1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2

113 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 113
Dung lượng 1,68 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • MUC LUC.pdf

  • DANH MUC BANG.pdf

  • DANH MUC BIEU.pdf

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG I: ĐÔ THỊ HÓA, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

    • 1.1. Đô thị hóa và phát triển công nghiệp

    • 1.2.Lý thuyết sinh kế bền vững của DFID

    • 1.3. Bài học kinh nghiệm

  • CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HUYỆN BẾN LỨC TỈNH LONG AN

    • 2.1.Vị trí địa lý Long An

    • 2.2.Vị trí địa lý huyện Bến Lức

    • 2.3.Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội huyện Bến Lức

    • 2.4. Các điều kiện phát triển

    • 2.5. Tình hình phát triển công nghiệp Bến Lức

    • 2.6.Tình hình sử dụng đất quy hoạch

    • 2.7.Tình hình bồi thường, giải phóng mặt bằng và giải quyết khiếu nại đất đai

  • CHƯƠNG III: KẾT QUẢ KHẢO SÁT VÀ CÁC PHÂN TÍCH

    • 3.1.Mô tả các đặc trưng mẫu

    • 3.2. Các đặc điểm về sinh kế của người dân

    • 3.3.Các khả năng tiếp cận

    • 3.4.Các tác động của phát triển công nghiệp

  • CHƯƠNG IV: CÁC KẾT LUẬN CHÍNH VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP

    • 4.1. Các kết luận chính

    • 4.2.Đề xuất một số giải pháp

  • PHỤ LỤC 1

  • PHỤ LỤC 2

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHU LUC 1.pdf

  • PHU LUC 2.pdf

  • TAI LIEU THAM KHAO.pdf

Nội dung

Đô thị hoá và phát triển công nghiệp

Đất nông nghiệp và xu hướng biến động đất nông nghiệp

Đất đai là tài sản quý giá của mỗi quốc gia, đóng vai trò thiết yếu trong mọi ngành sản xuất vật chất xã hội, từ nông nghiệp, lâm nghiệp đến xây dựng, giao thông, thuỷ lợi và phát triển đô thị Với diện tích có hạn, việc đánh giá và quản lý đất đai cần được thực hiện một cách toàn diện về cả kỹ thuật, kinh tế và xã hội Đặc biệt, trong nông nghiệp, đất nông nghiệp rất quan trọng cho hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản Quỹ đất nông nghiệp được xác định là tổng diện tích ruộng đất trong một khu vực theo ranh giới nhất định, phục vụ cho các đơn vị sản xuất như hộ gia đình và doanh nghiệp nông nghiệp tại địa phương.

Các thay đổi về quỹ đất thường diễn ra theo hai hướng:

Quá trình đô thị hóa và sự phát triển của hạ tầng nông thôn đang làm thu hẹp quỹ đất nông nghiệp, đặc biệt là khi các trung tâm công nghiệp mới hình thành Xu hướng này diễn ra nhanh chóng và là điều không thể tránh khỏi Do đó, cần phải lựa chọn địa điểm xây dựng đô thị, khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả.

Sự gia tăng nhu cầu về nông sản cùng với áp lực về lao động và việc làm đã thúc đẩy việc khai thác đất chưa sử dụng và đất hoang hóa Điều này không chỉ giúp mở rộng quỹ đất nông nghiệp mà còn đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp ngày càng cao trong bối cảnh quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.

Cung và cầu về đất đai có những đặc điểm riêng biệt, trong đó cung đất đai là cố định và có dạng đường thẳng, nhưng có thể biến động theo từng loại đất do chuyển đổi mục đích sử dụng Cầu về đất đai gia tăng do nhu cầu sản phẩm từ đất và nhu cầu xây dựng nhà ở Đối với đất nông nghiệp, mức cung có thể thay đổi, với sự gia tăng diện tích đất nông nghiệp thể hiện qua việc chuyển đổi đất hoang hóa thành đất nông nghiệp mới, chuyển đổi đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp, và lưu chuyển đất giữa các chủ thể Mặc dù việc lưu chuyển này không làm tăng cung đất nông nghiệp, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất nông nghiệp và ảnh hưởng đến thị trường đất nông nghiệp.

Cầu về đất nông nghiệp đang có xu hướng giảm, cả tương đối và tuyệt đối, do quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá Sự phát triển của lực lượng sản xuất cao giúp tăng năng suất cây trồng và vật nuôi, nhưng cũng dẫn đến việc tỷ suất lợi nhuận từ sản xuất nông nghiệp giảm so với các ngành khác Điều này gây ra sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác, góp phần làm giảm cầu đất nông nghiệp.

Tình hình đô thị hoá và phát triển công nghiệp

Đô thị hoá là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mọi quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá Quá trình này không chỉ thúc đẩy phân công sản xuất và phát triển kinh tế hàng hoá mà còn đẩy nhanh xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ đời sống con người Đô thị hoá bao gồm việc tổ chức khu dân cư, quy hoạch không gian lãnh thổ và kiến trúc gắn liền với đặc điểm lịch sử, xã hội Theo Lưu Đức Hải, đô thị hoá nông thôn là một phần quan trọng trong sự phát triển của đất nước, diễn ra với tốc độ nhanh chóng và mang lại nhiều lợi ích như phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, nó cũng tạo ra những thách thức như thu hẹp đất canh tác và ô nhiễm môi trường, đồng thời không chỉ giới hạn ở việc hình thành đô thị mà còn liên quan đến phát triển công nghiệp nông thôn và thu hút lao động.

Đô thị hoá tại Việt Nam là một quá trình đa dạng và phức tạp, chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm và điều kiện từng địa phương Một số biểu hiện chung của đô thị hoá bao gồm gia tăng tỷ lệ dân số đô thị, thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành nghề mới, đặc biệt là phát triển dịch vụ và tăng tỷ trọng ngành phi nông nghiệp Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn: trước 1954, chính quyền Pháp đã củng cố và mở rộng các thành phố như Hải Phòng, Hà Nội, và Sài Gòn; từ 1954 đến 1975, đô thị hoá diễn ra chậm; giai đoạn 1975-1990, đô thị hoá yếu trong bối cảnh kinh tế trì trệ; và từ 1990 đến nay, đô thị hoá phát triển nhanh chóng, với số lượng đô thị tăng từ 500 vào năm 1990 lên 656 vào năm 2003 Dân số đô thị cũng tăng từ 11,87 triệu người năm 1986 lên 13 triệu năm 1990, với dự báo đạt 45% vào năm 2020 Diện tích đất đô thị cũng tăng từ 0,2% tổng diện tích tự nhiên năm 1999 lên 1% năm 2003, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp từ 1 khu năm 1991 lên 82 khu vào năm 2003.

1.1.2.2 Phát triển công nghiệp vùng nông thôn

Phát triển công nghiệp vùng nông thôn cần gắn liền với quá trình phát triển đô thị Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đô thị ngày càng trở thành trung tâm giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa và dịch vụ xã hội Do đó, các cơ sở sản xuất công nghiệp sẽ được chuyển đến các khu công nghiệp có nhu cầu lao động cao.

Năm 1997, Việt Nam có 688 cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng, trong đó 195 cơ sở nằm ở nông thôn, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Hầu hết các cơ sở chế biến nông lâm sản sử dụng nguyên liệu sản xuất tại nông thôn, dẫn đến 80% cơ sở được xây dựng ở khu vực này Từ năm 1991 đến 1996, tốc độ tăng trưởng công nghiệp nông thôn đã liên tục tăng trưởng.

Từ năm 2001 đến 2006, tỷ lệ hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 5,8% lên 10%, trong khi tỷ lệ hộ dịch vụ cũng tăng từ 11,25% lên 14,8% Qua 5 năm, tỷ trọng các loại hình phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn đã tăng thêm 8% so với năm 2001.

Công nghiệp nông thôn, theo Nguyễn Sinh Cúc (2007), đã có tác động mạnh mẽ đến cơ cấu kinh tế, ngành nghề và lao động ở khu vực nông thôn Sự phát triển này không chỉ làm tăng số lượng và tỷ trọng của các hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, mà còn dẫn đến sự giảm tỷ trọng của các hộ gia đình trong ngành công nghiệp truyền thống.

