TỔNG QUAN CHUNG
Vị trí khảo sát
Lưới trạm được thiết lập để khảo sát các chỉ tiêu môi trường như độ mặn, độ dẫn điện, độ chua và độ đục tại các trạm biên và trong khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, theo sơ đồ phân bố trên các nhánh sông.
- Lập 2 trạm trên sông Nhà Bè - Đồng Nai: Trạm Mũi Nhà Bè là trạm biên, trạm Cát Lái là trạm khảo sát
- Lập trạm tại cầu Thủ Thiêm trên sông Sài Gòn là trạm khảo sát
- Lập 3 trạm trên khu vực Nam Bình Chánh: Cầu Ông Thìn, Cống Kênh C, kênh Xáng-An Hạ Trong đó trạm biên là Cầu Ông Thìn
- Lập 1 trạm khảo sát trên sông Rạch Tra tại vị trí cầu Rạch Tra, nối hai thuộc huyện Hóc Môn - Củ Chi
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Bảng 1: Vị trí các trạm khảo sát trên sông rạch khu vực TP HCM
TT Kí hiệu Tên trạm Vị trí
1 NB Mũi Nhà Bè Tại mũi Nhà Bè, phà Bình Khánh, trên sông Sài Gòn
2 CL Phà Cát Lái Tại bến phà Cát Lái, sông Đồng Nai
3 TT Cầu Thủ Thiêm Tại cầu Thủ Thiêm, sông Sài Gòn
4 OT Cầu Ông Thìn Tại cầu Ông Thìn, sông Cần Giuộc
5 KC Cống Kênh C Tại cầu Chợ Đệm, sông Chợ Đệm
6 KX K.Xáng+K.An Hạ Tại kênh An Hạ, huyện Bình Chánh
7 RT Cầu Rạch Tra Tại chân cầu Rạch Tra, Hóc Môn-Củ Chi
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Chỉ tiêu và phương pháp phân tích
Lấy mẫu theo đặc trưng của thủy triều vào thời điểm xuất hiện triều cường và triều kém trong tháng cho 2 loại trạm: trạm biên và trạm khảo sát
Phân tích chất lượng nước tại phòng thí nghiệm bao gồm các chỉ tiêu như độ mặn, độ chua, độ dẫn điện và độ đục Mẫu nước được kiểm tra đạt tiêu chuẩn VILAS và tuân thủ hệ thống quản lý chất lượng theo ISO/IEC 17025, tương đương với TCVN ISO/IEC 17025:2007, đảm bảo yêu cầu chung về năng lực của phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn.
Chỉ tiêu Phương pháp phân tích pH TCVN 6492:1999 Độ mặn (g/l) SMEWW 2510B 2005 Độ đục (NTU) TCVN 6184:1996
Khối lượng mẫu phân tích trong quý II/2018
- Tổng số ngày lấy mẫu trong quý II/2018: 57 ngày
- Tổng số mẫu trong quý II/2018: 684 mẫu
- Trung bình lấy 3 ngày trong tháng (2 ngày cho 2 kỳ triều cường, 1 ngày cho 1 kỳ triều kém trong tháng với chế độ 12 mẫu/ngày)
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC KHẢO SÁT THỦY VĂN, XÂM NHẬP MẶN QUÝ II/2018
Các yếu tố ảnh hưởng đến mạng lưới thủy văn, chất lượng nguồn nước vùng hạ lưu sông Đồng Nai-Sài Gòn, khu vực TP.HCM
Trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, nhiều công trình thủy điện và thủy lợi đang hoạt động, gây ảnh hưởng đến chất lượng nước, đặc biệt là sông Sài Gòn Các công trình trên dòng chính có tác động lớn đến chất lượng nước mặt trong toàn bộ lưu vực này.
Hồ chứa Trị An có lưu lượng xả xuống hạ lưu trong mùa khô tăng từ 180 – 200m³/s, giúp đẩy lùi biên mặn 4,0 g/l từ cầu Đồng Nai xuống Cát Lái Điều này đảm bảo nguồn nước cung cấp cho khu vực Biên Hòa và mở rộng khả năng lấy nước phục vụ sản xuất nông nghiệp hai bên sông.
