn trong thập kỷ 1991 - 2000 so với trước đó

Bảng 4: Các vụ thiên tai lớn gần đây ở Việt Nam & các tác động

Số người chết, mất tích/ thương tật

(số liệu do CCFSC cung cấp chính thức) Ước tính tổn thất (triệu USD)

Các trận lũ ở Đồng bằng Sông

84,265 căn nhà bị đổ và ngập 1,313 lớp học bị thiệt hại 57,900 ha lúa bị ngập 11,675 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại

806 ha ao tôm/cá bị ngập tràn

178 tấn cá và tôm bị thiệt hại

312,456 căn nhà bị đổ và phá huỷ 7,151 trường bị phá huỷ

348 bệnh viện và trung tâm y tế bị ngập và phá huỷ

323,050 ha ruộng lúa bị thiệt hại 450

57,751 ha đất nông nghiệp bị ngập và phá huỷ

136,334 ha đầm cá bị ngập 7,753 tàu thuyền bị phá huỷ

1997, 1998 Tổn thất nặng nề cây trồng ở miền Trung

Hơn 1 triệu căn nhà bị hư hại 5,915 lớp học bị phá huỷ

701 bệnh viện và trung tâm y tế bị ngập và phá huỷ

67,354 ha ruộng lúa bị ngập 98,109 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại 41,508 ha đầm cá tôm bị ngập

1,335 tấn cá tôm bị phá huỷ 2,232 tàu thuyền bị chìm

Các trận lũ sông ở đồng bằng Sông

895,499 căn nhà bị hư hại 12,909 lớp học bị huỷ hoại

379 bệnh viện và trung tâm y tế bị ngập và phá huỷ

401,342 ha ruộng lúa bị ngập và thiệt hại 85,234 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại 16,215 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập 2,484 tấn cá tôm bị phá huỷ

Các trận lũ sông ở đồng bằng Sông 393, 1 / 0 345,238 căn nhà bị hư hại

5,315 lớp học bị huỷ hoại

Cửu Long, 2001 20,690 ha ruộng lúa bị ngập và thiệt hại

1,872 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại 4,580 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập

969 tấn cá tôm bị phá huỷ

Cơn bão Damrey ở miền Bắc và

113,431 căn nhà bị hư hại 3,922 lớp học bị huỷ hoại 2,227,627 ha ruộng lúa bị ngập và thiệt hại

55,216 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại 21,193 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập 1,300 tấn cá tôm bị phá huỷ

Bão Chanchu ở miền Trung, 2006 19, 249 / 1 Thuyền đánh cá bị chìm ở Biển Đông

349,348 căn nhà bị đổ và ngập 5,236 lớp học bị huỷ hoại 21,548 ha ruộng lúa bị ngập và thiệt hại 3,974 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập

494 tấn cá tôm bị phá huỷ

Đợt hạn hán năm 2015 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh như Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa và Quảng Trị, với khoảng 50.000 ha không thể gieo trồng do nắng nóng kéo dài Đây là đợt hạn khốc liệt nhất trong 40 năm qua, khiến các hồ chứa nước ở Ninh Thuận gần như cạn kiệt, với dung tích dưới 10%, trong khi Khánh Hòa còn khoảng 17% Dự kiến trong vụ hè thu, Ninh Thuận sẽ dừng sản xuất 10.229 ha, chiếm 34%, và Khánh Hòa sẽ dừng 10.400 ha, chiếm 24% Tổng cộng, khoảng 122.000 ha ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ bị ảnh hưởng, trong đó Đắk Lắk chịu thiệt hại nặng nề nhất với 61.000 ha.

Tính đến thời điểm hiện tại, tổng dân số cả nước đạt 7.955.000 người, trong đó có 6.591.900 người sống ở thành phố và 1.226.300 người ở nông thôn Mật độ dân số là 3.796 người/km² Tại Đăk Nông, khoảng 17.000 ha đất nông nghiệp bị ảnh hưởng Dự báo, diện tích gieo cấy lúa Đông Xuân trong 6 tháng đầu năm 2015 đạt 3,112 triệu ha, giảm 4.300 ha so với năm 2014, với sản lượng ước đạt 20,7 triệu tấn, giảm 153.000 tấn (-0,7%).

Vào sáng ngày 6 tháng 7 năm 2015, trạm khí tượng Sa Pa (Lào Cai) ghi nhận nhiệt độ giảm xuống còn 12,6 độ C, mang đến không khí rét lạnh, một hiện tượng hiếm gặp trong nhiều năm qua tại miền Bắc.

Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Hồ Chí Minh, đô thị đông dân nhất Việt Nam, là trung tâm kinh tế, văn hóa và giáo dục quan trọng của cả nước Với diện tích 2.095,06 km², thành phố này là đô thị lớn thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau Hà Nội Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm 19 quận và 5 huyện.

Bảng 5: Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh

Tên DT (km²) Dân số (người) Tên Diện tích

Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP.HCM 1.5.1 Vị trí địa lý

Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông Thành phố này giáp với tỉnh Bình Dương ở phía Bắc, tỉnh Tây Ninh ở Tây Bắc, tỉnh Đồng Nai ở Đông và Đông Bắc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ở Đông Nam, cũng như tỉnh Long An và Tiền Giang ở Tây và Tây Nam.

