1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

LVTN 2018 truyện ngắn của trần thùy mai qua lăng kính phê bình nữ quyền

135 101 1
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Truyện Ngắn Của Trần Thùy Mai Qua Lăng Kính Phê Bình Nữ Quyền
Tác giả Nguyễn Thi Phú
Người hướng dẫn PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Văn học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2018
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 135
Dung lượng 1,4 MB

Cấu trúc

  • 1. L Ý DO CHỌN ĐỀ TÀI (7)
  • 2. Đ ỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (8)
  • 3. L ỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ (8)
  • 4. P HƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (12)
  • 5. Đ ÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI (13)
  • 6. K ẾT CẤU K HÓA LUẬN (13)
    • 1.1. K HÁI QUÁT VỀ P HÊ BÌNH NỮ QUYỀN (15)
      • 1.1.1. Phê bình nữ quyền: các điều kiện hình thành (16)
        • 1.1.1.1. Thực tiễn văn hóa xã hội (16)
        • 1.1.1.2. Đời sống văn học (20)
      • 1.1.2. Phê bình nữ quyền: một số khái niệm, quan niệm chính (24)
      • 1.1.3. Phê bình nữ quyền: một số xu hướng chính (33)
      • 1.1.4. Phê bình nữ quyền: các phương pháp tiếp cận (34)
    • 1.2. H ÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN T RẦN T HÙY M AI (35)
      • 1.2.1. Tiểu sử (35)
      • 1.2.2. Giới thiệu tác phẩm của Trần Thùy Mai (35)
    • 1.3 Đ IỀU KIỆN THỂ HIỆN Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA T RẦN (38)
      • 1.3.1. Điều kiện thể loại (38)
      • 1.3.2. Điều kiện đề tài (39)
    • 2.1. K HÔNG GIAN VĂN HÓA GIA TRƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY M AI (42)
      • 2.1.1. Từ không gian hiện thực (42)
    • 2.2. Ý THỨC KHÁNG CỰ KHÔNG GIAN VĂN HÓA GIA TRƯỞNG (63)
      • 2.2.1. Ý thức phủ định và vượt thoát (63)
      • 2.2.2. Ý thức tạo lập chủ thể nữ mang tinh thần nữ quyền (66)
    • 3.1. C ÁC KHÁI NIỆM (70)
      • 3.1.1. Lối viết nữ: quan niệm và thủ pháp (70)
      • 3.1.2. Giải đại tự sự (71)
      • 3.1.3. Tự thuật (73)
    • 3.2. H IỆN TƯỢNG GIẢI ĐẠI TỰ SỰ GIA TRƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY (76)
      • 3.2.1. Giải biểu tượng gia trưởng qua tình huống trớ trêu và xung đột (76)
      • 3.2.2. Con người ngoại vi tiến vào trung tâm (77)
      • 3.2.3. Giải huyền thoại (79)
    • 3.3. H IỆN TƯỢNG TỰ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY M AI (82)
      • 3.3.1. Tự thuật từ chủ thể nữ giới như sự khẳng định tồn tại (82)
      • 3.3.2 Tự thuật từ chủ thể nam giới: kể chuyện và phản tư (90)
  • KẾT LUẬN (95)
  • PHỤ LỤC (109)

Nội dung

L Ý DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chủ nghĩa nữ quyền, một phong trào đấu tranh cho bình đẳng giới, đã có mặt từ những thế kỷ trước ở phương Tây và hiện nay không còn xa lạ với nhân loại trong thế kỷ 21 Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại và cuộc đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ vẫn tiếp diễn trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam Từ những năm 90, các nhà văn nữ như Trần Thùy Mai đã góp phần tạo ra một làn sóng nữ quyền mạnh mẽ trong văn học Tuy nhiên, việc phê bình nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là Trần Thùy Mai, vẫn chưa được khai thác đầy đủ, khiến cho việc nghiên cứu các tác phẩm của bà dưới góc nhìn phê bình nữ quyền trở thành một đề tài cấp thiết hiện nay.

Chúng tôi có mối quan tâm sâu sắc đến Phê bình Giới, đặc biệt là Phê bình Nữ quyền, và đã dành thời gian nghiên cứu lý thuyết này trong quá trình học tập Trước khi mở rộng nghiên cứu sang phê bình giới, chúng tôi quyết định tập trung vào phê bình nữ quyền như một nền tảng vững chắc Phê bình nữ quyền không chỉ là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng mà còn là công cụ hữu ích giúp chúng tôi phân tích và hiểu sâu hơn về vấn đề nữ quyền trong các tác phẩm truyện ngắn của Trần Thùy Mai.

Chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Truyện ngắn của Trần Thùy Mai qua lăng kính phê bình nữ quyền" cho khóa luận của mình, dựa trên những lý do thuyết phục đã được trình bày.

Đ ỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Chúng tôi nghiên cứu vấn đề nữ quyền trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, tập trung vào hai khía cạnh chính: tư tưởng và phong cách viết.

Về phạm vi nghiên cứu:

Chúng tôi đã khảo sát các tập truyện ngắn của nhà văn Trần Thùy Mai, bao gồm các tác phẩm như Cỏ hát, Bài thơ về biển khơi, và Đêm tái sinh Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi thống kê và lược bỏ các truyện ngắn bị trùng lặp, tổng cộng khảo sát được 98 đơn vị truyện ngắn (chi tiết xem trong Phụ lục) Ngoài ra, chúng tôi cũng xem xét truyện dài Người khổng lồ núi bạc để mở rộng phân tích.

Lý thuyết nữ quyền và lý thuyết phê bình nữ quyền được khám phá qua các tác phẩm nổi bật như "Giới nữ" của Simone de Beauvoir, "Căn phòng riêng" của Virginia Woolf, "Tiếng cười nàng Medusa" của Hélène Cixous, và "Bí ẩn nữ tính" của Betty Friedan, cùng với những tài liệu tổng hợp khác được dịch sang tiếng Việt.

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã khảo sát thêm các tác phẩm văn xuôi cùng chủ đề của một số nhà văn nữ khác như Y Ban và Nguyễn Ngọc.

Trong khóa luận, tác giả đã thực hiện sự đối chiếu giữa các tác phẩm của Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Phan Thị Vàng Anh, Thuận với một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp Việc lựa chọn này mang tính tương đối và phản ánh những giới hạn trong khả năng nghiên cứu của người viết.

L ỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Dựa trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi xin tóm tắt một số tài liệu và công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này.

Về công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án:

+ Năm 2008, Hồ Khánh Vân bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài

Bài viết này áp dụng lý thuyết phê bình nữ quyền để phân tích các tác phẩm văn xuôi của tác giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay Tác giả đã dành hai chương để khai thác sâu vào các tác phẩm của những nhà văn nữ tiêu biểu, đặc biệt là vấn đề ý thức nữ quyền, địa vị giới và hình tượng người mẹ trong các truyện ngắn của Trần Thùy Mai.

