GIỚI THIỆU
Dự án SNRM được thực hiện từ năm 2015 và sẽ kết thúc vào tháng 7 năm 2020, mục tiêu của
Dự án nhằm nâng cao năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại cấp quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực như rừng, đa dạng sinh học và cộng đồng dân cư, đặc biệt là những người có sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên.
Dự án có bốn (04) hợp phần, bao gồm:
Hợp phần Hỗ trợ chính sách
Hợp phần Quản lý rừng bền vững và REDD+
Hợp phần Đa dạng sinh học
Hợp phần Chia sẻ kinh nghiệm
Hòa Bình là một trong bốn tỉnh mục tiêu của Dự án, cùng với Điện Biên, Lai Châu và Sơn La, nơi thực hiện Hợp phần 2 “Quản lý rừng bền vững và REDD+” Mục tiêu chính của Hợp phần 2 là thúc đẩy quản lý rừng bền vững thông qua việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động cấp tỉnh về REDD+ (PRAP) tại các tỉnh Tây Bắc.
Các hoạt động chính của Hợp phần 2
Thực hiện các hoạt động thí điểm về REDD+
Thiết lập hệ thống theo dõi diễn biến rừng cấp tỉnh
Bài báo cáo này tập trung vào các hoạt động thí điểm về REDD+ tại tỉnh Hòa Bình, nhằm nêu rõ các đối tượng mục tiêu liên quan đến chương trình.
Dự án SNRM tại tỉnh Hòa Bình triển khai các hoạt động thí điểm về REDD+ tại 13/19 xóm của xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, với tổng cộng 1.078 hộ và 4.508 khẩu, trong đó 90,8% là người dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Mường.
Dự án REDD+ đã triển khai tám hoạt động can thiệp chính nhằm đạt được các mục tiêu và kết quả mong đợi Các hoạt động thí điểm này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
Quản lý rừng bền vững;
Năng lượng (Biogas và bếp tiết kiệm củi);
Trồng cỏ làm thức ăn gia súc;
PHƯƠNG PHÁP GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
Vòng giám sát và đánh giá thứ 4 về các hoạt động thí điểm về REDD+ của Dự án SNRM tập trung vào 4 công việc cụ thể sau đây:
Thu thập các dữ liệu định tính và định lượng liên quan đến các hoạt động thí điểm về REDD+ trong 6 tháng gần nhất,
Phân tích hiện trạng các kết quả và vấn đề của các hoạt động thí điểm về REDD+,
Xác định các bài học kinh nghiệm và đưa ra các đề xuất kiến nghị,
Điều chỉnh các hoạt động còn lại của Dự án trong 6 tháng cuối cùng
Kỳ đánh giá và giám sát này đã áp dụng nhiều phương pháp để rà soát và đánh giá các hoạt động thí điểm về REDD+ tại tỉnh Hòa Bình.
Phương pháp đánh giá và giám sát
Rà soát các tài liệu và dữ liệu của Dự án
Thảo luận nhóm với các đối tượng hưởng lợi tại các xóm
Thảo luận nhóm với BQLDA cấp xóm
Thảo luận nhóm với các Tổ TTBVR
Phỏng vấn người quản lý quỹ xóm
Phỏng vấn lãnh đạo các phòng chuyên môn có liên quan của huyện Tân Lạc
Phỏng vấn các trưởng xóm
Phỏng vấn các hộ gia đình
Thăm thực địa Thăm các hoạt động của Dự án trên thực địa (trồng rừng, nuôi ong,…)
Xác minh Thực hiện một khảo sát về sinh trưởng của cây rừng
KẾT QUẢ GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ
Trồng rừng
Tại xã Thanh Hối, kết quả kiểm kê năm 2015 cho thấy diện tích rừng đạt khoảng 1.872,39 ha, chiếm một phần trong tổng số 2.656,11 ha đất tự nhiên của xã.
(chiểm 70.49 %) 1 Trong đó, diện tích rừng tự nhiên là
Diện tích rừng và đất để trồng rừng tại xã Thanh khá lớn, đạt khoảng 1.399,81 ha, chiếm 74,76% tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn xã Trong đó, rừng trồng có trữ lượng là 141,83 ha, rừng trồng chưa có trữ lượng (mới trồng) là 532,51 ha, và các loại đất khác là 731,17 ha, bao gồm 5,7 ha diện tích mặt nước và 104,04 ha đất phi lâm nghiệp Rừng và đất rừng đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của người dân trong xã.
Hối về mọi mặt, kinh tế, xã hội và môi trường
Mỗi năm, xã Thanh Hối trồng khoảng 100h rừng sản xuất và rừng phòng hộ, chủ yếu là cây keo, chiếm gần 100% diện tích Mặc dù một số diện tích được trồng hỗn loài với cây bản địa, nhưng sau khi thu hoạch keo, các loài cây bản địa không còn tồn tại Đầu tư cho trồng rừng còn hạn chế, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc mua cây giống mà không có phân bón, dẫn đến chất lượng gỗ thấp và phát triển ngành lâm nghiệp không bền vững Diện tích rừng tại xã đã giảm do hiệu quả kinh tế thấp và áp lực từ nhu cầu canh tác nông nghiệp, gây tác động tiêu cực đến môi trường và phát triển kinh tế bền vững Do đó, cần thiết phải hỗ trợ người dân trong việc phát triển trồng và kinh doanh rừng một cách bền vững.
Dự án SNRM không chỉ hỗ trợ bảo vệ rừng mà còn thúc đẩy trồng rừng bền vững tại xã Thanh Hối, nơi người dân đã quen với việc trồng keo thuần loài trong chu kỳ ngắn 5-6 năm Tuy nhiên, điều này đang ảnh hưởng đến chiến lược phát triển rừng bền vững mà Bộ NN&PTNT đang triển khai Để phát triển lâm nghiệp đa mục đích, Dự án SNRM áp dụng phương pháp mới, khuyến khích người dân trồng rừng đa loài Các hộ tham gia dự án phải đảm bảo trồng 20-30% cây bản địa lâu năm trong rừng sản xuất và 50% trong rừng phòng hộ, nhằm bảo vệ môi trường và mang lại giá trị kinh tế bền vững.
1 Kết quả kiểm kê 3 loại rừng tại xã Thanh Hối.
2 Báo cáo kinh tế, xã hội xã Thanh Hối giai đoan 2011-2016. Ảnh 1: Các tư vấn đanh giám sát về trồng rừng tại xóm Bào, xã Thanh Hối
Tỉ lệ sống của cây trồng rừng rất khác nhau giữa cây keo và các loài cây bản địa, với cây keo đạt tỉ lệ sống trên 85%, trong khi các loài bản địa chỉ khoảng 65% Cụ thể, cây xoan và giổi có tỉ lệ sống cao hơn, đạt khoảng 80%, trong khi các loài như trám trắng, trám đen và sấu chỉ có tỉ lệ sống từ 40-50% Những khác biệt này có thể được giải thích bởi một số nguyên nhân nhất định.
Cây keo là loài cây dễ trồng, không yêu cầu điều kiện đất đai và khí hậu đặc biệt, trong khi các loài cây bản địa lại cần nhiều sự chăm sóc hơn và có yêu cầu riêng về độ ẩm và ánh sáng Tuy nhiên, người dân thường không chú trọng đến việc chăm sóc các loài cây bản địa, do thời gian thu hoạch lâu, có thể kéo dài từ 10 đến 20 năm sau khi trồng.
