1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam

178 32 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Kinh Tế Vĩ Mô Tới Thu-Chi Quỹ Bảo Hiểm Thất Nghiệp Trong Điều Kiện Tự Cân Đối Ở Việt Nam
Tác giả Lê Thành Công
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Ái Đoàn
Trường học Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội
Chuyên ngành Kinh tế học
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 178
Dung lượng 3,26 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (13)
  • 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (18)
  • 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (20)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (20)
  • 5. Ý nghĩa khoa học của luận án (23)
  • 6. Kết cấu của luận án (25)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP (26)
    • 1.1. Khái quát chung (26)
    • 1.2. Tình hình nghiên cứu ở trên thế giới (28)
      • 1.2.1. Hướng nghiên cứu về sự phù hợp của chính sách bảo hiểm thất nghiệp với thực trạng kinh tế xã hội (29)
      • 1.2.2. Hướng nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến sự cân đối thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (31)
      • 1.2.3. Tổng quan về phương pháp đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố tới sự cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp và dự báo (34)
    • 1.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt nam (41)
    • 1.4. Một số kết luận về tổng quan nghiên cứu (48)
    • 2.1. Một số khái niệm cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (51)
      • 2.1.1. Thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp (52)
        • 2.1.1.1. Khái niệm thất nghiệp (52)
        • 2.1.1.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp (55)
      • 2.1.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (57)
        • 2.1.2.1. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (57)
        • 2.1.2.2. Bản chất quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam (59)
        • 2.1.2.3. Mục tiêu hoạt động của quỹ bảo hiểm thất nghiệp (60)
        • 2.1.2.4. Nguyên tắc hoạt động của quỹ bảo hiểm thất nghiệp (62)
    • 2.2. Thu, chi bảo hiểm thất nghiệp và mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (63)
      • 2.2.1. Khái niệm về thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (63)
        • 2.2.1.1 Khái niệm thu bảo hiểm thất nghiệp (63)
        • 2.2.1.2 Khái niệm chi bảo hiểm thất nghiệp (66)
      • 2.2.2 Mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (70)
        • 2.2.2.1 Mô hình cân bằng tĩnh quỹ BHTN (72)
        • 2.2.2.2 Mô hình cân bằng động quỹ BHTN (74)
    • 2.3. Mô hình ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu chi bảo hiểm thất nghiệp (77)
      • 2.3.1. Khái quát chung về các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp và mô hình cân đối thu chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp (78)
        • 2.3.1.1. Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô (78)
        • 2.3.1.2. Kết hợp sự ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô và yếu tố hành (81)
      • 2.3.2. Cơ sở lựa chọn nhân tố kinh tế vĩ mô trong mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (84)
      • 2.3.3. Sự tương tác giữa các nhân tố ảnh hưởng (90)
  • CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (94)
    • 3.1. Phương pháp tiếp cận và khung phân tích (94)
      • 3.1.1. Phương pháp tiếp cận (96)
        • 3.1.1.1. Phương pháp tiếp cận trực tiếp (96)
        • 3.1.1.2. Phương pháp tiếp cận gián tiếp (98)
      • 3.1.2. Khung phân tích (99)
    • 3.2. Tổng hợp dữ liệu và phương pháp ước lượng kinh tế (104)
      • 3.2.1. Tổng hợp dữ liệu (104)
        • 3.2.1.1. Nguồn dữ liệu (105)
        • 3.2.1.2. Thu thập và điều chỉnh số liệu theo mục tiêu nghiên cứu (105)
      • 3.2.2. Phương pháp ước lượng kinh tế (106)
        • 3.2.2.1. Phương pháp ước lượng kinh tế trong nghiên cứu đánh giá về mối (106)
        • 3.2.2.2. Phương pháp vectơ tự hồi quy và phương pháp vectơ hiệu chỉnh sai số (108)
  • CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ TỚI THU CHI BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VIỆT NAM (115)
    • 4.1. Phân tích dữ liệu tổng quan (115)
      • 4.1.1. Phân tích thực trạng thu, chi bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam (115)
      • 4.1.2. Phân tích thực trạng biến động GDP, CPI và tỷ giá ở Việt Nam (119)
        • 4.1.2.1. Biến động chỉ số GDP của Việt Nam (120)
        • 4.1.2.2. Biến động chỉ số CPI của Việt nam (121)
        • 4.1.2.3. Biến động tỷ giá hối đoái VNĐ/USD (122)
    • 4.2. Kiểm định các điều kiện cho thực hiện phương pháp ước lượng kinh tế (124)
      • 4.2.1. Kiểm định độ trễ theo tiêu chuẩn AIC, HQ, SIC và LR (125)
      • 4.2.2. Kiểm định Augmented Dickey – Fuller (125)
    • 4.3. Kết quả đánh giá mô hình ảnh hưởng của nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu chi bảo hiểm thất nghiệp (127)
      • 4.3.1. Kiểm định đồng tích hợp Johansen (127)
      • 4.3.2. Kiểm định Granger về mối quan hệ nhân quả (128)
      • 4.3.2 Hàm phản ứng và phân rã phương sai (132)
  • CHƯƠNG 5. KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH (135)
    • 5.1. Những kết quả đạt đƣợc và vấn đề cần nghiên cứu tiếp (135)
      • 5.1.1. Đánh giá ảnh hưởng của GDP, CPI, tỷ giá đến thu, chi BHTN ở Việt (137)
      • 5.1.2. Những vấn đề cần nghiên cứu tiếp (142)
    • 5.2. Một số kiến nghị tới cơ quan chức năng (143)
      • 5.2.1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (143)
      • 5.2.2. Kiến nghị đối với chính phủ và cơ quan quản lý kinh tế (146)
  • KẾT LUẬN (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (157)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài

Người lao động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của xã hội, khi họ không chỉ cống hiến sức lao động để tạo ra của cải vật chất mà còn là những người hưởng thụ thành quả sản xuất Khi người lao động mất khả năng lao động hoặc không có việc làm, họ chuyển từ trạng thái đóng góp sang tiêu tốn của cải xã hội, điều này có thể gây ra sự mất ổn định và mất cân bằng trong xã hội.

Thất nghiệp là một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường, được chia thành hai loại: thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện Thất nghiệp tự nguyện xảy ra khi người lao động từ chối công việc hiện tại với mức lương không phù hợp, trong khi thất nghiệp không tự nguyện là tình trạng mà một bộ phận lao động không tìm được việc làm phù hợp với khả năng, dù đã nỗ lực tìm kiếm Để giảm thiểu rủi ro thất nghiệp, việc cung cấp hỗ trợ tài chính kịp thời cho người thất nghiệp là một chính sách xã hội thiết yếu mà các quốc gia cần thực hiện, như các nước phát triển như Hoa Kỳ và Đức đã làm.

Pháp xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho các thế hệ lao động tương lai Chính sách này dựa trên việc dự đoán dài hạn về tỷ lệ thất nghiệp và quy mô lực lượng lao động, nhằm đảm bảo công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ của người lao động Quỹ BHTN có mục đích bảo vệ thu nhập chung của mọi người lao động trong xã hội qua nhiều thế hệ Nhiều quốc gia kiểm soát hoạt động của quỹ BHTN nhưng giữ cho tổ chức tài chính của quỹ độc lập, thực hiện nguyên tắc tự cân.

Quỹ BHTN tại Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc tài chính độc lập, cho phép tự xác định mức đóng góp và chi trả nhằm duy trì sự bền vững tài chính lâu dài Hệ thống bảo hiểm xã hội, bao gồm BHXH, BHYT và BHTN, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích người lao động và điều chỉnh sự chênh lệch kinh tế giữa các vùng miền, giới tính Mô hình tài chính của quỹ BHTN tuân thủ nguyên tắc quản lý thu chi, với mức thu được xác định làm cơ sở cho chi và ngược lại Nhà hoạch định chính sách thực hiện tính toán dài hạn để đảm bảo quyền lợi giữa việc đóng góp và hưởng thụ, với mức thu và chi cố định theo tỷ lệ phần trăm tiền lương.

Mô hình thu chi BHTN tự chủ tài chính, hay còn gọi là mô hình thu chi BHTN trong điều kiện tự cân đối, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính bền vững cho quỹ BHTN Để duy trì hoạt động tài chính hiệu quả, cần phải phân tích xu hướng biến động thu, chi và sự cân bằng tài chính, được xác định qua chênh lệch giữa thu và chi Các nhà hoạch định chính sách BHTN ở Việt Nam đã xây dựng mô hình này với mục tiêu xác định rõ giá trị khoản thu và chi Trong giai đoạn mới thành lập, mô hình BHTN tự cân đối dựa trên giả định kinh tế về tỷ lệ thất nghiệp dao động +/- 4% và xu hướng thu, chi BHXH trong quá khứ.

Từ khi có hiệu lực vào năm 2009, đã xuất hiện sự khác biệt giữa dự báo chính sách và thực tế biến động thu, chi trong quỹ BHTN ở Việt Nam Sự chênh lệch này dẫn đến những biến động ngoài dự kiến trong mô hình thu chi, gây ra một số vấn đề liên quan đến cân đối tài chính của quỹ Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra nhiều nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến tình hình này.

Tốc độ tăng chi quỹ BHTN đang lớn hơn tốc độ tăng thu, dẫn đến sự chênh lệch ngày càng nới rộng và làm giảm tích lũy quỹ, từ đó giảm khả năng chi trả cho người thất nghiệp trong các khủng hoảng lớn Trong khi số người tham gia đóng BHTN tăng chậm, số người hưởng chi trả lại gia tăng nhanh chóng Nguyên nhân bao gồm yếu tố khách quan như sự phát triển công nghệ và hội nhập kinh tế, cùng với nguyên nhân chủ quan từ người lao động, như tình trạng thất nghiệp tự nguyện để nhận trợ cấp Những hiện tượng này làm cho khả năng hỗ trợ tài chính cho người thất nghiệp trong tương lai của quỹ BHTN ở Việt Nam trở nên mong manh hơn.

Quản lý và vận hành quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) hiện đang gặp nhiều vấn đề Doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thường trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động Đồng thời, chi phí quản lý quỹ BHTN không ngừng gia tăng mà hiệu suất quản lý lại không có nhiều cải thiện Chẳng hạn, các chương trình đào tạo lại nghề và giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp không thu hút được sự tham gia của họ Những báo cáo về chi tiêu quỹ BHTN chưa đủ sức thuyết phục để người lao động và người sử dụng lao động tin tưởng vào chính sách này.

Sự thay đổi trong các điều kiện kinh tế - xã hội đã làm cho thu, chi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) không còn duy trì được sự cân bằng như thời kỳ thiết kế ban đầu Nghiên cứu chỉ ra rằng, trong bối cảnh khủng hoảng thất nghiệp và kinh tế, việc dự phòng quỹ BHTN trở nên vô cùng quan trọng Những biến động như mức lương cơ sở tăng, lạm phát gia tăng, và chu kỳ thất nghiệp ngắn lại đã ảnh hưởng đáng kể đến quỹ này.

Khi quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng lớn, khả năng tăng chi từ quỹ này để khắc phục khủng hoảng cũng tăng theo, dẫn đến việc mục tiêu tích lũy và cân bằng quỹ BHTN có thể bị lệch khỏi kế hoạch ban đầu Các mô phỏng dự báo về thu, chi và cân đối của quỹ BHTN cho thấy sự chênh lệch lớn so với báo cáo thực tế Vì vậy, việc thiết kế và dự báo tài chính cho quỹ BHTN là một vấn đề quan trọng cho hoạt động tương lai của quỹ này.

Những vấn đề thực tiễn ở trên đặt ra những thách thức nhƣ:

Cần xem xét lại mô hình cân đối thu – chi của quỹ BHTN để nâng cao độ chính xác trong dự báo Mô hình hiện tại ở Việt Nam cần thể hiện vai trò quan trọng, tăng cường niềm tin của người tham gia và quản lý quỹ vào hiệu quả hoạt động Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại cho thấy sự sai lệch đáng kể trong kết quả dự báo Do đó, việc rà soát, lựa chọn và tính toán lại thông tin về xu hướng biến động thu chi quỹ BHTN là rất cần thiết.