Thành phố nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long, với địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông Vùng cao nhất nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, có độ cao trung bình từ 10 đến 25 mét, trong đó đồi Long Bình ở quận 9 cao nhất đạt 32 mét Các khu vực trung tâm, cùng với một phần quận Thủ Đức, Quận 2, huyện Hóc Môn và quận 12, có độ cao trung bình khoảng 5 đến 10 mét Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Đông Nam thành phố, như Nhà Bè, Cần Giờ và một phần Bình Chánh, có độ cao trung bình dưới 1 mét, với nơi thấp nhất chỉ 0,5 mét, đây là khu vực chứa nước của thành phố khi có mưa lớn.

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế hàng đầu của Việt Nam, với chỉ 0,6% diện tích và 8,34% dân số cả nước, nhưng đóng góp tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án đầu tư nước ngoài.

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có hơn 4 triệu lao động trong độ tuổi lao động, đóng góp trung bình 29,38% vào tổng thu ngân sách quốc gia hàng năm GDP của thành phố đạt 404.720 tỷ đồng, chiếm 21,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước.

Thành phố Hồ Chí Minh, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đã trở thành một trung tâm giao thông quan trọng không chỉ của Việt Nam mà còn của khu vực Đông Nam Á, bao gồm các phương thức vận chuyển như đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không.

Vận tải hàng hóa tại thành phố cho thấy đường biển chiếm 29% và đường sông chiếm 20% tổng khối lượng, trong khi đường bộ chỉ chiếm 44% Tuy nhiên, đường bộ lại dẫn đầu về vận tải hành khách với tỷ lệ lên tới 85,6%.

Giao thông đường sắt tại Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, cùng với tuyến Bắc - Nam và một số đoạn đường chuyên dụng hiện đã ngưng khai thác Thành phố có hai nhà ga chính là Sóng Thần và Sài Gòn, cùng với một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu và Gò Vấp Tuy nhiên, do mạng lưới đường sắt không kết nối trực tiếp với các cảng và cơ sở hạ tầng đã cũ, giao thông đường sắt ở đây không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách.

Giao thông đường bộ, thành phố có 6 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các

Thủ Ôn Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày

Thành phố Hồ Chí Minh có bốn cảng biển chính, bao gồm Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè và Tân Cảng, cùng với các cảng sông như Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi và Bình Phước.

Giao thông trong nội ô thành phố đang gặp nhiều khó khăn do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch kém và hệ thống đường xá hạn chế, dẫn đến tình trạng ùn tắc nghiêm trọng Đây là một trong những vấn đề lớn mà thành phố hiện nay phải đối mặt.

Thành phố Hồ Chí Minh có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 11 với khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao và lượng mưa lớn Ngược lại, mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mang lại thời tiết khô mát, nhiệt độ cao vừa phải và ít mưa.

Thành phố Hồ Chí Minh có từ 160 đến 270 giờ nắng mỗi tháng, với nhiệt độ trung bình khoảng 27 °C, có thể đạt tới 40 °C và thấp nhất là 13,8 °C Hàng năm, thành phố trải qua 330 ngày có nhiệt độ trung bình từ 25 đến 28 °C Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.949 mm, với khoảng 159 ngày mưa, chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, đặc biệt là vào tháng 6 và 9, chiếm khoảng 90% tổng lượng mưa Lượng mưa không phân bố đều trên toàn thành phố, thường tăng theo hướng Tây Nam – Đông Bắc, với các quận nội thành và huyện phía Bắc nhận được lượng mưa cao hơn các khu vực khác.

1.5.5 Một số thách thức đối với TP.HCM hiện nay

Tốc độ gia tăng dân số nhanh chóng và lượng người nhập cư ngày càng cao vào TP.HCM đã vượt quá khả năng kiểm soát của chính quyền Hệ thống cơ sở hạ tầng chưa kịp nâng cấp, dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, an sinh xã hội và an ninh quốc phòng, đặc biệt là ô nhiễm môi trường.

Thành phố Hồ Chí Minh đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là vấn đề nước thải Việc xả thải không qua xử lý vào hệ thống sông ngòi vẫn diễn ra phổ biến, trong khi nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế thiếu hệ thống xử lý nước thải, tạo ra mối lo ngại lớn Tại cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất thải công nghiệp, với tổng lượng nước thải ước tính lên đến 500.000 m³/ngày.

Sông Sài Gòn đang đối mặt với mức độ ô nhiễm vi sinh nghiêm trọng, chủ yếu do hoạt động nuôi trồng thủy sản, vượt tiêu chuẩn cho phép đến 220 lần Đến năm 2008, vẫn chưa có giải pháp cụ thể nào được đưa ra để giải quyết tình trạng ô nhiễm này.

Các biểu hiện của biến đổi khí hậu ở thành phố Hồ Chí Minh

Biến đổi khí hậu đang gây ra những tác động nghiêm trọng như tăng nhiệt độ bề mặt trái đất, mưa bão bất thường, hạn hán cực đoan và mực nước biển dâng cao Những hiện tượng này dẫn đến nhiều vùng bị ngập lụt và nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng Hậu quả của biến đổi khí hậu là những thảm họa khó lường mà nhân loại phải đối mặt.

Theo nghiên cứu của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), cùng với các quan trắc số liệu thực đo về nhiệt độ, mưa, triều và mực nước, khu vực TP.Hồ Chí Minh đã cho thấy những biểu hiện rõ nét của biến đổi khí hậu và thiên tai bất thường trong những năm qua.