Nhiều hộ dân không tuân thủ quy trình kỹ thuật trồng rừng đã được tập huấn, dẫn đến việc không thực hiện trồng rừng vào những thời điểm thời tiết thuận lợi như mưa hoặc mát Dự án khuyến cáo rằng việc trồng rừng nên được thực hiện trong các điều kiện thời tiết này để đảm bảo hiệu quả cao nhất.
Diện tích đất trồng rừng tại xã Thanh Hối rất nhỏ, trung bình chỉ khoảng 0,5-0,7 ha/hộ Mỗi hộ được khuyến khích trồng 20-30% cây bản địa để nhận hỗ trợ từ Dự án, nhưng điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ mất 20-30% thu nhập từ việc thu hoạch keo Số lượng cây bản địa được trồng trên mỗi lô chỉ khoảng 400 cây, dẫn đến sự thiếu quan tâm trong việc chăm sóc các cây này.
Tỉ lệ sống của cây trồng rừng tại các xóm khảo sát có sự khác biệt rõ rệt, với mức thấp hơn 85% ở xóm Đông 2, Bào 2 và Tam 3, chiếm chỉ 16,69% diện tích trồng rừng năm 2017 Điều này phản ánh thực trạng điều kiện tự nhiên của đất trồng rừng: xóm Đông 2 có đất đai kém, tầng đất mỏng và nhiều đá, cùng với lượng mưa ít; xóm Bào 2 cũng gặp tình trạng tương tự với 2,8 ha đất xấu tại Đồi Na; và xóm Tam 3 có điều kiện đất đai rất xấu Những yếu tố này dẫn đến sự khác biệt trong tỉ lệ sống và sinh trưởng của cây rừng giữa các hộ gia đình.
Diện tích đất trống để trồng rừng của từng hộ gia đình thường rất phân tán và thường nằm ở những khu vực khó khăn, đặc biệt là đất thuộc rừng phòng hộ Những yếu tố này đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình trồng và chăm sóc rừng của các hộ.
Cây keo giống do Dự án cung cấp đã nâng cao nhận thức của các hộ gia đình về tầm quan trọng của chất lượng cây giống trong trồng rừng Hầu hết các hộ phỏng vấn nhận định rằng rừng keo trồng từ cây giống của Dự án phát triển nhanh hơn so với những cây keo tự trồng trước đây Quan sát thực tế cho thấy, việc trồng keo từ cây giống chất lượng thấp dẫn đến chất lượng gỗ thu hoạch kém do sự sinh trưởng không đồng đều và kém hiệu quả của cây.
Bảng 1: Tổng hợp số liệu trồng rừng của Dự án tại xã Thanh Hối
STT Nội dung ĐVT Số lượng
1 Thống kê diện tích theo cơ cấu loài cây trồng rừng ha 113,40 33,01 146,41
1.1 Diện tích rừng trồng 100% cây bản địa ha 18,89 2,72 22,61
1.2 Diện tích rừng trồng hỗn giao cây bản địa và cây keo ha 94,51 29,29 123,8
2 Thống kê diện tích trồng rừng theo loại rừng ha 113,4 33,01 146,41
3 Số hộ tham gia trồng rừng hộ 148 41 189
4 Thống kê số lô trồng rừng theo diện tích lô lô 241 45 286
4.1 Số lô trồng rừng có DT lô < 0,5 ha/lô (không thiết kế) lô 157 29 186
4.2 Số lô trồng rừng có DT lô >= 0,5 ha/lô
Nguồn: Dự án SNRM tại tỉnh Hòa Bình, 2020
Trồng rừng bằng các loài cây bản địa chịu ảnh hưởng lớn từ điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội, nên việc thay đổi không thể diễn ra nhanh chóng Do đó, cần áp dụng nhiều giải pháp để thay đổi nhận thức và hành động của người dân trong việc trồng rừng Đánh giá cho thấy nhiều cộng đồng, như xóm Bào 1, xóm Tam 4, xóm Sung 2 và xóm Nhót ở xã Thanh Hối, đã thực hiện trồng rừng rất hiệu quả.
Nó chứng tỏ rằng trồng rừng bằng các loài cây bản địa tại xã Thanh Hối không dễ nhưng hoàn toàn khả thi
Diện tích đất trồng rừng của các hộ dân xã Thanh Hối rất nhỏ, dưới 2,0 ha/hộ, và người dân đã quen với việc trồng rừng thuần loài bằng cây keo với chu kỳ thu hoạch ngắn từ 4-5 năm để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất dăm gỗ Việc chuyển đổi sang trồng rừng hỗn giao giữa keo và các loài cây bản địa là một thách thức Mặc dù trồng rừng thuần loài bằng cây keo mang lại thu nhập nhanh chóng và không quá phức tạp về kỹ thuật, nhưng trồng rừng hỗn loài sẽ tạo ra thu nhập ngắn hạn và lợi ích lâu dài từ các cây bản địa như giổi, trám trắng và trám đen, cung cấp quả và gỗ trong tương lai.
Trước khi mở rộng trồng rừng bằng cây bản địa tại xã Thanh Hối, cần triển khai các mô hình thí điểm để đánh giá sự phù hợp của cây với điều kiện đất đai và sự chấp nhận của cộng đồng Dự án đã chọn những hộ dân có điều kiện thích hợp để thực hiện thử nghiệm và cung cấp hỗ trợ cần thiết Dự án SNRM đã thành công trong việc xây dựng mô hình thử nghiệm trồng giổi xen kẽ với cây keo tại xã Thanh Hối.
Để đảm bảo hoạt động trồng rừng của Dự án hỗ trợ diễn ra đúng yêu cầu kỹ thuật và kế hoạch đã đề ra, cần thường xuyên kiểm tra và đôn đốc việc chăm sóc rừng của các hộ gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc các loài cây bản địa đã được trồng.
Quản lý rừng bền vững
Theo kết quả kiểm kê rừng năm 2015, xã Thanh Hối có hơn 1.872,39 ha đất rừng trong tổng số 2.656,11 ha diện tích đất tự nhiên của toàn xã (chiếm
Rừng và đất rừng tại xã Thanh Hối đóng vai trò quan trọng về kinh tế, xã hội và môi trường, nhưng hiện đang giảm dần, đặc biệt là diện tích rừng phòng hộ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và phát triển bền vững Nguyên nhân chính của tình trạng này là sự thiếu hụt các tổ TTBVR hiệu quả, trong khi công tác bảo vệ rừng chủ yếu phụ thuộc vào các chủ rừng và chính quyền địa phương mà không có kinh phí hỗ trợ Quản lý rừng cộng đồng gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng khai thác trái phép Để cải thiện tình hình, dự án đã triển khai các hoạt động can thiệp cộng đồng nhằm thúc đẩy bảo vệ rừng, thiết lập tổ TTBVR, xây dựng hương ước và nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ rừng Dự án đã cùng với UBND xã Thanh Hối và cộng đồng thảo luận để đạt được đồng thuận trong việc nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng.
Tại xã Thanh Hối, diện tích và chất lượng rừng suy giảm do một số nguyên nhân chính: thu nhập từ sản xuất lâm nghiệp thấp, chỉ đạt khoảng 5 triệu đồng/ha/năm; thiếu đất cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và các ngành nghề khác; nhu cầu cao về gỗ, củi, tre nứa và lâm sản ngoài gỗ; và nguồn tài chính hạn chế cho quản lý bảo vệ rừng do xã không được chi trả phí dịch vụ môi trường rừng (PFES) Những yếu tố này đã dẫn đến tình trạng đáng lo ngại trong nhiều năm qua.