Kế thừa và áp dụng các cơ sở khoa học hiện đại trong nghiên cứu kinh tế - xã hội toàn cầu để kiểm chứng tại Việt Nam là cần thiết Mô hình dự báo quỹ BHTN ở Việt Nam, lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 2011 và cập nhật vào năm 2015, vẫn chủ yếu dựa vào phương pháp tiếp cận trực tiếp Trong khi đó, các nhà nghiên cứu quốc tế đã chuyển sang mô hình phân tích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô lên cân đối thu chi quỹ BHTN, nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp truyền thống Mô hình này kết nối các yếu tố khách quan của nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cấu trúc xã hội, hướng tới xây dựng chính sách an sinh xã hội cho người thất nghiệp phù hợp với điều kiện thị trường Việc xác định các yếu tố kinh tế vĩ mô "điển hình" và "đại diện" sẽ giúp nhà hoạch định chính sách điều chỉnh nhằm duy trì và phát triển bền vững quỹ BHTN, tạo nền tảng cho nghiên cứu luận án tiến sĩ này.

Để "tính toán" xu hướng cân đối thu - chi quỹ BHTN toàn cầu, cần giải quyết hai vấn đề chính: (1) lựa chọn nhân tố đáng tin cậy phản ánh biến động thu, chi BHTN khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi; (2) xác định phương pháp ảnh hưởng trong mô hình cân đối thu chi BHTN Từ hai vấn đề này, nhiều phương pháp tiếp cận đã được hình thành nhằm đạt được mục tiêu dự báo hiệu quả.

Nhóm ý tưởng thứ nhất tập trung vào "nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới thu, chi

BHTN được chia thành các khoản chi trực tiếp, chi gián tiếp và một số khoản khác Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào chi trả trực tiếp và mối quan hệ giữa chi BHTN với các yếu tố như tiền lương, số lượng người thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp Đối với thu BHTN, các nhà nghiên cứu phân tích sự biến động của lực lượng lao động, mức lương cơ sở và thời gian đóng góp vào quỹ BHTN.

Nhóm ý tưởng thứ hai tập trung vào sự ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội đến thu, chi BHTN Các lý thuyết kinh tế nổi bật như của Alban William Phillips và Arthur Melvin Okun đã chỉ ra mối quan hệ giữa thất nghiệp, tiền lương và các chỉ số kinh tế - xã hội Phương pháp thống kê và ước lượng đã hỗ trợ các nhà nghiên cứu trong việc đo lường mức độ ảnh hưởng Dựa trên lý thuyết kinh tế vĩ mô, nhiều nghiên cứu đã xác định các nhân tố tác động đến thu, chi BHTN, đồng thời thay thế một số bước trung gian bằng các yếu tố khách quan khác Quan điểm này còn được củng cố bởi mô hình cân bằng tự nhiên của Adam Smith Kết quả từ các nghiên cứu này cung cấp cho nhà quản lý quỹ BHTN những chỉ số quan trọng như chỉ số phát triển công nghiệp IPI, chỉ số biến động giá tiêu dùng CPI và lãi suất.

6 trái phiếu, tỷ giá hối đoái…) nhằm dự báo thu, chi BHTN ở Mỹ, Canada, Malaysia, Thái Lan… (theo các tài liệu: [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22])

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu chính của luận án là làm rõ lý thuyết về tính cân đối thu chi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và phân tích thực trạng cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến thu chi BHTN tại Việt Nam và quốc tế Luận án sẽ dựa trên các đánh giá khách quan về phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng trong mô hình cân đối thu chi quỹ BHTN.

Bài viết này đề cập đến bảy phương pháp kiểm chứng lựa chọn nhân tố kinh tế vĩ mô phù hợp và tin cậy, nhằm đáp ứng đặc trưng và hoàn cảnh kinh tế cũng như nguyên tắc hoạt động của quỹ BHTN tại Việt Nam Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến vấn đề này.

Lý thuyết về thất nghiệp và quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý quỹ BHTN, nhằm đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi Việc hệ thống hóa các vấn đề lý luận này giúp hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của quỹ BHTN, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng quỹ, đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong trường hợp thất nghiệp.

Cơ sở lý luận về thực nghiệm trong lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tập trung vào việc tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến thu chi BHTN theo nguyên tắc tài chính độc lập Đồng thời, bài viết cũng tổng hợp các phương pháp đánh giá và ước lượng kinh tế nhằm hỗ trợ cho việc dự báo quỹ BHTN một cách hiệu quả.

Luận án sẽ dựa trên lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), cùng với phương pháp đánh giá và kiểm chứng thực tiễn Mô hình đánh giá sẽ được lựa chọn để phân tích sự ảnh hưởng gián tiếp thông qua các chỉ số kinh tế vĩ mô, đồng thời xây dựng các giả định nghiên cứu phù hợp.

Mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được đánh giá dựa trên tác động của các chỉ số kinh tế vĩ mô, nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của chúng Bên cạnh đó, việc kiểm định các giả thuyết nghiên cứu cũng rất quan trọng, giúp chỉ ra mức độ tin cậy và sự phù hợp của mô hình nghiên cứu.

Dựa trên kết quả ước lượng kinh tế, luận án đề xuất áp dụng các chỉ số kinh tế vĩ mô đáng tin cậy và đã được kiểm chứng bằng phương pháp kinh tế lượng để dự báo thu, chi BHTN tại Việt Nam Ngoài ra, luận án cũng đưa ra các giải pháp kiểm soát chi BHTN và chính sách kinh tế vĩ mô nhằm duy trì nguồn tài chính bền vững cho quỹ BHTN ở Việt Nam.

- Câu hỏi nghiên cứu của luận án đặt ra là:

Khi giữ nguyên các chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) về định mức thu và chi, các nhân tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, và lạm phát có thể ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của quỹ BHTN Sự biến động trong thị trường lao động và chính sách kinh tế cũng sẽ tác động đến sự cân đối tài chính của quỹ này tại Việt Nam.

+ Mức độ ảnh hưởng của nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu-chi BHTN ở Việt Nam ra sao?

+ Giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô và giải pháp quản lý quỹ BHTN để đảm bảo duy trì tài chính lâu dài của quỹ BHTN

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thu-chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại Việt Nam Mục tiêu là làm rõ cơ sở lý luận về thu-chi BHTN trong điều kiện tự cân đối, xác định các nhân tố kinh tế vĩ mô đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam và kiểm chứng tác động của chúng đối với thu-chi BHTN Qua đó, luận án tìm ra quy luật tác động và đề xuất mô hình dự báo thu-chi BHTN phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Về không gian: Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu-chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thu-chi quỹ BHTN ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2019, sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các nguồn tin cậy, được trình bày dưới dạng giá trị theo từng quý.

Về nội dung: Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu-chi quỹ BHTN trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Khi đánh giá các mối quan hệ ảnh hưởng, các nhà nghiên cứu toàn cầu sử dụng nhiều phương pháp "đo lường" khác nhau Họ bắt đầu bằng việc đặt ra các giả định nghiên cứu, sau đó sắp xếp và phân loại chúng từ những giả định đơn giản đến phức tạp Dựa trên quá trình này, các nhà nghiên cứu phát triển ý tưởng và đề xuất các phương pháp "đo lường" thích hợp để xử lý thông tin kinh tế.

Hiện nay, có nhiều phương pháp đo lường mối quan hệ giữa các yếu tố, ngày càng phong phú và đa dạng Các phương pháp mới được phát triển nhằm cải thiện và khắc phục những hạn chế của các phương pháp đo lường trước đó, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu ngày càng cao.

9 trước đó khám phá Trong luận án này, cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lƣợng đều đƣợc sử dụng Trong đó:

Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua việc tổng hợp thông tin từ các nguồn tài liệu đáng tin cậy như các công trình nghiên cứu công bố trên tạp chí, trang thư viện điện tử của các viện nghiên cứu, trường đại học, và các tạp chí chuyên ngành Mục tiêu là làm rõ lý luận về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), nguyên tắc tài chính độc lập của quỹ BHTN, cùng với các vấn đề liên quan đến thu, chi BHTN Nghiên cứu sinh tiến hành so sánh phương pháp và nội dung của các công trình nghiên cứu để xác định khoảng trống nghiên cứu tại Việt Nam, từ đó thiết lập các giả định cho nghiên cứu định lượng về mô hình thu chi BHTN.

Nghiên cứu định lượng trong luận án này thu thập số liệu thứ cấp từ Tổng cục thống kê, Ngân hàng nhà nước và Cục Việc làm thuộc bộ LĐ TB&XH Các số liệu được điều chỉnh theo giả định nghiên cứu và kiểm định mối quan hệ tác động bằng phần mềm EVIEW9 Nghiên cứu sinh áp dụng phương pháp ước lượng kinh tế để chứng minh mối quan hệ giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô và chi BHTN thông qua các hệ phương trình giả định, tương tự như các nghiên cứu trước đó.

Phương pháp nghiên cứu về mô hình cân đối thu chi quỹ BHTN ở Việt Nam hiện nay sử dụng mô hình ảnh hưởng trực tiếp để xác định sự cân đối này Các nhà quản lý quỹ BHTN dựa vào chuỗi dữ liệu biến động của quỹ BHXH cùng với mô hình phỏng đoán thay đổi tiền lương cơ sở và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Những yếu tố này tạo nền tảng cho mô hình cân đối thu chi quỹ BHTN trong giai đoạn 2010-2023.

2030) Các lập luận này dường như không phù hợp với thực trạng biến động kinh tế

Xã hội Việt Nam hiện nay đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nổi bật là sự chênh lệch giữa mức lương cơ sở và mức lương thực tế, dẫn đến tình trạng khó khăn trong đời sống của người lao động Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp chu kỳ cũng phản ánh những vấn đề trong thị trường lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và an sinh xã hội.

Mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được nhiều quốc gia như Mỹ, Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc áp dụng, thể hiện sự kết nối giữa biến động kinh tế vĩ mô, chính trị - xã hội và môi trường Mô hình này nhấn mạnh sự thích ứng và gắn kết giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế Trong các nghiên cứu toàn cầu, yếu tố kinh tế vĩ mô luôn đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sự cân đối thu chi của quỹ BHTN.

Nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy, TS Phạm Đình Thành sử dụng chỉ số CPI, trong khi TS Nguyễn Ái Đoàn áp dụng chỉ số GDP để dự báo thu chi BHTN với sai số thấp hơn Tuy nhiên, phương pháp đánh giá hiện tại chủ yếu dựa vào giả định của chuyên gia và mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản, chưa thực sự khai thác nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô Việc tiếp cận gián tiếp về ảnh hưởng của các yếu tố này đến thu chi BHTN và sự cân đối tài chính BHTN còn hạn chế, tạo tiền đề cho nghiên cứu sâu hơn trong luận án này.

Luận án này tập trung vào việc áp dụng mô hình ảnh hưởng khách quan từ yếu tố kinh tế vĩ mô cho quỹ BHTN, với điểm khác biệt nổi bật so với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam Cụ thể, nghiên cứu kế thừa và tổng hợp các công trình riêng lẻ về ảnh hưởng kinh tế vĩ mô, nhằm xây dựng một mô hình mở rộng, kết hợp đồng thời các chính sách kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến thu-chi và sự cân bằng của quỹ BHTN.

Để nghiên cứu hiệu quả, cần áp dụng các phương pháp đánh giá và kiểm định kinh tế phù hợp với mô hình, như phương pháp vecto tự hồi quy (VAR) và phương pháp vecto hiệu chỉnh sai số (VECM) Đồng thời, cần đề xuất xây dựng mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) dựa trên ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô, căn cứ vào các kết quả thực nghiệm đã thu thập.

Mô hình nghiên cứu là:

F (thu/chi BHTN) = F(các chỉ số kinh tế vĩ mô: GDP, CPI )

Log[Y (TF) ]= α 10 + α 11 Log[Y (TF) (t-k) ] + α 12 Log[X 1 (t-k) ] + α 13 Log[X 2 (t-k) ] + … + ε 1 Log[X 1 ]= α 20 + α 21 Log[Y (TF) (t-k) ] + α 22 Log[X 1 (t-k) ] + α 23 Log[X 2 (t-k) ] + + ε 2

Log[X n ]= α n0 + α n1 Log[Y (TF) (t-k) ] + α n2 Log[X 1 (t-k) ] + α n3 Log[X 2 (t-k) ] + …+ ε n

Trong đó: α j là ma trận các hệ số

Y, X 1 , X 2 X n là các vecto (biến số) trong mô hình ε j là vecto các nhiễu trắng

Phương pháp đánh giá và kỹ thuật kiểm định ảnh hưởng của nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu, chi BHTN sử dụng phương pháp vecto tự hồi quy (VAR) và vecto hiệu chỉnh sai số (VECM) Lý do lựa chọn phương pháp này là do tính chính xác trong việc phân tích mối quan hệ giữa các biến số, khả năng xử lý dữ liệu theo thời gian và việc cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô.