Theo các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu uy tín toàn cầu, nhiệt độ trung bình bề mặt Trái Đất đã tăng gần 1°C trong 80 năm qua (1920-2005), với sự gia tăng nhanh chóng trong 25 năm gần đây (1980-2005).

Hình 1: Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt trái đất và hàm lượng khí thải nhà kính

Nguyên nhân chủ yếu gây ra biến đổi khí hậu được các nhà khoa học đồng thuận là sự gia tăng nồng độ khí CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính do hoạt động của con người Điều này đã được chứng minh qua các số liệu trong nhiều thế kỷ, đặc biệt là trong vài thập kỷ gần đây.

Với sự phát triển kinh tế ngày càng tăng, lượng khí thải nhà kính đang gia tăng, dẫn đến hiện tượng ấm lên toàn cầu Sự biến đổi này đã ảnh hưởng rõ rệt đến hệ sinh thái ở nhiều vùng Từ phân tích dữ liệu nhiệt độ thực đo tại trạm Biên Hòa, gần thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn 1980 đến 2007, cho thấy nhiệt độ trung bình hàng năm đã tăng 0.8°C, đặc biệt từ năm 1992 đến nay, sự gia tăng nhiệt độ trở nên rõ rệt hơn.

Hình 2: Nhiệt độ trung bình năm trạm Biên Hòa

Nhiệt độ trung bình hàng năm tại TP.HCM dao động từ 26°C đến 27°C, với sự chênh lệch giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất chỉ khoảng 4°C đến 5°C Gần đây, nhiệt độ trung bình hàng năm ở thành phố này đã tăng nhanh, gần gấp đôi so với mức tăng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Từ những năm 1990, TP.HCM đã trải qua sự gia tăng nhiệt độ song song với quá trình đô thị hóa nhanh chóng Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình hàng năm trong mùa mưa đã tăng lên 2°C Dự báo với sự thay đổi khí hậu, nhiệt độ trung bình hàng năm có thể tăng thêm 1,4°C và có khả năng tiếp tục gia tăng do đô thị hóa.

2.1.2 Mưa thay đổi bất thường

Theo báo cáo của IPCC, sự nóng lên toàn cầu đã làm cho lượng mưa trở nên thất thường hơn, với các khu vực có mưa nhiều ghi nhận lượng mưa và cường độ mưa tăng lên Ngược lại, những vùng thường xuyên hạn hán lại trở nên khô hạn hơn Tần suất và cường độ của hiện tượng El Nino cũng đã gia tăng đáng kể, dẫn đến lũ lụt và hạn hán tại các khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới Xu hướng biến đổi lượng mưa không đồng nhất giữa các khu vực và thời gian, trong khi tổng lượng mưa hàng năm không tăng, cường độ và thời gian của các cơn mưa lại có xu hướng gia tăng rõ rệt.

Theo dữ liệu từ trạm đo mưa Tân Sơn Nhất từ năm 1907, tổng lượng mưa hàng năm ở khu vực này đã giảm dần đến năm 1960, sau đó có xu hướng tăng nhẹ trong những năm gần đây, như thể hiện trong biểu đồ mưa năm ở hình 4.

Hình 3: Tổng lượng mưa năm trạm Tân Sơn Nhất

Từ năm 1960 đến nay, tổng lượng mưa hàng năm đã tăng khoảng 110 mm, tương đương với mức tăng trung bình 2 mm mỗi năm Đặc biệt, từ năm 1970 đến 2007, lượng mưa tối đa trong một ngày đã có xu hướng tăng rõ rệt, với mức 92 mm vào năm 1970 và đạt 109 mm vào năm 2007.

Hình 4: Tổng lượng mưa 1 ngày max trạm Tân Sơn Nhất

Biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng mưa cực đoan với tổng lượng mưa hàng năm không tăng nhưng cường độ mưa lại gia tăng, gây ra tình trạng hạn hán khốc liệt và ngập lụt tại TP Hồ Chí Minh Thành phố thường xuyên chịu đựng hạn hán, đặc biệt vào tháng Ba và tháng Tư, với những mùa khô nghiêm trọng đã xảy ra trong các năm 1993, 1998 và 2002.

Trong trường hợp xảy ra mưa cực đoan, việc vỡ đập hồ chứa tại một bậc thang thủy điện thượng nguồn có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền nguy hiểm Điều này sẽ khiến thành phố Hồ Chí Minh đối mặt với nguy cơ bị tàn phá khi hàng tỷ mét khối nước từ độ cao 100 mét đổ xuống.

Hình 5: Các bậc thang thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn

Trong thành phố Hồ Chí Minh, 154 trong tổng số 322 xã, phường thường xuyên chịu ảnh hưởng của lũ lụt Những trận lũ này đã tác động đến gần 110.000 ha đất và ảnh hưởng đến khoảng 971.000 người, chiếm khoảng 12% dân số của thành phố.