3 Kết quả kiểm kê 3 loại rừng tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
Trong báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của xã Thanh Hối trong 9 tháng đầu năm 2017, cho thấy rằng Tổ TTBVR đang tiến hành tuần tra rừng tại xóm Sung 1 Tuy nhiên, địa phương hiện không có nguồn ngân sách để chi trả cho hoạt động khoán quản lý và bảo vệ rừng, đồng thời các thiết chế phục vụ cho quản lý và bảo vệ rừng còn hạn chế.
Dự án đã thiết lập bốn tổ TTBVR tại tám xóm với 17 thành viên, chịu trách nhiệm bảo vệ 760,9 ha rừng tự nhiên được giao cho các xóm quản lý, bao gồm 500 ha rừng phòng hộ và 260,9 ha rừng sản xuất Qua hoạt động tuần tra, các tổ đã phát hiện và xử lý 10 vụ vi phạm bảo vệ rừng Hương ước Bảo vệ và Phát triển rừng đã được xây dựng và áp dụng tại 13 xóm mục tiêu Nhiều hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng đã được thực hiện, như sản xuất poster, xây dựng pa-nô, biển báo và tổ chức sự kiện truyền thông cho người dân và học sinh Tất cả hoạt động đều được thực hiện theo phương pháp tiếp cận cộng đồng, vì cộng đồng và do cộng đồng.
Dự án thiết lập cơ chế quản lý rừng bền vững tại xã Thanh Hối với sự tham gia của Hạt Kiểm lâm huyện Tân Lạc và UBND xã Thanh Hối, nhằm đảm bảo rằng các xóm, cộng đồng và người dân hiểu rõ những điểm mấu chốt trong quá trình này Mặc dù phương pháp tiếp cận này tốn thời gian, nhưng nó là cần thiết để đạt được sự đồng thuận và hợp tác từ các bên liên quan.
Phương pháp quản lý rừng cộng đồng;
Cơ cấu sở hữu rừng cộng đồng;
Quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong sử dụng và bảo vệ rừng;
Nhu cầu bảo vệ rừng;
Cơ cấu tổ chức cấp xóm để quản lý rừng cộng đồng;
Xây dựng và đồng thuận về các quy định bảo vệ rừng;
Ký cam kết tuân thủ các quy định về bảo vệ rừng với các hộ gia đình
Phương pháp tiếp cận này yêu cầu thời gian để cộng đồng hiểu và chấp nhận, điều mà dự án đã thực hiện thông qua các hoạt động can thiệp hợp lý Việc thúc ép và nóng vội trong quá trình thực hiện sẽ làm giảm cam kết của cộng đồng đối với việc quản lý rừng, dẫn đến sự thất bại trong công tác quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam Để nâng cao quyền chủ động của cộng đồng trong việc giải quyết vấn đề, dự án đã xây dựng các Hương ước Bảo vệ và Phát triển rừng tại mỗi xóm mục tiêu Mục tiêu của các Hương ước này là huy động sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ và phát triển rừng dựa trên nguyên tắc và luật lệ mà họ đã đồng thuận Các Hương ước được xây dựng theo nguyên tắc cộng đồng, với sự hỗ trợ từ dự án, tạo ra sản phẩm do chính cộng đồng phát triển, từ đó cải thiện sự chấp hành một cách chủ động và tự nguyện.
Người dân tại các xóm mục tiêu của Dự án đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng, dẫn đến việc giảm thiểu các vụ phá rừng Họ cũng đã giảm khai thác sản phẩm từ rừng và sẵn sàng trồng thêm cây quanh các khu vực rừng được bảo vệ nhằm làm giàu thêm cho rừng Việc trao quyền cho cộng đồng đã nâng cao vai trò của họ trong việc giám sát và quản lý việc sử dụng, khai thác rừng.
Thông qua việc áp dụng Hương ước Bảo vệ và Phát triển rừng tại tất cả 13 xóm mục tiêu của
Các trường hợp vi phạm công tác bảo vệ rừng sẽ được xử lý theo quy định của Hương ước và pháp luật về bảo vệ rừng Nhờ đó, số vụ vi phạm đã giảm dần qua từng năm Đặc biệt, trong năm 2018 và 2019, các tổ TTBVR không ghi nhận bất kỳ trường hợp vi phạm nào tại các xóm mục tiêu.
Các thành viên của các tổ TTBVR hoạt động tự nguyện vì cộng đồng mà không nhận được hỗ trợ tài chính từ chính quyền địa phương, điều này tạo ra thách thức lớn cho sự bền vững của họ Mặc dù vào năm 2018, đã có nỗ lực để chính quyền phân bổ ngân sách cho các tổ TTBVR tại xã Thanh Hối, nhưng nguồn tài chính này không ổn định do ngân sách hạn chế Trong những năm gần đây, các tổ TTBVR không được chi trả cho công tác bảo vệ rừng Để khuyến khích hoạt động của họ, các BQLDA xóm đã sử dụng ngân sách từ quỹ xóm để hỗ trợ 100.000 đồng/người/tháng cho các thành viên, mặc dù số tiền này không cao nhưng thể hiện sự ghi nhận đối với những đóng góp của họ trong công tác bảo vệ rừng.
Sự tham gia tích cực của người dân và cộng đồng là yếu tố then chốt trong Dự án bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng tại xã Thanh Hối Qua việc chủ động tham gia vào các hoạt động, người dân không chỉ giải quyết hiệu quả các vấn đề mà họ đối mặt, mà còn khai thác và phát huy các khía cạnh tích cực của luật lệ thôn bản thông qua việc xây dựng Hương ước Bảo vệ và Phát triển rừng.
Tại xã Thanh Hối, sự phối hợp giữa các bên liên quan trong công tác bảo vệ rừng vẫn còn hạn chế, đặc biệt là giữa cán bộ kiểm lâm địa bàn và các tổ TTBVR Cán bộ kiểm lâm chưa cung cấp đủ hỗ trợ cho các tổ này, dẫn đến hiệu quả bảo vệ rừng chưa cao Để cải thiện tình hình, cần tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ giữa các bên.
Dự án đã khuyến khích tổ chức các cuộc họp giao ban hàng quý giữa cán bộ kiểm lâm và các tổ TTBVR, tuy nhiên, tình hình bảo vệ rừng vẫn chưa có nhiều cải thiện.
Bảng 2: Tổng hợp các chỉ số giám sát bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng tại xã Thanh Hối
TT Chỉ số Đơn vị Số lượng
1 Diện tích rừng được bảo vệ bởi các tổ TTBVR ha 760,9
2 Số tuyến tuần tra rừng tuyến 12
3 Số trường hợp nghi ngờ vi phạm được kiểm tra trường hợp 12
4 Số vụ vi phạm được phát hiện và xử lý trường hợp 10
5 Diện tích rừng bị vi phạm được phát hiện ha 5,9
6 Số người vi phạm người 6
7 Số người vi phạm là người ngoài xã người 2
8 Số vụ vi phạm xâm lấn đất rừng do thiếu đất canh tác trường hợp 6
9 Số vụ vi phạm xâm lấn đất rừng do không có ranh giới rõ ràng trường hợp 2
10 Số vụ vi phạm được thông báo đã xử lý trường hợp 10
11 Đánh giá công tác bảo vệ rừng sau khi các tổ TTBVR được thành lập
Tất cả các bên liên quan đều nhất trí rằng lợi ích chính từ quá trình này không chỉ nằm ở cơ chế quản lý rừng cuối cùng, mà còn ở cách tiếp cận khuyến khích sự tham gia và đồng thuận của tất cả các bên nhằm nâng cao chất lượng quản lý rừng.