Đô thị hoá và phát triển công nghiệp đã tạo ra các trung tâm đô thị, thương mại và du lịch, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân Tuy nhiên, quá trình này cũng kéo theo nhiều vấn đề cần giải quyết, như đất đai nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích, nông dân phải chuyển nghề, tình trạng ô nhiễm môi trường, hạ tầng cơ sở phát triển không đồng bộ, vấn đề lao động - việc làm, phân hoá giàu nghèo và gia tăng tệ nạn xã hội.

Lý thuyết sinh kế bền vững của DFID

Nghiên cứu này sử dụng lý thuyết về tiếp cận sinh kế bền vững (SLA) của Uỷ ban phát triển Quốc tế (DFID) Định nghĩa sinh kế bền vững

Sinh kế bền vững lần đầu tiên được sử dụng như một khái niệm phát triển vào đầu thập niên 90, với định nghĩa của Chambers và Conway (1991) là một khái niệm quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững.

Sinh kế bao gồm con người, khả năng của họ, và phương tiện sinh sống như thức ăn, thu nhập và tài sản Tài sản hữu hình bao gồm tài nguyên và tích lũy, trong khi tài sản vô hình liên quan đến quyền yêu sách và quyền tiếp cận.

Một sinh kế bao gồm khả năng, tài sản (cả nguồn tài nguyên vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống Để được coi là bền vững, sinh kế phải có khả năng đối phó và phục hồi trước áp lực và cú sốc, đồng thời duy trì hoặc nâng cao năng lực và tài sản trong hiện tại và tương lai, mà không làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Sự bền vững có nhiều khía cạnh, nhưng quan trọng nhất là cách tiếp cận sinh kế bền vững

Sinh kế bền vững khi chúng:

• Mau khôi phục khi đối mặt với những cú sốc và những áp lực từ bên ngoài luan van, khoa luan 16 of 66.

Không nên phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài; nếu có, chỉ nên nhận sự giúp đỡ ổn định về mặt kinh tế và thể chế.

• Duy trì năng suất của tài nguyên thiên nhiên trong dài hạn.

• Không làm xói mòn sinh kế, hoặc làm hại đến những lựa chọn sinh kế mở ra với những người khác.

Cách tiếp cận sinh kế bền vững:

Trung tâm của cách tiếp cận sinh kế bền vững là con người và sinh kế của họ, bao gồm thứ tự ưu tiên tài sản vô hình và hữu hình Điều này cũng liên quan đến khả năng chống chịu trước các cú sốc và xem xét mức độ tổn thương của họ Chính sách và thể chế cần phản ánh quyền ưu tiên của người nghèo để đảm bảo sự phát triển bền vững.

DFID là một trong những người đầu tiên đề xuất tiếp cận sinh kế bền vững Đối tượng của cách thức tiếp cận này là:

- Sự hiểu biết hiện thực hơn về sinh kế của người nghèo và yếu tố hình thành nên chúng

- Xây dựng môi trường chính sách và thể chế hỗ trợ sinh kế của người nghèo

- Hỗ trợ phát triển dựa trên thế mạnh của người nghèo và cung cấp cho họ cơ hội để cải thiện sinh kế

Khung sinh kế bền vững được phát triển bởi Ủy ban cố vấn sinh kế bền vững ở nông thôn nhằm cải thiện hiểu biết về sinh kế của người nghèo Công cụ này hỗ trợ trong việc lập kế hoạch cho các hoạt động phát triển mới và đánh giá sự đóng góp của các hoạt động hiện tại đối với sự bền vững sinh kế.

Hình 1.1 Khung sinh kế bền vững

Nguồn: DFID (Department For International Development), năm 1999, Sustainable

Livelihoods Guidance Sheets, tại Website:www.dfid.gov.uk

Các thành phần của khung sinh kế bền vững:

Hoàn cảnh dễ bị tổn thương

Hoàn cảnh dễ bị tổn thương đề cập đến môi trường sống bên ngoài của con người, nơi sinh kế và tài sản của họ bị ảnh hưởng bởi các xu hướng chủ yếu, cú sốc và tính thời vụ Những yếu tố này làm cho sinh kế và tài sản trở nên bị giới hạn và khó kiểm soát.

Xu hướng dân số, tài nguyên và xung đột đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế quốc gia và quốc tế Các xu hướng cai trị, bao gồm chính sách và kỹ thuật, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai Sự tương tác giữa các yếu tố này tạo nên một bức tranh phức tạp về phát triển bền vững và thách thức toàn cầu.

- Cú s ố c : cú sốc về sứ khoẻ con người, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh cây trồng vật nuôi

- Tính th ờ i v ụ: biến động giá cả, sản xuất, sức khoẻ, những cơ hội làm việc

Các yếu tố cấu thành hoàn cảnh dễ bị tổn thương rất quan trọng vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng tài sản và lựa chọn của con người, từ đó mở ra cơ hội cho họ theo đuổi những kết quả sinh kế tích cực.

Những tài sản sinh kế

Các tài sản sinh kế bao gồm: Vốn con người (H), Vốn xã hội (S), Vốn tự nhiên (N),

Vốn vật chất hữu hình (P), Vốn tài chính

Hình dạng ngũ giác biểu thị khả năng tiếp cận tài sản của người dân, với tâm điểm là khu vực không thể tiếp cận tài sản nào Các điểm trên chu vi đại diện cho mức độ tiếp cận tối đa đến các loại tài sản Những ngũ giác khác nhau có thể được thiết kế cho từng cộng đồng hoặc các nhóm xã hội bên trong cộng đồng đó Đặc điểm của ngũ giác tài sản rất đa dạng và phản ánh sự khác biệt trong khả năng tiếp cận.

Hình dạng của ngũ giác phản ánh khả năng tiếp cận tài sản của người dân, với tâm điểm đại diện cho khu vực không thể tiếp cận bất kỳ loại tài sản nào Ngược lại, các điểm nằm trên chu vi của ngũ giác biểu thị mức độ tiếp cận tối đa với các loại tài sản khác nhau.

Các ngũ giác có hình dạng đa dạng có thể được thiết kế để đại diện cho các cộng đồng khác nhau hoặc cho các nhóm xã hội cụ thể trong cùng một cộng đồng.

Một tài sản riêng lẻ như đất đai có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế Khi một người sở hữu quyền truy cập chắc chắn vào đất đai, họ không chỉ có thể sử dụng nó cho các hoạt động sản xuất trực tiếp mà còn có khả năng tạo ra nguồn thu nhập từ việc cho thuê tài sản này.

- Phẩm chất của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay đổi liên tục theo thời gian

Hình ảnh này cho phép chúng ta so sánh mức độ tiếp cận tài sản giữa các nhóm xã hội khác nhau, từ đó xác định nhu cầu của từng nhóm nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa các loại tài sản.

Mối quan hệ giữa các loại tài sản:

Các loại tài sản liên kết với nhau theo nhiều cách để sinh ra kết quả thu nhập thực Hai cách kết hợp thông dụng nhất là:

Để thoát nghèo, người ta cần xác định sự tuần tự trong việc kết hợp các loại tài sản Việc tiếp cận một hoặc một vài tài sản cụ thể có thể là cần thiết, nhưng chưa chắc đã đủ để đảm bảo thoát nghèo Do đó, việc hiểu rõ các yếu tố và chiến lược kết hợp tài sản là rất quan trọng trong quá trình này.

Hình 1.2 Ngũ giác tài sản

Bài học kinh nghiệm

Đô thị hóa bền vững ở Hàn Quốc: thành tựu và những vấn đề đặt ra

Hàn Quốc, một trong những quốc gia có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất châu Á, đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng nhận ra những thách thức từ quá trình này Những kinh nghiệm quý báu của Hàn Quốc sẽ là bài học thiết thực cho các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam.

Những thành tựu đạt được

Từ những năm 70, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng điều chỉnh chiến lược phát triển đô thị thông qua việc mở rộng vùng đô thị và nâng cấp các đô thị hiện có Nhiều thành phố vệ tinh mới với quy mô vừa và nhỏ đã được xây dựng, trở thành các trung tâm công nghiệp lớn Những thành phố này tạo thành hành lang đô thị kết nối từ thành phố trung tâm đến các cảng biển phía Nam Hàn Quốc.

Những thành phố này đang trải qua sự tăng trưởng nhanh chóng, điển hình là thành phố Un-xan, từng là một làng chài nhỏ với chỉ vài ngàn dân vào năm 1960, nhưng chỉ sau 20 năm, đã có sự biến đổi mạnh mẽ.