Hồ Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn cung cấp 42,9 m³/s nước thô cho sinh hoạt và các ngành công nghiệp, trong đó thành phố Hồ Chí Minh nhận 14 m³/s, tỉnh Tây Ninh 4,9 m³/s, Bình Dương 15,0 m³/s, Bình Phước 5,0 m³/s và Long An 4,0 m³/s Hồ cũng cấp nước tưới trực tiếp cho 86.049 ha tại Tây Ninh, Hồ Chí Minh và Long An, cùng với nguồn tưới cho 24.818 ha, bao gồm 1.950 ha khu tưới Bình Dương, 21.000 ha khu tưới mở rộng Tây Ninh và 1.868 ha khu tưới bơm Lộc Giang A của Long An Ngoài ra, hồ hỗ trợ tưới cho 21.000 ha khu tưới Dầu Tiếng cũ trong các năm hạn 75% và tạo nguồn tưới cho 28.800 ha ven sông Sài Gòn cùng 32.317 ha ven sông Vàm.
Cỏ Đông xả nước cho hạ du sông Sài Gòn với lưu lượng tối thiểu 36,1 m³/s trong mùa kiệt Nước được tận dụng qua cống lấy nước số 1 và số 2 để kết hợp phát điện, với công suất thiết kế mỗi trạm là 1,5 MW.
Một số công trình thủy điện đáng chú ý tại Việt Nam bao gồm Hồ Thác Mơ trên thượng lưu sông Bé, thủy điện Cần Đơn, thủy điện Srok Phu Miêng, và hệ thống thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi nằm ở trung lưu sông La Ngà Ngoài ra, công trình Hồ thủy lợi Phước Hòa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển nước từ sông Bé sang hồ Dầu Tiếng.
- Ngoài ra trên lưu vực hiện xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn như Đồng Nai
Các công trình Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4 và Đồng Nai 5 trên dòng sông Đồng Nai hiện đang trong giai đoạn thi công và dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong thời gian sắp tới.
Sông Sài Gòn đang phát triển hệ thống đê ngăn lũ triều và ngăn mặn Ông Kèo ven sông Đồng Nai Bên cạnh đó, các hệ thống thủy lợi như Hóc Môn – Bắc Bình Chánh đã được đưa vào sử dụng, không chỉ cấp nước tưới mà còn ngăn ngập lũ triều, tiêu úng và ngăn mặn Hệ thống kênh Rạch Chanh – Bắc Đông tại tỉnh Long An cũng đóng góp vào việc cải thiện quản lý nước.
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đang đối mặt với vấn đề ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng do các hoạt động phát triển mạnh mẽ trong khu vực Những hoạt động này đã gây ra tác động tiêu cực đến chất lượng nước, đòi hỏi sự chú ý và biện pháp can thiệp kịp thời.
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và cây công nghiệp ở vùng thượng lưu đã dẫn đến việc sử dụng nhiều phân bón và thuốc trừ sâu, ảnh hưởng đến chất lượng nước Hoạt động nuôi trồng thủy sản tại hồ Trị An và dọc sông Đồng Nai cũng gia tăng, trong khi tốc độ đô thị hóa và dân số tăng nhanh trong khu vực Nạn phá rừng đầu nguồn đã làm mất lớp thảm thực vật tự nhiên, giảm bề mặt che phủ, gây xói lở và suy thoái nguồn nước Hơn nữa, hoạt động giao thông thủy ngày càng nhiều đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến nguồn nước mặt, đặc biệt là ở khu vực hạ lưu, với các vấn đề như xói lở bờ, chất thải và sự cố tràn dầu.
Các khu công nghiệp tại Biên Hòa đang thải nước thải ra suối và sông Cái, dẫn đến ô nhiễm sông Đồng Nai Nguồn thải từ các khu công nghiệp ven Quốc lộ 51 cũng gây ô nhiễm sông Thị Vải, trong khi các khu công nghiệp ở Nam Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh làm ô nhiễm các kênh và nhánh của sông Sài Gòn.
Nước thải đô thị từ các hệ thống kênh tiêu thoát tại thành phố Hồ Chí Minh, như kênh Tham Lương – Bến Cát, Tân Hóa – Lò Gốm, Nhiêu Lộc – Thị Nghè, và Kênh Đôi – Kênh Tẻ, cùng với nước thải từ thành phố Biên Hòa và thị xã Thủ Dầu Một, đang gia tăng mức độ ô nhiễm cho sông Sài Gòn và sông Đồng Nai.
Hình 2: Sơ đồ bậc thang các hồ chứa lớn trên lưu vực sông Đồống Nai
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Tình hình chung
Vào quý II/2018, thời tiết tại Nam bộ, đặc biệt là TP HCM, trải qua sự chuyển giao từ cái nóng oi ả của tháng 4 sang mùa mưa vào tháng 6.