Sự tham gia của chính quyền địa phương, đặc biệt là UBND xã Thanh Hối và Hạt Kiểm lâm huyện Tân Lạc, đóng vai trò then chốt trong công tác bảo vệ rừng tại xã Thanh Hối UBND xã đã kịp thời cung cấp hướng dẫn và chỉ đạo cho các tổ TTBVR và trưởng xóm nhằm phát hiện và xử lý vi phạm Hương ước Bảo và Phát triển rừng Hạt Kiểm lâm huyện Tân Lạc hỗ trợ kỹ thuật cho UBND xã trong việc quản lý và xác minh các trường hợp nghi ngờ vi phạm, đồng thời tư vấn giải pháp xử lý Sự hợp tác giữa Hạt Kiểm lâm và UBND xã được cải thiện qua các cuộc họp giao ban hàng quý về công tác tuần tra bảo vệ rừng.
Phát huy tinh thần dân chủ và tự lực của người dân đã tạo sự đồng thuận trong cộng đồng về bảo vệ rừng Những người vi phạm Hương ước không chỉ thể hiện ý thức kém mà còn phải chịu áp lực từ cộng đồng, điều này thúc đẩy họ tuân thủ các quy định của chính quyền địa phương.
Tiết kiệm năng lượng (Biogas và Bếp cải tiến)
Tại xã Thanh Hối, người dân chủ yếu sử dụng củi để nấu ăn hàng ngày, bên cạnh việc dùng bếp ga Họ thu thập củi từ rừng tự nhiên, cây tỉa thưa trong rừng trồng, và các phế phẩm từ cây keo như vỏ, cành nhánh, và ngọn cây Việc giảm lượng củi đun không chỉ giúp tiết kiệm thời gian thu gom cho các hộ gia đình mà còn giảm thiểu việc khai thác củi từ rừng tự nhiên, góp phần vào công tác bảo vệ và phát triển rừng của địa phương.
Chăn nuôi là một thế mạnh của người dân địa phương, không chỉ tạo thu nhập mà còn cung cấp phân bón cho nông nghiệp và nguyên liệu sản xuất khí ga sinh học (biogas) Từ năm 2013 đến 2016, số lượng lợn chăn nuôi tại xã Thanh Hối đã tăng nhanh, từ 2.560 con lên 4.112 con, với mức tăng trung bình 52,1% Tuy nhiên, người dân nơi đây chưa có thói quen trộn rơm rạ vào phân lợn để sản xuất phân hữu cơ, dẫn đến ô nhiễm môi trường do xả thải trực tiếp Việc sản xuất biogas không chỉ giảm lượng củi đun mà còn bảo vệ môi trường, đồng thời chất thải từ biogas được sử dụng như phân bón an toàn cho cây trồng.
Dự án SNRM đã hỗ trợ các hộ gia đình bằng cách cung cấp bếp cải tiến và hệ thống biogas, nhằm giảm lượng củi đun và khai thác rừng Điều này không chỉ góp phần bảo vệ và phát triển rừng địa phương mà còn giảm bớt công lao động thu gom củi, giúp các hộ gia đình có thêm thời gian và nguồn lực để phát triển kinh tế.
Tại xã Thanh Hối, Dự án đã hỗ trợ 20 hộ gia đình lắp đặt hệ thống biogas và cung cấp 2,189 bếp cải tiến tiết kiệm củi cho 1,053 hộ, chiếm 97,7% tổng số hộ tại 13 xóm mục tiêu Mỗi hộ gia đình được cung cấp ít nhất hai bếp cải tiến, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường.
Dự án đã mang lại lợi ích cho các hộ gia đình, với 100% hộ được cung cấp bếp cải tiến sử dụng bếp để nấu ăn hàng ngày Ngoài ra, bếp còn được dùng cho các mục đích khác như nấu thức ăn cho chăn nuôi và nấu rượu.
Tại xã Thanh Hối, nhiều hộ gia đình vẫn phụ thuộc vào củi để nấu ăn và phục vụ nhu cầu chăn nuôi, dẫn đến áp lực lên công tác bảo vệ rừng Mặc dù bếp tiết kiệm củi không thể thay đổi thói quen sử dụng củi, nhưng nó giúp giảm nhu cầu tiêu thụ củi của các hộ Hơn nữa, bếp tiết kiệm củi cũng phù hợp với Chương trình phát triển năng lượng tỉnh Hòa Bình.
Bếp tiết kiệm củi đã mang lại lợi ích lớn cho các hộ gia đình, giúp giảm đáng kể lượng củi tiêu thụ so với bếp đun truyền thống Theo một khảo sát, việc sử dụng bếp tiết kiệm củi không chỉ tiết kiệm nguyên liệu mà còn cải thiện hiệu quả đun nấu, góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Dự án SNRM giới thiệu bếp tiết kiệm củi, giúp tiết kiệm từ 40-60% lượng củi so với bếp truyền thống Bếp này không chỉ dễ sử dụng và di chuyển mà còn ít khói, cho phép nấu 2 nồi cùng lúc Đặc biệt, bếp tiết kiệm củi còn có thể sử dụng các sản phẩm nông nghiệp như thân cây ngô và cây sắn, góp phần giảm thiểu khai thác củi từ rừng.
Bếp tiết kiệm hoạt động hiệu quả hơn so với bếp truyền thống, giúp rút ngắn thời gian nấu nướng và tiết kiệm thời gian cho người sử dụng Ngoài ra, bếp cải tiến còn thải ra ít khói hơn, mang lại môi trường sống trong lành hơn.
Một số hộ gia đình chưa tuân thủ đúng quy trình bảo trì bếp cải tiến theo hướng dẫn của nhà cung cấp, dẫn đến tình trạng nứt nẻ nhỏ trên một số bếp sau thời gian sử dụng Tuy nhiên, nhờ vào sự giám sát và thúc đẩy thường xuyên từ Dự án, người dân đã dần cải thiện việc sử dụng và bảo trì bếp đúng kỹ thuật theo yêu cầu của nhà cung cấp.
Theo khảo sát của Dự án, các hộ được hỗ trợ bếp biogas nuôi trung bình khoảng 12 con lợn mỗi hộ, với thể tích bể biogas lắp đặt trung bình khoảng 16,6m3 Tổng chi phí lắp đặt hệ thống biogas khoảng 19 triệu đồng Kết quả khảo sát cho thấy, bếp biogas giúp giảm tới 90% lượng củi đun nấu hàng ngày của các hộ, không bao gồm nấu rượu và thức ăn cho chăn nuôi.
Bếp biogas chủ yếu phục vụ cho việc nấu nướng hàng ngày của các hộ gia đình, nhưng không giảm lượng củi sử dụng cho các mục đích khác như nấu rượu hay thức ăn cho chăn nuôi Tuy nhiên, nhờ vào việc sử dụng bếp tiết kiệm củi do Dự án cung cấp, lượng củi dùng cho nấu rượu và thức ăn cho chăn nuôi đã giảm đáng kể.