Thiên Thạch, Người bán linh hồn và Trinh nữ

Năm 2010, tác giả Phùng Thu Phương đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài "Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Trần Thùy Mai" tại đại học.

Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn Hà Nội đã nghiên cứu về tính thẩm mỹ trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, tập trung vào hai chủ đề chính là tình yêu và bi kịch Trong chương 3, tác giả phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt nhấn mạnh các kiểu nhân vật nữ nổi bật, trong khi các nhân vật nam thường mang hình ảnh mờ nhạt và thụ động.

Năm 2011, Lê Thị Thanh Hiệp từ trường Đại học Đà Nẵng đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài "Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai", công trình này có sự tương đồng với nghiên cứu của Phùng Thu Phương.

Tác giả Lê Thị Thanh Hiệp đã phân tích các đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, bao gồm thủ pháp, cốt truyện và hệ thống nhân vật Qua đó, bà đã khái quát phong cách truyện độc đáo của Trần Thùy Mai.

Năm 2014, Nguyễn Thị Trang Nhung đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài "Nhân vật nữ trong truyện ngắn Trần Thùy Mai" tại Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, nghiên cứu giao thoa giữa phê bình nữ quyền và tác phẩm của Trần Thùy Mai Tác giả đã mô tả các kiểu nhân vật nữ và phân tích hình tượng phụ nữ Việt Nam qua các nhân vật này Trong chương Hai, Nhung trình bày hai kiểu nhân vật nữ: nhân vật bi kịch và nhân vật tự ý thức, phân tích nguồn gốc tình trạng bi kịch và ý thức của họ, từ cả góc độ chủ quan và khách quan Ngoài ra, cô còn nghiên cứu nhân vật nữ từ góc nhìn giới, đánh dấu những bước đi đầu tiên trong phê bình nữ quyền.

+ Cùng năm 2014, Vũ Hải Song Quyên với luận văn thạc sĩ mang đề tài

Phong cách truyện ngắn của Trần Thùy Mai đã được bảo vệ thành công tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, TPHCM Tác giả đã nêu bật những điểm đặc sắc trong các tác phẩm của Trần Thùy Mai, bao gồm cảm quan và triết lý sáng tác, hệ thống nhân vật, cùng với cái nhìn sâu sắc về các nhân vật nữ và đặc trưng ngôn ngữ trong truyện.

Vào năm 2015, Phạm Thị Thu Hương đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ với đề tài "Truyện ngắn Trần Thùy Mai từ góc nhìn văn hóa" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Hà Nội Luận văn này không chỉ giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Trần Thùy Mai, mà còn phân tích các vấn đề trong sáng tác của ông từ nhiều góc độ như tôn giáo, phương ngữ và bản sắc văn hóa Việt Nam Công trình nghiên cứu này đã giúp làm sáng tỏ và mở rộng hiểu biết về các tác phẩm của Trần Thùy Mai qua lăng kính văn hóa.

Về bài viết trên sách, báo và tạp chí:

Năm 1998, Lý Lan đã có bài viết "Nữ tính trong ‘Trò chơi cấm’ của Trần Thùy Mai" đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng, trong đó phê bình các truyện ngắn trong tập truyện này Bài viết nhận định về tính nữ được thể hiện qua giọng điệu, kết truyện và nhân vật Tuy nhiên, lối phê bình của Lý Lan chủ yếu mang tính cảm tính và chưa thực sự áp dụng phương pháp phê bình nữ quyền để phân tích sâu sắc hơn.

Vào năm 2000, Trần Thế Thịnh đã có bài viết "Trần Thùy Mai với hoài niệm đẹp như cổ tích" đăng trên tờ Thanh niên chủ nhật Trong bài viết, tác giả nhấn mạnh rằng truyện ngắn của Trần Thùy Mai nổi bật ở chỗ vay mượn yếu tố thiêng liêng từ tôn giáo và thần thoại, qua đó xây dựng những câu chuyện và nhân vật mang đậm hình ảnh cổ tích trong bối cảnh hiện đại.

Vào năm 2002, tạp chí Kiến thức gia đình (số tháng 11) đã đăng bài viết "Trần Thùy Mai và bi kịch của người phụ nữ" của tác giả Diệu Hiền Bài viết khắc họa bi kịch của nhân vật phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân thông qua các tác phẩm như "Trăng nơi đáy giếng", "Thập tự hoa", "Một chút màu xanh", và "Thương lắm ngoại ơi".

Vào tháng 3 năm 2002, Vọng Thảo đã có bài viết "Cuộc hành hương bên bờ xa vắng" trên Tạp chí Sông Hương, trong đó tác giả phê bình một số truyện ngắn nổi bật như "Trăng nơi đáy giếng", "Nốt ruồi son" và "Quỷ trong trăng" Vọng Thảo nhận định rằng phong cách viết của nhà văn họ Trần mang "giọng văn nhẹ nhàng, thì thầm như những dòng mưa từ từ thấm sâu vào lòng người đọc", vượt ra ngoài giới hạn của ngôn ngữ bằng những chi tiết giản dị trong đời sống.

+ Năm 2008, ngay khi tập Một mình ở Tokyo được phát hành vào tháng 11,

Mai Ninh đã nhanh chóng viết bài phê bình về tác phẩm "Một mình" trong tập truyện mới của Trần Thuỳ Mai Bài viết nêu bật những điểm mới mẻ và đặc sắc trong nội dung của truyện, giúp độc giả hiểu rõ hơn về phong cách sáng tác của tác giả.

Trần Thùy Mai khéo léo khắc họa các nhân vật lịch sử và nhân vật ngoại quốc trong tác phẩm của mình Mai Ninh nhận định rằng hình tượng nhân vật nam và nữ trong tập truyện của Trần Thùy Mai rất đa dạng và sâu sắc, phản ánh những khía cạnh phong phú của con người và xã hội.

“Nhưng dù nữ hay nam thì nhân vật của Trần Thuỳ Mai đều là những con người cô đơn, khắc khoải” [77]

P HƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện tốt công trình nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Khóa luận bắt đầu bằng việc sưu tầm, thống kê và phân loại tài liệu, sử dụng phương pháp so sánh kết hợp với phân tích để phát hiện hệ vấn đề, giá trị và đặc trưng của tác phẩm và tác giả Thao tác tổng hợp được áp dụng để đưa ra các luận điểm khái quát, trong khi công việc lý giải giúp cắt nghĩa đối tượng nghiên cứu Ngoài ra, chúng tôi đã phỏng vấn nhà văn Trần Thùy Mai cùng một số nhà văn khác như Đỗ Hoàng Diệu và Y Ban để thu thập thông tin quan trọng phục vụ cho nghiên cứu.