Mô hình sử dụng các biến dưới dạng chuỗi thời gian, trong đó nhiều biến có tính tự tương quan Do đó, phương pháp VAR, ARDL và VECM là lựa chọn phù hợp để xử lý các chuỗi thời gian và vấn đề tự tương quan này.

Phương pháp VAR/ARDL/VECM có khả năng xem xét mối quan hệ động, mối quan hệ nhân quả và đồng liên kết giữa các biến số kinh tế vĩ mô, điều này tạo ra ưu thế mà các mô hình hồi quy cổ điển không thể đạt được Vì vậy, VAR/ARDL/VECM là lựa chọn phù hợp cho việc phân tích chính sách và hoạch định kinh tế vĩ mô.

Phương pháp VAR, ARDL và VECM đã được nhiều học giả áp dụng trong các nghiên cứu về mô hình cân đối thu-chi bảo hiểm thất nghiệp, như được nêu trong các tài liệu trước đó Do đó, việc tiếp tục sử dụng các phương pháp này sẽ giúp dễ dàng so sánh và đối chiếu kết quả với các nghiên cứu trước đây.

Ý nghĩa khoa học của luận án

Nghiên cứu về sự cân đối thu, chi quỹ BHTN là vấn đề quan trọng, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế, quản lý quỹ và người lao động Chính sách BHTN được thiết kế để phòng ngừa rủi ro thất nghiệp trong bối cảnh thay đổi kinh tế, chính trị và môi trường Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng yếu tố kinh tế vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ với khả năng đóng góp và chi trả, cũng như thời gian đóng góp và chi trả của quỹ BHTN.

12 nhân tố kinh tế vĩ mô nhạy cảm là những dấu hiệu quan trọng phản ánh xu thế biến động kinh tế, ảnh hưởng đến thu, chi của quỹ BHTN tại Việt Nam Việc nhận diện các yếu tố này sẽ giúp nhà quản lý quỹ BHTN điều chỉnh chính sách một cách hiệu quả, đồng thời hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức quốc tế trong việc đưa ra các chính sách tài chính kịp thời nhằm ứng phó với khủng hoảng kinh tế Những đóng góp mới từ luận án sẽ được trình bày rõ ràng để tăng cường khả năng quản lý quỹ BHTN.

* Đóng góp về học thuật

Nghiên cứu này sẽ bổ sung kiến thức về ảnh hưởng đến thu-chi và sự cân đối quỹ BHTN, đồng thời giúp nhà quản lý xác định nguyên nhân thay đổi giá trị thu, chi và thâm hụt quỹ BHTN Các nhà nghiên cứu quan tâm đến mô hình cân đối thu-chi BHTN được chia thành hai nhóm: nhà quản lý quỹ BHTN và các nhà nghiên cứu kinh tế.

Các nhà quản lý thường áp dụng phương pháp ảnh hưởng trực tiếp để dự báo thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), trong khi các nhà nghiên cứu kinh tế lại phát triển lý thuyết kinh tế học hiện đại, đặc biệt là mô hình kinh tế vĩ mô Nghiên cứu về ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô đối với thu chi BHTN và ứng dụng vào việc đánh giá mối quan hệ này tại Việt Nam sẽ giúp làm rõ mối liên hệ giữa các hiện tượng kinh tế - xã hội.

Luận án này tập trung vào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, nhằm xây dựng mô hình ảnh hưởng kinh tế vĩ mô tại Việt Nam Nghiên cứu sẽ phân tích thực tiễn ảnh hưởng đến thu-chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) dựa trên lý luận khoa học về các yếu tố kinh tế vĩ mô Mục tiêu là phát triển một mô hình lý thuyết vững chắc cho lĩnh vực tài chính và quản lý thu, chi BHTN ở Việt Nam, tuân thủ nguyên tắc tài chính độc lập.

* Đóng góp về thực tiễn

Các nhà quản lý quỹ BHTN tại Việt Nam thường áp dụng phương pháp ảnh hưởng trực tiếp để phân tích sự thay đổi chi phí BHTN khi tỷ lệ thất nghiệp biến động Tuy nhiên, nghiên cứu này lại tiếp cận từ một góc độ khác, tập trung vào mối quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, lạm phát và thất nghiệp, cũng như biến động tỷ giá và thất nghiệp Mục tiêu là để làm rõ câu hỏi: "Khi các dấu hiệu cơ bản thay đổi, thì ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp sẽ ra sao?"

Để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở Việt Nam, luận án sẽ kế thừa các phương pháp nghiên cứu hiện có trong nước và quốc tế Các phương pháp này bao gồm Vecto tự hồi quy (VAR), phương pháp tự hồi quy phân phối trễ (ARDL) và vecto hiệu chỉnh sai số (VECM) Sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam sẽ tác động trực tiếp đến thu, chi BHTN, đòi hỏi việc áp dụng các phương pháp phân tích phù hợp để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này.

Bài viết phân tích ảnh hưởng của tăng trưởng GDP, CPI và tỷ giá VNĐ/USD đến thu-chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại Việt Nam, nhằm cung cấp cho các nhà quản lý quỹ BHTN cái nhìn sâu sắc về tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô Thông tin này sẽ là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng mô hình dự báo biến động kinh tế và tài chính của quỹ BHTN.

Việc xác định các chỉ số kinh tế vĩ mô phản ánh đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Việt Nam là rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch và quản lý quỹ BHTN Nghiên cứu này sẽ cung cấp cơ sở để đề xuất tích hợp các chỉ số kinh tế vĩ mô vào công tác dự báo thu, chi BHTN Bên cạnh đó, phương pháp ước lượng kinh tế như VAR/ARDL/VECM không chỉ giúp dự báo thu, chi BHTN mà còn cho phép phân tích sự biến động kinh tế Mô hình này còn hỗ trợ trong việc đưa ra dự báo thu, chi BHTN trong các tình huống bất thường thông qua giả định thay đổi chỉ số kinh tế vĩ mô.

Kết cấu của luận án

Để giải thích và lập luận rõ ràng về đề tài, nghiên cứu sinh đã chia nhỏ luận án thành 5 chương với nội dung cụ thể như sau:

Chương 1 Tổng quan các công trình nghiên cứu về bảo hiểm thất nghiệp

Chương 2 Cơ sở lý luận về thu, chi bảo hiểm thất nghiệp và mô hình ảnh hưởng của nhân tố kinh tế vĩ mô

Chương 3 Phương pháp nghiên cứu

Chương 4 Nghiên cứu thực tiễn về mô hình ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu, chi bảo hiểm thất nghiệp

Chương 5 Kết luận và kiến nghị chính sách

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

Khái quát chung

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và phân phối nguồn lực Bảo vệ con người và lợi ích của họ luôn được ưu tiên từ khi xã hội hình thành, được thể hiện qua các quy ước xã hội và văn bản pháp luật Trong thế kỷ 20, tại Tây Âu, các nhà quản lý nhà nước và doanh nghiệp đã đưa ra hai thuật ngữ mới nhằm bảo vệ lợi ích của con người, trong đó có Chính sách An sinh con người.

Thuật ngữ "tín thác" ở Mỹ thể hiện trách nhiệm cộng đồng trong việc chia sẻ rủi ro thất nghiệp của người lao động, dẫn đến việc hình thành quỹ tín thác nhằm bảo vệ lợi ích xã hội.

Chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) đảm bảo quyền sinh sống cho mọi người, trong đó Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một phần quan trọng giúp duy trì thu nhập cho những người mất việc làm.

Các quốc gia như Pháp và Đức chú trọng đến trách nhiệm cá nhân và phát triển chính sách bảo hiểm con người theo mô hình Bismarck, bao gồm bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm tử tuất Ngược lại, các quốc gia trong nhóm Anh – Mỹ tập trung vào an sinh con người và xây dựng Luật an sinh xã hội theo mô hình Beveridge, với các chính sách đảm bảo chăm sóc y tế tối thiểu, mức sống tối thiểu và quyền lợi xã hội tối thiểu.

Bảng 1.1 So sánh mô hình Bismarck và mô hình Beveridge trong bảo vệ lợi ích của con người (nguồn:[2])

Mô hình Bismarck Mô hình Beveridge Đóng góp Chỉ 1 bộ phận người LĐ Từ thuế của toàn XH

Quản lý Tách khỏi nhà nước Nhà nước

Mục tiêu Đối tượng dễ bị tổn thương Toàn xã hội

Các quốc gia có quan điểm khác nhau về chia sẻ trách nhiệm xã hội, dẫn đến việc lựa chọn chính sách quản lý xã hội và phương pháp khác nhau Các nhà nghiên cứu từ Pháp, Đức, Anh và Mỹ đã so sánh hệ thống chính sách hỗ trợ tài chính cho người thất nghiệp để đánh giá hiệu quả của các chính sách xã hội Nghiên cứu về mô hình chính sách xã hội ở Tây Âu và Mỹ đã hình thành những quan điểm riêng về an sinh con người và bảo hiểm thất nghiệp, cũng như tác động của các chính sách này đối với các vấn đề kinh tế và xã hội Tuy nhiên, các mô hình bảo vệ lợi ích con người của Anh – Mỹ và Pháp – Đức đều bộc lộ khiếm khuyết trong tổ chức tài chính, dẫn đến nguy cơ thâm hụt tài chính trong mô hình Beveridge cho người thất nghiệp.

In 1981, Chile's social security model collapsed, leading to the privatization of the government's assistance programs, adopting a Bismarck-style framework This transition aimed to enhance the protection of the elderly while promoting economic growth, as outlined by the World Bank in their 1994 report, "Averting the Old Age Crisis: Policies to Protect the Old and Promote Growth."

Trợ cấp thất nghiệp (UI) là một phần quan trọng trong các mô hình bảo hiểm xã hội, như mô hình Bismarck Ở một số quốc gia như Việt Nam, Malaysia, và Trung Quốc, quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là một bộ phận của quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH), trong khi ở Mỹ và Canada, quỹ BHTN thuộc quỹ tín thác Dù có tên gọi khác nhau, cả hai loại quỹ này đều có những đặc điểm chung như được quản lý bởi nhà nước và có chính sách tài chính độc lập Quản lý thống nhất này thể hiện vai trò của nhà nước trong việc quản lý quỹ xã hội, đảm bảo quyền lực và chế tài thực hiện hợp pháp.

Trách nhiệm quản lý chính sách xã hội yêu cầu quỹ tín thác/quỹ BHTN phải là nguồn lực tài chính độc lập, tự chủ tài chính với khả năng tự quyết định mức đóng góp và chi trả Điều này là cần thiết để thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính cho người lao động, đảm bảo cuộc sống và dự phòng thu nhập cho họ Vì vậy, báo cáo tài chính của quỹ tín thác/quỹ BHXH cần được tích hợp vào báo cáo tài chính quốc gia, như ở Mỹ, Canada và nhiều quốc gia khác.

Tình hình nghiên cứu ở trên thế giới

Các nhà nghiên cứu về thu, chi và cân đối quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cần tuân thủ nguyên tắc quản trị nhà nước và tài chính độc lập, giả định rằng các yếu tố chính sách BHTN và chính sách kinh tế - xã hội không thay đổi Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra ba vấn đề chính liên quan đến chính sách BHTN, các nhân tố ảnh hưởng đến nó và ứng dụng trong dự báo thu, chi và cân đối quỹ BHTN.

(1) Chính sách BHTN cần phải phù hợp với thực tiễn biến động khách quan của hiện tượng kinh tế xã hội

Tại Pháp, quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được quản lý bởi Hiệp hội công đoàn lao động, trong khi Nhà nước có trách nhiệm bảo lãnh cho các khoản vay của quỹ khi xảy ra tình trạng thâm hụt.

(2) Xác định những nhân tố ảnh hưởng tới sự cân đối thu chi BHTN

(3) Phương pháp đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến sự cân đối thu, chi BHTN và dự báo

1.2.1 Hướng nghiên cứu về sự phù hợp của chính sách bảo hiểm thất nghiệp với thực trạng kinh tế xã hội

Chính sách "thu, chi BHTN sẽ được duy trì ở mức ra sao thì được coi là phù hợp" đang là chủ đề nghiên cứu của nhiều chuyên gia, trong đó có Murray Rubin.

Nghiên cứu của Daron Acemoglu và các cộng sự (2003), Monica Townson (2007), Bouis và cộng sự (2012), cùng với Murray Rubin, đã chỉ ra rằng chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Mỹ, được xây dựng dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội cũ, hiện không còn phù hợp Các điều kiện này đã thay đổi đáng kể, dẫn đến việc chính sách trở nên lạc hậu và thiếu tính bền vững Cụ thể, tiêu chuẩn hưởng bảo hiểm thất nghiệp và kế hoạch quản lý quỹ không có sự điều chỉnh, trong khi giá trị sản xuất và tình trạng thất nghiệp đã gia tăng Kết luận quan trọng là chính sách bảo hiểm thất nghiệp cần được điều chỉnh theo sự thay đổi của các yếu tố kinh tế - xã hội để đảm bảo hiệu quả và bảo vệ người thất nghiệp tốt hơn.