Bếp biogas đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nhu cầu sử dụng củi đun và giảm lượng khí thải từ chất thải chăn nuôi Các hộ gia đình được hỗ trợ lắp đặt bếp biogas cho biết rằng loại bếp này giúp tiết kiệm thời gian nấu nướng nhờ vào khả năng đun nấu nhanh chóng và sự tiện lợi trong quá trình sử dụng.
Để đảm bảo hỗ trợ của Dự án phù hợp với nhu cầu và mong muốn của người dân, Dự án đã giới thiệu 5 loại bếp cải tiến có trên thị trường Người dân đã dựa vào các loại bếp này để lựa chọn sản phẩm phù hợp nhất với nhu cầu sử dụng của họ Phương pháp tiếp cận này rất quan trọng nhằm đảm bảo rằng hỗ trợ của Dự án đáp ứng đúng và phù hợp với mong muốn của cộng đồng.
Biogas là nguồn năng lượng tái tạo hiệu quả, giúp giảm áp lực khai thác củi từ rừng Tuy nhiên, việc đầu tư vào biogas thường đòi hỏi chi phí ban đầu cao và cần một lượng chất thải từ chăn nuôi lớn, khiến nó phù hợp hơn với các hộ gia đình có điều kiện kinh tế khá Theo khảo sát, những hộ chăn nuôi có quy mô nhỏ, dưới 5 con, thường gặp khó khăn trong việc áp dụng công nghệ này.
6 con lợn/hộ là không phù hợp để làm biogas
Nuôi ong
Thanh Hối có tổng diện tích đất lâm nghiệp lên tới 1.872,39 ha, chiếm 70,5% diện tích tự nhiên của xã Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 493,88 ha, cung cấp nguồn thức ăn và ong giống qua việc thuần hóa ong tự nhiên Diện tích rừng trồng đạt 674,34 ha, chủ yếu là rừng trồng keo, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp mật và phấn cho nghề nuôi ong Keo tai tượng là loài cây lâm nghiệp phổ biến tại Thanh Hối, là nguồn thức ăn thiết yếu cho hoạt động nuôi ong.
Nuôi ong tại xã Thanh Hối không chỉ mang lại thu nhập cho người dân mà còn góp phần bảo vệ và phát triển rừng Hoạt động này đã được thực hiện lâu dài, đem lại nguồn thu nhập ổn định với mức đầu tư thấp và sản phẩm dễ tiêu thụ Tuy nhiên, việc nuôi ong chủ yếu diễn ra tự phát, dựa vào kinh nghiệm của người dân, dẫn đến khó khăn trong phòng trừ dịch bệnh và mở rộng quy mô Sự hỗ trợ từ Dự án SNRM sẽ giúp phát triển nghề nuôi ong một cách chuyên nghiệp và bền vững, thông qua việc nâng cao năng lực, cung cấp giống ong, vật tư và tổ chức sản xuất cho người nuôi ong địa phương.
Nghề nuôi ong tại xã Thanh Hối chủ yếu tập trung vào việc nuôi ong nội, nhờ vào khả năng thích nghi tốt với điều kiện tự nhiên địa phương Ong thường được đặt xung quanh vườn nhà và khu vực giáp ranh với rừng phòng hộ, tạo ra môi trường lý tưởng cho sự phát triển và sản xuất mật ong.
Số lượng đàn ong tối ưu cho mỗi hộ gia đình là khoảng 7 đàn, với giới hạn tối đa là 20 đàn do khoảng cách đến nguồn mật và phấn cũng như diện tích vườn không đủ lớn Tại các khu vực gần rừng phòng hộ, số lượng đàn ong có thể đạt mức trung bình cao hơn.
16 đàn/hộ, đặc biệt một số hộ có số lượng đàn ong lớn từ 30 – 50 đàn ong/hộ
Nuôi ong tại Thanh Hối chủ yếu dựa vào kinh nghiệm địa phương, dẫn đến quản lý đàn ong còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong mùa cao điểm Việc tạo chúa và phòng bệnh cho ong chưa được chú trọng, khiến số lượng đàn ong phụ thuộc vào việc chuyển đàn từ hốc đá trong rừng và chia đàn tự nhiên Mặc dù một số hộ đã áp dụng nuôi ong trong thùng cải tiến, nhưng kích thước thùng thường không chuẩn, thiếu cửa sổ hoặc bị cong vênh, gây khó khăn trong việc kiểm tra và khai thác mật Các hộ nuôi ong theo hướng tự nhiên không đầu tư vào vật tư cần thiết như tầng chân, phấn hoa hay bình hun khói, và việc cho ong ăn bổ sung trong mùa nóng hoặc mùa đông cũng không được thực hiện, dẫn đến tình trạng ong bốc bay vào mùa hè.
Mật ong tại Thanh Hối đã có mặt trên thị trường từ lâu, nhưng cần cải thiện kỹ thuật thu hoạch để nâng cao chất lượng, bao gồm việc thu hoạch đúng thời điểm và kỹ thuật lọc mật Mặc dù mật ong Thanh Hối dễ tiêu thụ, nhưng sản phẩm chủ yếu được đóng trong chai thủy tinh với nút tự chế, gây khó khăn trong việc vận chuyển và có thể làm giảm chất lượng nếu để lâu Hơn nữa, bao bì và mẫu mã của sản phẩm chưa được đầu tư đúng mức, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh trên thị trường.
Dự án hỗ trợ nuôi ong tại Thanh Hối đã nâng cao kiến thức cho người dân, phát triển đàn ong và tăng thu nhập hộ gia đình, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ rừng Hiện tại, có 87 hộ tham gia nuôi ong với sự hỗ trợ của Dự án SNRM, được tổ chức thành ba Nhóm sở thích nuôi ong, tổng số đàn ong khoảng 700-800 đàn.
Các nhóm sở thích nuôi ong được thành lập nhằm tạo ra diễn đàn chia sẻ kỹ thuật giữa các hộ nuôi ong lớn và nhỏ, cũng như giữa những người có kinh nghiệm và những người mới tham gia Điều này không chỉ giúp nâng cao kỹ năng nuôi ong mà còn góp phần giám sát và phát triển hoạt động nuôi ong một cách bền vững.
Theo giám sát của Dự án, tại xã Thanh Hối, mỗi thùng ong có thể thu hoạch 1 lít mật ong trong 2 tuần vào mùa thu hoạch chính, tức là mùa Xuân và mùa Thu Trong hai vụ thu hoạch chính hàng năm, mỗi đàn ong cho khoảng 12 lít mật, với giá bán 180.000 đồng/lít, mang lại thu nhập khoảng 2.160.000 đồng cho mỗi thùng ong mỗi năm.
Nhiều hộ nuôi ong trong khu vực khảo sát rất phấn khởi với nguồn thu từ nuôi ong và mong muốn mở rộng số lượng đàn để tăng thu nhập Tuy nhiên, họ cũng nhận thức rõ những hạn chế hiện tại, như việc nguồn cung cấp thức ăn cho ong không đủ Một trưởng nhóm nuôi ong cho biết, khu vực của nhóm chỉ có thể duy trì 300 thùng ong, trong khi số đàn ong có thể nuôi ở các xóm lân cận ước tính chỉ khoảng 200 đàn do nguồn hoa hạn chế và khó tiếp cận.