Từ năm 1980, thành phố lớn thứ 7 của Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ, với sự hiện diện của công ty Hyundai và tổ lọc dầu lớn nhất nước Việc xây dựng các đô thị vừa và nhỏ kịp thời đã giúp Hàn Quốc tránh khỏi những khủng hoảng đô thị hóa nghiêm trọng mà nhiều quốc gia khác ở châu Á và châu Phi phải đối mặt Đô thị hóa tại Hàn Quốc gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, là hệ quả trực tiếp của sự phát triển này Sau 5 năm thực hiện đô thị hóa nhanh chóng, các thành phố lớn như Seoul và Busan đã trở thành "khối nam châm" thu hút tài nguyên và lao động từ khắp nơi trên cả nước chỉ trong vòng 15 năm (1975-1990).

Từ năm 1990, số lượng thành phố vệ tinh của Xơ-un đã tăng từ 4 thành phố (Kung-nam, Ư-giông-bu, An-yang, Bu-chon) với dân số 7.514 người lên 11 thành phố (bao gồm Koan-mi-ung, Koa-luan, Che-on, Ku-ri, Si-hung, Kun-po, I-oan, Ha-nam) với tổng dân số 13.431 người Đây là một kỳ tích mà chưa quốc gia nào ở châu Á đạt được Các thành phố vệ tinh này nằm cách trung tâm 40km và được kết nối bằng hệ thống tàu điện ngầm và đường cao tốc.

Năm 1990, 45% dân số Hàn Quốc sinh sống tại khu vực đô thị Xơ-un Từ sau năm 1980, nhiều khu định cư mới dành cho tầng lớp trung lưu như Bun-dang, I-li-xan và Py-ung-chon đã được hình thành xung quanh Xơ-un, tạo ra một xu hướng mới trong việc phát triển và sử dụng các chung cư cao tầng.

Bảng 1.1: So sánh mức độđô thị hóa

Các nước kém phát triển 16,5% 26,68% 40,67%

Các nước tư bản phát triển 28,2% 37,73% 47,52%

(Nguồn : Phát triển và xã hội – trường đại học Xơ-un, tập 27, 6-1998, tr 100)

Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Hàn Quốc đã tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội và môi trường, đồng thời thúc đẩy tỷ lệ dân cư đô thị và sự văn minh hóa của đất nước Sự phát triển kinh tế đô thị đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp và nông thôn ven đô, với cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng gia tăng dịch vụ và các ngành phi nông nghiệp Điều này đã điều chỉnh cơ cấu kinh tế của các đô thị lớn, giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng cường vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP Các đô thị như Xơ-un, Pu-san và Kung-nam đóng góp 66% vào GDP quốc gia, khẳng định vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế.

Sau hơn 35 năm đô thị hóa từ 1970 đến 2007, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, với hơn 88% dân số sống ở đô thị và sự phát triển mạnh mẽ của các thành phố lớn như Xơ-un, Pu-san và Ti-gu Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đã giúp cải thiện đời sống xã hội, xóa đói giảm nghèo, và nâng cao chất lượng giáo dục, dịch vụ y tế Thành công này phần lớn nhờ vào sự chỉ đạo của chính phủ trong việc huy động nguồn lực, cùng với các chiến lược phát triển phù hợp với từng địa phương, tập trung vào tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu Bên cạnh đó, văn hóa truyền thống cũng đóng góp vào việc hình thành một đội ngũ lao động chất lượng cao và một nền công nghiệp vững mạnh.

Theo các chuyên gia nghiên cứu quy hoạch đô thị, hệ thống đô thị Hàn Quốc bắt đầu bộc lộ những hạn chế sau:

Sự mất cân đối giữa đô thị và nông thôn tại Hàn Quốc ngày càng nghiêm trọng do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, dẫn đến di dân từ nông thôn lên thành phố Tỷ lệ lao động nông thôn giảm mạnh từ 78% vào năm 1960 xuống chỉ còn 10% vào năm 2000, gây ra tình trạng mất đất canh tác và thiếu lao động nông nghiệp Những vấn đề này đã tạo ra trở ngại cho Hàn Quốc trong việc đảm bảo an toàn lương thực và cân đối lực lượng lao động giữa các khu vực công nghiệp và đô thị.

Dân số đô thị ở Hàn Quốc đã tăng từ 28% vào năm 1960 lên 74,4% vào năm 1990, chủ yếu tập trung tại hai thành phố lớn là Xơ-un và Pu-san Sự gia tăng nhanh chóng của đô thị hóa đã dẫn đến nhiều vấn đề như nhà ở, giao thông, dịch vụ và sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế giữa các vùng Điều này cũng gây ra sự chênh lệch thu nhập đáng kể giữa khu vực thành thị và nông thôn.

Năm 1990, thu nhập trung bình của nông trại chỉ đạt 81% so với thu nhập của một hộ gia đình công nhân ở thành phố, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa nông thôn và thành thị Sự khác biệt này không chỉ thể hiện ở thu nhập mà còn ở chất lượng giáo dục, cơ hội nâng cao thu nhập gia đình, cũng như chất lượng các phúc lợi xã hội và dịch vụ công cộng khác Những yếu tố này lý giải tại sao chỉ trong vòng 5 năm (1985-1990), tình hình giữa hai khu vực này vẫn tiếp tục bất bình đẳng.

1990), Hàn Quốc đã có tới 1,2 triệu lao động nông thôn đổ ra thành phố tìm việc làm

Sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế Hàn Quốc đã gia tăng do quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, dẫn đến đô thị hóa nhanh chóng và sự suy giảm quy mô ngành nông nghiệp Việc thiếu chú trọng phát triển nông nghiệp đã gây ra nhiều vấn đề cho khu vực nông thôn, như ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp và phân hóa học, năng suất nông nghiệp thấp do đất đai ô nhiễm, và mức sống của nông dân không được cải thiện Chính sách cơ giới hóa nông nghiệp cũng đã khiến nhiều nông dân rơi vào tình trạng nợ nần do gánh nặng vốn và chi phí thuê lao động cao, cùng với các chi phí sinh hoạt tăng lên.

Đô thị hóa đã dẫn đến sự phân hóa xã hội rõ rệt giữa thành phố và nông thôn Mặc dù chính phủ Hàn Quốc nỗ lực thúc đẩy công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, nhưng tình trạng phân hóa xã hội ngày càng gia tăng đang trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng, cần được giải quyết một cách kịp thời và nhất quán.

Sau năm 1980, nhiều tỉnh và vùng đã đầu tư vào việc xây dựng các đô thị mới với hy vọng chúng sẽ trở thành động lực kinh tế Tuy nhiên, không phải thành phố nào cũng thu hút được đầu tư, dẫn đến tình trạng các thành phố “bong bóng” (bubble cities) Nhiều thành phố như Chun-chon, Un-du, Ku-ăng-du và Xun-chon đã không tăng dân số mà còn giảm dần do không còn khả năng phát triển.

Quá trình đô thị hóa vùng ven đô thành phố Hồ Chí Minh từ sau đổi mới (1986 – 1996)

Từ năm 1986 đến 1996, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, thể hiện qua việc tập trung dân cư vào các khu vực đô thị Quá trình này cũng đồng thời dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó sản xuất nông nghiệp giảm sút trong khi sản xuất phi nông nghiệp ngày càng gia tăng.

Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng

Kể từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới, Sài Gòn đã nhanh chóng phát triển thành trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ, nhờ vào tiềm năng khoa học kỹ thuật và quan hệ thương mại quốc tế Với vị thế là một thành phố trẻ và nền kinh tế đa thành phần, Sài Gòn dẫn đầu cả nước về tốc độ đô thị hóa, diễn ra trên diện rộng cả trong nội đô và vùng ven.

Ven đô thành phố Hồ Chí Minh bao gồm nhiều quận ven nội và các huyện cửa ngõ, nổi bật như Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn và Thủ Đức Khu vực này không chỉ có vai trò quan trọng trong việc kết nối các phần của thành phố mà còn là nơi phát triển kinh tế và xã hội sôi động.

(Tham khảo từ bài viết của Nguyễn Thị Thủy – Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh) luan van, khoa luan 23 of 66.