Trong nghiên cứu chuyên ngành, chúng tôi áp dụng phương pháp phê bình nữ quyền để phân tích và lý giải truyện ngắn của Trần Thùy Mai trong chương Hai và chương Ba Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng phương pháp phê bình tự sự học để khám phá các vấn đề nghệ thuật trong tác phẩm, bao gồm thủ pháp xây dựng tình huống truyện, không gian và phương thức trần thuật.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành cho phép chúng tôi kết nối với các lĩnh vực như Sử học, Phân tâm học, Ngôn ngữ học, Văn hóa học và Tâm lý học Việc này giúp lý giải đối tượng nghiên cứu một cách có căn cứ và khách quan, đồng thời tránh được cái nhìn phiến diện.

Đ ÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

Công trình này mang đến cái nhìn mới mẻ về truyện ngắn của nhà văn Trần Thùy Mai, đồng thời là nghiên cứu đầu tiên khảo sát tác phẩm của bà từ góc độ phê bình nữ quyền.

Nghiên cứu trường hợp Trần Thùy Mai không chỉ bổ sung cho văn học đương đại Việt Nam mà còn đặc biệt cho văn học nữ Công trình này sẽ cung cấp những gợi ý quý báu cho các nhà viết lịch sử văn học Việt Nam trong tương lai.

Công trình này có thể trở thành tài liệu tham khảo quý giá cho các nghiên cứu liên quan trong tương lai, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học nữ và văn học đương đại Việt Nam.

K ẾT CẤU K HÓA LUẬN

K HÁI QUÁT VỀ P HÊ BÌNH NỮ QUYỀN

Phê bình nữ quyền (Feminist Criticism) là một trường phái phê bình văn học ra đời vào cuối những năm 1960, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành kỷ nguyên hậu hiện đại Xuất phát từ phong trào và lý thuyết nữ quyền, phê bình nữ quyền nhấn mạnh rằng xã hội hiện nay đang bị thống trị bởi nam giới, dẫn đến sự bất bình đẳng nghiêm trọng và hạn chế khả năng của nữ giới Trường phái này tìm kiếm dấu vết của sự bất bình đẳng giới trong văn học và đã được nhiều nhà phê bình phát triển qua các không gian khác nhau, xây dựng một hệ thống khái niệm và quan niệm cơ bản để phục vụ việc đọc văn học Chúng tôi sẽ lần lượt trình bày về điều kiện hình thành, cũng như các khái niệm và quan niệm chính của phê bình nữ quyền.

1.1.1 Phê bình nữ quyền: các điều kiện hình thành

1.1.1.1 Thực tiễn văn hóa xã hội

Mâu thuẫn giới tính đã tồn tại xuyên suốt lịch sử nhân loại, với nam và nữ luôn ở trong tình thế đối kháng, vừa thống trị vừa bị trị Trong xã hội nguyên thủy, theo quan điểm của Karl Marx và Friedrich Engels, con người sống trong sự tự do và bình đẳng, chưa có nhà nước hình thành Thời kỳ này, con người phải đối mặt với nhiều nguy hiểm, sống khắc khổ trong hang đá, dẫn đến sự suy giảm số lượng thành viên bộ lạc Những đứa trẻ ra đời được xem là điều kỳ tích, và trong đời sống hôn nhân, tình trạng quần hôn phổ biến, khiến trẻ em chỉ biết đến mẹ mà không biết cha, tạo nên hệ thống mẫu hệ Phụ nữ trong thời kỳ này được tôn vinh vì vai trò duy trì nòi giống, mặc dù sự tôn vinh này không hoàn toàn xuất phát từ tư tưởng bình đẳng.

“trọng nữ”mà bằng tính tự phát [86; tr.18] Trong cuốn Dự báo xu thế phụ nữ thế kỷ

Nghiên cứu khảo cổ của hai nhà nhân chủng học Adriene Zihman và Nancy Tanner cho thấy, trong thời kỳ Đồ đá, nguồn thức ăn chủ yếu của cộng đồng không đến từ việc săn bắn của nam giới mà chủ yếu là từ thực vật do phụ nữ trồng trọt và hái lượm Phụ nữ thời kỳ này không chỉ ở trong hang động mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc con cái và quản lý bộ lạc Lương thực trong xã hội lúc bấy giờ được coi là của chung, phản ánh vai trò tích cực của phụ nữ trong đời sống cộng đồng.

Trong tiến trình lịch sử loài người, xã hội luôn trải qua sự vận động và phát triển Giai đoạn Mẫu hệ đã được thay thế bởi giai đoạn Phụ hệ, hay còn gọi là patriarchy.

Trong nghiên cứu xã hội học và lịch sử học tại Việt Nam, thuật ngữ "patriarchy" được dịch thành nhiều cách như chế độ phụ hệ, chế độ nam trị, và chế độ gia trưởng Chế độ nam trị thể hiện giai đoạn mà nam giới nắm giữ toàn bộ quyền lực trong xã hội, nhưng quá trình chuyển tiếp từ chế độ này diễn ra kéo dài Trong giai đoạn chuyển tiếp, phụ nữ thường phải đối kháng với nam giới để bảo vệ quyền lực của mình Đến nay, vẫn còn nhiều dân tộc và cộng đồng duy trì chế độ Mẫu hệ, bảo vệ vị thế của phụ nữ, trong khi nhiều cộng đồng khác đã từ bỏ chế độ này từ lâu.

Trong xã hội nam trị, tinh thần phản kháng của phụ nữ đã tồn tại từ lâu, đặc biệt là trong lịch sử Ai Cập cổ đại với hình ảnh nữ hoàng Cleopatra Bà không chỉ lấn át quyền lực của nam giới mà còn trị vì một vùng đất rộng lớn ở phương Đông, khẳng định vị thế của mình trước các bậc quân vương ở La Mã.

Mã phải nể phục, đặc biệt là trong trường hợp hai nữ vương Trưng Trắc và Trưng Nhị ở Việt Nam, những người đã đứng lên đánh đuổi giặc xâm lược phương Bắc, thể hiện sự phủ định quyền lực nam giới và duy trì chế độ mẫu hệ Từ thế kỷ 15 ở phương Tây, cũng xuất hiện những phụ nữ đấu tranh cho quyền lợi của chính mình, đối đầu với xã hội nam trị Trong bối cảnh thống trị - bị trị, nam giới thiết lập chế độ nam trị, nắm giữ quyền lực, trong khi nữ giới bị xem là kẻ phục tòng, không có quyền lực Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ ý thức khác biệt về cơ thể sinh học giữa nam và nữ, với quan điểm của Thánh Thomas Aquinas trong thời Trung đại cho rằng “phụ nữ là một người đàn ông không hoàn hảo”, khiến phụ nữ bị xem là kẻ thiến hoạn và luôn mang mặc cảm.