Nền kinh tế của các quốc gia phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ có sự liên kết chặt chẽ, dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế tại một quốc gia có thể lan rộng ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khối Để đối phó với hậu quả của khủng hoảng, mỗi quốc gia áp dụng các chính sách hỗ trợ người thất nghiệp khác nhau nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực.

Có 18 ngành nghề khác nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung là thống nhất về điều kiện đóng góp và chi trả bảo hiểm thất nghiệp Theo nghiên cứu của Bouis, R và các cộng sự, điều kiện này cần phải linh hoạt để phù hợp với từng giai đoạn kinh tế.

Nghiên cứu của Bouis và cộng sự (2012) về chính sách chi trả bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại các nước phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ cho thấy rằng việc nới lỏng điều kiện chi trả BHTN có thể dẫn đến tăng tỷ lệ thất nghiệp trong thời kỳ khủng hoảng Ngược lại, khi thắt chặt điều kiện chi BHTN trong giai đoạn kinh tế ổn định và thịnh vượng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm Việc nới lỏng điều kiện chi trả BHTN khiến người thất nghiệp kéo dài thời gian không có việc làm, từ đó làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp Khi nền kinh tế suy thoái, việc cắt giảm lao động là điều tất yếu, và khi kinh tế phục hồi, cần thắt chặt điều kiện chi BHTN để khuyến khích người lao động trở lại làm việc Nhóm nghiên cứu đề xuất cần có những điều chỉnh hợp lý trong chính sách BHTN để đạt được hiệu quả tối ưu.

Để lựa chọn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên phù hợp với kế hoạch thu, chi và lợi ích của người tham gia chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), cần tính toán quy luật chu kỳ kinh tế dựa trên các yếu tố kinh tế vĩ mô Điều này giúp đảm bảo sự cân đối dài hạn cho quỹ BHTN.

Để điều chỉnh mức thu và chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, cần xây dựng phương pháp xác định mức thu chi hợp lý Nghiên cứu của Yehuda Kahane chỉ ra rằng thâm hụt quỹ BHTN ở Mỹ liên quan đến khủng hoảng kinh tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự ổn định tài chính trong vận hành quỹ Ông đề xuất việc kiểm chứng lại mức thu chi BHTN để đảm bảo tính hợp lý Để vận hành quỹ BHTN hiệu quả, cần đáp ứng ba khả năng tài chính: chi phí vận hành, chi trả cho người tham gia và chi phí rủi ro dự phòng Phương pháp kiểm chứng "độ an toàn của quỹ bảo hiểm" mà ông đưa ra là so sánh giá trị hiện tại của dòng tiền (NPV) từ khoản đóng góp với khả năng chi trả Ngoài ra, các yếu tố rủi ro như thâm hụt ngân sách, lạm phát và lãi suất cũng cần được xem xét trong kế hoạch tài chính quỹ BHTN.

1.2.2 Hướng nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến sự cân đối thu, chi bảo hiểm thất nghiệp

Các nhà nghiên cứu và quản lý tài chính quỹ BHTN trên thế giới có những quan điểm khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng đến sự cân đối thu, chi BHTN Trong khi các nhà quản lý tập trung vào các yếu tố trực tiếp như tỷ lệ thất nghiệp và quy mô lực lượng lao động, các nhà nghiên cứu kinh tế lại nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố khách quan Để đảm bảo sự cân đối tài chính dài hạn, biến động thu, chi BHTN chủ yếu xoay quanh tỷ lệ thất nghiệp, trong đó tỷ lệ này đóng vai trò quan trọng trong việc dự đoán thu chi Tỷ lệ thất nghiệp không chỉ phản ánh thất nghiệp tự nhiên mà còn cả thất nghiệp cơ cấu, với tỷ lệ tự nhiên cho thấy xu hướng cân bằng dài hạn và tỷ lệ cơ cấu phản ánh biến động ngắn hạn của nền kinh tế Do đó, để xây dựng mô hình cân đối thu chi BHTN, các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu quy luật biến động chu kỳ của BHTN và thay thế tỷ lệ thất nghiệp cơ cấu bằng các yếu tố khách quan trong mô hình.

Nhân tố khách quan ảnh hưởng đến cân đối quỹ bảo hiểm thất nghiệp không chỉ bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát và chính sách tiền tệ mà còn bao gồm cả yếu tố chính trị và mùa vụ.

Tranh luận về việc sử dụng phương pháp ảnh hưởng yếu tố cấu thành trực tiếp hay phương pháp ảnh hưởng bởi nhân tố kinh tế vĩ mô đối với thu, chi và cân bằng quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở Mỹ đang diễn ra sôi nổi Một bên là cơ quan quản lý quỹ BHTN, ủng hộ phương pháp truyền thống, và bên kia là các nhà nghiên cứu kinh tế, đề xuất thay thế phương pháp này Các nhà quản lý quỹ BHTN nhấn mạnh rằng…

Việc đảm bảo tài chính cho quỹ an sinh thất nghiệp là một vấn đề quan trọng và lâu dài ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Dự báo tài chính của quỹ BHTN phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhân khẩu học, kinh tế, xã hội và các hệ số điều chỉnh Hệ thống số liệu dự báo thường dựa trên các con số xác định, xoay quanh giá trị trung tâm như mức tăng lương và sự tham gia của lực lượng lao động.

Phương pháp ảnh hưởng trực tiếp trong quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) gặp khó khăn trong việc đánh giá khả năng thay đổi tiềm tàng của giá trị trung tâm Để giảm thiểu sự chênh lệch giữa giá trị dự báo và kết quả thực tế, các nhà quản lý BHTN áp dụng hai phương pháp kịch bản để ước lượng thu chi, bao gồm thay đổi chi phí lớn nhất và nhỏ nhất, cũng như giá trị đóng góp từ nguồn đóng thường xuyên và tài trợ không thường xuyên Tuy nhiên, giáo sư Kenneth G Buffin đã chỉ ra rằng các kịch bản này có thể làm cho việc hoạch định chính sách trở nên phức tạp, với xác suất xảy ra thấp (dưới 1%) và chính sách có thể quá lỏng hoặc quá chặt.

Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Kenneth G Buffin đã đề xuất sử dụng các chỉ số kinh tế vĩ mô để đánh giá ảnh hưởng ngẫu nhiên trong dự báo thu, chi và cân bằng quỹ BHTN Thay vì chỉ xem xét ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ BHTN, có thể áp dụng các yếu tố gián tiếp như chỉ số biến động kinh tế - thị trường (lạm phát, lãi suất) Tuy nhiên, việc lựa chọn các nhân tố này cũng gặp phải rào cản, bao gồm tác động của điều chỉnh chính sách như chính sách hỗ trợ thai sản và cung lực lao động, cũng như mối tương quan giữa các yếu tố như lãi suất, tỷ giá và lạm phát.

Tình hình nghiên cứu ở Việt nam

Sau hơn một thập kỷ mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã đối mặt với mâu thuẫn giữa chính sách xã hội và thực tiễn quản lý, cũng như giữa mục tiêu và kết quả thực hiện Trong bối cảnh thay đổi kinh tế - xã hội, chính sách xã hội và vai trò quản lý của nhà nước trở nên quan trọng để đạt được các mục tiêu xã hội Quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, với khoản thu chi được xem là ngoài ngân sách Tuy nhiên, chính phủ hiện tại chưa cam kết rõ ràng về khả năng chi trả trong tương lai, mặc dù đã có cảnh báo từ Tổ chức Lao động Quốc tế về tình trạng thâm hụt quỹ trong tương lai do sự thay đổi điều kiện thực tế và nền tảng chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

Sự "kém linh hoạt" trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH) ở Việt Nam đã dẫn đến sự không phù hợp giữa lý luận và thực tiễn, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu Chủ đề này đang trở thành mối quan tâm lớn đối với các nhà nghiên cứu kinh tế tại Việt Nam.

Để nâng cao năng lực quản lý tài chính quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) phù hợp với thực trạng kinh tế khu vực, cần xem xét nghiên cứu của Phùng Thị Cẩm Châu, cho rằng chính sách BHTN tại Việt Nam đang đối mặt với thách thức trong bối cảnh suy thoái kinh tế châu Á Điều này dẫn đến nguy cơ thất nghiệp không chỉ tại khu vực sản xuất thành phố mà còn ở các vùng sản xuất địa phương Năm 2012, tỉnh Thái Nguyên đã ghi nhận một lượng lớn người lao động thất nghiệp, buộc cơ quan bảo hiểm phải chi trả bảo hiểm cho họ Tuy nhiên, Cẩm Châu chỉ ra rằng chính sách hỗ trợ thất nghiệp được thiết lập từ năm 2009 vẫn chưa phù hợp với các điều kiện kinh tế và xã hội hiện tại.

Khi nền kinh tế - xã hội thay đổi, quyền lợi của người lao động thất nghiệp bị ảnh hưởng Để duy trì sự trung lập trong việc hài hòa lợi ích thị trường lao động, nhà nước cần đóng vai trò chủ chốt trong việc thực thi chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, quyền lợi của người lao động càng trở nên quan trọng hơn.

10 Ngày 20 tháng 1 năm 1995, quỹ Bảo hiểm đƣợc tách ra khỏi hoạt động ngân sách chính phủ và tự hạch toán cân đối thu chi

Nghiên cứu của Nguyễn Quang Trường chỉ ra rằng 30 doanh nghiệp đang coi nhẹ rủi ro thất nghiệp cao, nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nhà nước trong việc quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở Việt Nam Công cụ quyền lực của nhà nước sẽ giúp cân bằng vị thế của người lao động tại các doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả chính sách xã hội và đảm bảo sự cân đối tài chính của quỹ.

Kể từ khi chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được áp dụng, Nguyễn Mai Phương (2014) đã chỉ ra rằng việc thực hiện chính sách này ở nhiều địa phương còn nhiều bất cập và cần cải thiện Quy trình chi trả quỹ BHTN gặp vướng mắc về thủ tục, trong khi công tác tuyên truyền tham gia quỹ chưa đạt hiệu quả cao Từ thực trạng này, Nguyễn Mai Phương nhấn mạnh rằng việc chuyển từ trợ cấp thôi việc sang chi trả BHTN là phù hợp với điều kiện doanh nghiệp và xã hội Việt Nam Bằng cách nghiên cứu chính sách BHTN tại Trung Quốc, Nguyễn Mai Phương mong muốn hỗ trợ các nhà quản lý quỹ BHTN Việt Nam học hỏi kinh nghiệm trong việc xây dựng các biện pháp và chính sách quản lý quỹ hiệu quả.

Thứ hai, nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến thu, chi BHTN ở Việt Nam

Quỹ BHTN tại Việt Nam được thành lập muộn hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á, điều này liên quan đến bối cảnh kinh tế và lịch sử phát triển của đất nước Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng cũng như xây dựng mô hình thu, chi và dự báo cân đối thu chi quỹ BHTN đang thu hút sự quan tâm lớn từ các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu về vấn đề kinh tế - xã hội tại Việt Nam.

Các nhà quản lý quỹ BHTN tại Việt Nam, bao gồm TS Đỗ Văn Sinh và cộng sự (2011), đã xác định yếu tố LLLĐ, tiền lương cơ sở và tỷ lệ thất nghiệp là những yếu tố quan trọng trong việc xây dựng mô hình cân đối thu chi BHTN Mặc dù dữ liệu thu chi BHTN chỉ được thu thập trong khoảng 1 – 3 năm, việc áp dụng các phương pháp tiếp cận gián tiếp dường như không khả thi Tuy nhiên, việc sử dụng mô hình cân đối thu – chi từ các quỹ "xã hội tương tự" có thể giúp dự đoán biến động và xu hướng cân đối quỹ BHTN trong tương lai dài.

Đề án xem xét kết cấu tài chính quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đã được thực hiện từ năm 2009, cho thấy mối quan hệ tương đồng giữa BHTN và Bảo hiểm xã hội (BHXH) trong việc đóng góp mức lương Nghiên cứu của Đỗ Văn Sinh và cộng sự (2011) cùng với Phạm Đình Thành và cộng sự (2015) đã chỉ ra điều này.

Đỗ Văn Sinh và cộng sự đề xuất rằng mô hình dự báo tài chính cho quỹ BHTN có thể được xây dựng dựa trên mô hình dự báo quỹ BHXH đã được phát triển trước đó.