Tình trạng nóng lên của bề mặt Trái đất dẫn đến băng tan ở hai cực và trên đỉnh núi, gây ra mực nước biển dâng cao, làm ngập nhiều đảo và vùng đồng bằng ven biển Trong 50-100 năm qua, mực nước biển đã tăng trung bình 1,8 mm mỗi năm, nhưng trong 12 năm gần đây, theo dữ liệu từ vệ tinh NASA, tốc độ này đã tăng lên khoảng 3 mm/năm Báo cáo của IPCC dự đoán rằng đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất có thể tăng từ 1,4 đến 4°C, và mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm Sự gia tăng này còn phụ thuộc vào hành vi của con người trong việc xả thải khí nhà kính Tại Việt Nam, số liệu đo mực nước biển tại Vũng Tàu từ năm 1980 cho thấy mực nước biển lớn nhất năm đang có xu hướng tăng, với mức tăng từ 0,2-0,6 cm mỗi năm.

Hình 6: Mực nước lớn nhất năm trạm Vũng Tàu

Dựa trên xu hướng biến động mực nước triều được thể hiện trong biểu đồ 8, dự báo mực nước trung bình đỉnh triều lớn nhất vào năm 2107 sẽ dao động từ 142-186 cm, tương ứng với mức tăng từ 6-50 cm so với hiện tại.

Hình 7: Dự báo nước biển dâng trạm Vũng Tàu

Tính dễ bị tổn thương của TP HCM do BĐKH

2.2.1 Nguồn nước và vệ sinh môi trường

Kế hoạch tăng cường nguồn nước dự trữ và cơ sở hạ tầng trong lưu vực sông Đồng Nai dự kiến sẽ nâng cao nguồn cung nước sạch vào năm 2050 Mặc dù khả năng lưu trữ nước trong khu vực này không bị ảnh hưởng nhiều bởi triều cường, các khu vực gần TP HCM có thể gặp rủi ro Các nhà máy xử lý nước và lấy nước phía bắc thành phố dọc sông Đồng Nai và Sài Gòn có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt khắc nghiệt nếu không có biện pháp kiểm soát, dẫn đến gián đoạn cung cấp nước sạch và thiệt hại cơ sở vật chất Hệ thống cấp nước của thành phố cũng sẽ bị tác động bởi các trận lũ thường xuyên Khu vực Cần Giờ không nằm trong kế hoạch kiểm soát lũ và có thể bị ngập sâu tới 2-3m, ngay cả khi mở rộng ống dẫn nước ra bờ biển phía đông nam huyện cũng khó tránh khỏi ảnh hưởng nghiêm trọng.

Các nhà máy xử lý nước thải đang đối mặt với nguy cơ ngập lụt từ các trận lũ thường xuyên và cực đoan, với 12 trong số 14 nhà máy dự kiến sẽ bị ảnh hưởng đến năm 2050 Hệ thống thoát nước cũng có thể bị tác động, dẫn đến tràn nước ô nhiễm trong cống thoát nước và thiệt hại do nước lũ mặn Các nhà máy gần nhánh sông Sài Gòn và Đồng Nai sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, với mực nước có thể lên tới 1-2 mét Tuy nhiên, hệ thống kiểm soát lũ theo kế hoạch có thể giúp ngăn chặn lũ lụt quanh ba nhà máy xử lý nước thải phía nam.

Biến đổi khí hậu có thể làm giảm chất lượng nước mặt và nước ngầm, dẫn đến tăng độ mặn và sự phát tán trầm tích ô nhiễm trong các trận lũ.

Lũ lụt có khả năng lan truyền trầm tích ô nhiễm và nước bẩn qua các quận nội thành, gây ô nhiễm đất và tiềm ẩn nguy cơ sức khỏe Đặc biệt, các kênh đào ô nhiễm nặng đã tích tụ nhiều chất độc hại trong suốt hàng chục năm.

Chất lượng nước ngầm sẽ bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn phụ thuộc và cấp độ và thời gian duy trì của trận lũ

Hầu hết các khu công nghiệp tại TP Hồ Chí Minh sẽ đối mặt với nguy cơ lũ lụt trực tiếp đến năm 2050, bất kể có hay không các kế hoạch kiểm soát lũ được triển khai.

Mô hình sự kiện lũ cực đoan dự báo trước năm 2050 cho thấy 53% khu công nghiệp hiện tại và những khu đang quy hoạch sẽ nằm trong vùng ngập lụt, với hơn 22% các khu công nghiệp bị ngập trong phạm vi 1 km Phân tích không gian chỉ ra rằng 60% lao động sản xuất có thể bị ảnh hưởng bởi lũ cực đoan nếu không có biện pháp kiểm soát, nhưng con số này sẽ giảm 39% nếu có áp dụng các biện pháp kiểm soát lũ.

Các ngành công nghiệp như sản xuất hóa chất, thực phẩm và nước giải khát, cũng như các lĩnh vực có tài sản cố định lớn như sản xuất thép và ô tô, và các ngành dịch vụ phụ thuộc vào hệ thống vận chuyển và thông tin liên lạc, đều rất dễ bị tổn thương trước tác động của lũ lụt.

2.2.3 Nông nghiệp và hệ sinh thái

Mặc dù ngành nông nghiệp chỉ đóng góp ít vào GDP của TP HCM, nhưng đây là lĩnh vực dễ bị tổn thương do nhiều hộ nghèo phụ thuộc vào sinh kế từ nó Việc mất đất nông nghiệp do đô thị hóa có thể làm gia tăng mức độ tổn thương cho thành phố, trong khi bề mặt thấm cung cấp nhiều lựa chọn để quản lý lũ hiệu quả hơn.