Trong giai đoạn Phụ hệ, gia đình một vợ một chồng được hình thành, đánh dấu sự chuyển giao vai trò từ người mẹ sang người cha, khiến phụ nữ trở thành người phụ thuộc Pierre Bourdieu trong cuốn "Sự thống trị của nam giới" đã chỉ ra rằng nghi lễ xác lập giới tính đã tồn tại trong nhiều nền văn hóa cổ đại, nhằm giúp các cậu con trai tách khỏi mối liên kết cộng sinh với mẹ, khẳng định vai trò của nam giới trong xã hội.

“Nam nhi hóa” đánh dấu sự chấm dứt mối liên hệ với thế giới của mẹ, nhưng nghi lễ này không áp dụng cho bé gái Kể từ đó, bé gái sẽ trở thành một sự tiếp nối với mẹ của mình.

Sự thống trị của nam giới và bất bình đẳng giới giữa nam và nữ đã tồn tại trong hầu hết các xã hội, từ phương Tây đến phương Đông, ngoại trừ một số ít tộc người thiểu số Lịch sử các quốc gia thường ghi nhận công lao của những vị vua vĩ đại như Julius Caesar, phản ánh sự ưu thế của nam giới trong nhiều lĩnh vực.

La Mã, Alexandros Đại Đế của Macedonia, Akhenaton của Ai Cập, Tần Thủy Hoàng, Đường Minh Hoàng của Trung Hoa, và các nhân vật lịch sử như Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông – Trần Cảnh của Việt Nam đều là những người đàn ông nổi bật trong lịch sử.

Trong tôn giáo, nam giới thường được xem là người có quyền lực, trong khi phụ nữ thường bị xem là kẻ bị thống trị Đối với người Do Thái cổ đại, Eva, người phụ nữ đầu tiên, được tạo ra từ xương sườn của Adam, chứ không phải được tạo ra cùng lúc Kinh Cựu Ước kể rằng Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ trong sáu ngày, và vào ngày thứ sáu, Ngài tạo ra con người từ đất và thổi sinh khí vào Mặc dù con người được giao nhiệm vụ canh tác đất đai, nhưng Thiên Chúa nhận thấy rằng con người cô đơn Để khắc phục điều này, Ngài đã tạo ra các loài động vật để làm trợ tá, nhưng con người không tìm được một trợ tá phù hợp Cuối cùng, Thiên Chúa quyết định cho con người ngủ mê, rút xương sườn và tạo ra một người phụ nữ khác, dẫn đến vườn Eden.

“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!

Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra!”

Và lời phán xét cuối cùng của Thiên Chúa dành cho Eva vì phạm tội cám dỗ Adam cùng ăn trái cấm:

“Ta sẽ làm cho ngươi, phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén, người sẽ phải cực nhọc lúc sinh con

Ngươi thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.”

Trong thời kỳ Cơ Đốc giáo thịnh hành ở Âu châu, con người chỉ còn niềm tin vào Chúa Jesus, và những cám dỗ từ đời sống trần tục, đặc biệt là từ phụ nữ, bị xem là nguyên nhân gây hại cho tâm hồn người mộ đạo Trong thần thoại của người Kabylie, quyền lực của nam giới được thể hiện qua câu chuyện về người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên gặp nhau tại suối nước, nơi người đàn ông nhận ra sự khác biệt và sức hấp dẫn từ người phụ nữ Người phụ nữ, với sự khôn khéo, đã dạy cho người đàn ông những điều mới mẻ, dẫn đến việc ông cảm nhận được lạc thú, từ đó hình thành mối quan hệ quyền lực giữa hai giới Qua các thế hệ, người Kabylie truyền lại câu chuyện này như một minh chứng cho sự thống trị của nam giới, trong khi nữ giới được xem như biểu tượng của tự nhiên, chưa có văn hóa và bị áp đặt quyền lực.

Tình trạng lạm dụng tình dục, nô lệ tình dục và mại dâm là những biểu hiện rõ nét của bất bình đẳng giới trong xã hội Theo Véronique Mottier, ở phương Tây, "nô lệ da trắng" thường là những cô gái trẻ, nghèo khổ, bị bóc lột bởi giới đàn ông trung lưu Mặc dù gái mại dâm phục vụ nhu cầu của nam giới, xã hội vẫn coi mại dâm là điều xấu, liên quan đến các vấn đề sức khỏe cộng đồng như bệnh hoa liễu Văn hóa phương Tây thường gán trách nhiệm về bệnh tật cho cơ thể nữ giới Ngoài ra, lạm dụng tình dục và buôn bán nô lệ da màu, trẻ em gái cũng phản ánh sự kết hợp giữa bất bình đẳng giới và sắc tộc Một bài viết trên Việt Báo đã chỉ ra tình trạng mua bán nô lệ da đen vào thế kỷ 18 ở Châu Âu, với sự phân giá dựa trên sức khỏe, giới tính và độ tuổi.

Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, bất bình đẳng giới đã tồn tại một cách dai dẳng, với nam giới thiết lập quyền lực và sự cao quý qua biểu tượng dương vật, trong khi phụ nữ thường ở trong tình trạng thấp kém, bị trị và cảm thấy mặc cảm.

H ÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN T RẦN T HÙY M AI

Trần Thùy Mai sinh năm 1954, nguyên quán ở đất Cố đô Huế

Từ rất sớm, Trần Thùy Mai đã đam mê với văn chương, sách vở Cô chia sẻ:

Khi còn nhỏ, tôi rất yêu thích đọc truyện, đến nỗi có lần kẻ trộm vào sân lấy hết quần áo phơi mà tôi vẫn không hay biết Thời gian học trung học tại trường Đồng Khánh đã tạo nên nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong hành trình khám phá thế giới qua những cuốn sách.

Trần Thùy Mai, một học sinh lớp 11, đã được học văn dưới sự hướng dẫn tận tâm của các thầy cô giáo Cô đã xuất sắc giành Giải thưởng Văn nữ sinh toàn quốc tại Sài Gòn.

Sau khi tốt nghiệp phổ thông năm 1972, Trần Thùy Mai đỗ thủ khoa và chọn ban Việt Hán tại Đại học Sư phạm Huế để phát triển tình yêu văn chương Sau khi hoàn thành chương trình đại học, cô được giữ lại để nghiên cứu, giảng dạy và sưu tầm Văn học dân gian Cô không chỉ đam mê sáng tác mà còn yêu thích giảng dạy, đặc biệt là môn Văn học dân gian, mà cô coi là kho tàng quý giá Cô chia sẻ rằng việc được đi vào các thôn xóm xa xôi để ghi lại ca dao, tục ngữ và thần thoại cổ tích mang lại cho cô nhiều điều thú vị để viết.