Bảng 1.3 Kết quả dự báo thu BHTN của cơ quan quản lý quỹ BHTN (nguồn:

Số người tham gia BHTN

Nhóm nghiên cứu đã đề xuất phương pháp dự báo chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) dựa trên ảnh hưởng trực tiếp đến chi trả BHTN Mô hình này phân loại các khoản chi BHTN thành bốn khoản chi cơ bản, giúp cải thiện độ chính xác trong việc dự báo chi phí liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp.

Chi trả trực tiếp cho người thất nghiệp, hỗ trợ tư vấn và tìm việc làm, chi phí học nghề và đóng bảo hiểm y tế, cùng với chi phí cho bộ máy quản lý là những yếu tố quan trọng trong dự báo chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Để thực hiện dự báo này, cần xác định số lượng người tham gia chính sách BHTN, biến động tiền lương và hệ số giả định từ các chuyên gia.

Bảng 1.4 Kết quả dự báo tình hình chi BHTN của cơ quan quản lý quỹ BHTN

Một hướng nghiên cứu khác tập trung vào ảnh hưởng của "yếu tố hành vi cá nhân" đối với chi phí bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), nhằm kiểm tra cách thức phân bổ chi trả BHTN.

Các nghiên cứu toàn cầu chỉ ra rằng những yếu tố như độ tuổi lao động (trên 35 tuổi), trình độ chuyên môn chưa được đào tạo và giới tính (lao động nữ) có ảnh hưởng đáng kể đến việc hưởng lợi từ chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Điều này cho thấy sự cần thiết phải xây dựng các chính sách hợp lý nhằm hỗ trợ những đối tượng dễ bị tổn thương trong thị trường lao động.

32 trả BHTN ở Rumani,Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của Nguyễn Ái Đoàn và cộng sự

Nghiên cứu năm 2017 đã thực hiện khảo sát mô hình ảnh hưởng tại Việt Nam với 607 mẫu hợp lệ trong tổng số 752 mẫu phiếu điều tra, liên quan đến 6518 người nhận trợ cấp thất nghiệp tại cơ quan BHTN quận Long Biên trong năm 2013 Kết quả cho thấy rằng chi phí bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) chủ yếu bị ảnh hưởng bởi mức lương và thời gian đóng góp, hơn là các yếu tố sinh học cá nhân và trình độ chuyên môn của người thất nghiệp.

Một số kết luận về tổng quan nghiên cứu

Từ những công trình nghiên cứu ở trên thế giới và ở Việt Nam có thể rút ra những kết luận sau:

Thứ nhất, chính sách BHTN cần phải phù hợp với sự thay đổi các điều kiện KT-

Các nghiên cứu cho thấy rằng sự thay đổi trong điều kiện kinh tế xã hội toàn cầu có thể khiến cơ sở xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trở nên lạc hậu và không còn phù hợp với những giả định ban đầu của chính sách này Những tác giả như Murray Rubin, Daron Acemoglu và Monica Townson đã chỉ ra rằng cần phải điều chỉnh chính sách BHTN để đáp ứng kịp thời với các thay đổi của môi trường kinh tế xã hội.

Các điều kiện kinh tế xã hội như biến động tiền lương, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và quản lý quỹ BHTN đang gặp nhiều vấn đề cần sửa đổi để đảm bảo hiệu quả chính sách Nhiều nghiên cứu cho rằng hành vi của người lao động và quản lý quỹ BHTN, cùng với các yếu tố kinh tế khách quan, là nguyên nhân khiến chính sách này không còn phù hợp Sự thay đổi trong hành vi cá nhân và điều kiện kinh tế đã làm cho mục tiêu của chính sách BHTN không đạt được kỳ vọng ban đầu, tạo cơ sở cho các nghiên cứu về dự báo cân đối thu chi quỹ BHTN.

Các nhà nghiên cứu và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) toàn cầu hiện đang chú trọng vào hai phương pháp chính để phân tích nguyên nhân tác động đến sự cân bằng thu chi của quỹ này Họ áp dụng các mô hình nghiên cứu để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu của quỹ BHTN, từ đó đưa ra dự báo chính xác hơn.

BHTN trong công tác dự báo có sự đa dạng phong phú Để cân đối quỹ BHTN, các nhà nghiên cứu áp dụng nhiều mô hình khác nhau, trong đó nổi bật là mô hình ảnh hưởng trực tiếp đến thu và chi BHTN, cũng như mô hình phân tích tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô lên thu - chi BHTN.

Mô hình ảnh hưởng trực tiếp có ưu điểm là hệ thống phương trình và lý luận đơn giản, thuận lợi cho công tác dự báo dài hạn Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của mô hình này là khả năng xảy ra sai số lớn trong kết quả dự báo.

Mô hình ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến sự cân đối thu, chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đã được nhiều nghiên cứu gần đây áp dụng Cơ sở của mô hình này dựa trên lý thuyết kinh tế hiện đại, tập trung vào mối quan hệ vĩ mô giữa thất nghiệp, lạm phát và tăng trưởng kinh tế, như đã được trình bày bởi các nhà kinh tế học nổi tiếng như Jan Tinbergen, Alban William Phillips, Arthur Melvin Okun và Lawrence Klein.

Kết quả so sánh giữa mô hình ảnh hưởng trực tiếp và mô hình ảnh hưởng bởi nhân tố kinh tế vĩ mô cho thấy mô hình trực tiếp có sai số lớn hơn Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng "tính chất thị trường của nền kinh tế" dẫn đến sự lựa chọn khác nhau về các chỉ số kinh tế vĩ mô ở các quốc gia khác nhau Trong khi tăng trưởng kinh tế (GDP) ở Việt Nam và các nước có nền kinh tế chuyển đổi thường mang lại ảnh hưởng tích cực rõ rệt, tại các nước công nghiệp phát triển, chỉ số GDP lại không được coi là "chất lượng" như các chỉ số công nghiệp (IPI), chỉ số chứng khoán và chỉ số thị trường tài chính.

Phương pháp ước lượng kinh tế và mô hình ảnh hưởng kinh tế vĩ mô đã giúp kết nối chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) với thực tiễn kinh tế - xã hội Nghiên cứu cho thấy phương pháp ước lượng kinh tế có thể chỉ ra mức độ ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội, như được chứng minh bởi giải thưởng Nobel của Lucas năm 1995 Phương pháp OLS được áp dụng trong giả thuyết về ảnh hưởng của các biến số kinh tế vĩ mô độc lập và ngẫu nhiên Nghiên cứu của Christopher Sims đã chỉ ra mối quan hệ tương tác hai chiều giữa các biến số, với các ví dụ như "thất nghiệp làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế" và "tăng trưởng kinh tế làm giảm thất nghiệp" Điều này tạo cơ sở cho giả định về mối quan hệ nhân quả trong việc đánh giá ảnh hưởng của nhân tố kinh tế vĩ mô và phát triển phương pháp ước lượng VAR và VECM, được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng.

38 cứu kinh tế sử dụng trong nghiên cứu mô hình cân đối thu, chi BHTN ở Mỹ, Malaysia, Thái Lan… (theo các tài liệu [19], [22], [23])

Các nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vai trò của quản lý nhà nước đối với quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Tuy nhiên, các nhà quản lý quỹ BHTN lại chú trọng nhiều hơn đến việc xây dựng mô hình dự báo thu chi BHTN thông qua phương pháp trực tiếp.

Mô hình dự báo thu chi và cân đối quỹ BHTN ở Việt Nam hiện đang gặp phải sự sai lệch đáng kể từ các kết quả do nhà quản lý quỹ BHTN cung cấp Nghiên cứu toàn cầu về thu chi BHTN đã chỉ ra rằng mô hình ảnh hưởng kinh tế vĩ mô có hiệu quả và đáng tin cậy trong việc dự báo và cân bằng quỹ BHTN thông qua phương pháp gián tiếp Nhiều quốc gia, cả phát triển và đang phát triển, đã áp dụng mô hình này Để áp dụng thành công mô hình vào Việt Nam, cần xác định các nhân tố phù hợp với đặc trưng kinh tế - xã hội Việt Nam và lựa chọn phương pháp đánh giá chính xác Đây là nền tảng cho nghiên cứu luận án tiến sĩ mang tên "ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ TỚI THU-CHI QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CÂN ĐỐI Ở VIỆT NAM."

Tóm tắt nội dung chương 1

Thứ nhất, khái quát nội dung của một vài công trình nghiên cứu trên thế giới

Thứ hai, làm rõ phương pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam và cơ sở khoảng trống của đề tài tiến sĩ

Chương tiếp theo của luận án sẽ trình bày rõ ràng lý luận và lựa chọn các nhân tố ảnh hưởng trong mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU, CHI BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC

NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ

Mỗi cá nhân và gia đình đều là thành viên quan trọng của xã hội, với mối quan hệ giữa họ phản ánh sự gắn kết chặt chẽ và tạo nên sự ổn định Khi mọi người có việc làm, xã hội sẽ phát triển bền vững, giảm thiểu mâu thuẫn và tiêu cực, đồng thời nâng cao nhân cách và trí tuệ của con người Ngược lại, nếu nền kinh tế không cung cấp đủ việc làm và thu nhập tối thiểu, sẽ dẫn đến nhiều vấn đề xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nhân cách.

Một số khái niệm cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp

Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà các quốc gia cần có chính sách đối phó Tình trạng này gây ra tác động tiêu cực lớn đến phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội Tỷ lệ thất nghiệp cao và kéo dài đẩy người lao động vào cảnh túng quẫn, đồng thời dẫn đến các tệ nạn xã hội và bất ổn chính trị - xã hội Hệ quả là các cấu trúc xã hội bền vững, như gia đình, có nguy cơ đổ vỡ khi nguồn lực lao động bị lãng phí, không thể đóng góp sản lượng và tài chính cho gia đình.

Thất nghiệp không chỉ làm mất đi nguồn thu nhập chính của người lao động, đặc biệt ở các nước phát triển, mà còn khiến họ và gia đình rơi vào tình trạng khó khăn, không đủ khả năng chi trả cho các chi phí sinh hoạt hàng ngày như tiền nhà, tiền điện.

Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế cá nhân, như việc không đủ tiền trang trải cho các nhu cầu thiết yếu như nước và học phí cho con cái, mà còn có thể dẫn đến tình trạng vô gia cư khi người lao động bị đuổi ra khỏi nhà Hơn nữa, thất nghiệp gây ra tổn hại nghiêm trọng về mặt tinh thần và sức khỏe, khiến nhiều người rơi vào tình trạng tuyệt vọng, thậm chí tự kết thúc cuộc sống hoặc bị cuốn vào các tệ nạn xã hội Đối với quốc gia, tình trạng thất nghiệp là một sự lãng phí nguồn nhân lực, cản trở sự phát triển kinh tế và dễ dẫn đến xáo trộn xã hội, biểu tình chống chính phủ, và có thể gây ra biến động chính trị.

Thất nghiệp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người lao động và sự phát triển kinh tế xã hội, vì vậy các quốc gia cần tìm kiếm giải pháp hiệu quả để giải quyết tình trạng này Một trong những biện pháp bảo vệ lợi ích người lao động là mô hình bảo hiểm thất nghiệp, giúp người thất nghiệp giảm bớt khó khăn tài chính và tạm thời bù đắp thu nhập khi mất việc làm.

2.1.1 Thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp

Có nhiều quan điểm khác nhau về giải thích thuật ngữ “thất nghiệp”

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thất nghiệp được định nghĩa dựa trên ba yếu tố quan trọng trong mối quan hệ lao động: độ tuổi lao động, việc làm và tiền lương Cụ thể, thất nghiệp xảy ra khi những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không tìm được việc làm với mức lương phù hợp Để được coi là thất nghiệp, cả ba yếu tố này phải đồng thời được thỏa mãn.

13 Trong đó yếu tố "việc làm" và "mức lương" được xem xét trong 3 tình huống riêng biệt:

Người lao động có thể được phân loại thành hai nhóm chính Thứ nhất, họ là những người sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức hoạt động sản xuất hoặc thuê nhân công, và hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi chi trả chi phí, được coi là có việc làm với lợi nhuận thay cho "tiền lương" Thứ hai, người lao động sở hữu hoặc thuê tư liệu sản xuất và trực tiếp tổ chức sản xuất mà không thuê mướn lao động, cũng được xem là có việc làm và nhận lợi nhuận từ hoạt động sản xuất - kinh doanh thay cho "tiền lương".