Nhà Bè và Bình Chánh, những khu vực ven đô, đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ làn sóng di dân nông thôn ra thành phố Quá trình đô thị hóa tại đây diễn ra nhanh chóng, biến đổi diện mạo và đời sống của người dân.

Trong quá trình đô thị hóa, hiện tượng di dân từ nông thôn ra thành phố diễn ra phổ biến ở nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam Công cuộc đổi mới đã cải thiện quan hệ sản xuất và thu hút lao động từ nông thôn, dẫn đến sự gia tăng dân số đột ngột tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh Theo nghiên cứu, hàng trăm người từ nhiều thành phần xã hội, từ trí thức đến công nhân và nông dân, hàng ngày đổ về thành phố với mong muốn tìm kiếm việc làm, thăng tiến trong sự nghiệp và tìm kiếm cơ hội phát triển Sự di chuyển này đã góp phần làm gia tăng dân số cơ học tại các đô thị.

Hồ Chí Minh vượt trội so với các thành phố khác

Ven đô không chỉ tiếp nhận dân nhập cư từ nông thôn mà còn là nơi giãn dân từ nội thành, nhờ vào chính sách chỉnh trang đô thị và giải phóng nhà ổ chuột Nơi đây đã thu hút nhiều cư dân từ các quận trung tâm, đặc biệt là những người giàu có tìm kiếm đất đai để xây dựng biệt thự làm nơi nghỉ ngơi vào cuối tuần hoặc trong các dịp lễ Bên cạnh đó, sự gia tăng các cơ sở công nghiệp và xí nghiệp liên doanh cũng đã thu hút nhiều lao động từ nông thôn đến làm việc trong các ngành nghề như xây dựng, may mặc, và chế biến thực phẩm Tất cả những yếu tố này đã góp phần làm tăng nhanh chóng dân số ven đô.

Áp lực dân số tại thành phố Hồ Chí Minh không chỉ mang lại nguồn lực lao động dồi dào mà còn tạo ra nhiều thách thức nghiêm trọng Các vấn đề như lao động - việc làm, nhà ở và tệ nạn xã hội cần được chính quyền địa phương xem xét và giải quyết kịp thời để đảm bảo sự phát triển bền vững cho thành phố.

Nét nổi bậc trong quá trình đô thị hoá của ven đô thành phố Hồ Chí Minh là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế

Diện tích sản xuất nông nghiệp ở các quận ven đang giảm sút do nhiều nguyên nhân, trong đó tốc độ đô thị hóa nhanh chóng là yếu tố chính Đất nông nghiệp ngày càng bị chuyển đổi sang các mục đích khác như xây dựng nhà máy, khu dân cư và công trình phúc lợi Thêm vào đó, sự chiếm giữ đất của những cư dân giàu có thông qua mua bán và sang nhượng cũng góp phần làm giảm diện tích đất nông nghiệp Bên cạnh đó, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp và bấp bênh đã khiến nhiều hộ nông dân chuyển sang các ngành nghề khác để cải thiện đời sống.

Ngoài những thành tựu cơ bản nêu trên, quá trình đô thị hóa đã để lại một số tồn tại:

-Vấn đề di dân nông thôn – thành thị và gia tăng dân số cơ học

Sự gia tăng dân số trong quá trình đô thị hóa tại vùng ven thành phố Hồ Chí Minh đã tạo ra nhiều thách thức nghiêm trọng, bao gồm việc giải quyết công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp, nhu cầu về nhà ở và các vấn đề liên quan đến tệ nạn xã hội, khiến cho trật tự xã hội ở khu vực ven đô ngày càng trở nên phức tạp.

- Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo

Trong bối cảnh đô thị hóa và phát triển, người dân đô thị cần nâng cao trình độ văn hóa và tay nghề để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật - công nghệ Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn nhiều người thất học ở ven đô thành phố Khu chế xuất Tân Thuận tại Nhà Bè đang cần tuyển công nhân, nhưng số lượng người dân địa phương được tuyển dụng rất ít Tình trạng thất học, thất nghiệp và đói nghèo sẽ dẫn đến phân tầng xã hội và phân hóa giai cấp, gây ra bất ổn cho mục tiêu phát triển một xã hội đô thị công bằng, ổn định và văn minh.

- Vấn đề ô nhiễm môi trường:

Tình trạng chiếm dụng đất công và xây dựng trái phép tại các quận, huyện ven đô đang cản trở việc tiêu thoát nước và gây ô nhiễm môi trường Sự gia tăng dân số nhập cư cùng với trình độ học vấn hạn chế đã dẫn đến lối sống không hợp vệ sinh, như việc vứt rác thải và xác động vật bừa bãi Mức sống cao cũng góp phần làm tăng lượng rác thải tại các hộ gia đình, nếu không được xử lý kịp thời sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, từ đó dễ dàng lây lan bệnh tật trong cộng đồng.

Bài học kinh nghiệm được đúc kết

Dựa trên nghiên cứu các bài học từ nước ngoài và thành phố Hồ Chí Minh, tác giả rút ra một số nhận xét quan trọng nhằm hạn chế các yếu tố tiêu cực trong quá trình đô thị hóa Còn nhiều vấn đề cần giải quyết, do đó, cần xem xét một số khía cạnh cụ thể để cải thiện tình hình hiện tại.

Đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục là cách hiệu quả để nâng cao dân trí và nhận thức cộng đồng Điều này không chỉ giúp giải quyết vấn đề lao động và việc làm, mà còn đảm bảo cho người dân có thu nhập ổn định, từ đó làm chủ cuộc sống của chính mình.

Hạn chế và quản lý hiệu quả đối với dân nhập cư là cần thiết để thiết lập trật tự xã hội, góp phần xây dựng một xã hội đô thị ổn định và bền vững.

Để nâng cao chất lượng sống tại đô thị, cần tăng cường giáo dục nếp sống văn minh và xây dựng gia đình văn hóa mới cho cư dân Việc này sẽ giúp hạn chế các hành vi tiêu cực, từ đó bảo vệ và phát triển lối sống văn minh, lịch sự trong cộng đồng đô thị.

Đổi mới quản lý nhà đất đô thị là cần thiết để bảo vệ tài nguyên quý giá của thành phố Cần tăng cường các biện pháp quản lý đất đai hiệu quả nhằm đảm bảo quy hoạch và phát triển đô thị bền vững trong tương lai.

Đô thị hóa và công nghiệp hóa cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường, đồng thời đầu tư vào cải thiện vệ sinh môi trường để đảm bảo cân bằng sinh thái Quy hoạch phân vùng hợp lý là yếu tố quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu về chỗ ở, nơi làm việc, giao thông và các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí cho cá nhân và toàn xã hội.

Chương I đã trình bày những nội dung cơ bản của đô thị hóa và công nghiệp hóa Đồng thời, người viết đã tìm hiểu kinh nghiệm của quá trình đô thị hóa ở Hàn Quốc với những thành tựu và những vấn đề hạn chế Luận văn cũng đã phản ảnh một phần quá trình đô thị hóa vùng ven đô thành phố Hồ Chí Minh từ sau đổi mới Lấy thời điểm sau đổi mới vì rất gần với thời điểm hiện nay của Long An (huyện Bến Lức) trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa

Dựa trên nghiên cứu hai trường hợp, luận văn đã rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng giải pháp cho các địa phương đang trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa, nhằm phát triển bền vững Nội dung này sẽ được trình bày chi tiết trong các chương tiếp theo.

GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HUYỆN BẾN LỨC –

TỈNH LONG AN luan van, khoa luan 27 of 66.

CHƯƠNG II: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HUYỆN BẾN LỨC–TỈNH LONG AN

Vị trí địa lý Long An

Long An là một trong chín tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, phía đông giáp thành phố

Hồ Chí Minh nằm ở phía tây giáp Đồng Tháp, phía nam giáp tỉnh Tiền Giang, phía bắc giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Svây – riêng (Campuchia) Tỉnh Long An có đường biên giới quốc gia với Campuchia dài 137 km và hai huyện Cần Giuộc, Cần Đước tiếp giáp với sông Soài Rạp Với vị trí chiến lược gần thành phố Hồ Chí Minh, Long An là cầu nối giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và đồng bằng sông Cửu Long, có các tuyến giao thông huyết mạch và cửa sông Soài Rạp thuận lợi cho giao thông thủy.