Trần Thùy Mai, mặc dù bén duyên với nghiên cứu và giảng dạy, nhưng lại có niềm đam mê mãnh liệt với viết lách và sáng tác Sau mười năm công tác tại Đại học Sư phạm Huế, cô đã quyết định theo đuổi con đường nghệ thuật của riêng mình.

Năm 1987, Trần Thùy Mai quyết định rời khỏi giảng đường để gia nhập nhà xuất bản Thuận Hóa, với hy vọng có nhiều thời gian hơn cho việc sáng tác.

1.2.2 Giới thiệu tác phẩm của Trần Thùy Mai

Nhà văn nữ họ Trần đã thu hút sự chú ý trong giới văn học với tập truyện ngắn "Cỏ hát" và "Bài thơ về biển khơi", cả hai đều được xuất bản vào năm 1983.

Cô bắt đầu hành trình viết văn từ thời cấp 2, tham gia các hoạt động như báo tường, nguyệt san của trường và báo Tuổi trẻ, thể hiện đam mê sáng tác từ khi còn rất trẻ.

Hoa,… Cô xuất hiện chính thức trên văn đàn vào năm 1977, qua truyện ngắn Khúc nhạc của rừng dương, được đăng trên báo Văn Nghệ

Sau hai tập truyện ngắn đầu tay, lần lượt các tập truyện truyện ngắn khác của Trần Thùy Mai cũng ra đời như:

+ Thị trấn hoa quỳ vàng in năm 1994;

+ Trò chơi cấm in năm 1998;

+ Đêm tái sinh, Thập tự hoa, Biển đời người và Thương nhớ hoàng lan in năm 2003;

+ Mưa đời sau in năm 2005;

+ Lửa hoàng cung và Một mình ở Tokyo in năm 2008;

+ Và gần đây nhất là hai tập truyện ngắn Onkel yêu dấu và Trăng nơi đáy giếng in năm 2010;

+ Ngoài ra còn có truyện dài viết cho thiếu nhi Người khổng lồ núi Bạc in năm 2013

Trong suốt ba mươi năm cầm bút, nhà văn đã cho ra mắt mười bốn tập truyện ngắn và nhận được nhiều giải thưởng danh giá Nổi bật là Giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002 cho tập truyện "Quỷ trong trăng" và Giải thưởng Văn học nghệ thuật năm 2003 của Ủy ban toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam Ngoài ra, tác phẩm "Một mình ở Tokyo" đã mang về cho nhà văn giải thưởng hàng năm của Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế năm 2008.

Nhà văn Trần Thùy Mai nổi bật với thể loại truyện ngắn, tập trung vào các đề tài phụ nữ, tình yêu và gia đình Các tác phẩm của bà thường khai thác sâu sắc những chủ đề như mối quan hệ mẹ và con gái, hình ảnh người phụ nữ trong lịch sử, và những số phận phụ nữ bên lề xã hội Bên cạnh đó, bà cũng đề cập đến tình yêu bất thành, sự hy sinh và phản bội trong tình yêu, cũng như những vấn đề trong đời sống gia đình, mối quan hệ vợ chồng và sự đổ vỡ trong hôn nhân.

Truyện ngắn của Trần Thùy Mai nổi bật với những nhân vật nữ đa dạng, từ những hình tượng tài giỏi, dịu dàng, cam chịu đến những người yêu hết mình và hy sinh vì tình yêu Bên cạnh đó, còn có những nhân vật nữ nổi loạn, dũng cảm vượt qua những ràng buộc của xã hội Hệ thống nhân vật nam trong tác phẩm cũng phong phú, bao gồm nghệ sĩ, người đa tình, nhân vật phụ bạc, nhân vật chức năng, gia trưởng, phi gia trưởng và cả nhân vật lịch sử.

Trần Thùy Mai chọn cho mình một phong cách sáng tác riêng, tự nhận là “lánh cuộc đua hàng hot” Nội dung tác phẩm của bà xoay quanh những chủ đề gần gũi như công việc, gia đình, tình yêu và đất Huế Về hình thức, bà không theo lối cách tân mà giữ vững truyền thống của truyện ngắn, điều này tạo nên sự khác biệt trong phong cách viết của bà Nguyễn Mạnh Tiến đã nhận xét về điều này.

Trần Thùy Mai đã chọn phong cách cổ điển khắc nghiệt làm nền tảng cho sự sáng tạo văn chương của mình Từ nền tảng này, cô đã phát triển một phong cách văn xuôi nữ giới độc đáo, mang đậm dấu ấn nữ tính và đặc trưng của Huế Chính sự khác biệt này giúp Trần Thùy Mai khẳng định vị trí của mình trong làng văn học.

Trần Thùy Mai là một tác giả nổi bật với nhiều tác phẩm được chuyển thể thành phim và kịch, cũng như được dịch sang nhiều thứ tiếng Trong số đó, các tác phẩm như "Trăng nơi đáy giếng," "Gió thiên đường," và "Thập tự hoa" đã được cải biên và sản xuất thành phim cùng tên.

Nhiều truyện ngắn nổi tiếng như "Thương nhớ hoàng lan", "Người bán linh hồn" đã được chuyển thể thành kịch bản phim Đặc biệt, "Trăng nơi đáy giếng" không chỉ được dựng thành phim mà còn được viết thành kịch bản sân khấu và trình diễn Ngoài ra, các tác phẩm như "Gió thiên đường", "Thương nhớ hoàng lan" và "Trăng nơi đáy giếng" đã được dịch sang tiếng Anh và tiếng Nhật, mở rộng tầm ảnh hưởng của chúng ra quốc tế.

Sau nhiều năm gắn bó với thể loại truyện ngắn, Trần Thùy Mai hiện đang viết và hoàn thành một tác phẩm mới thuộc thể loại tiểu thuyết.

Đ IỀU KIỆN THỂ HIỆN Ý THỨC NỮ QUYỀN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA T RẦN

1.3.1 Điều kiện thể loại Đặc điểm của thể loại truyện ngắn là một điều kiện để truyện ngắn trở thành phương tiện chuyên chở thông điệp nữ quyền Dựa vào cuốn Tác phẩm và thể loại văn học của Huỳnh Như Phương, chúng tôi rút ra một số đặc điểm thể loại gắn liền với điều kiện thể hiện yếu tố nữ quyền trong tác phẩm như sau:

Yếu tố hư cấu đóng vai trò quan trọng trong việc nhà văn tái hiện hiện thực của nữ giới bị đè nén Truyện ngắn là một không gian sáng tạo nghệ thuật, nơi mà nhà văn không chỉ đơn thuần sao chép hiện thực như trong ký sự hay phóng sự Thay vào đó, họ khám phá thân phận nữ giới và quyền lực của đàn ông qua lăng kính độc đáo của riêng mình, phản ánh cách nhìn nhận thế giới của từng chủ thể sáng tạo.