Thông tin về triều cường vùng hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn như sau:
Vào tháng 04/2018, mực nước triều tại khu vực hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn đã vượt mức báo động II vào đầu tuần đầu tiên (ngày 02/04/2018) và cuối tuần thứ hai (ngày 17-18/04/2018) Cụ thể, mực nước cao nhất được ghi nhận tại trạm Phú An là 1,44m và tại trạm Nhà Bè là 1,43m.
Vào giữa tháng 05/2018, mực nước triều tại khu vực hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn đã đạt mức báo động II, cụ thể vào ngày 15/05/2018 Kết quả đo mực nước cao nhất trong tháng tại trạm Phú An ghi nhận là 1,40m, trong khi trạm Nhà Bè đo được 1,39m.
Vào tháng 06/2018, mực nước triều tại khu vực hạ lưu sông Đồng Nai - Sài Gòn ghi nhận ở mức thấp Cụ thể, mực nước cao nhất được đo tại trạm Phú An là 1,20m, trong khi trạm Nhà Bè cũng cho thấy mức nước tương tự.
Hình 3 Mực nước triều Max thực đo quý II/2018 tại 2 trạm Phú An và Nhà Bè
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Tình hình xâm nhập mặn
Dưới đây là một số đặc trưng diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại các vị trí quan trắc thuộc khu vực Thành phố Hồ Chí Minh:
Bảng 2: Đặc trưng độ mặn (g/l) tại các trạm thuộc khu vực TP HCM - quý II/2018
TT Vị trí Đặc trưng
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Đặc trưng
Hệ sông Nhà Bè – Đồng Nai:
Quý II/2018, độ mặn tại mũi Nhà Bè đạt BQ = 1,56g/l, Max = 5,27g/l, thấp hơn so với mặn quý I/2018 với BQ = 4,59g/l, Max = 7,33g/l, thấp hơn độ mặn quý II/2017
(BQ = 1,94g/l, Max = 6,46g/l), thấp hơn độ mặn quý II/TBNN (BQ = 4,58g/l, Max 13,40g/l)
Hình 4: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại mũi Nhà Bè
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Trong quý II/2018, độ mặn tại cầu Thủ Thiêm ghi nhận giá trị bình quân (BQ) là 0,51g/l và giá trị tối đa (Max) là 2,68g/l So với quý I/2018, độ mặn đã giảm đáng kể với BQ là 1,14g/l và Max là 2,00g/l Ngoài ra, độ mặn quý II/2018 cũng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017, khi BQ đạt 0,75g/l và Max là 2,68g/l.
Hình 5: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại cầu Thủ Thiêm
Trong quý II/2018, nồng độ mặn tại khu vực Cát Lái ghi nhận BQ là 0,56g/l và Max là 2,74g/l So với quý I/2018, nồng độ mặn đã giảm đáng kể với BQ là 2,29g/l và Max là 3,88g/l Ngoài ra, mức độ mặn trong quý II/2018 cũng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017, khi BQ đạt 1,03g/l và Max là 3,91g/l.
Hình 6: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại phà Cát Lái
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Tại vị trí cầu Ông Thìn, độ mặn quý II/2018 đạt mặn BQ = 2,59g/l, Max = 6,42g/l, thấp hơn mặn quý I/2018 (BQ = 4,92g/l, Max = 7,83g/l), thấp hơn so với mặn quý
II/2017 (BQ = 2,96g/l, Max = 7,42g/l), thấp hơn mặn quý II/TBNN (BQ = 5,14g/l, Max 14,30g/l)
Hình 7: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại cầu Ông Thìn
Tại kênh C - Chợ Đệm, độ mặn trong quý II/2018 ghi nhận mức bình quân là 1,47g/l, với giá trị tối đa đạt 3,22g/l So với quý I/2018, khi độ mặn trung bình là 2,12g/l và tối đa là 3,75g/l, quý II/2018 cho thấy sự giảm sút Ngoài ra, mức độ mặn trong quý II/2018 cũng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2017, khi chỉ số bình quân là 1,43g/l và tối đa là 3,56g/l, cũng như thấp hơn so với độ mặn trong quý II của TBNN.
Hình 8: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại kênh C - Chợ Đệm
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Quý II/2018, mặn tại kênh Xáng – An Hạ, đạt BQ = 0,50g/l, Max = 1,49g/l, cao hơn so với mặn quý I/2018 với BQ = 0,40g/l, Max = 1,39g/l, cao hơn so với mặn quý
II/2017 (BQ = 0,40g/l, Max = 1,43g/l), thấp hơn so với mặn quý II/TBNN (BQ = 0,80g/l, Max = 4,80g/l)
Hình 9: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại kênh Xáng - An Hạ
Trong quý II năm 2018, độ mặn tại cầu Rạch Tra ghi nhận mức trung bình (BQ) là 0,11g/l và mức cao nhất (Max) là 0,21g/l, tăng so với quý I năm 2018 với BQ là 0,07g/l và Max là 0,16g/l Tuy nhiên, độ mặn tại khu vực này vẫn được đánh giá là khá thấp so với các trạm quan trắc khác trong khu vực.