Người lao động là những cá nhân không sở hữu tư liệu sản xuất và phải làm việc cho người khác Họ nhận được tiền lương từ người sử dụng lao động để đền bù cho những đóng góp của mình vào hoạt động kinh doanh của tổ chức.

Có cùng quan điểm về một vài đặc điểm giải thích thuật ngữ của ILO về

"thất nghiệp", tuy nhiên các nhà lập pháp của Đức lại tập trung vào khía cạnh

Mối quan hệ "lao động làm thuê" được xác định là có việc làm khi công việc đảm bảo tính dài hạn và tuân thủ chế độ bảo đảm lợi ích lao động Theo Luật đền bù thất nghiệp, "thất nghiệp" là tình trạng của người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn Người có việc làm là người làm tối thiểu 15 giờ mỗi tuần và đóng góp vào quỹ BHXH tương ứng Những người không thực hiện công việc do nghỉ phép hoặc ốm đau được coi là có thời gian làm việc gián đoạn, và trong thời gian này, họ vẫn nhận được khoản tiền hỗ trợ mà không bị xem là thất nghiệp.

Các nhà làm luật Pháp tập trung vào nhóm lao động làm thuê để xác định tình trạng thất nghiệp Yếu tố độ tuổi lao động và hợp đồng lao động có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của các nhà lập pháp Đức Tuy nhiên, sự khác biệt chính nằm ở việc các nhà làm luật Pháp chú trọng đến "tính chất hợp đồng" và "tính chất công việc" như cơ sở để đánh giá.

"lao động làm thuê dài hạn" 15

Cơ quan thống kê Việt Nam xác định tình trạng "thất nghiệp" dựa trên ba tiêu chí: không có việc làm, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc Phương pháp này được áp dụng theo quy định của Tổng cục thống kê.

Để xác định tính dài hạn của việc làm, các nhà quản lý nhà nước ở Đức dựa vào hợp đồng lao động, coi đây là yếu tố chính để đánh giá tình trạng lao động Hợp đồng lao động xác định người lao động có thuộc diện thất nghiệp hay không; nếu hợp đồng có thời hạn cụ thể, người lao động sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp khi hợp đồng kết thúc, như trường hợp thực tập sinh Ngoài ra, các giao dịch dịch vụ việc trong một khối lượng công việc nhất định cũng được xem là dấu hiệu của công việc ngắn hạn, chẳng hạn như phát tờ rơi trong chiến dịch tranh cử Bên cạnh đó, chế độ đảm bảo lợi ích của người lao động là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự bền vững của quan hệ cá nhân và xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Đức.

Hợp đồng lao động có thể thiếu tính ổn định lâu dài khi cho phép chấm dứt đơn phương hoặc thuộc loại lao động thời vụ, dẫn đến nguy cơ bị thay thế dễ dàng Ngoài ra, tính chất công việc cũng không đảm bảo tiêu chuẩn lao động khi không phù hợp với trình độ chuyên môn của người lao động, có mức thu nhập bấp bênh và thời gian làm việc không ổn định.

Việt Nam thì số người thất nghiệp còn bao gồm những người hiện không có việc làm và sẵn sàng làm việc nhƣng không tìm việc do:

"…+ Đã chắc chắn có đƣợc công việc hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh;

Người lao động phải tạm nghỉ việc mà không nhận lương hoặc tiền công, hoặc không chắc chắn có thể trở lại công việc cũ do cơ sở làm việc bị thu hẹp hoặc ngừng sản xuất.

+ Đang trong thời gian nghỉ thời vụ;

+ Bận việc đột xuất của gia đình hoặc ốm, đau tạm thời "

Tình trạng thất nghiệp được hiểu khác nhau ở các quốc gia, nhưng có những điểm chung như "trong độ tuổi lao động", "không có việc làm" và không có "nguồn thu nhập" Ở các nước phát triển như Thụy Điển, Anh, Mỹ, người lao động thất nghiệp được bảo vệ thu nhập, trong khi ở nhiều quốc gia đang phát triển, chỉ những người đóng góp vào hệ thống an sinh xã hội mới được bảo vệ Do đó, người lao động thất nghiệp được chia thành hai loại: những người được bảo vệ bởi chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và những người không được bảo vệ Luận án này sẽ tập trung vào nhóm lao động làm thuê thuộc diện bảo vệ của chính sách BHTN tại Việt Nam, với điều kiện để được hưởng chính sách này.

" đối tượng hưởng chế độ chi trả thất nghiệp từ quỹ BHTN ở Việt Nam bao gồm:

- Người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc;

- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc;

- Đã nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm;

- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp "

2.1.1.2 Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở mỗi quốc gia được hình thành qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, nhưng mục tiêu chung là bảo vệ lợi ích của người thất nghiệp Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng trong chính sách BHTN, xuất phát từ cách quản lý người thất nghiệp khác nhau Thuật ngữ BHTN cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh và quy định của từng quốc gia.

Thu, chi bảo hiểm thất nghiệp và mô hình cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được thiết lập nhằm hỗ trợ tài chính cho người lao động khi mất nguồn thu nhập từ lao động Khoản chi từ quỹ BHTN không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cơ bản mà còn cần đảm bảo sự cân đối tài chính của quỹ Nếu mức chi quá cao, người thất nghiệp có thể dễ dàng trang trải cuộc sống nhưng sẽ kéo dài thời gian tìm việc và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, đồng thời giảm tích lũy quỹ Ngược lại, nếu mức chi quá thấp, người thất nghiệp sẽ không đủ tài chính để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cơ bản, dẫn đến tình trạng khó khăn.

2.2.1 Khái niệm về thu, chi bảo hiểm thất nghiệp

2.2.1.1 Khái niệm thu bảo hiểm thất nghiệp

Quỹ BHTN chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi đảm bảo nguồn thu tài chính lớn và bền vững Để duy trì hoạt động, việc đóng góp thường xuyên là điều kiện tiên quyết, cho phép quỹ gửi tiền vào ngân hàng thương mại Ở Việt Nam, việc đầu tư vào ngân hàng thương mại do nhà nước nắm giữ trên 51% là một lựa chọn đầu tư hiệu quả, giúp gia tăng lợi nhuận cho quỹ.

Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động, với mức đóng góp cần phải tương xứng với mức chi trả Nghiên cứu cho thấy sự liên kết giữa mức đóng góp và chi trả là cần thiết để đảm bảo trách nhiệm và lợi ích của người lao động Việc lựa chọn giữa đóng góp giới hạn hay tùy ý có thể ảnh hưởng đến mục tiêu và sự tồn tại của quỹ Theo luật ngân sách liên bang Mỹ, nguồn tài trợ cho chương trình BHTN chủ yếu đến từ đóng góp trực tiếp của người sử dụng lao động và người lao động, cùng với các khoản thu từ đầu tư và nguồn hỗ trợ khác.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại Mỹ yêu cầu quỹ BHTN phải hoạt động theo nguyên tắc "tự cân đối – pay as you go", đảm bảo tính bền vững và dựa vào nguồn thu trực tiếp Nguồn thu trực tiếp này được coi là tài chính dự trữ và không được phép sử dụng cho các hoạt động chi tiêu ngân sách khác.

Quỹ BHTN được hiểu là một quỹ tài chính độc lập, có chức năng chia sẻ rủi ro thất nghiệp giữa người lao động và người sử dụng lao động, theo giải thích của ILO về nguyên tắc tự cân đối tài chính Các khoản thu của quỹ này phải được hình thành từ sự đóng góp trực tiếp của cả người lao động và người sử dụng lao động, do đó việc tính toán và điều chỉnh mức đóng góp quỹ là vô cùng cần thiết.

BHTN tại Pháp được điều chỉnh dựa trên tình hình tài chính của quỹ Khi nền kinh tế ổn định với thặng dư lớn, mức đóng góp sẽ được giảm xuống Ngược lại, khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và kéo dài, khả năng dự phòng của quỹ sẽ bị ảnh hưởng.

22 Trên thế giới, có 2 dạng quy định về sự đóng góp vào quỹ bảo hiểm:

Đóng góp và chi trả bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được xác định theo mức cố định, không phụ thuộc vào lương Mức đóng góp BHTN do cơ quan quản lý xây dựng dựa trên tình hình kinh tế xã hội và mức sống chung Việc chi trả BHTN được tính toán theo điều kiện kinh tế - xã hội và lợi ích của toàn thể người lao động, theo mô hình Beveridge.

Đóng góp theo mức lương thực tế và hưởng lợi theo giá trị đóng góp trong một khoảng thời gian giúp phân phối lợi ích công bằng hơn Mức đóng góp và chi trả dựa trên lương của người lao động, tạo nên mối quan hệ rõ ràng: đóng góp nhiều sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn, theo mô hình Bismarck.

53 dài hạn của quỹ bị đe dọa, thì hiệp hội công đoàn và giới chủ sẽ đàm phán lại mức đóng góp tăng thêm vào quỹ BHTN

Tóm lại, mặc dù cách giải thích luật của các quốc gia có sự khác biệt, nhưng ILO đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về nguồn thu cho quỹ BHTN, bao gồm: (1) Sự đóng góp tài chính được pháp luật công nhận trong mối quan hệ hợp đồng lao động dài hạn giữa người sử dụng lao động và người lao động; (2) Sự hỗ trợ tài chính và đầu tư từ các nguồn vốn nhàn rỗi khác.

Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) từ nguồn đóng góp bắt buộc là một phần quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội tại nhiều quốc gia, đặc biệt theo mô hình Bismarck Theo quy định pháp luật về hợp đồng lao động, chỉ có hai đối tượng chính có nghĩa vụ tham gia đóng góp tài chính cho quỹ BHTN là người lao động và người sử dụng lao động Sự khác biệt trong cách đóng góp giữa các chủ thể này là điểm nổi bật trong quản lý quỹ BHTN.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đang được tranh luận với nhiều quan điểm khác nhau về tỷ lệ đóng góp giữa người lao động và người sử dụng lao động Một số quốc gia như Canada và Slovenia cho rằng người lao động nên đóng góp nhiều hơn vì lợi ích của họ Ngược lại, ở Nhật Bản, Ấn Độ, Thụy Sĩ và Venezuela, người sử dụng lao động được xem là đối tượng chính phải chịu trách nhiệm đóng góp nhiều hơn do quyết định tinh giảm nhân công Một số quốc gia như Trung Quốc, Đức, Nam Phi và Việt Nam chọn giải pháp chia sẻ trách nhiệm đồng đều, với tỷ lệ đóng góp giống nhau giữa hai bên Cuối cùng, một số quốc gia cho phép quyền lựa chọn riêng về mức đóng góp, với quy định mức tối thiểu cho cả người lao động và người sử dụng lao động, nhưng không giới hạn mức tối đa.

+ Thu BHTN từ nguồn tài trợ

Quỹ BHTN là một quỹ xã hội được thành lập nhằm bảo vệ thu nhập cho người lao động mất việc làm Với mục tiêu cao cả này, quỹ BHTN thu hút nhiều hoạt động thiện nguyện và tài trợ đa dạng Ngoài sự đóng góp từ ngân sách nhà nước thặng dư của Singapore, quỹ còn nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác.

54 nhà kinh doanh cá nhân, nhà sưu tầm và nhà đầu tư đã đóng góp đáng kể vào nguồn lực tài chính của quỹ BHTN tại Mỹ và Canada.

Các khoản tài trợ và bảo hộ tài chính cho quỹ BHTN thường là những cam kết đóng góp trong một khoảng thời gian nhất định Giá trị thực sự của các khoản thu này chỉ được xác nhận khi "tiền" đã được chuyển vào quỹ Những tài trợ dưới hình thức "trao tay cổ phiếu" hay "quyền khai thác tài sản" làm cho giá trị đóng góp trở nên "không chắc chắn", không phải là cơ sở tin cậy cho nhà quản lý quỹ BHTN ghi nhận thường xuyên.

+ Thu BHTN từ kết quả hoạt động đầu tư vốn thặng dư nhàn rỗi

Khi nguồn tài chính dự phòng chưa được sử dụng, nhà quản lý quỹ có thể tăng giá trị thông qua các kênh đầu tư tài chính Khoản dự phòng tích lũy cần đảm bảo an toàn, sinh lời cao và thu hồi nhanh chóng khi có nhu cầu chi trả, đây là nguyên tắc cơ bản trong quản lý quỹ BHTN Quyền sử dụng vốn thặng dư tài chính nhàn rỗi cho hoạt động đầu tư được quyết định bởi chính phủ hoặc các cơ quan tài chính Để tối ưu hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, vốn thặng dư nên được đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc cổ phiếu ưu đãi của các tập đoàn nhà nước Những khoản đầu tư có sự đảm bảo từ nhà nước là yếu tố quan trọng nhằm tránh sự đổ vỡ của quỹ.