Yếu tố mâu thuẫn và xung đột là đặc trưng thiết yếu trong truyện ngắn, giúp nhà văn xây dựng các mối quan hệ đối kháng giữa hai giới Sự xung đột này không chỉ tạo ra tính hấp dẫn cho tác phẩm mà còn phản ánh khía cạnh then chốt của văn học nữ quyền.

Truyện ngắn đặc trưng bởi việc thể hiện một “lát cắt” của đời sống, với diễn biến câu chuyện diễn ra nhanh chóng, tập trung vào những khoảnh khắc mâu thuẫn giữa nam và nữ Điều này cho phép nhà văn phản ánh các tình huống xung đột một cách sâu sắc và hiệu quả Ngược lại, tiểu thuyết kéo dài thời gian, với sự phát triển chậm rãi trong cao trào và các nút thắt, dẫn đến việc các tình tiết xung đột giới không thể xuất hiện liên tục, thiếu đi sự đột ngột cần thiết để gây ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả.

Truyện ngắn thường có dung lượng không vượt quá vài chục trang, nếu dài hơn sẽ trở thành truyện vừa hoặc truyện dài Hậu tố “ngắn” không chỉ phản ánh thời gian diễn biến mà còn nhấn mạnh đến số trang Các kênh như báo chí và tạp chí có quy định rõ ràng về dung lượng bài viết, giúp truyện ngắn trở thành thể loại phổ biến trong văn học đương đại Những tác phẩm mang thông điệp nữ quyền với dung lượng ngắn phù hợp để đăng tải, giúp quần chúng tiếp nhận dễ dàng và nhanh chóng Trần Thùy Mai chia sẻ rằng cô chọn viết truyện ngắn vì có thể hoàn thành và đăng nhanh, từ đó kiếm được thu nhập ổn định.

Nhà văn Trần Thùy Mai, từ khi bắt đầu sự nghiệp, đã chuyên tâm khai thác đề tài phụ nữ, điều này giúp bà quan sát sâu sắc những mảnh đời xung quanh Dù có khi chọn nam giới làm nhân vật chính, các câu chuyện của bà vẫn luôn xoay quanh và phản ánh cuộc sống của phụ nữ.

Nhà văn không chỉ vô thức khám phá các vấn đề nữ quyền mà còn nhận thức rõ về xã hội gia trưởng và hoàn cảnh của phụ nữ Như Hồ Khánh Vân đã nói, điều này thể hiện sự nhạy bén trong việc nhìn nhận và phản ánh thực trạng của phụ nữ trong xã hội.

Trong sáng tác văn học, các tác giả nữ thường chọn nữ giới làm đối tượng phản ánh trung tâm, thể hiện sự ý thức về giới Trần Thùy Mai đặc biệt nhấn mạnh sự nhận thức về chế độ gia trưởng trong văn hóa Việt Nam Cô thẳng thắn bày tỏ: “Tôi rất ghét chế độ gia trưởng và không thích cách giáo dục độc đoán của gia đình kiểu xưa.” Đồng thời, Trần Thùy Mai cũng chia sẻ những góc nhìn sâu sắc về phụ nữ trong bối cảnh này.

Việt xưa và nay rằng:

Ngày xưa, phụ nữ phải chịu đựng thân phận thiệt thòi trong xã hội trọng nam, không được đi học, không có quyền bầu cử và không được thừa hưởng tài sản Ngày nay, khái niệm về thân phận đàn bà đã thay đổi; vấn đề hiện tại là phụ nữ có thể tự từ chối cơ hội hạnh phúc của chính mình.

Trần Thùy Mai thể hiện lối viết nữ qua việc viết về phụ nữ như là một phần của “chính giới của mình” Đây là yếu tố quan trọng trong phong cách sáng tác của cô, và chúng tôi sẽ phân tích chi tiết về lối viết này trong chương Ba của công trình.

Trần Thùy Mai lớn lên trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam (1954 – 1975) và làm việc tại Đại học Sư phạm Huế sau khi đất nước thống nhất vào năm 1977 Mười năm đầu sau chiến tranh, văn hóa Việt Nam vẫn còn hạn chế và không có sự giao lưu với văn hóa phương Tây Tuy nhiên, từ năm 1986, đất nước bắt đầu thời kỳ Đổi mới, mở cửa giao lưu với văn hóa khu vực và phương Tây, đánh dấu bước chuyển mình vào thời kỳ Toàn cầu hóa.

Trần Thùy Mai, một nhà văn nổi bật thuộc thế hệ hậu chiến, đã thu hút sự chú ý của độc giả qua tập truyện ngắn "Cỏ hát", xuất bản cùng với Lý Lan vào năm 1986.

Sau năm 1975, không khí văn học Việt Nam chưa có sự đổi mới rõ rệt Tuy nhiên, từ năm 1986 với chính sách Đổi mới, ba tác giả nổi bật là Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và Bảo Ninh đã dẫn dắt cuộc cách tân văn học Đến đầu thế kỷ 21, văn học Việt Nam đương đại đã phát triển với nhiều xu hướng phong phú, với sự góp mặt của nhiều tác giả có kinh nghiệm như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, cùng những tên tuổi mới như Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư và Dương Bình Nguyên.

Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế và mở rộng giao lưu văn hóa, nhưng vẫn phải đối mặt với những tư tưởng nhị nguyên giữa cái cũ và cái mới, phương Tây và Á Đông, cùng với những vấn đề tiêu cực như bạo lực gia đình, gia tăng tỷ lệ ly hôn, mang thai ở tuổi vị thành niên, sống thử, mại dâm, tình trạng gái điếm, HIV/AIDS, và các hiện tượng xã hội như "lấy chồng Đài Loan" và đồng tính luyến ái.

Khái niệm "mẹ đơn thân" đang trở thành tâm điểm trên các phương tiện truyền thông, dẫn đến việc các vấn đề liên quan đến con người, giới tính và thân phận phụ nữ được khai thác sâu sắc trong các tác phẩm văn học đương đại.

K HÔNG GIAN VĂN HÓA GIA TRƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY M AI

Khóa luận này sẽ tiến hành phân tích không gian văn hóa gia trưởng trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, thông qua việc lồng ghép giữa các quan niệm và thủ pháp nghệ thuật.

Chúng tôi phân tích hoàn cảnh của nữ giới trong không gian văn hóa gia trưởng, tập trung vào quan niệm thể hiện qua văn bản và đối chiếu với ý kiến của nhà văn Sử dụng các thủ pháp truyền thống như miêu tả và trần thuật, chúng tôi phát hiện những kỹ thuật độc đáo trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, bao gồm tái hiện, tái tạo, làm mờ và xoắn bện, nhằm xây dựng không gian nghệ thuật Trước khi đi sâu vào nội dung chính, chúng tôi cũng trình bày một số ghi nhận ngắn gọn về không gian gia trưởng trong đời sống thực tế tại Việt Nam.