Nông nghiệp sẽ chịu tác động nghiêm trọng từ lũ lụt gia tăng và xâm nhập mặn Nếu không có biện pháp kiểm soát lũ, gần 60% đất nông nghiệp có nguy cơ bị ngập lụt thường xuyên Dự báo đến năm 2050, tình trạng hạn hán sẽ khiến vùng nhiễm mặn mở rộng tới huyện Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà Bè, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, rừng sản xuất và công viên.

Dự báo cho thấy rằng vào năm 2050, các nhà máy điện lực Phú Mỹ và Hiệp Phước có thể bị ảnh hưởng bởi lũ lụt, bất kể có hay không các dự án kiểm soát lũ tại chỗ Bên cạnh đó, nhà máy nhiệt điện Thủ Đức chỉ cách 0,1 km sẽ chịu tác động từ trận lũ cực đoan, dẫn đến khả năng gián đoạn hoạt động Hệ thống cơ sở hạ tầng cũng có thể bị ảnh hưởng gián tiếp do sự thay đổi trong dòng chảy và nhiệt độ; nếu dòng chảy giảm và nhiệt độ tăng cao, hiệu quả làm mát của các nhà máy nhiệt điện sẽ bị giảm, từ đó ảnh hưởng đến khả năng sản xuất năng lượng.

Biến đổi khí hậu đang tác động mạnh mẽ đến truyền tải và phân phối mạng điện, với các yếu tố như ngập lụt, gió bão, nhiệt độ, độ ẩm và độ mặn Nhiệt độ cao làm giảm hiệu quả truyền tải của đường dây trên mặt đất và có thể gây hư hỏng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là khi các đường dây điện tại TP.HCM chỉ được thiết kế để chịu gió 3m/s Ngập lụt có thể làm hư hại đường dây và trạm biến áp, trong khi độ ẩm tăng cao làm gia tăng nguy cơ ăn mòn các cấu trúc bằng thép Ngoài ra, sự tích tụ muối trong đất và tình trạng khô cứng của đất quanh dây dẫn điện cũng gây ra vấn đề ăn mòn, ảnh hưởng đến khả năng truyền tải điện.

Hiện tại, 4/8 trạm biến áp 220 kV đang nằm trong khu vực ngập lụt nghiêm trọng mà không có kế hoạch kiểm soát lũ, con số này giảm xuống còn hai khi có các dự án kiểm soát lũ tại chỗ Đối với các trạm biến áp 110 kV, 52% trong số đó nằm ở vùng ngập lụt cực đoan mà không có biện pháp kiểm soát, trong khi 46% có các dự án tại chỗ Điều quan trọng là các trạm biến áp cần được thiết kế cách mặt đất vài mét để tránh tiếp xúc trực tiếp với nước lũ.

Dự báo nhiệt độ tại TP Hồ Chí Minh sẽ tăng vào năm 2050, dẫn đến nhu cầu năng lượng gia tăng và hiệu suất sản xuất cũng như truyền tải điện có thể giảm Hệ thống làm mát sẽ trở thành yếu tố quan trọng trong tổng nhu cầu năng lượng của thành phố.

Hồ Chí Minh và các xu hướng tăng nhiệt độ cao hơn

Sự gia tăng cơn lũ đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện vệ sinh trong thành phố, dẫn đến gia tăng các bệnh tật liên quan Biến đổi khí hậu và hiệu ứng đảo nhiệt đô thị có tác động tiêu cực đến sức khỏe cộng đồng, đặc biệt trong các trận lũ khi hệ thống nước thải và bể tự hoại có nguy cơ bị ngập, gây ô nhiễm nguồn nước Người dân tiếp xúc với nước lũ ô nhiễm dễ mắc các bệnh đường ruột như dịch tả và tiêu chảy, trong khi nhiệt độ thay đổi làm tăng nguy cơ tử vong ở người cao tuổi và người bệnh Nhiệt độ cao và ô nhiễm không khí cũng tạo điều kiện cho vi sinh vật gây bệnh phát triển, trong khi các bãi chôn lấp và nước tù đọng có thể lan truyền ô nhiễm ra diện rộng, đe dọa sức khỏe cộng đồng.

Mạng lưới giao thông đường bộ tại TP HCM dự kiến sẽ gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của các cơn lũ cực đoan ngày càng gia tăng Sự gián đoạn và phá hủy từ những hiện tượng thời tiết này có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đến hạ tầng giao thông trong tương lai.

Thành phố Hồ Chí Minh thích ứng với biến đổi khí hậu

Việc thực hiện các kế hoạch kiểm soát lũ sẽ bảo vệ cơ sở hạ tầng y tế và giảm thiểu tác động đến sức khỏe cộng đồng Cải thiện hệ thống thoát nước và cung cấp nước, đặc biệt ở khu vực thu nhập thấp, giúp nâng cao điều kiện vệ sinh và giảm nguy cơ bệnh tật do lũ lụt Nâng cao chất lượng nhà vệ sinh và xử lý chất thải tại hộ gia đình cũng góp phần giảm ô nhiễm nước lũ từ bể tự hoại, từ đó giảm nguy cơ mắc bệnh.

Nâng cấp hạ tầng trong khuôn viên và tái định cư sẽ giúp cải thiện điều kiện môi trường cho các nhóm dễ bị tổn thương, giảm thiểu khả năng bị ảnh hưởng bởi lũ lụt Kiểm soát hiệu quả việc sử dụng đất cho phát triển có thể ngăn chặn việc xây dựng tại các khu vực dễ bị ngập, từ đó giảm tỷ lệ mắc bệnh do lũ lụt Hơn nữa, việc tăng cường tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng góp phần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh trong những thời kỳ lũ lụt, đặc biệt là cho các nhóm dễ bị tổn thương.