Khí hậu nhiệt đới gió mùa, hai mùa mưa và mùa khô rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm là 27,4 o C, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10

Hình 2.1: Bản đồ tỉnh Long An

(Nguồn: Website tỉnh Long An)

Long An có tọa độ địa lý 10 o 08'30'' đến 11 o 02'30'' độ vĩ Bắc, 105 o 0'30'' đến

Long An, tọa độ 106°47'02" độ kinh Đông, là thủ phủ của tỉnh Long An và nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 47 km theo quốc lộ 1 Tỉnh này không chỉ là cầu nối giữa thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Tây mà còn là cửa ngõ vào đồng bằng sông Cửu Long, với các tỉnh miền Tây như Cà Mau nằm ở phía cuối hành trình.

Long An nổi bật với mạng lưới sông ngòi và kênh rạch chằng chịt, trong đó hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây là những con sông chính Sông Vàm Cỏ Đông dài hơn 200 km, bắt nguồn từ Campuchia, chảy qua các huyện Đức Huệ, Đức Hoà, Bến Lức, Tân Trụ và Cần Đước Trong khi đó, sông Vàm Cỏ Tây dài trên 230 km, cũng bắt nguồn từ Campuchia và chảy qua các huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hoá, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hoá, Thủ Thừa, Vĩnh Hưng và Tân Hưng Ngoài ra, Long An còn có bốn tôn giáo chính là Phật giáo, Ki tô giáo, đạo Cao Đài và đạo Tin Lành.

Long An là một tỉnh nông nghiệp với đất đai màu mỡ nằm giữa hai con sông lớn Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây Phía Bắc tỉnh có một số gò, đồi thấp, trong khi phần còn lại chủ yếu bằng phẳng Khu vực phía Tây thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười Mặc dù Long An chưa hoàn toàn nằm trong đồng bằng sông Cửu Long, nhưng tỉnh này nằm giữa hệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

Vị trí địa lý huyện Bến Lức

Huyện Bến Lức, nằm ở phía đông tỉnh Long An, là một phần của vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp ranh với huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh dài 18,97 km về hướng đông Phía bắc huyện giáp với huyện Đức Hòa và Đức Huệ, phía tây tiếp giáp huyện Thủ Thừa và Tân Trụ, còn phía nam giáp huyện Cần Đước Huyện có diện tích tự nhiên 28.932,21 ha, chiếm 6,44% tổng diện tích tỉnh, trong đó đất nông nghiệp là 21.974 ha, tương đương 75,95% diện tích tự nhiên Dân số năm 2006 đạt 131.308 người với mật độ 454 người/km².

Hình 2.2: Bản đồ huyện Bến Lức

(Nguồn: Website tỉnh Long An) luan van, khoa luan 29 of 66.

Huyện Bến Lức nổi bật với đất đai phân bổ hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông dài 24 km, cùng với quốc lộ 1A - trục đường huyết mạch nối liền miền Đông Nam Bộ với đồng bằng Sông Cửu Long, chạy qua huyện theo hướng đông tây dài 15 km Ngoài ra, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương và các tuyến đường bộ như tỉnh 830, 832, 835, cùng với hệ thống đường thủy, tạo điều kiện thuận lợi cho Bến Lức hội nhập vào vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển công nghiệp mà còn mở ra nhiều cơ hội cho các lĩnh vực nông lâm, ngư nghiệp, thương mại, dịch vụ và khoa học công nghệ tại Bến Lức trong nền kinh tế thị trường.

Bến Lức sở hữu hệ thống giao thông thủy và bộ thuận lợi, với các tuyến đường huyết mạch như quốc lộ 1A, đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương và đường N2, kết nối trực tiếp với đồng bằng sông Cửu Long Việc hoàn thiện cảng Bourbon giúp Bến Lức thông ra biển Đông qua cửa sông Xoài Rạp, tạo động lực mới cho sự phát triển kinh tế Những lợi thế này đã thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp, nhà đầu tư và thương nhân từ TP.HCM, đòi hỏi Bến Lức cần có cơ chế chính sách hiệu quả để thu hút đầu tư và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Huyện Bến Lức có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao quanh năm và lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.625 mm, phân bổ không đều Mưa chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 85% tổng lượng mưa, trong khi mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 chỉ chiếm 15% Chế độ mưa này ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, với phần lớn diện tích canh tác được trồng hai vụ lúa mỗi năm; vụ hè thu sử dụng giống ngắn ngày năng suất cao và vụ đông xuân trồng lúa đặc sản.

Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm đạt khoảng 2.630 giờ, tương đương 7,2 giờ nắng mỗi ngày Tháng có số giờ nắng cao nhất là tháng 2 và tháng 3 với khoảng 267 giờ, trong khi tháng 8 có số giờ nắng ít nhất, chỉ khoảng 189 giờ Nhiệt độ trung bình hàng năm là 27°C, và độ ẩm không khí trung bình hàng năm là 82,79%.

Sông Vàm Cỏ Đông, dài 21 km và rộng trung bình từ 200 đến 235 m, bắt nguồn từ Campuchia và chảy ra biển Đông qua Bến Lức Độ sâu của sông dao động từ 11 đến 12 m, nhưng vào mùa cạn, lưu lượng nước chỉ đạt khoảng 11 m³/s, và hạ lưu sông chịu ảnh hưởng mạnh từ thủy triều.

Sông Bến Lức kết nối sông Vàm Cỏ Đông với sông Sài Gòn qua kinh Đôi, có chiều rộng từ 20 - 25 m và độ sâu từ 2 - 5 m, chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn sông Vàm Cỏ Đông Hai con sông này mang lại giá trị lớn về giao thông cho huyện Bến Lức, cho phép tàu thuyền dễ dàng di chuyển ra biển Đông từ Vàm Cỏ Đông.

Kênh Thủ Đoàn kết nối sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây, hình thành một mạng lưới kênh rạch dày đặc Hệ thống này đóng vai trò quan trọng trong thủy lợi và giao thông, hỗ trợ sản xuất và lưu thông hàng hóa hiệu quả.

Hiện trạng phát triển kinh tế xã hội huyện Bến Lức

Tăng trưởng kinh tế

Theo nghị quyết đại hội lần IX huyện Đảng bộ, Bến Lức đã thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, dẫn đến sự phát triển đáng kể Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 20%, tăng mạnh so với giai đoạn 1996-2000 chỉ 6% Các lĩnh vực kinh tế cũng có sự phân chia rõ rệt.

Ngành nông, lâm, ngư nghiệp ghi nhận tốc độ tăng trưởng 3,3%, thấp hơn 0,9% so với giai đoạn 1996-2000 Nguyên nhân chính là do giá cả nông sản, đặc biệt là cây mía, luôn bấp bênh, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ ở các xã phía nam huyện, dẫn đến diện tích nông nghiệp bị thu hẹp.

Ngành công nghiệp – xây dựng (CN-XD) đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng, với mức tăng trưởng bình quân đạt 25,5% trong giai đoạn 2001-2005, vượt xa kế hoạch đề ra là 5,5% Trong giai đoạn 1996-2000, tăng trưởng đạt 9,4% Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực này chủ yếu nhờ vào việc tỉnh đã chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng kinh tế trọng điểm và thực hiện chính sách thu hút đầu tư Tính đến cuối năm 2007, đã có 17 dự án đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và 12 dự án dân cư đô thị, tổng diện tích đầu tư lên tới 2.547,4 ha.

Thương mại dịch vụ đã đạt mức tăng trưởng 16% trong giai đoạn 2001-2005, cao hơn 6% so với giai đoạn 1996-2000 và vượt kế hoạch đề ra 1%.

Cơ cấu kinh tế

Tính đến năm 2005, cơ cấu kinh tế huyện đã chuyển dịch tích cực, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng và thương mại dịch vụ Sự chuyển dịch này không chỉ mang tính hiện đại mà còn tạo điều kiện giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

- Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp: có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu, năm

2004 khu vực này chiếm 14%, giảm so với năm 2000 là 7% và năm 2005 là 12%

- Khu vực công nghiệp – xây dựng: có xu hướng tăng dần tỷ trọng, năm 2004 chiếm 68%, cao hơn kế hoạch 2%, năm 2005 chiếm 70,5% tăng hơn năm 2000 là 13,5%

Khu vực thương mại và dịch vụ đã có sự phát triển đáng kể, với tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế đạt 18% vào năm 2004 và tăng lên 20% vào năm 2005, vượt kế hoạch 1% và tăng 6% so với năm 2000.