2.1.1 Từ không gian hiện thực

Việc xác định không gian văn hóa nam quyền tại Việt Nam cần được xem xét cẩn thận, bởi người Kinh đã từ lâu khước từ chế độ mẫu hệ Tuy nhiên, nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số như Chăm, Jarai, Êđê, Raglai, Churu (thuộc ngữ hệ Nam Đảo) và các tộc Mnông, Koho, Stieng, Chrau (thuộc ngữ hệ Nam Á) vẫn duy trì chế độ mẫu hệ.

Không gian văn hóa gia trưởng được xác định là tên gọi chính thức cho đời sống văn hóa và tinh thần của người Việt, phản ánh truyền thống văn hóa Đông Á từ Bắc chí Nam Hậu tố “gia trưởng” thể hiện tâm thức người Việt hơn là khái niệm “nam quyền” Theo Từ điển tiếng Việt, “gia trưởng” có nghĩa là người đàn ông đứng đầu, nắm quyền hành trong gia đình phong kiến, và cũng chỉ tư tưởng của người lãnh đạo tự coi mình có quyền quyết định mọi việc Cách gọi “gia trưởng” liên quan đến vai trò và quyền lực của đàn ông trong xã hội phong kiến Việt Nam, nhưng chúng tôi sẽ cẩn trọng trong việc sử dụng hai thuật ngữ này, vì chúng phụ thuộc vào văn cảnh và trường hợp cụ thể Văn hóa nam quyền tại Việt Nam đã hình thành và phát triển phức tạp, trải qua hai lớp.

Lớp văn hóa bản địa ở Việt Nam từng trải qua giai đoạn Mẫu hệ, trong đó phụ nữ được xem trọng Khi nhà nước hình thành, văn hóa nam quyền bắt đầu xuất hiện với Hùng Vương là biểu tượng đầu tiên của quyền lực nam giới Tuy nhiên, theo Trần Quốc Vượng, chế độ phụ quyền không phải lúc nào cũng khắc nghiệt; nhiều xã hội chuyển đổi từ mẫu quyền sang phụ quyền một cách nhẹ nhàng Việt Nam là một trong những trường hợp đó, khi phụ nữ thời Văn Lang, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng, vẫn được tôn trọng và có quyền tự chủ trong hôn nhân.

Văn hóa ngoại lai, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo từ Trung Hoa, đóng vai trò quyết định trong lớp thứ hai của xã hội Giai đoạn này đánh dấu sự hình thành tính chất gia trưởng, theo nhận định của Trần Ngọc.

Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam đã tiếp nhận văn hóa Trung Hoa trong bối cảnh suy tàn của văn minh Văn Lang - Âu Lạc, nhưng chưa tiếp nhận Nho giáo Khi giành lại độc lập, Đại Việt vẫn duy trì mối liên hệ với văn hóa Trung Hoa Thời kỳ Lý – Trần chứng kiến sự du nhập của Nho giáo và Đạo giáo vào văn hóa Việt Nam Đến thời Hậu Lê (1428 – 1527), Nho giáo chính thức trở thành quốc giáo và thâm nhập sâu vào đời sống xã hội, mặc dù trong giai đoạn này, Nho giáo đã trở nên tiêu cực hơn dưới sự ảnh hưởng của nhà Tống, Trung Hoa.

Lý Tùng Hiếu phân tích những quan niệm tiêu cực của Nho giáo đối với phụ nữ xã hội Việt Nam thời Hậu Lê (tức Lê Sơ) như sau:

Nho giáo đã tạo ra một quan điểm bất bình đẳng, chà đạp phụ nữ Việt Nam bằng cách áp đặt họ vào các vai trò hạn chế Theo Nho giáo, phụ nữ phải tuân theo tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, và phải thực hiện tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh để phục vụ đàn ông Trong suốt thời trung đại, phụ nữ chỉ được giao nhiệm vụ tề gia nội trợ, trong khi mọi công việc quan trọng của làng, nước đều thuộc về đàn ông Dù có tham gia vào các công việc khác như chợ búa hay đồng áng, vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội vẫn không được nâng cao.

[43; tr 95] Còn đối với thời nhà Nguyễn:

Nho giáo giữ vị trí là "Quốc giáo" trong triều Nguyễn, một triều đại có quyền lực tập trung tuyệt đối Trong tổ chức cộng đồng và gia đình, Nho giáo kết hợp với văn hóa Hán để hình thành chế độ gia đình phụ hệ, đi kèm với sự thống trị của nam giới Nho giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập chế độ tông pháp, xác định quyền thừa kế và thừa tự dành cho con trai trưởng trong dòng họ.

Hiến pháp Việt Nam hiện nay đã công nhận nguyên tắc bình đẳng giới, tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để Trong bài viết "Giảm thiểu bất bình đẳng giới trong gia đình," Dương Thị Minh đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Mặc dù Hiến pháp Việt Nam và nhiều quốc gia khác ghi nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa nam và nữ, nhưng phụ nữ vẫn chưa đạt được sự bình đẳng thực sự Điều này xuất phát từ những đặc tính sinh học và các định kiến xã hội truyền thống, khiến việc áp dụng chính sách đối xử giống như nam giới mà không xem xét đến những yếu tố riêng biệt của phụ nữ sẽ không mang lại sự bình đẳng thực chất.

Tư tưởng gia trưởng vẫn còn hiện hữu trong văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng đến cả nam và nữ từ Bắc chí Nam Các quan niệm như "trọng nam khinh nữ" và những câu nói như "nữ sinh ngoại tộc" hay "đàn ông nông nổi, đàn bà sâu sắc" vẫn tồn tại trong đời sống hiện đại Điều này dẫn đến những vấn đề xã hội tiêu cực như phá thai, mê tín dị đoan, bạo lực gia đình, mại dâm, ly hôn, đánh ghen và ngoại tình, thường xuyên được phản ánh trên các phương tiện truyền thông.

Văn hóa nam quyền ở Việt Nam, đặc biệt là văn hóa gia trưởng, có nguồn gốc từ tư tưởng Nho giáo thời Lê Nho giáo đóng vai trò là nền tảng vững chắc, tạo điều kiện cho sự phát triển của văn hóa nam quyền trong xã hội.

2.1.2 …đến không gian nghệ thuật

Nghiên cứu truyện ngắn của Trần Thùy Mai là một hành trình khám phá văn bản nghệ thuật, trong đó không gian được xây dựng không chỉ là không gian đời thực mà còn là không gian sáng tạo nghệ thuật Các thủ pháp như tái hiện, tái tạo, làm mờ, xoắn bện và dồn nén được sử dụng để thể hiện không gian văn hóa gia trưởng Theo nhà lý luận Y.M Lotman, không gian nghệ thuật được lấp đầy bởi các yếu tố như nhân vật, sự kiện và hành động, tạo thành trường ngữ nghĩa Thông qua các thủ pháp này, bài viết phản ánh hoàn cảnh của nhân vật nữ trong không gian văn hóa gia trưởng, thể hiện rõ ý thức nữ quyền của Trần Thùy Mai.