Để bảo vệ các nguồn tài nguyên năng lượng và duy trì hiệu quả hoạt động của các cơ sở sản xuất năng lượng, cần áp dụng các biện pháp thích ứng Thủy điện tại lưu vực sông Đồng Nai đóng vai trò quan trọng đối với TPHCM, đòi hỏi các biện pháp ứng phó cả cấu trúc lẫn phi cấu trúc nhằm bảo vệ công suất phát điện.

Các lựa chọn thích ứng có cấu trúc bao gồm chuyển kênh rạch của nhánh sông thượng nguồn, tạo hồ chứa ngược dòng, sửa đổi và nâng cao đập, kênh mương, đường hầm, cùng với điều chỉnh số lượng tua-bin Trong khi đó, các lựa chọn thích ứng phi cấu trúc liên quan đến việc sửa đổi quy tắc, cải thiện hệ thống dự báo thủy văn, và phối hợp giữa các dự án năng lượng và sử dụng nước đầu nguồn Ngoài ra, việc áp dụng các phương pháp và kỹ thuật đánh giá hiệu suất tốt hơn cũng rất quan trọng để xác định phương thức vận hành mới phù hợp với biến đổi khí hậu.

Các cơ sở hạ tầng điện hiện nay cần được nâng cấp để đối phó với các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt và tăng cường độ mặn, nhiệt độ, độ ẩm Việc điều chỉnh và thiết kế lại quy chuẩn cho mạng lưới truyền tải và phân phối điện là cần thiết để tăng khả năng chống chịu với gió mạnh, nhiệt độ cao, lũ lụt và sự ăn mòn Đồng thời, cần trang bị thêm cơ sở hạ tầng ngoài khơi tại những khu vực có nguy cơ cao nhằm đảm bảo an toàn và an ninh cho nguồn cung cấp điện.

Tạo khả năng phục hồi trong lĩnh vực năng lượng yêu cầu thiết lập sự phối hợp rõ ràng và cân bằng trong các quyết định vận hành năng lượng phát điện Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đa dạng trong ngành năng lượng, góp phần nâng cao an ninh và ổn định nguồn cung cấp.

Sau đây là những yếu tố quan trọng của một chiến lược thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực năng lượng:

(i) đánh giá tính khả thi của phân cấp, lựa chọn thay thế năng lượng tái tạo;

(ii) phân cấp quy hoạch năng lượng và thế hệ, qua đó nâng cao năng lượng tự chủ cho địa phương

(iii) lồng ghép kế hoạch trong ngành năng lượng để kết hợp vừa thích ứng vừa làm giảm nhẹ;

(iv) Sử dụng những thay đổi dự báo về nhu cầu năng lượng cho cải thiện quản lý; (v) lồng ghép kế hoạch quản lý với các ngành khác;

(VI) rà soát và khoanh vùng các quy hoạch sử dụng đất cơ sở hạ tầng của ngành năng lượng trong tương lai ít bị tổn thương

2.3.3 Công nghiệp Để thích ứng với BĐKH, các hệ thống công nghiệp nên tập trung vào việc kết hợp các tác động của biến đổi khí hậu vào các quy hoạch phát triển không gian công nghiệpvà phát triển các chính sách hiệu quả để khuyến khích khả năng phục hồi các ngành kinh tế trọng điểm

(i) quy hoạch vị trí dễ bị tổn thương ở bên ngoài các khu công nghiệp;

(ii) sử dụng công cụ kinh tế để thúc đẩy sự phát triển kinh doanh bên ngoài vị trí dễ bị tổn thương

Tăng cường nhận thức về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với năng suất sản xuất trong các ngành công nghiệp cụ thể là rất cần thiết Đồng thời, cần xem xét tác động của ngành công nghiệp đến mức độ dễ tổn thương của cộng đồng địa phương.

(iv) Trang bị thêm cơ sở hạ tầng với chi phí tính toán hiệu quả

2.3.4 Nông nghiệp và hệ sinh thái Để thích ứng với BĐKH, sự tiếp cận mang tính chất phối hợp và toàn diện là cần thiết Nó cần tích hợp xây dựng mới hoặc cải tiến các cơ sở hạ tầng hoặc cải tiến với tăng cường sử dụng biện pháp thích ứng dựa trên các hệ sinh thái tự nhiên đóng vai trò như một bộ đệm chống lại biến đổi khí hậu

Các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng của TP.HCM là:

Hệ thống tự nhiên ở hạ lưu, với hơn 76.000 ha rừng ngập mặn tại Cần Giờ, đóng vai trò quan trọng trong việc chống bão và giảm tác động của gió bão cho TP Hồ Chí Minh Nghiên cứu cho thấy rằng mỗi 100m rừng ngập mặn trưởng thành có khả năng giảm chiều cao và năng lượng sóng lên tới 20% trong cơn bão Tuy nhiên, khu vực này đang chịu áp lực lớn từ việc xâm lấn sử dụng đất, cùng với sự gia tăng độ mặn và nhiệt độ, có thể làm thay đổi sự cân bằng của các loài ngập mặn tại Cần Giờ.