Hình 10: Diễn biến xâm nhập mặn quý II/2018 tại cầu Rạch Tra
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Bảng 3: So sánh độ mặn (g/l) giữa quý I/2018, quý II/2018, quý II/2017 và quý II/TBNN tại các trạm thuộc khu vực TP HCM
TT Vị trí Đặc trưng
Ghi chú: ’ – ’: không có số liệu
Hình 11: So sánh độ mặn quý I/2018, quý II/2018, quý II/2017, quý II/TBNN tại các trạm thuộc khu vực TP HCM
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Kết quả khảo sát XNM quý II/2018 tại các vị trí quan trắc trên sông rạch TPHCM cho thấy độ mặn cao nhất xảy ra vào tháng 4/2018, sau đó giảm dần trong tháng 5 và tháng 6 Diễn biến độ mặn tương đối ổn định, dao động ở mức trung bình, không có nhiều bất thường.
- Giảm so với độ mặn quý I/2018;
- Thấp hơn so với độ mặn quý II/2017;
- Thấp hơn so với độ mặn quý II/TBNN
Dự báo mặn thời gian tới:
Trong quý III/2018, TP HCM sẽ trải qua cao điểm mùa mưa với lượng mưa dự báo lớn hơn so với cùng kỳ năm trước và trung bình nhiều năm Đồng thời, nồng độ mặn trong khu vực sẽ giảm dần theo thời gian, thấp hơn mức độ mặn của quý II/2018, quý III/2017 và cũng thấp hơn mức trung bình nhiều năm.
Độ pH
Kết quả quan trắc chất lượng nước trên kênh rạch tại TP.HCM trong quý II/2018 cho thấy độ pH của hệ thống kênh rạch đạt tiêu chuẩn QCVN 08:2008/BTNMT loại B2 Thông tin chi tiết được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 4: Đặc trưng độ pH tại các trạm thuộc khu vực TP HCM - quý II/2018
TT Vị trí Đặc trưng
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Đặc trưng
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Trong quý II/2018, hệ sông Nhà Bè – Đồng Nai ghi nhận độ pH tại vị trí mũi Nhà Bè với giá trị pHbq đạt 6,66 và pHMin là 6,35 So với quý I/2018, độ pH đã có sự tăng nhẹ khi pHbq là 6,64 và pHMin là 6,05.
5 là thời điểm pHđạt giá trị thấp nhất và pH cao nhất ở tháng 6
Tại vị trí cầu Thủ Thiêm, quý II/2018 đạt pHbq = 6,61, pHMin = 6,23, cao hơn so với quý I/2018 với pHbq = 6,51, pHMin = 4,80 Độ pH nơi đây thấp nhất ở tháng 5, cao nhất ở tháng 4
Trong quý II/2018, kết quả quan trắc tại khu vực Cát Lái cho thấy pHbq đạt 6,62 và pHMin là 6,44, cao hơn so với quý I/2018 với pHbq là 6,57 và pHMin là 6,02 Tại khu vực phà Cát Lái, độ pH ghi nhận giá trị thấp nhất vào tháng 5 và tháng 6.
Tại cầu Ông Thìn, trong quý II/2018, độ pH trung bình đạt 6,73, với mức pH tối thiểu là 5,83, cao hơn so với quý I/2018 khi pHbq là 6,67 và pHMin là 5,39 Tháng 4 ghi nhận độ pH thấp nhất, trong khi tháng 6 đạt độ pH cao nhất.