Khu vực kinh tế Nhà nước đang có xu hướng giảm tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế, nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng lên Điều này cho thấy sự gia tăng nhanh chóng của đầu tư vào các thành phần kinh tế khác, phù hợp với chủ trương của Nhà nước.

Khu vực đầu tư nước ngoài đã có sự gia tăng đáng kể trong cấu trúc giá trị, bắt đầu từ mức thấp 2% vào năm 1993 Từ đó, tỷ lệ này đã tăng nhanh chóng, đạt 17% vào năm 2000 và 32% vào năm 2005.

Từ năm 2000 đến 2005, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đã tăng từ 595 USD (8,925 triệu đồng) lên 1.160 USD (18,560 triệu đồng), tương đương với mức tăng hơn 1,9 lần Trung bình mỗi năm trong giai đoạn này, thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng 14,3%.

Công tác giải quyết việc làm và giảm nghèo đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhờ sự quan tâm của các ngành, cấp và đoàn thể đối với chương trình quốc gia Qua quá trình triển khai với nhiều hoạt động cụ thể, chương trình đã hỗ trợ các hộ nghèo giảm bớt khó khăn và từng bước vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống.

Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 6,8% vào năm 2000 xuống còn 1,76% vào năm 2004 Tuy nhiên, với việc áp dụng tiêu chí hộ nghèo theo chuẩn mới, vào năm 2005, toàn huyện ghi nhận có 1.004 hộ nghèo.

3,3% Bình quân hàng năm huyện huy động gần 30 tỷ đồng từ các nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo

Giữa giai đoạn 2001-2005, huyện đã giải quyết việc làm cho 28.095 lao động, đạt 175,6% kế hoạch, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu thành thị xuống còn 1,2% và nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 65,5% lên 75% vào năm 2006 Nhờ vào sự quan tâm củng cố và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2003 và phổ cập trung học cơ sở vào cuối năm 2007, hướng tới mục tiêu phổ cập trung học phổ thông Hệ thống trường lớp đã được nâng cấp và xây mới, xóa bỏ tình trạng học 3 ca và trường tạm bợ.

Ngân sách đầu tư cho giáo dục hàng năm đã tăng 12%, chiếm 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, cho thấy sự quan tâm của chính phủ đối với lĩnh vực này Việc xã hội hóa giáo dục đang dần mang lại hiệu quả tích cực, với chất lượng đào tạo có sự cải thiện rõ rệt Hiện tại, toàn huyện có 8 trường đạt chuẩn quốc gia, chứng minh những nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.

Hệ thống kết cấu hạ tầng

Tính đến năm 2000, huyện chỉ có 24 km đường nhựa quốc lộ 1A và 1 km đường nội thị Đến năm 2007, tổng chiều dài đường nhựa trong huyện đã tăng lên 45 km (không tính quốc lộ 1A) Hệ thống cầu đường đã được cải thiện đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân.

Mạng lưới giao thông đường thủy tại khu vực này được hình thành dựa vào các lợi thế tự nhiên, với những tuyến đường thủy chính bao gồm sông Vàm Cỏ Đông, sông Bến Lức và kênh Sáng Lớn.

Vào năm 2000, ba xã Thành Lợi, Thạnh Hòa và Bình Đức chưa có đường ô tô, người dân chủ yếu di chuyển bằng ghe Hiện nay, đã có đường ô tô tới trung tâm xã và gần 15 cây cầu mới được xây dựng cho tuyến đường này, bao gồm 3 cầu bắc qua sông Vàm Cỏ Đông (cầu Bến Lức 2, cầu cao tốc, cầu N2), trong khi trước đây chỉ có cầu Bến Lức.

Tính đến nay, toàn huyện đã có 219,97 km đường dây tải điện 15kV, tăng 40 km so với năm 2000, trong khi đó đường điện hạ thế phát triển đạt 86,7 km Tỷ lệ dân cư có điện sinh hoạt hiện đạt 99%, tăng 9% so với năm 2000, đồng thời chất lượng điện sinh hoạt cũng từng bước được cải thiện.

Theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", hiện nay 80% hộ dân trong huyện đã có nước sạch để sinh hoạt, tăng 20% so với năm 2000 Đồng thời, hệ thống trường tiểu học và trạm y tế cũng được cải thiện, phục vụ tốt hơn nhu cầu của cộng đồng.

Huyện có 100% xã, thị trấn sở hữu trường trung học cơ sở và từ 2-3 trường tiểu học mỗi xã, thị trấn Ngoài ra, toàn huyện có 3 trường phổ thông trung học công lập và bán công Bên cạnh đó, 100% xã, thị trấn đều có trạm y tế đạt chuẩn, đảm bảo chất lượng chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.

Thông tin liên lạc tại huyện đã phát triển nhanh chóng, với hầu hết các xã đều có bưu điện và nhà văn hóa xã Tính đến cuối năm 2005, tỷ lệ máy điện thoại đạt 9 máy/100 người, tăng 6 máy so với năm 2000.

Tốc độ tăng dân số và cơ cấu dân số

Trong thời gian qua, huyện đã xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực quản lý trong các lĩnh vực được phân công Công tác đào tạo nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và văn hóa được đặc biệt chú trọng Hiện nay, tổ chức cán bộ đã đi vào nề nếp, đáp ứng yêu cầu của địa phương, với 73,84% cán bộ lãnh đạo chủ chốt có trình độ đại học chuyên môn, 52,13% có trình độ cao cấp chính trị và 36,92% có trình độ trung cấp chính trị.

Huyện Bến Lức chưa xác định chiến lược cán bộ dài hạn, dẫn đến nhu cầu cán bộ quản lý về số lượng và chất lượng trong từng ngành chưa được hoạch định cụ thể Việc đào tạo cán bộ thường bị động và phụ thuộc vào các trường, tổ chức đào tạo Cán bộ quản lý Nhà nước còn hạn chế, với nhiều bộ phận mỏng và lực lượng kế thừa yếu kém, không đáp ứng được nhiệm vụ Điều này ảnh hưởng đến khả năng tham mưu cho các cấp chính quyền, khiến thông tin thiếu chính xác và không khoa học.

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1996-2005 tăng 14,76% Đến năm 2006 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên chỉ còn 11,26%

Năm 2006, dân số nữ trong huyện đạt 66.834 người, chiếm 50,9% tổng dân số, trong khi lao động nữ chiếm 50,56% tổng số lao động trong các ngành kinh tế.

Dân cư Bến Lức phân bố không đồng đều, chia thành hai vùng rõ rệt: khu vực phía nam có mật độ dân số cao với nhiều xã và thị trấn, trong khi phía bắc lại thưa thớt Sự chênh lệch này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển kinh tế không đồng đều của địa phương.

Dân số nông thôn hiện chiếm 85,84%, với hệ số sử dụng thời gian lao động tăng từ 65,5% vào năm 2000 lên 75% vào năm 2006 Trong những năm gần đây, tình trạng di chuyển lao động từ khu vực nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng về dân số cơ học tại khu vực này.

Bảng 2.1: Diện tích, dân số năm 2007 huyện Bến Lức

Stt Xã, thị trấn Số ấp, khu phố

Diện tích (m 2 ) Dân số Mật độ

Mức độ đô thị hóa là chỉ số quan trọng để xác định tỷ lệ phần trăm dân số sống tại khu vực đô thị so với tổng dân số Thông tin này được cung cấp bởi Phòng số liệu thống kê huyện Bến Lức.

Bảng 2.2: Mức độ đô thị hóa giữa huyện Bến Lức với toàn tỉnh Long An

Số lượng % so với số dân Số lượng % so với số dân

(Nguồn: số liệu phòng thống kê huyện Bến Lức) luan van, khoa luan 35 of 66.

Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa là yêu cầu khách quan trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa huyện Bến Lức Quá trình này mang lại nhiều lợi ích, như tạo ra môi trường thuận lợi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cung cấp lực lượng lao động kỹ thuật Tuy nhiên, nếu không có quy hoạch lâu dài và kiểm soát chặt chẽ từ Nhà nước, hậu quả xã hội của đô thị hóa nhanh có thể trở nên tiêu cực.