Hệ thống tự nhiên ở thượng nguồn lưu vực sông Đồng Nai đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ lũ, chống bão, điều hòa thủy văn, lưu trữ nước ngọt và nước ngầm, cũng như điều hòa khí hậu Tuy nhiên, các chức năng này đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các hoạt động của con người như thay đổi sử dụng đất, phá rừng, và phát triển đô thị, dẫn đến tăng lũ quét, sạt lở đất và hiệu ứng đảo nhiệt Cần xem xét các phương pháp thích ứng cho từng hệ thống tự nhiên nhằm bảo vệ và phục hồi các chức năng thiết yếu này.

(i) Trồng cây xanh làm vùng đệm dọc theo đêvà bờ sông, đê bao kết hợp kiểm soat lũ;

Quản lý và phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Cần Giờ là một nhiệm vụ quan trọng, bao gồm việc sử dụng các loài hoặc giống cây có khả năng chịu nhiệt độ cao và chịu mặn Việc này không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn tăng cường khả năng thích ứng của rừng ngập mặn trước biến đổi khí hậu.

(iii) Tái trồng rừng trên lưu vực đầu nguồn sông Đồng Nai và thực hiện chiến lược quản lý môi trường dòng chảy trong toàn lưu vực;

(iv) khôi phục vùng đất ngập nước đô thị và cải tạo kênh rạch, quan tâm đến sức khỏe cộng đồng và nhận thức về môi trường;

(v) Tăng cường thực thi các quy định quy hoạch nhằm bảo vệ khả năng phục hồi hệ sinh thái;

Để bảo vệ sinh kế và an ninh lương thực cho nông dân địa phương, cần thực hiện các biện pháp như sử dụng cây trồng chịu hạn và chịu mặn, quản lý mô hình nuôi trồng, đa dạng hóa hoạt động nông nghiệp Bên cạnh đó, việc cung cấp thông tin, đào tạo và khuyến nông cho các hộ nông dân dễ bị tổn thương cũng rất quan trọng.

Cải thiện quản lý thủy lợi và tài nguyên nước là rất quan trọng, bao gồm việc thực hiện các biện pháp bảo tồn và hạn chế sử dụng nước bị ảnh hưởng bởi độ mặn trong tưới tiêu.

TP.HCM đang ưu tiên các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực giao thông vận tải, thông qua việc điều chỉnh và cải tiến các tiêu chuẩn thiết kế cơ sở hạ tầng như đường bộ, cầu, cống và kè, nhằm phù hợp với dự báo lũ và điều kiện khí hậu Đồng thời, thành phố cũng chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng giao thông mới cho hệ thống đường sắt và tàu điện ngầm, bao gồm cả các kết nối liên quan.

Sự phát triển nhanh chóng của TPHCM với GDP trung bình 8% - 9% năm tạo áp lực lớn đối với cải thiện điều kiện sống cho người dân Tăng trưởng này làm gia tăng không gian xanh và phương tiện giao thông cá nhân, dẫn đến tình trạng kẹt xe và ô nhiễm không khí ngày càng nghiêm trọng Nhiều ngành công nghiệp chậm đổi mới công nghệ, quản lý ô nhiễm yếu kém, và nước thải chưa được xử lý đúng cách Việc khai thác nước ngầm không kiểm soát gây ra lún sụt ở nhiều khu vực, trong khi việc xây dựng bến cảng và nạo vét sông trở nên tốn kém hơn Ngập lụt cũng gây khó khăn cho phát triển đô thị vệ tinh mới Nhận thức của người dân về biến đổi khí hậu diễn ra chậm, khiến nguy cơ không được nhìn nhận rõ ràng Để giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu, TPHCM cần thực hiện một số giải pháp chính.

- Giáo dục cộng đồng giảm thiểu phát thải khí nhà kính;

- Đổi mới, hiện đại hóa trạng thiết bị đảm bảo tiêu chuẩn xả khí thải;

- Rà soát lại tiêu chuẩn, tần suất thiết kế các công trình, đảm bảo làm việc an toàn trước tình trạng biến đổi khí hậu;

- Xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa các nhà máy thủy điện và công trình thủy lợi phía thượng nguồn;

- Nhanh chóng thực hiện dự án chống ngập cho thành phố Hồ Chí Minh, do

Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đề xuất;

Nghiên cứu này đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến đa dạng sinh học, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn và ngập nước tại khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, một di sản thế giới Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề xuất các biện pháp bảo tồn và thích ứng hiệu quả nhằm bảo vệ hệ sinh thái này trước những thách thức từ biến đổi khí hậu.

- Cần chuẩn bị nguồn nhân tài vật lực để có đủ khả năng bị đối phó và thích ứng với biển đổi khí hậu trong khu vực

- Thực hiện phong trào phủ xanh đất trống để giảm khí thải

Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, xăng và dầu là cần thiết, vì dầu hiện là nhiên liệu phổ biến và là nguồn nguyên liệu cho nhiều sản phẩm khác Than đá cũng được sử dụng rộng rãi trong sản xuất điện Mặc dù các nhà khoa học khẳng định rằng chưa có giải pháp hoàn hảo nào để thay thế nhiên liệu hóa thạch, nhưng việc giảm thiểu sử dụng chúng là quan trọng để giảm thiểu hiệu ứng nhà kính.