Nhiều hộ nuôi ong đã tăng thu nhập nhờ hỗ trợ ban đầu từ Dự án qua các nhóm sở thích nuôi ong Họ sử dụng lợi nhuận từ việc bán mật ong để mở rộng quy mô nuôi ong và đầu tư vào trang thiết bị gia đình cũng như sản xuất nông nghiệp, từ đó tạo thêm nguồn thu nhập ổn định.
Các hộ nuôi ong tại xã Thanh Hối đang gặp khó khăn trong việc kiểm soát chất lượng mật ong do lượng thủy phần thường vượt quá 24%, đặc biệt vào mùa hè khi độ ẩm không khí cao (60-80%) Để tránh hiện tượng lên men và mật bị chua, lượng thủy phần cần duy trì dưới 20-21% Dự án SNRM đã hỗ trợ một nhóm nuôi ong trang bị máy hạ thủy phần để điều chỉnh hàm lượng nước trong mật đạt tiêu chuẩn Tuy nhiên, chi phí mua máy lên tới 20.000.000 đồng/máy khiến các hộ nuôi ong gặp khó khăn trong việc đầu tư.
Bảng 3: Tổng hợp số liệ về hoạt động nuôi ong tại xã Thanh Hối
Số hộ nuôi ong Số đàn ong
Lượng mật thu hoạch (lít)
Nuôi ong không phải là hoạt động phù hợp cho mọi hộ gia đình, vì yêu cầu đầu tư tài chính, không gian để đặt thùng ong và nguồn lao động để chăm sóc và thu hoạch mật Ngoài ra, việc nuôi ong còn tiềm ẩn rủi ro và đòi hỏi kỹ thuật cùng kỹ năng chuyên môn cần thiết.
Việc thành lập các nhóm sở thích nuôi ong mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển nghề nuôi ong, giúp các thành viên dễ dàng mua sắm vật tư và tạo điều kiện cho việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cùng thông tin thị trường Những nhóm này không chỉ xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua việc tiếp cận các khoản tín dụng từ quỹ xóm, hỗ trợ cho hoạt động nuôi ong và các hoạt động phát triển sinh kế khác của hộ gia đình.
Tiếp cận thị trường cho sản phẩm mật ong gặp khó khăn do người nuôi ong thiếu kỹ năng và phương pháp kết nối thị trường Họ có khả năng sản xuất mật ong nhưng lại gặp trở ngại trong việc tiêu thụ sản phẩm Để giải quyết vấn đề này, Phòng NN&PTNT huyện Tân Lạc cần hợp tác với UBND xã Thanh Hối nhằm cải thiện kỹ năng tiếp cận thị trường cho người nuôi ong và quảng bá sản phẩm mật ong của xã tới các thị trường tiềm năng thông qua các sự kiện xúc tiến thương mại của huyện và tỉnh.
Trồng rau
Ngành trồng trọt tại xã Thanh Hối chủ yếu tập trung vào các cây trồng chủ lực như lúa, bưởi, mía và rau Lúa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, trong khi mía mang lại thu nhập đáng kể hàng năm cho người dân Thời gian từ trồng đến thu hoạch mía khoảng một năm, yêu cầu đầu tư lớn về phân bón và công chăm sóc, với giá bán phụ thuộc vào thương lái Bưởi cũng là cây trồng có thu nhập cao, nhưng thời gian từ trồng đến thu hoạch lần đầu lên tới bốn năm, cùng với yêu cầu đầu tư lớn Do đó, trồng rau trở thành nguồn thu đặc biệt quan trọng trong thời gian giáp vụ, với mức đầu tư thấp và khả năng mang lại thu nhập chỉ sau 30 ngày gieo hạt.
Dự án hỗ trợ trồng rau nhằm đa dạng hóa và tăng thu nhập cho người dân, giảm sự phụ thuộc kinh tế vào nguồn thu từ rừng Tại xã Thanh Hối, dự án đã triển khai nhiều hoạt động thúc đẩy phát triển trồng và kinh doanh rau, đặc biệt tại ba xóm mục tiêu: Bào 2, Sung 2 và Sung 2 Các hộ tham gia được cung cấp kỹ thuật, cây giống, hạt giống rau, vật tư trồng rau và hỗ trợ tiếp cận thị trường tiêu thụ rau.
Dữ liệu từ Dự án khảo sát cho thấy tỷ lệ nảy mầm của hạt giống rau được cung cấp đạt trên 90% Tuy nhiên, một số hộ trồng rau gặp khó khăn do mưa lớn, dẫn đến hạt giống bị trôi và cây rau giống bị dập nát Điều này liên quan đến việc sử dụng vật tư màng phủ nylon.
Dự án đã hỗ trợ các hộ nông dân sử dụng màng phủ nylon trong việc trồng các loại rau có giá trị kinh tế cao như bí, mướp đắng và dưa chuột Việc áp dụng màng phủ này không chỉ giúp tiết kiệm thời gian làm cỏ và tưới nước mà còn nâng cao hiệu quả phòng chống sâu bệnh hại.
Nhiều hộ trồng rau chưa áp dụng hiệu quả các kỹ thuật canh tác đã được tập huấn, một phần do diện tích canh tác nhỏ và rau không được coi là cây trồng chính Điều này dẫn đến việc họ không chú trọng vào việc áp dụng triệt để kiến thức đã học trong việc trồng và chăm sóc rau, vì họ không phải là những nông dân chuyên nghiệp trong lĩnh vực này.
Trồng rau an toàn tại xã Thanh Hối đã được người nông dân thực hiện theo các quy định nghiêm ngặt, tuy nhiên, việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng như nhà kính và phân bón là cần thiết Mặc dù người trồng rau đã hiểu rõ về tiêu chuẩn rau an toàn, nhưng việc tiêu thụ sản phẩm vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu các cửa hàng chuyên cung cấp Hệ quả là sản lượng rau an toàn sản xuất ra không cao và lợi nhuận từ việc trồng rau an toàn cũng không đạt mức kỳ vọng.
Người trồng rau tại xã Thanh Hối chủ yếu bán rau trực tiếp cho khách hàng tại nơi trồng hoặc tại các chợ địa phương, nhưng hệ thống marketing như vận chuyển, đóng gói và hợp đồng bán buôn cần được cải thiện để tiếp cận các kênh tiêu thụ chính thức Nhiều vấn đề cần giải quyết bao gồm kiến thức về marketing trong nông nghiệp, chiến lược xây dựng giá bán và cải thiện chất lượng sản phẩm Họ thiếu một hệ thống bán buôn chính thức với các quy định phù hợp và cần có nghiên cứu đầy đủ về thị trường tiêu thụ và marketing sản phẩm rau.
Hệ thống canh tác quy mô nhỏ đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là đối với các hộ nghèo và không chuyên về nông nghiệp Những nông hộ này thường gặp khó khăn trong việc áp dụng kỹ thuật mới và không có kế hoạch rõ ràng cho việc thu hoạch và marketing sản phẩm Họ thường sản xuất theo những mô hình đã thành công trước đó, dẫn đến tình trạng tăng nguồn cung và áp lực về giá cả Do đó, việc áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến và thiết lập hệ thống marketing hiệu quả trở thành một thách thức lớn cho sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ.