Trong những năm gần đây, luồng di cư tự do từ nông thôn ra thành phố để tìm kiếm việc làm và cơ hội học tập đã gia tăng đáng kể Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải về nhà ở, việc làm, dịch vụ, vệ sinh môi trường và giao thông, đồng thời tạo ra một lớp dân cư nghèo mới.

Các điều kiện phát triển

Đất đai

Theo niên giám thống kê Bến Lức 2007 toàn huyện có diện tích tự nhiên là 28.953,87 ha Có 15 đơn vị hành chính gồm thị trấn Bến Lức và 14 xã

Theo quy hoạch sử dụng đất huyện Bến Lức, được thông qua tại kỳ họp thứ 9 khóa VIII của Hội đồng Nhân dân huyện qua Nghị quyết số 42/2003 NQ-HĐND.K8 ngày 23/07/2003, và được UBND tỉnh Long An phê duyệt theo quyết định số 4597/QĐ-UB ngày 23/07/2003, các chỉ tiêu sử dụng đất đã được xác định rõ ràng.

Bảng 2.3: Cơ cấu các loại đất

Theo báo cáo tình hình thực hiện các quy định pháp luật về đất đai tại huyện Bến Lức năm 2008, tổng diện tích đất tự nhiên không thay đổi, vẫn giữ ở mức 28.932,21 ha Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp giảm từ 22.582,67 ha năm 2002 xuống còn 19.161,12 ha năm 2010 Đất lâm nghiệp tăng mạnh từ 10,45 ha lên 759,43 ha, trong khi đất chuyên dùng cũng có sự gia tăng đáng kể từ 1.987,6 ha lên 5.592,55 ha Đất ở tại đô thị chứng kiến sự phát triển rõ rệt, từ 81,25 ha lên 1.809,24 ha, nhưng đất ở tại nông thôn lại giảm từ 775,6 ha xuống 531,12 ha Cuối cùng, diện tích đất chưa sử dụng giảm từ 3.494,64 ha xuống còn 1.078,75 ha.

Từ năm 2007, huyện Bến Lức đã trải qua những biến động lớn về đất đai do vị trí địa lý thuận lợi và các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư của UBND tỉnh Số lượng đăng ký đất đai đã vượt xa kế hoạch sử dụng đất ban đầu, dẫn đến việc UBND huyện Bến Lức phải xin phép UBND tỉnh để bổ sung và điều chỉnh quy hoạch đất ba lần, kèm theo các quyết định điều chỉnh và bổ sung cần thiết.

Bảng 2.4: Biến động về các loại đất ở huyện Bến Lức

Trong báo cáo tình hình thực hiện các quy định pháp luật về đất đai tại huyện Bến Lức năm 2008, diện tích đất công nghiệp đạt 2.871,31 ha, chiếm tỷ lệ 37,72% Đất ở tại đô thị là 1.809,24 ha, trong khi đất ở tại nông thôn chỉ còn 531,12 ha, giảm 50 ha Đất chuyên dùng khác tăng lên 2.721,24 ha, với mức tăng 88,41 ha, tương đương 3,13% Đặc biệt, diện tích đất nông nghiệp giảm xuống còn 19.161,12 ha, giảm 1.072 ha so với trước đó, chiếm 5,59%.

Dân số - Lao động

2.4.2.1 Quy mô lực lượng lao động

Năm 2006, tổng số lao động toàn huyện là 86.374 người, bằng 1,1 lần so với năm

Từ năm 2000 đến 2006, tỷ lệ tăng trưởng bình quân lao động đạt 1,84% mỗi năm, tương đương với việc gia tăng 1.589 người/năm Trong đó, lực lượng lao động thành thị chiếm 14,26% và tăng gần 0,2% hàng năm Dự báo trong những năm tới, tỷ lệ này sẽ tiếp tục gia tăng với tốc độ nhanh hơn nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa và công nghiệp hóa tại huyện.

Bảng 2.5: Lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi của LLLĐ Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

(Nguồn: Số liệu phòng thống kê huyện Bến Lức) luan van, khoa luan 37 of 66.

Theo bảng số liệu, lực lượng lao động trẻ (15-34 tuổi) tại Bến Lức đã giảm từ 50,96% năm 2000 xuống 50,83% năm 2006, trong khi lực lượng lao động trung niên (35-54 tuổi) tăng từ 26,44% lên 26,97% trong cùng thời gian Điều này cho thấy xu hướng già hóa của lực lượng lao động tại Bến Lức đang diễn ra theo thời gian.

Cơ cấu lao động theo ngành, nghề, khu vực

Biểu 2.1: Lực lương lao động phân chia theo ngành, nghề, khu vực năm 2006

Thành thị luan van, khoa luan 38 of 66.

(Nguồn: Số liệu phòng tài chánh kế hoạch huyện Bến Lức) Qua bảng số liệu lực lượng lao động phân theo ngành, nghề, khu vực cho thấy:

Lao động trong ngành nông nghiệp tại Bến Lức chiếm tỷ lệ cao trong khu vực nông thôn, nhưng đang có xu hướng giảm nhanh chóng, từ 80% năm 1995 xuống còn 45% năm 2006 Ngược lại, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ tăng từ 11% năm 1995 lên 25% năm 2006, phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Tuy nhiên, tỷ lệ lao động trong dịch vụ vẫn còn thấp và mức tăng chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Theo báo cáo về tình hình sử dụng lao động tại huyện Bến Lức, khu vực ngoài Nhà nước chiếm ưu thế với 70.073 người, tương đương 81,13% Trong khi đó, khu vực Nhà nước chỉ có 2.476 người, chiếm 2,86%, và khu vực hỗn hợp có 13.825 người, chiếm 16%.

Lực lượng lao động hiện nay chủ yếu tập trung tại các xã ven quốc lộ 1A, đô thị thị trấn Bến Lức và các xã giáp ranh thành phố Hồ Chí Minh Điều này tạo ra lợi thế quan trọng cho tỉnh Long An trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư từ thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển dịch về Bến Lức.

Trình độ học vấn của lực lượng lao động Bảng 2.6 : Trình độ học vấn của lực lượng lao động giai đoạn 2000-2006

STT Trình độ học vấn

Nông thôn Tổng số Thành thị

(Nguồn: Số liệu phòng giáo dục – đào tạo huyện Bến Lức) Qua bảng số liệu về trình độ học vấn của lực lượng lao động cho thấy:

Số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học trong lực lượng lao động đang giảm dần cả về số lượng và tỷ lệ Cụ thể, tỷ lệ này đã giảm từ 30,35% vào năm 2000.

2006 giảm xuống còn 6,26%, bình quân mỗi năm giảm 3.453 người với tốc độ giảm là 4%/năm

Số lượng và tỷ lệ người tốt nghiệp phổ thông trung học đang gia tăng nhanh chóng Cụ thể, tỷ lệ tốt nghiệp đã tăng từ 9,10% vào năm 2000 lên 14,14% vào năm 2006.

Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở khu vực thành thị vượt xa nông thôn, với tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học ở thành thị gấp 3,6 lần so với nông thôn vào năm 2000 Ngoài ra, tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ở thành thị cũng thấp hơn nhiều so với nông thôn.

Trình độ học vấn của lực lượng lao động huyện Bến Lức đã có sự cải thiện đáng kể so với toàn tỉnh Long An Năm 2000, tỷ lệ người dân biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ở Bến Lức là 30,25%, thấp hơn so với 36,43% của tỉnh Tuy nhiên, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học tại huyện Bến Lức đạt 9,10%, cao hơn mức 7,85% của toàn tỉnh Đến năm 2006, tỷ lệ chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ở Bến Lức giảm xuống còn 6,26%, so với 10,24% của tỉnh Long An, trong khi tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học của huyện Bến Lức đạt 14,14%, vượt qua mức 10,76% của toàn tỉnh Nhìn chung, trình độ văn hóa của huyện Bến Lức luôn cao hơn so với tỉnh Long An.

Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật

Số lượng và tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật:

Bảng 2.7: Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo khu vực

∑ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên 13.667 15.977 19.958 30.097 34.550 Trong đó: CNKT có bằng trở lên 2.432 3.175 4.789 8.427 11.056

+ % so với tồng số lao động 30,2 35,9 40,2 45,9 50,1

+ Trong đó: CNKT có bằng trở lên 820 982 1.409 1.916 2.534

+ % so với tồng số lao động 12,9 14,8 18,5 29 32,9

+ Trong đó: CNKT có bằng trở lên 4.623 6.911 9.237 15.983 18.975

Theo số liệu từ Phòng Nội vụ - LĐTB&XH huyện Bến Lức, phân bổ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa thành thị và nông thôn vẫn còn nhiều bất cập Toàn huyện, lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 85,84%, trong khi chỉ có 38,30% lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp học nghề trở lên Đặc biệt, tỷ lệ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên vào năm 2006 chỉ đạt 25,59%.