2.2.1.2 Khái niệm chi bảo hiểm thất nghiệp

Mô hình ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thu chi bảo hiểm thất nghiệp

BHTN là một chính sách quan trọng đối với xã hội, đòi hỏi sự chung tay của toàn thể người lao động trong việc duy trì và phát triển quỹ Việc kiểm soát các chủ thể trong chính sách đóng góp và chi trả BHTN là cần thiết để đảm bảo lợi ích chung và nguyên tắc hoạt động hiệu quả.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại Việt Nam quy định mức hưởng là 60% nhưng không vượt quá 05 lần mức lương cơ sở hoặc mức lương tối thiểu vùng, tùy thuộc vào từng đối tượng.

Tại Việt Nam, quy định chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) stipulates rằng người lao động có thời gian đóng đủ từ 12 tháng đến 36 tháng sẽ nhận được 03 tháng trợ cấp thất nghiệp Sau đó, cứ mỗi 12 tháng đóng tiếp theo, người lao động sẽ được nhận thêm 01 tháng trợ cấp, nhưng tổng thời gian trợ cấp không vượt quá 12 tháng.

Nghiên cứu gần đây về quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tập trung vào xu hướng thay đổi thu, chi quỹ này, dựa trên các yếu tố khách quan khác nhằm phác thảo thực trạng tài chính và dự báo tương lai của quỹ BHTN Cơ sở của nghiên cứu này là lý thuyết về thất nghiệp chu kỳ, liên quan đến biến động thất nghiệp ngắn hạn và ảnh hưởng từ sự kết hợp của nhiều chính sách kinh tế vĩ mô.

2.3.1 Khái quát chung về các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp và mô hình cân đối thu chi quỹ bảo hiểm thất nghiệp Đối lập với giả định nghiên cứu về ảnh hưởng chủ quan tới cân đối thu chi BHTN là các nghiên cứu về giả định ảnh hưởng khách quan đến thất nghiệp và thu, chi BHTN Theo cách tiếp cận này thì hiện tƣợng thất nghiệp không xuất phát từ ý chí của người lao động (người lao động vẫn mong muốn được làm việc) và của bên sử dụng lao động (bên sử dụng lao động vẫn muốn duy trì thuê người lao động làm việc), mà xuất phát từ những điều kiện khách quan bên ngoài khác Những nguyên nhân khách quan đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm chẳng hạn nhƣ: vấn đề biến động thị trường, dịch chuyển cơ cấu kinh tế - kỹ thuật, biến động chính trị hay biến động thời tiết, môi trường Hậu quả của sự thay đổi và biến động đó khiến thị trường sản xuất bị phá vỡ và quan hệ lao động bị gián đoạn, thậm chí bị ngừng vô thời hạn

2.3.1.1 Ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nhiều mô hình kinh tế đã xuất hiện, bao gồm kinh tế tự nhiên, kinh tế tập trung và kinh tế thị trường, trong đó kinh tế thị trường được nhiều quốc gia lựa chọn để thúc đẩy phát triển Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mở, tuân thủ các nguyên tắc và quy luật của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh và hợp tác, đồng thời khuyến khích giao lưu thương mại Mô hình này tạo cơ hội cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia và tìm kiếm lợi nhuận, tuy nhiên cũng có những biến động và tăng trưởng theo chu kỳ.

Hình 2.3 Sự ra đời của mô hình KTVM -Macro economics model(nguồn: [24])

Nhà kinh tế học Jan Tinbergen đã quan sát các hiện tượng kinh tế - xã hội trong thời gian dài, đặt nền tảng cho mô hình kinh tế vĩ mô Tiếp nối, Lawrence Klein (1980) đã phát triển và hoàn thiện mô hình này, ứng dụng các hệ thống phân tích và công cụ đánh giá vào quản lý vĩ mô trong lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Dựa trên các thành tựu của mô hình kinh tế vĩ mô, chính phủ nỗ lực điều tiết để duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế, nhưng không phải lúc nào cũng thành công Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lao động có việc làm cao, trong khi khi tăng trưởng kém, tỷ lệ thất nghiệp tăng và chi phí bảo hiểm thất nghiệp giảm Chu kỳ kinh tế phản ánh sự biến động của việc làm và chi phí doanh nghiệp, cũng như hành vi của cá nhân đối với những biến động này Trong thời kỳ khủng hoảng, doanh nghiệp thường cắt giảm chi phí, dẫn đến việc sa thải lao động, nhưng sau khủng hoảng, xu hướng có thể đảo ngược Nghiên cứu của Dale T Mortensen cho thấy, trong giai đoạn khủng hoảng, mức lương giảm khiến nhiều người lao động chọn nghỉ việc và kéo dài thời gian tìm kiếm việc làm, mặc dù năng suất không thay đổi Mô hình này đã được áp dụng để giải quyết các chính sách xã hội liên quan đến thất nghiệp và cân bằng quỹ.

BHTN ở nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển như Tây Âu, New Zealand và Thái Lan có đặc trưng là sự kết hợp giữa thực tiễn biến động kinh tế - xã hội và môi trường với hậu quả của việc thay đổi mô hình cân bằng quỹ BHTN Mô hình dự báo ảnh hưởng kinh tế vĩ mô tập trung vào tác động qua lại giữa chính sách và biến động thị trường, nhằm dự báo tổng thể thị trường và chính sách Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các chỉ số kinh tế vĩ mô như Chỉ số phát triển công nghiệp (IPI), chỉ số chứng khoán S&P500, chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất trái phiếu chính phủ có ảnh hưởng đáng kể đến biến động thu, chi và cân đối thu chi BHTN.

F (thâm hụt quỹ BHTN) = F(thu BHTN – chi BHTN) = F(các nhân tố kinh tế vĩ mô: GDP, IPI, lãi suất, tỷ giá ) Hay:

Log(thu/chi quỹ BHTN) = α + ∑Log(β j X j ) + u

Phương trình tổng quan dự báo quỹ xã hội:

Log(Y) = α 0 + α i ∑Log (GDP, CPI, lãi suất, tỷ giá hối đoái, vụ mùa, chỉ số giá dầu…) (2.1)

Mô hình ảnh hưởng kinh tế vĩ mô giúp chính phủ lập kế hoạch và điều chỉnh chính sách quản lý vĩ mô để ứng phó với các cuộc khủng hoảng kinh tế Môi trường kinh tế là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến dự toán thu và quyết định sự cân đối thu chi của BHTN Dựa vào chỉ số kinh tế vĩ mô, các nhà quản lý có thể đánh giá năng lực kinh tế của quốc gia và dự báo xu hướng biến động thu, chi cũng như cân đối quỹ xã hội.

Các biến động kinh tế được đo lường qua các chỉ số kinh tế vĩ mô, là những thống kê được công bố định kỳ bởi các cơ quan nhà nước và tổ chức tài chính Những chỉ số này phản ánh sự thay đổi trong quá khứ, chủ yếu xoay quanh giá trị sản xuất và giá cả Các nhà kinh tế học và tổ chức tài chính quốc tế sử dụng thông tin từ các chỉ số này để xây dựng quy luật kinh tế và dự đoán sự biến đổi của nền kinh tế.

2.3.1.2 Kết hợp sự ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô và yếu tố hành vi cá nhân

Hướng nghiên cứu thứ hai của các nhà nghiên cứu từ Ngân hàng Thế giới kết hợp giả định về lý thuyết hành vi cá nhân và ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô trong việc xây dựng phương trình dự báo thu, chi và cân đối thu chi bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ở các quốc gia chưa hoặc mới áp dụng chính sách BHTN Họ nhận thấy rằng lý thuyết hành vi cá nhân có ảnh hưởng đáng kể đến mô hình, dẫn đến việc phương trình dự báo thu, chi BHTN kết hợp cả ảnh hưởng của hành vi cá nhân và các yếu tố kinh tế vĩ mô, tạo ra mô hình mô phỏng bảo hiểm thất nghiệp (UISIM).

Mô hình UISIM được xây dựng dựa trên 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng:

Nhóm 1: Các chỉ số kinh tế vĩ mô

Nhóm 2: Các giả định về thị trường lao động (tiền lương, tỷ lệ thất nghiệp tính toán)

Nhóm 3: Các giả định về chính sách BHTN (điều kiện chi trả, thời gian chi trả, thu, chi và cân đối quỹ )

Để bảo vệ người thất nghiệp, quỹ BHTN chia khoản chi thành hai nhóm: (1) chi trả trực tiếp cho người thất nghiệp và (2) chi cho hoạt động quản lý Khoản chi trực tiếp luôn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi chi phí cho đầu tư nguồn vốn thặng dư sẽ được trừ vào khoản thu từ hoạt động đầu tư theo nguyên tắc kế toán "giá gốc".

Y = F(Chi trực tiếp) + F(Chi gián tiếp) (1)

Khoản chi trực tiếp này được xác định dựa trên số lượng người thất nghiệp, mức lương chi trả và thời gian chi trả

Theo chính sách chi trả bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), thời gian nhận hỗ trợ luôn nằm trong giới hạn cố định Do đó, phương trình chỉ còn lại hai yếu tố chính: thu nhập và số lượng người thất nghiệp Số người thất nghiệp được xác định dựa trên tỷ lệ thất nghiệp và quy mô lực lượng lao động.

UR : tỷ lệ thất nghiệp (Đơn vị tính : %) (Unemployment Rate)

LF : Lực lượng lao động (Đơn vị tính : người) (Labour Force)

W : Mức thu nhập bình quân (Đơn vị tính : $) (Wage)

Lấy log cả hai vế của phương trình (3) thành :

Log(Y) = Log(UR) + Log(LF) + Log(W) (4)

Theo Alice Kügler và cộng sự, tiền lương của người lao động phụ thuộc vào hai yếu tố chính: năng suất lao động (tiền lương danh nghĩa) và giá trị tái tạo sức lao động (tiền lương thực tế) Tại quy mô tổng thể của nền kinh tế, năng suất lao động bình quân được xác định thông qua chỉ số GDP chia cho lực lượng lao động có việc làm.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ VĨ MÔ TỚI THU CHI BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VIỆT NAM

KẾT QUẢ VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Ngày đăng: 08/10/2021, 11:28