Giá rau tại xã Thanh Hối thường tăng cao từ tháng 6 đến tháng 11 do sản lượng rau thấp, ảnh hưởng bởi thời tiết nóng, mưa nhiều và diện tích đất hạn chế cho việc trồng rau Mùa hè, mưa lớn và sâu bệnh cũng làm giảm năng suất rau Mặc dù nhà kính, nhà lưới và nhà phủ nylon có thể cải thiện năng suất và sản lượng, nhưng người dân chưa dám đầu tư vào các cơ sở vật chất này vì thị trường tiêu thụ không ổn định.
Hiện nay, việc sử dụng màng phủ trong nông nghiệp tại xã Thanh Hối vẫn chưa phổ biến, chỉ khoảng 40% người dân áp dụng cho canh tác rau Tuy nhiên, rơm rạ có thể được sử dụng như một vật liệu che phủ hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích, bao gồm giảm rửa trôi dinh dưỡng, giảm xói mòn bề mặt, giảm công lao động làm cỏ, đồng thời giúp giữ đất xốp và cung cấp thêm chất hữu cơ cho đất.
Sự thay đổi nhiệt độ theo mùa gây khó khăn cho việc sản xuất rau nhiệt đới và ôn đới quanh năm Thông thường, các loại rau phổ biến được trồng trong thời tiết mát mẻ Thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 có mưa và độ ẩm cao, dẫn đến năng suất rau giảm do hư hỏng cơ học và mất chất dinh dưỡng do rửa trôi Hơn nữa, tỷ lệ rau thất thoát trong mùa mưa thường cao hơn so với mùa khô.
Mẫu mã và chất lượng sản phẩm rau hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, do đó cần khuyến khích người trồng rau tìm hiểu các tiêu chuẩn thị trường Dự án đã tổ chức chuyến tham quan học tập cho nông dân chủ chốt ở Thanh Hóa nhằm giải quyết vấn đề này Qua chuyến tham quan, nông dân đã học hỏi về quy trình sản xuất, kiểm soát chất lượng sản phẩm và bao tiêu sản phẩm Thông tin thu thập được từ chuyến đi rất quan trọng, giúp nông dân sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và tối đa hóa lợi nhuận.
Giá rau thường giảm vào mùa thu hoạch, do đó, người trồng cần đa dạng hóa sản phẩm theo từng mùa vụ để tối ưu hóa thu nhập Sự biến động giá rau ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của nông dân, với năng suất cao dẫn đến giá thấp và ngược lại Nông dân gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nhưng có thể cải thiện lợi ích thông qua việc tiếp cận thị trường hiệu quả Họ cần sự hỗ trợ từ các công ty và chính quyền địa phương trong việc phân phối rau, vì nhu cầu phân phối sản phẩm ảnh hưởng đến mối liên kết giữa nông dân và người mua.
Để phá vỡ chu kỳ sản xuất nhỏ và nâng cao khối lượng sản phẩm, cần phát triển các hệ thống sản xuất rau lâu dài với sự hợp tác của nông dân trong các tổ chức sản xuất Điều này sẽ cho phép sản xuất rau trên diện tích lớn hơn, dẫn đến sản lượng cao hơn Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch ngày thu hoạch và kiểm soát chất lượng cũng rất quan trọng, đồng thời cần kết hợp sản xuất quanh năm với tiếp thị trong chuỗi giá trị rau.
Trong những năm gần đây, một số hợp tác xã sản xuất rau an toàn đã thành công trong việc cung cấp rau cho siêu thị và cửa hàng nhờ vào việc sản xuất quanh năm và đa dạng hóa sản phẩm Tuy nhiên, việc mở rộng mô hình này trên quy mô lớn gặp khó khăn do khả năng tổ chức hạn chế của các hộ nông dân nhỏ lẻ Do đó, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước và khu vực tư nhân để phát triển bền vững ngành sản xuất rau an toàn.
Trồng cây ăn quả
Cây ăn quả, đặc biệt là bưởi, là thế mạnh của xã Thanh Hối, nhưng việc trồng bưởi thiếu kiểm soát đã dẫn đến chuyển đổi trái phép đất rừng và đất canh tác nông nghiệp Sự lạm dụng thuốc trừ sâu và hóa chất trong trồng cây ăn quả gây nguy hại cho sức khỏe cộng đồng và môi trường Người dân chưa áp dụng hiệu quả kỹ thuật canh tác, trong khi thị trường tiêu thụ cũng là một thách thức lớn Dự án SNRM đã hỗ trợ kỹ thuật trồng bưởi và phát triển đa dạng các loại cây ăn quả khác nhằm giảm rủi ro từ độc canh bưởi Đa dạng hóa cây ăn quả còn giúp giảm thiểu rủi ro do thiên tai, thời tiết và sâu bệnh Việc lựa chọn cây ăn quả địa phương cần dựa vào điều kiện tự nhiên, kinh nghiệm người dân và nhu cầu thị trường.
Dự án đã cung cấp 5.947 cây giống các loại cây ăn quả cho 250 hộ dân tại xã Thanh Hối, bao gồm nhãn chín sớm, na Thái Lan, mít Thái Lan và táo Hầu hết các cây ăn quả này được trồng tại vườn nhà của người dân Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ sống trung bình của các cây ăn quả đạt hơn 85%, và người dân đánh giá rằng các loại cây này sinh trưởng và phát triển tốt sau khi trồng.
Một số loài cây ăn quả như nhãn chín sớm, na Thái Lan, mít Thái Lan và táo đã bắt đầu cho quả bói Mặc dù các cây ăn quả do Dự án hỗ trợ chưa mang lại thu nhập ngay lập tức, nhưng sự sinh trưởng và phát triển tốt của chúng, cùng với việc bắt đầu cho quả, là tín hiệu tích cực cho việc tạo ra thu nhập cho người dân trong những năm tới.
Bảng 4: Tổng hợp về hỗ trợ trồng cây ăn quả của Dự án tại xã Thanh Hối
Các loài cây ăn quả Tỷ lệ sống
Để đa dạng hóa các loài cây ăn quả, cần dựa vào tiềm năng thị trường, sự phù hợp với điều kiện đất đai và nhu cầu của người dân, tránh áp đặt từ bên ngoài Đồng thời, việc tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc cây ăn quả cho người dân là cần thiết trước khi cung cấp giống cây, nhằm đảm bảo việc trồng và chăm sóc đúng cách Dự án đã thống nhất các tiêu chí hỗ trợ, bao gồm: người dân phải đóng góp ít nhất 30% giá trị cây giống vào quỹ xóm, mỗi hộ nhận từ 5-20 cây giống, và không được trồng cây ăn quả trên đất lâm nghiệp Những tiêu chí này đảm bảo rằng hỗ trợ từ Dự án đáp ứng nhu cầu của người dân và góp phần bảo vệ rừng địa phương.
UBND xã Thanh Hối và cơ quan khuyến nông địa phương cần tăng cường theo dõi và hỗ trợ kỹ thuật cho người dân trong việc chăm sóc cây ăn quả đã trồng Đồng thời, UBND xã cũng cần chú trọng quản lý đất lâm nghiệp để ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích, đặc biệt là trong việc trồng bưởi và các loại cây ăn quả khác.