Khu vực kênh C - chợ Đệm đạt pHbq = 6,85, pHMin = 4,63, thấp hơn so với quý
I/2018 với pHbq = 6,89, pHMin = 5,09 pHđạt trị số thấp nhất ở tháng 4 và pH cao nhất ở tháng 6
Quý II/2018, khu vực kênh Xáng đạt pHbq = 6,29, pHMin = 3,27, thấp hơn so với quý trước với pHbq = 6,38, pHMin = 5,84 pHđạt trị số thấp nhất ở tháng 5 và pH cao nhất ở tháng 6
Quý II/2018, khu vực cầu Rạch Tra với pHbq = 6,30, pHMin = 4,78, thấp hơn so với quý I/2018 với pHbq = 6,27, pHMin = 6,00 pHđạt trị số thấp nhất ở tháng 6 và pH cao nhất ở tháng 4
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Bảng 5: So sánh độ pH của quý I/2018, quý II/2018, quý II/2017 tại các trạm thuộc khu vực TP HCM
TT Vị trí Đặc trưng Quý I/2018 Quý II/2018 Quý II/2017
Ghi chú: ’ – ’: không có số liệu
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018
Trong quý II năm 2018, kết quả quan trắc chất lượng nước tại TP.HCM cho thấy độ pH nằm trong phạm vi QCVN 08:2008/BTNMT loại B2, với giá trị pH Min thường xuất hiện ở khu vực kênh Xáng - An Hạ và kênh C – Chợ Đệm Độ pH có vai trò quan trọng trong môi sinh, ảnh hưởng đến hoạt động sinh học trong nước và các đặc tính như tính ăn mòn, hòa tan Điều này chi phối các quá trình xử lý nước như kết bông, làm mềm, khử sắt và diệt khuẩn Do đó, việc xét nghiệm pH là rất cần thiết để đảm bảo chất lượng nước và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật trong lĩnh vực môi trường.
Độ đục
Trong quý II/2018, độ đục của nguồn nước trên sông rạch TP HCM đã tăng cao so với quý I/2018, với một số vị trí ghi nhận độ đục rất lớn như khu vực mũi Nhà Bè (Max = 866,0 NTU), phà Cát Lái (Max = 454,0 NTU) và cầu Ông Thìn (Max = 416,0 NTU) Tháng 6 là thời điểm có độ đục cao nhất trong quý, với giá trị trung bình đạt 98,0 NTU, do đây là lúc bắt đầu mùa mưa tại Nam bộ.
Bảng 6: Đặc trưng độ đục (NTU) tại các trạm thuộc khu vực TP HCM - quý II/2018
TT Vị trí Đặc trưng
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Đặc trưng
Độ đục và TSS là những chỉ báo quan trọng phản ánh chất lượng nước, với các giá trị BQ, Max và Min lần lượt là 26,9, 85,6, 11,9 Các hạt lơ lửng trong nước có thể xuất phát từ sự xói mòn đất, nước thải, trầm tích bị khuấy lên hoặc nở hoa tảo Sự gia tăng đột ngột độ đục trong nước cần được theo dõi chặt chẽ để đảm bảo an toàn môi trường.
Khảo sát thủy văn và tình hình xâm nhập mặn tại TP HCM trong báo cáo quý II/2018 cho thấy rằng việc phù sa tích tụ quá mức có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nước, gây hại cho nuôi trồng thủy sản và sức khỏe con người Ngoài ra, tình trạng này còn cản trở giao thông và làm gia tăng nguy cơ lũ lụt trong khu vực.
Sự gia tăng độ đục và tổng nồng độ chất rắn lơ lửng trong nước chủ yếu xuất phát từ việc sử dụng đất, bao gồm xây dựng, khai thác gỗ và khai thác mỏ, dẫn đến sự suy giảm thảm thực vật Các khu vực nông nghiệp cũng chịu tác động tiêu cực sau khi canh tác, làm tăng nguy cơ xói mòn và dòng chảy Hệ quả là tỷ lệ dòng chảy gia tăng, gây xói mòn và làm tăng độ đục trong các suối và hồ nước địa phương Chất rắn lắng đọng trong dòng chảy có thể gây hại cho môi trường sinh vật sống dưới đáy của hồ, sông và biển Việc áp dụng các hàng rào ngăn phù sa và lưu vực trầm tích tại các công trình xây dựng có thể giúp bảo vệ nguồn nước lân cận khỏi ô nhiễm đất.
Độ đục của nước, do phù sa và dòng chảy nông nghiệp mang theo, thường chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi Sự hiện diện của các chất dinh dưỡng này có thể dẫn đến sự phát triển của tảo nở hoa Hiện tượng này có thể quan sát thấy ở các dòng suối, ao hồ, cửa sông, và cả vịnh, cảng.
Độ dẫn điện
Trong quý II/2018, giá trị độ dẫn điện Ec đạt 0,20S/m, với EcMax là 1,13S/m, giảm so với quý I/2018 khi Ecbq là 0,41S/m và EcMax là 1,34S/m Sự thay đổi độ dẫn điện trong nước liên quan đến sự biến động của nồng độ mặn.
Bảng 7: Đặc trưng độ dẫn điện (S/m) tại các trạm thuộc khu vực TP HCM – quý II/2018
TT Vị trí Đặc trưng
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Đặc trưng
Khảo sát thủy văn, xâm nhập mặn TP HCM - Báo cáo quý II/2018