Theo thống kê về lao động việc làm, huyện Bến Lức có 17% dân số đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên, trong đó khoảng 13% là công nhân kỹ thuật có bằng cấp.

Từ năm 2002 đến 2006, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp học nghề trở lên tại huyện Bến Lức đã tăng đáng kể, từ 17,8% lên 40%, cao hơn mức trung bình của tỉnh Long An Tuy nhiên, số công nhân kỹ thuật có bằng cấp vẫn còn thấp và chất lượng chưa đạt yêu cầu, với tỷ lệ công nhân có bằng chỉ chiếm 3,2% vào năm 2000 và 12,8% vào năm 2006.

Biểu 2.2: Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp học nghề cả tỉnh Long An và huyện Bến Lức

(Nguồn: Phòng Nội vụ - LĐTB&XH huyện Bến Lức)

Biểu 2.3: Lực lượng lao động có trình độ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên của huyện Bến Lức so với cả tỉnh Long An

(Nguồn: Phòng Nội vụ - LĐTB&XH huyện Bến Lức)

2.4.2.3 Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm

Theo điều tra lao động việc làm giai đoạn 2000-2006, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị huyện Bến Lức thấp hơn mức trung bình của toàn tỉnh.

Vào năm 2000, tỷ lệ thất nghiệp thành thị toàn tỉnh là 5,63%, trong khi huyện Bến Lức chỉ ghi nhận tỷ lệ 1,8% Đến năm 2006, tỷ lệ thất nghiệp tại huyện Bến Lức tiếp tục giảm xuống còn 1,5%, cho thấy sự phát triển kinh tế tích cực của khu vực này so với toàn tỉnh.

4,68% luan van, khoa luan 42 of 66.

Bảng 2.8: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị chia theo nhóm tuổi

Tình trạng thất nghiệp trong lực lượng lao động khu vực thành thị cho thấy tỷ lệ thất nghiệp tỷ lệ nghịch với độ tuổi, với người cao tuổi có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn so với lao động trẻ Điều này chỉ ra rằng thất nghiệp là vấn đề nghiêm trọng đối với người lao động trẻ.

Các đặc điểm về sinh kế của người dân

Các khả năng tiếp cận

Các tác động của phát triển công nghiệp

Ngày đăng: 11/10/2021, 21:09

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1 Khung sinh kế bền vững - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Hình 1.1 Khung sinh kế bền vững (Trang 18)
Bảng 1.1: So sánh mức độ đô thị hóa - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 1.1 So sánh mức độ đô thị hóa (Trang 21)
Hình 2.1: Bản đồ tỉnh Long An - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Hình 2.1 Bản đồ tỉnh Long An (Trang 28)
Hình 2.2: Bản đồ huyện Bến Lức - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Hình 2.2 Bản đồ huyện Bến Lức (Trang 29)
Bảng 2.1: Diện tích, dân sốn ăm 2007 huyện Bến Lức Stt Xã, th ị trấn  khu phSốấp,  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 2.1 Diện tích, dân sốn ăm 2007 huyện Bến Lức Stt Xã, th ị trấn khu phSốấp, (Trang 35)
Bảng 2.3: Cơ cấu các loại đất - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 2.3 Cơ cấu các loại đất (Trang 36)
Bảng 2.5: Lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi N ăm 2000 Nă m 2006  Nhóm tu ổi  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 2.5 Lực lượng lao động phân theo nhóm tuổi N ăm 2000 Nă m 2006 Nhóm tu ổi (Trang 37)
Qua bảng số liệu lực lượng lao động phân theo ngành, nghề, khu vực cho thấy: - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
ua bảng số liệu lực lượng lao động phân theo ngành, nghề, khu vực cho thấy: (Trang 39)
Bảng 2.7: Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo khu vực Ch ỉ tiêu 2002 2003 2004 2005  2006  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 2.7 Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật theo khu vực Ch ỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 (Trang 41)
Bảng 2.8: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao độn gở khu vực thành th ị chia theo nhóm tuổi  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 2.8 Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao độn gở khu vực thành th ị chia theo nhóm tuổi (Trang 43)
2.5. Tình hình phát triển công nghiệp Bến Lức - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
2.5. Tình hình phát triển công nghiệp Bến Lức (Trang 44)
Bảng 3.1: Các xã tiến hành khảo sát Xã S ố hộ  T ỷ  l ệ  %  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.1 Các xã tiến hành khảo sát Xã S ố hộ T ỷ l ệ % (Trang 50)
Bảng 3.3: Số lao động chính trong các hộ khảo sát S ố hộTỷ lệ %  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.3 Số lao động chính trong các hộ khảo sát S ố hộTỷ lệ % (Trang 51)
Bảng 3.7: Trình độ học vấn các thành viên trong hộ - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.7 Trình độ học vấn các thành viên trong hộ (Trang 53)
Bảng 3.8: Cơ cấu đất sử dụng bình quân hộ - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.8 Cơ cấu đất sử dụng bình quân hộ (Trang 54)
Bảng 3.15: Thống kê mái nhà ở huyện Bến Lức Mái nhà S ố hộTỷ lệ %  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.15 Thống kê mái nhà ở huyện Bến Lức Mái nhà S ố hộTỷ lệ % (Trang 58)
3.2.5. Tài sản xã hội (vốn xã hội) - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
3.2.5. Tài sản xã hội (vốn xã hội) (Trang 59)
Bảng 3.25: Tình trạng xử lý rác thải các hộ huyện Bến Lức Cách x ử lý rác Số hộTỷ lệ %  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.25 Tình trạng xử lý rác thải các hộ huyện Bến Lức Cách x ử lý rác Số hộTỷ lệ % (Trang 64)
Bảng 3.27: Tỷ lệ các nguyên nhân giảm đất nông nghiệp Nguyên nhân S ố hộTỷ lệ - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.27 Tỷ lệ các nguyên nhân giảm đất nông nghiệp Nguyên nhân S ố hộTỷ lệ (Trang 65)
Bảng 3.28: Khoảng cách từ nhà đến đường chính - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.28 Khoảng cách từ nhà đến đường chính (Trang 66)
Bảng 3.40: Thực trạn gô nhiễ mở huyện Bến Lức D ạng ô nhiễm Số ý kiến Tỷ lệ  %  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
Bảng 3.40 Thực trạn gô nhiễ mở huyện Bến Lức D ạng ô nhiễm Số ý kiến Tỷ lệ % (Trang 73)
Khoản mục Ai giúp Hình thức giúp - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
ho ản mục Ai giúp Hình thức giúp (Trang 85)
Thành viên Hình thức hỗ trợ Ai giúp? Ở đâu? - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
h ành viên Hình thức hỗ trợ Ai giúp? Ở đâu? (Trang 86)
20. ...................................................................................................................................................................... - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
20. (Trang 86)
26. Tình hình an ninh, trật tự xã hội ở địa phương hiện nay so với trước khi có KCN - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
26. Tình hình an ninh, trật tự xã hội ở địa phương hiện nay so với trước khi có KCN (Trang 87)
27 - Tình trạn gô nhiễm môi trường hiện nay so với trước khi có KCN - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
27 Tình trạn gô nhiễm môi trường hiện nay so với trước khi có KCN (Trang 88)
dụng cầu cá làm nhà vệ sinh trong nhà. Các hình thức khác chiếm tỷ trọng không đáng kể trong sinh hoạt vệ sinh của hộ gia đình - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
d ụng cầu cá làm nhà vệ sinh trong nhà. Các hình thức khác chiếm tỷ trọng không đáng kể trong sinh hoạt vệ sinh của hộ gia đình (Trang 103)
T ần số Phần trăm - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
n số Phần trăm (Trang 103)
a Multiple modes exist. The smallest value is shown - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
a Multiple modes exist. The smallest value is shown (Trang 106)
3215 100,0% 1148,2% a  Dichotomy group tabulated at value 1.  - Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến đời sống 2
3215 100,0% 1148,2% a Dichotomy group tabulated at value 1. (Trang 108)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w