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Harold Averkamp (2018), Payroll accounting; www.accountingcoach.com/ payroll- accounting/outline Sách, tạp chí
Tiêu đề: Payroll accounting
Tác giả: Harold Averkamp
Năm: 2018
[2] Aksel Hatland (1998), "The changing balance between incentives and economic security in Scandinavian unemployment benefits schemes", (International social security association conference, p6) Sách, tạp chí
Tiêu đề: The changing balance between incentives and economic security in Scandinavian unemployment benefits schemes
Tác giả: Aksel Hatland
Năm: 1998
[4] Phạm Đình Thành và cộng sự (2012), "Nghiên cứu xây dựng mô hình cân đối quỹ BHXH,BHYT, BHTN ở Việt nam", Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện bảo hiểm xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu xây dựng mô hình cân đối quỹ BHXH,BHYT, BHTN ở Việt nam
Tác giả: Phạm Đình Thành và cộng sự
Năm: 2012
[5] Phạm Đình Thành và cộng sự (2015), "Nghiên cứu xây dựng mô hình cân đối các quỹ BHXH,BHYT, BHTN", Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện bảo hiểm xã hội Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu xây dựng mô hình cân đối các quỹ BHXH,BHYT, BHTN
Tác giả: Phạm Đình Thành và cộng sự
Năm: 2015
[6] Tuấn Anh (2016), "Thực hiện BHTN cần giải pháp có tính đồng bộ để đạt hiệu quả cao", Báo Lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực hiện BHTN cần giải pháp có tính đồng bộ để đạt hiệu quả cao
Tác giả: Tuấn Anh
Năm: 2016
[7] Nhật Minh (2015), "Bất cập trong thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp", Báo Hải quan Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất cập trong thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Tác giả: Nhật Minh
Năm: 2015
[8] Trung Cương (2012), "Bảo hiểm thất nghiệp nhiều bất cập", Báo Tuổi trẻ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm thất nghiệp nhiều bất cập
Tác giả: Trung Cương
Năm: 2012
[9] An Khánh (2013), "Bảo hiểm thất nghiệp: Còn nhiều bất cập", Tạp chí Người lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm thất nghiệp: Còn nhiều bất cập
Tác giả: An Khánh
Năm: 2013
[10] Quỳnh Anh (2016), "Bảo hiểm thất nghiệp: Nhiều vấn đề cần giải quyết", Báo Hà nội mới Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm thất nghiệp: Nhiều vấn đề cần giải quyết
Tác giả: Quỳnh Anh
Năm: 2016
[11] Đình Viên (2017), "Ngăn chặn trục lợi bảo hiểm thất nghiệp", Tạp chí Người lao động Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngăn chặn trục lợi bảo hiểm thất nghiệp
Tác giả: Đình Viên
Năm: 2017
[12] Peter Fredriksson và Bertil Holmlund (2003), "Improving incentives in unemployment insurance", Uppsala University, Department of Economics Working Paper No. 2003:10 CESifo, WP Series No. 922 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Improving incentives in unemployment insurance
Tác giả: Peter Fredriksson và Bertil Holmlund
Năm: 2003
[13] Yehuda Kahane, (1978), The theory on insurance risk premiums, the re- examination in the light of recent development in capital market theory, ĐH Tel Aviv, Israel, Department of Economics Working Paper Sách, tạp chí
Tiêu đề: The theory on insurance risk premiums, the re-examination in the light of recent development in capital market theory
Tác giả: Yehuda Kahane
Năm: 1978
[15] Lukas Inderbitzin, University of St. Gallen, Zurich (2013),"Social Insurance and Employment Protection", Dissertation No. 4199, p.24-28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Social Insurance and Employment Protection
Tác giả: Lukas Inderbitzin, University of St. Gallen, Zurich
Năm: 2013
[16] Richard C. Lawson (2002), "Quantitative Measures for Evaluating Social Security Reform Proposals", Issue brief American Academy of Actuaries, April 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quantitative Measures for Evaluating Social Security Reform Proposals
Tác giả: Richard C. Lawson
Năm: 2002
[17] Martin Mühleisen, Stephan Danninger, David Hauner, Kornélia Krajnyák and Bennett Sutton (2005), "How Do Canadian Budget Forecasts Compare with Those of Other Industrial Countries?", Working Paper No. 05/66, ISBN /ISSN: 9781 4518 60856 / 1018-5941 Sách, tạp chí
Tiêu đề: How Do Canadian Budget Forecasts Compare with Those of Other Industrial Countries
Tác giả: Martin Mühleisen, Stephan Danninger, David Hauner, Kornélia Krajnyák and Bennett Sutton
Năm: 2005
[18] Michael Burda và Charles Wyplosz (2013), "Macroeconomics A European Text", Oxford University Press, ISBN 978-0-19-960864-5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Macroeconomics A European Text
Tác giả: Michael Burda và Charles Wyplosz
Năm: 2013
[19] Kenneth G. Buffin, (2007), "Stochastic Projection Methods for Social Security Systems". International Social Security Association, Fifteenth International Conference of Social Security Actuaries and Statisticians Sách, tạp chí
Tiêu đề: Stochastic Projection Methods for Social Security Systems
Tác giả: Kenneth G. Buffin
Năm: 2007
[20] Dek Terrell, Stephen R. Barnes PhD và Ben Vincent (2015), "Forecast of Louisiana Unemployment Insurance Claims", Louisiana State University, Project of Louisiana Workforce Commission Sách, tạp chí
Tiêu đề: Forecast of Louisiana Unemployment Insurance Claims
Tác giả: Dek Terrell, Stephen R. Barnes PhD và Ben Vincent
Năm: 2015
[21] Mary Downs (2014), "Quantitative Measures for Evaluating Social Security Reform Proposals", American Academy of Actuaries, Issue Brief May 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quantitative Measures for Evaluating Social Security Reform Proposals
Tác giả: Mary Downs
Năm: 2014
[23] Lee, Ronald D. (University of California), Shripad Tuljapurkar (Stanford University) và cộng sự, (2003), "Key equations in the Tuljapurkar-Lee model of the Social Security system ", Michigan Retirement Research Center Research Paper No.WP 2003-044 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Key equations in the Tuljapurkar-Lee model of the Social Security system
Tác giả: Lee, Ronald D. (University of California), Shripad Tuljapurkar (Stanford University) và cộng sự
Năm: 2003

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.2: Tóm tắt các công trình nghiên cứu về sự ảnh hướng tới chính sách chi trả bảo hiểm thất nghiệp trên thế giới - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 1.2 Tóm tắt các công trình nghiên cứu về sự ảnh hướng tới chính sách chi trả bảo hiểm thất nghiệp trên thế giới (Trang 40)
Mô hình ảnh hƣởng bởi tăng trƣởng kinh tế (GDP) tới thu, chi BHTN và  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
h ình ảnh hƣởng bởi tăng trƣởng kinh tế (GDP) tới thu, chi BHTN và (Trang 47)
Để đơn giản hóa mô hình thu chi BHTN, nhà thiết kế tài chính quỹ đƣa ra những giả định riêng và đồng đều trong toàn bộ mô hình - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
n giản hóa mô hình thu chi BHTN, nhà thiết kế tài chính quỹ đƣa ra những giả định riêng và đồng đều trong toàn bộ mô hình (Trang 73)
Hình 2.1 Mô hình cân bằng đơn giản của thuBHTN và chi BHTN26 - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 2.1 Mô hình cân bằng đơn giản của thuBHTN và chi BHTN26 (Trang 73)
Hình 2.2 Tổng hợp nhóm nhân tố giả định của Giáo sư Ronald Lee và cộng sự - -(nguồn: [24])  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 2.2 Tổng hợp nhóm nhân tố giả định của Giáo sư Ronald Lee và cộng sự - -(nguồn: [24]) (Trang 76)
Hình 2.3 Sự ra đời của mô hình KTVM -Macro economics model(nguồn: [24]) Nhà kinh tế học Jan Tinbergen đã thực hiện quan sát các hiện tƣợng kinh tế -  xã hội trong một thời gian dài và đặt nền móng cho việc xây dựng mô hình kinh tế  vĩ mô (macroeconomics m - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 2.3 Sự ra đời của mô hình KTVM -Macro economics model(nguồn: [24]) Nhà kinh tế học Jan Tinbergen đã thực hiện quan sát các hiện tƣợng kinh tế - xã hội trong một thời gian dài và đặt nền móng cho việc xây dựng mô hình kinh tế vĩ mô (macroeconomics m (Trang 79)
Hình 2.4 Tổng hợp các giả định về nguyên nhân khách quan và chủ quan (nguồn: [22];[20];[59];[25];[15];[14]). - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 2.4 Tổng hợp các giả định về nguyên nhân khách quan và chủ quan (nguồn: [22];[20];[59];[25];[15];[14]) (Trang 84)
Hình 3.1 Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu, chi BHTN ở Việt Nam – (nguồn: Tác giả tự tổng hợp)  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 3.1 Khung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu, chi BHTN ở Việt Nam – (nguồn: Tác giả tự tổng hợp) (Trang 90)
Trong đề án xây dựng mô hình cân đối thu – chi quỹ BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2011 của Viện khoa học bảo hiểm xã hội do TS Đỗ Văn Sinh làm chủ  nhiệm đề án, hƣớng nghiên cứu tập trung vào việc "xây dựng mô hình tính toán giá  trị thu, chi BHTN c - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
rong đề án xây dựng mô hình cân đối thu – chi quỹ BHTN ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2011 của Viện khoa học bảo hiểm xã hội do TS Đỗ Văn Sinh làm chủ nhiệm đề án, hƣớng nghiên cứu tập trung vào việc "xây dựng mô hình tính toán giá trị thu, chi BHTN c (Trang 96)
Bảng 3.4 Tóm tắt đơn vị tính và ký hiệu biến trong mô hình nghiên cứu - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 3.4 Tóm tắt đơn vị tính và ký hiệu biến trong mô hình nghiên cứu (Trang 106)
Hình 4.2 Số người tham gia BHTN và số lượng LĐ hưởng chi trả bảo hiểm thất nghiệp - Giai đoạn 2010 – 2019  (nguồn:[3])  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.2 Số người tham gia BHTN và số lượng LĐ hưởng chi trả bảo hiểm thất nghiệp - Giai đoạn 2010 – 2019 (nguồn:[3]) (Trang 116)
Hình 4.1 Tình hình chi trả BHTN và số lượng LĐ hưởng chi thất nghiệp theo từng quý.  (nguồn:[3])  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.1 Tình hình chi trả BHTN và số lượng LĐ hưởng chi thất nghiệp theo từng quý. (nguồn:[3]) (Trang 116)
Bảng 4.1 So sánh tỷ lệ thất nghiệp trước khi triển khai và sau khi thực chính sách chi trả BHTN (nguồn:[1]) - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 4.1 So sánh tỷ lệ thất nghiệp trước khi triển khai và sau khi thực chính sách chi trả BHTN (nguồn:[1]) (Trang 117)
Bảng 4.2 Tổng hợp báo cáo thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp – Giai đoạn 2010 – 2018 (Đơn vị tính: ngƣời) (nguồn: Bộ LĐTB và XH)  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 4.2 Tổng hợp báo cáo thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp – Giai đoạn 2010 – 2018 (Đơn vị tính: ngƣời) (nguồn: Bộ LĐTB và XH) (Trang 118)
Hình 4.4 Biến động GDP theo giá so sánh và tốc độ tăng trưởng so với Q4/2009 - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.4 Biến động GDP theo giá so sánh và tốc độ tăng trưởng so với Q4/2009 (Trang 121)
Hình 4.5 Biến động chỉ số giá tiêu dùng so với quí trước - CPI (%) Quí 1/2010 đến quí 4/2019  (nguồn: [1]) - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.5 Biến động chỉ số giá tiêu dùng so với quí trước - CPI (%) Quí 1/2010 đến quí 4/2019 (nguồn: [1]) (Trang 122)
Hình 4.6 Biến động tỷ giá hối đoái VNĐ/USD (%) Q1/2010 đến Q4/2019 (nguồn: [1])  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.6 Biến động tỷ giá hối đoái VNĐ/USD (%) Q1/2010 đến Q4/2019 (nguồn: [1]) (Trang 123)
Hình 4.7 Biến động các chỉ số kinh tế vĩ mô:GD P- CP I- Tỷ lệ thất nghiệp (%) - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.7 Biến động các chỉ số kinh tế vĩ mô:GD P- CP I- Tỷ lệ thất nghiệp (%) (Trang 124)
Hình 4.8 Kiểm định AR roots của Dickey và Fuller. - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.8 Kiểm định AR roots của Dickey và Fuller (Trang 127)
Hình 4.10 Hàm phản ứng Cholesky - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 4.10 Hàm phản ứng Cholesky (Trang 133)
Hình 5.1 So sánh giữa kết quả dự báo bằng phương pháp VECM và thực tế thu, chi BHTN từ quí 3/2012 đến quí 4 năm 2019  - Nguồn: Nghiên cứu sinh tự tính  toán  - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 5.1 So sánh giữa kết quả dự báo bằng phương pháp VECM và thực tế thu, chi BHTN từ quí 3/2012 đến quí 4 năm 2019 - Nguồn: Nghiên cứu sinh tự tính toán (Trang 140)
Bảng 5.1 Tổng hợp phương sai và độ lệch chuẩn của các phương pháp dự báo - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 5.1 Tổng hợp phương sai và độ lệch chuẩn của các phương pháp dự báo (Trang 142)
Hình 5.2 So sánh kết quả dự báo của các nghiên cứu và thực tế thu, chi BHTN từ năm 2011 đến năm 2019 - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Hình 5.2 So sánh kết quả dự báo của các nghiên cứu và thực tế thu, chi BHTN từ năm 2011 đến năm 2019 (Trang 142)
Bảng 5.3 Đề xuất chính sách điều chỉnh cung việc làm - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng 5.3 Đề xuất chính sách điều chỉnh cung việc làm (Trang 150)
Thống kê mô tả các biến số trong mô hình - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
h ống kê mô tả các biến số trong mô hình (Trang 165)
Mô hình hồi quy bậ c1 chỉ xem xét tƣơng quan giữa giá trị liên nhau (Yt và Yt-1) trong chuỗi thời gian - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
h ình hồi quy bậ c1 chỉ xem xét tƣơng quan giữa giá trị liên nhau (Yt và Yt-1) trong chuỗi thời gian (Trang 166)
Hồi quy mô hình với giả định là 2 biến ngoại sinh: LnCPI và LNEXR - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
i quy mô hình với giả định là 2 biến ngoại sinh: LnCPI và LNEXR (Trang 168)
Kiểm định sự cần thiết của các biến số trong mô hình - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
i ểm định sự cần thiết của các biến số trong mô hình (Trang 172)
Bảng phân rã phƣơng sai của mô hình nghiên cứu - Anh hưởng của các nhân tố kinh tế vĩ mô tới thuchi quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong điều kiện tự cân đối ở Việt Nam
Bảng ph ân rã phƣơng sai của mô hình nghiên cứu (Trang 178)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w