Cải tạo và nâng cấp hạ tầng, tăng cường hệ thống bảo ôn, xây dựng thang điều chỉnh nhiệt và các loại nhà sinh thái sẽ giúp tiết kiệm nhiên liệu và giảm phát thải Đồng thời, cần đầu tư vào các công trình giao thông như cầu đường để giảm tiêu hao nhiên liệu.

- Làm việc gần nhà; Giảm chi tiêu; Ăn uống thông minh, tăng cường rau quả

- Chặn đứng nạn phá rừng sẽ có tác dụng lớn trong việc giảm thiểu nguy cơ BĐKH

Tiết kiệm điện là giải pháp kinh tế hiệu quả giúp giảm ô nhiễm môi trường, đặc biệt qua việc sử dụng các thiết bị tiết kiệm điện như bóng đèn compact và pin nạp.

- Tìm những nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo hay ứng dụng công nghệ mới.

Ngày đăng: 16/10/2021, 23:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Lê Mạnh Hùng, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam. Tác động của biến đổi khí hậu đến thiên tai và giải pháp ứng phó cho khu vực Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác động "của biến đổi khí
4. Nguyễn Kỳ Phùng. Toàn cảnh về tác động của biến đổi khí hậu tại Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Kỳ Phùng
5. Nguyễn Đức Ngữ. Biến đổi khí hậu – thực trạng, thách thức, giải pháp. (Tài liệu phục vụ Nhiệm vụ: “Tổ chức nâng cao nhận thức và cuộc thi tìm hiểu về BĐKH cho trên 7000 đoàn viên thanh niên của Bộ TN-MT”) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến đổi khí hậu – thực trạng, thách thức, giải pháp". (Tài liệu phục vụ Nhiệm vụ: “Tổ chức nâng cao nhận thức và cuộc thi tìm hiểu về BĐKH cho trên 7000 đoàn viên thanh niên của Bộ TN-MT
7. Trần Thục, Lê Nguyên Tường. Khí hậu, biến đổi khí hậu và các biện pháp thích ứng. Viện Khí tượng Thuỷ Văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khí hậu, biến đổi khí hậu và các biện pháp thích ứng
8. United Nations Framework Convention on Climate Change. Climate change: Impacts, vulunerabilities and adaptation in developing countries Sách, tạp chí
Tiêu đề: Climate change
1. Báo cáo đánh giá của Ủy ban Liên quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC) Khác
2. Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu Khác
6. Trần Thục, Lê Nguyên Tường, Nguyễn Văn Thắng, Trần Hồng Thái. Thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững Khác
9. Asian Development Bank , 2010. Ho Chi Minh City Adaptation to Climate Change Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2: So sánh nhiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 (oC) các thập kỷ 1991 - 2000 và 1931 - 1940 - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Bảng 2 So sánh nhiệt độ trung bình tháng 1 và tháng 7 (oC) các thập kỷ 1991 - 2000 và 1931 - 1940 (Trang 11)
Bảng 3: Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và số bão ảnh hưởng đến Việt Nam trong 4 thập kỷ qua (1961 - 2000)  - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Bảng 3 Số cơn bão hoạt động trên Biển Đông và số bão ảnh hưởng đến Việt Nam trong 4 thập kỷ qua (1961 - 2000) (Trang 11)
Bảng 4: Các vụ thiên tai lớn gần đây ở Việt Nam & các tác động - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Bảng 4 Các vụ thiên tai lớn gần đây ở Việt Nam & các tác động (Trang 12)
Bảng 5: Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Bảng 5 Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh (Trang 16)
Hình 1: Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt trái đất và hàm lượng khí thải nhà kính - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 1 Mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt trái đất và hàm lượng khí thải nhà kính (Trang 21)
Hình 2: Nhiệt độ trung bình năm trạm Biên Hòa - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 2 Nhiệt độ trung bình năm trạm Biên Hòa (Trang 22)
Hình 3: Tổng lượng mưa năm trạm Tân Sơn Nhất - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 3 Tổng lượng mưa năm trạm Tân Sơn Nhất (Trang 23)
Hình 4: Tổng lượng mưa 1 ngày max trạm Tân Sơn Nhất - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 4 Tổng lượng mưa 1 ngày max trạm Tân Sơn Nhất (Trang 24)
Hình 5: Các bậc thang thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 5 Các bậc thang thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai-Sài Gòn (Trang 24)
Hình 6: Mực nước lớn nhất năm trạm Vũng Tàu - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 6 Mực nước lớn nhất năm trạm Vũng Tàu (Trang 25)
Hình 7: Dự báo nước biển dâng trạm Vũng Tàu - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 7 Dự báo nước biển dâng trạm Vũng Tàu (Trang 26)
Hình 8: Mực nước lớn nhất năm trạm Phú An - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 8 Mực nước lớn nhất năm trạm Phú An (Trang 26)
Hình 9: Mực nước Vũng Tàu và Phú An trong các kịch bản - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 9 Mực nước Vũng Tàu và Phú An trong các kịch bản (Trang 27)
Hình 10: Vận tốc tại Phú An ứng với các kịch bản - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 10 Vận tốc tại Phú An ứng với các kịch bản (Trang 28)
Hình12: Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 50 cm - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 12 Ranh giới mặn năm 2005 khi mực nước triều dâng cao 50 cm (Trang 29)
Hình 11: Ranh giới mặn hiện trạng năm 2005 - THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở TP HỒ CHÍ MINH
Hình 11 Ranh giới mặn hiện trạng năm 2005 (Trang 29)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w