Trồng cỏ làm thức ăn chăn nuôi
Chăn nuôi trâu bò khá phổ biến tại xã Thanh Hối để cung cấp sức kéo, bán con giống và bán để thịt
Phân trâu bò được sử dụng hiệu quả làm phân bón cho cây mía và bưởi Tuy nhiên, việc chăn thả trâu bò trong rừng gây ra tình trạng phá hoại cây rừng, đặc biệt là ở những khu vực rừng mới trồng Việc trồng cỏ làm thức ăn cho trâu bò không chỉ cung cấp nguồn thức ăn ổn định, đặc biệt vào mùa đông, mà còn giúp giảm thiểu chăn thả trong rừng Điều này tiết kiệm thời gian thu hoạch thức ăn cho trâu bò và góp phần vào sự phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc biệt trong bối cảnh chăn nuôi trâu bò đang phát triển mạnh mẽ tại xã Thanh.
Hối, trung bình số lượng trâu bò tăng khoảng 40% trong những năm gần đây, thì trồng cỏ làm thức ăn cho trâu bò là rất cần thiết
Dựa vào điều kiện tự nhiên và đất đai địa phương, Dự án đã cung cấp ba giống cỏ cho các hộ gia đình, bao gồm VA06, cỏ lạc và cỏ ghi-nê, với năng suất và hàm lượng dinh dưỡng cao Những giống cỏ này phát triển tốt trong khí hậu lạnh của mùa đông và được sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò và dê Bên cạnh đó, Dự án cũng tổ chức tập huấn cho người dân về kỹ thuật trồng và chăm sóc các giống cỏ này.
Tỷ lệ sống và hiệu quả của các giống cỏ đã được đánh giá qua phỏng vấn hộ gia đình và thăm thực địa Kết quả cho thấy giống cỏ VA06 có tỷ lệ sống lên đến 95%, dễ chăm sóc và thu hoạch, với sinh khối lớn, có thể thu hoạch sau mỗi lần cắt khoảng 40 ngày.
Cỏ ghi-nê có tỷ lệ sống khoảng 80% và yêu cầu làm đất kỹ lưỡng, với năng suất cao và chiều cao từ 70-100cm, thường được sử dụng làm thức ăn cho dê, trâu, bò và có thể thu hoạch sau mỗi 30-40 ngày Tuy nhiên, cỏ này dễ bị gia cầm phá hoại, dẫn đến hầu hết diện tích trồng bị thiệt hại Ngược lại, cỏ lạc chỉ có tỷ lệ sống 40-60%, cần nhiều phân bón và kỹ thuật chăm sóc, thường được trồng trong vườn cây ăn quả để che phủ đất và làm thức ăn cho gia súc Hiện tại, cỏ VA06 đang được duy trì và canh tác tốt tại xã Thanh Hối, với nhiều hộ mở rộng diện tích trồng cỏ trong sáu tháng qua, đáp ứng nhu cầu chăn nuôi Khoảng 4-6 ha cỏ đã được mở rộng, và các hộ được hỗ trợ đã chia sẻ giống cỏ cho những hộ khác, tạo ra tác động tích cực cho cộng đồng.
Kỹ thuật trồng và chăm sóc các giống cỏ khác nhau rất đa dạng, với một số giống như VA06 và cỏ ghi-nê yêu cầu quy trình đơn giản, trong khi giống cỏ lạc lại đòi hỏi kỹ thuật cao hơn Để trồng cỏ lạc, cần làm nhỏ đất và bón phân theo đúng quy trình kỹ thuật Do đó, Dự án chỉ tiến hành thử nghiệm giống cỏ này trên diện tích nhỏ nhằm tiết kiệm nguồn lực.
Cơ quan khuyến nông địa phương nên khuyến khích các hộ dân duy trì và mở rộng diện tích trồng giống cỏ VA06, vì giống cỏ này rất phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu tại xã Thanh Hối, đồng thời mang lại năng suất cao.
Quỹ xóm
Các tổ TTBVR tại xã Thanh Hối thực hiện nhiệm vụ tuần tra bảo vệ rừng mà không nhận được hỗ trợ tài chính từ chính quyền địa phương Để duy trì hoạt động này một cách bền vững, Dự án đã hợp tác với UBND xã Thanh Hối và các trưởng xóm để thành lập quỹ xóm tại các khu vực mục tiêu Quỹ xóm được hình thành từ sự đóng góp của các hộ dân hưởng lợi từ Dự án, với tỷ lệ đóng góp từ 20-50% giá trị của các hỗ trợ vật chất như cây giống, bếp tiết kiệm củi, và vật tư nuôi ong Hiện tại, quỹ xóm đã được thành lập tại tất cả 13 xóm mục tiêu và được quản lý bởi BQLDA cấp xóm Quy chế quản lý quỹ xóm cũng đã được xây dựng nhằm đảm bảo sự hiệu quả và minh bạch trong việc sử dụng quỹ.
Quản lý và sử dụng quỹ xóm đã đạt nhiều kết quả nổi bật với tổng số vốn lên đến 476 triệu đồng, đóng góp tích cực vào công tác bảo vệ rừng và phát triển sinh kế địa phương Quỹ xóm hỗ trợ thành viên BQLDA cấp xóm và tổ TTBVR với mức 100.000 đồng/người/tháng, khuyến khích hoạt động bảo vệ rừng Ngoài ra, quỹ còn cung cấp khoản vay tín dụng nhỏ cho các hộ có nhu cầu, giúp khoảng 80 hộ vay tổng cộng 267 triệu đồng để phát triển sinh kế và bảo vệ rừng thông qua các hoạt động như trồng trọt, chăn nuôi và kinh doanh nhỏ Dự án thực hiện kiểm tra, giám sát việc quản lý quỹ xóm để đảm bảo tuân thủ quy chế và hỗ trợ BQLDA cấp xóm giải quyết các khó khăn trong quản lý quỹ.
Mặc dù các thủ quỹ đã được đào tạo kỹ năng quản lý quỹ xóm, nhưng vẫn có một số khoản thu chi không được ghi chép đầy đủ và kịp thời, vi phạm quy định của quy chế quản lý quỹ.
Bảng 5: Tổng hợp về quỹ xóm tại xã Thanh Hối
Tại xã Thanh Hối, việc xây dựng và quản lý quỹ xóm đã mang lại nhiều bài học quý giá Để đảm bảo các hộ gia đình hưởng lợi đóng góp kịp thời vào quỹ, dự án đã đặt ra yêu cầu cụ thể về việc tham gia của các hộ dân.
Nguồn đóng góp Giải ngân
Từ các hoạt động quản lý rừng (VND)
Từ các hoạt động phát triển sinh kế (VND)
Total 28.859.000 448.056.000 476.675.000 267.107.000 46.610.000 vào quỹ xóm trước sau đó các hỗ trợ của Dự án sẽ được thực hiện theo đúng cam kết Kết quả là 100% số hộ hưởng lợi đóng góp vào quỹ xóm theo đúng kế hoạch
UBND xã Thanh Hối cần tăng cường giám sát và quản lý quỹ xóm tại từng xóm để đảm bảo sự chặt chẽ trong việc quản lý Đồng thời, việc trình bày báo cáo thu chi định kỳ của quỹ xóm lên UBND xã Thanh Hối cần tuân thủ đúng quy định của quy chế quản lý quỹ xóm.
Theo quy chế, các khoản tín dụng nhỏ do quỹ xóm cung cấp nhằm phát triển sinh kế và quản lý rừng cho các hộ gia đình, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và kinh doanh nhỏ Do đó, Ban Quản lý Dự án cấp xóm cần giám sát chặt chẽ để đảm bảo rằng các khoản vay được sử dụng đúng mục đích.