2.1.2.1 Trước hết, bằng thủ pháp tái hiện, Trần Thùy Mai tạo một không gian đậm sắc màu xứ Huế Không gian văn hóa xứ Huế đã đi sâu vào vô thức sáng tạo của nhà văn Trần Thùy Mai đã chia sẻ rằng: “Câu văn cũng như giọng nói, thói quen, tính cách, không thể nào không gắn chặt với quê hương nơi mình sinh ra, lớn lên Tôi đã sống ở Huế gần như cả đời mình” Nhiều truyện ngắn lấy bối cảnh đất

Ý THỨC KHÁNG CỰ KHÔNG GIAN VĂN HÓA GIA TRƯỞNG

Trong nhiều tác phẩm truyện ngắn của Trần Thùy Mai, ý thức nữ quyền thể hiện rõ rệt qua việc kháng cự không gian văn hóa gia trưởng Sự kháng cự này không chỉ phản ánh tư tưởng của nhà văn mà còn được truyền tải qua ý thức của các nhân vật trong truyện.

2.2.1 Ý thức phủ định và vượt thoát Ý thức phủ định và vượt thoát không gian gia trưởng xuất hiện nhiều nhất trong hàng loạt truyện ngắn Sau khi sống trong sự đè nén, nhà văn đã cho các nhân vật nữ ý thức về mặt nhân quyền và chống lại quyền lực văn hóa nam tính, thoát khỏi sự ràng buộc, lệ thuộc trong hôn nhân và tình yêu Những truyện lấy bối cảnh thời phong kiến có Tang Nương trong Thiên thạch đã tìm đến một người đàn ông khác, muốn thoát ly khỏi người chồng bàn đèn, thuốc phiện và vợ bé Hay hai mẹ con nàng Tấm trong Thần nữ đi chân không cũng thoát khỏi chốn hoàng cung – nơi chỉ có những luật lệ áp đặt và sự lạnh nhạt của người đàn ông đầu ấp tay gối Nàng Tấm trở về với làng cũ, từ bỏ nhà vua và cũng là người chồng phụ bạc Trong Nàng công chúa té giếng, nhân vật thứ phi Ngọc Bình và con gái của nàng – công chúa

Ngọc Ngôn đã nỗ lực vượt qua những lời đàm tiếu về trinh tiết thể xác và trinh tiết chính trị Cuối cùng, hai người phụ nữ thiệt thòi trong triều đại vua Gia Long đã tìm được sự giải thoát nhẹ nhàng Họ thoát khỏi bầu không khí khinh miệt không phải từ chính mình mà qua một lời cảm thông Kết thúc câu chuyện, nhà văn để Tống Hoàng Hậu, người từng trải qua những khó khăn của kiếp phụ nữ và thiên chức của người mẹ, thể hiện lòng cảm thông và cầu chúc: “Phép Phật nhiệm mầu, xin chữa lành cho con…”

Trong không gian hiện đại, nhân vật Hằng trong "Chờ nhau ở cuối đường" nhận thức được giá trị bản thân trong xã hội gia trưởng, nơi sắc đẹp của cô vừa là quyền năng vừa là mục tiêu của đàn ông Hằng nhận ra sự kiểm soát từ không khí gia trưởng, đặc biệt từ người chồng, và quyết định ly hôn để tìm kiếm tự do Trong "Chuyện cũ ở quê nhà", bà mẹ chồng, mặc dù có vẻ khó tính, lại trở thành người bảo vệ con dâu trong hoàn cảnh "chồng chết, chửa hoang", thể hiện sức mạnh của phụ nữ khi chống lại áp bức từ những người đàn ông trong gia đình.

Trong truyện ngắn "Bầy thú bông" của Quỳnh, Trần Thùy Mai mạnh dạn khám phá chủ đề đồng tính luyến ái nữ, thể hiện sự vượt thoát khỏi không gian quyền lực gia trưởng Tác phẩm không chỉ khắc họa những khát khao và đấu tranh của các nhân vật nữ mà còn phản ánh những rào cản xã hội mà họ phải đối mặt Qua đó, tác giả gửi gắm thông điệp về sự tự do và quyền được yêu thương trong một thế giới còn nhiều định kiến.

Truyện ngắn trong tập "Mưa đời sau" (2005) phản ánh xã hội chưa cởi mở với đồng tính luyến ái Minh và Quỳnh yêu nhau trong suốt mười năm, với truyền thống Minh tặng thú bông cho Quỳnh mỗi sinh nhật Tuy nhiên, người anh trai của Quỳnh, đại diện cho quyền lực gia trưởng, luôn ngăn cản tình yêu của họ Dù Quỳnh từng rời bỏ Huế lên cao nguyên, cô vẫn không thoát khỏi sự kiểm soát Cuối cùng, Quỳnh quyết định từ bỏ không gian chật chội gia đình để theo Minh, vì họ cần một không gian rộng hơn để xây dựng hạnh phúc của riêng mình.

Trong "Câu chuyện một gia đình," các nhân vật nữ đối mặt với sự xung đột với quyền lực nam giới, thể hiện qua hành trình tìm kiếm giá trị bản thân và tham gia vào Hiệp hội bảo vệ Phụ nữ để chống lại bạo hành gia đình Kiều Dung trong "Lễ cưới bạc" và Thuyền trong "Thuyền trên núi" chọn cách nhảy xuống vực thẳm để thoát khỏi cuộc sống giả dối, thể hiện quyền tự do lựa chọn Hạnh trong "Trăng nơi đáy giếng" sau nhiều hy sinh, đã dũng cảm chống lại ông Phương, biểu tượng của gia trưởng, với một phản kháng mạnh mẽ khi khẳng định: “Tôi đã vì ông đến nửa đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi yên phận tôi.” Sự đối đầu culminates khi Hạnh kiên quyết chống lại những lời sỉ vả và hành động bạo lực của ông Phương.

Cô Hạnh bàng hoàng đứng dậy, cơ thể run rẩy như vừa bị tổn thương sâu sắc Hai hàm răng của cô va vào nhau lập cập, và trong cơn tức giận, cô bất ngờ ném cả khay ấm về phía chồng cũ.

Trong tác phẩm của Trần Thùy Mai, nhiều nhân vật như Hạnh trong "Trăng nơi đáy giếng" thể hiện ý thức vượt thoát khỏi quyền lực gia trưởng, nhưng cuộc vượt thoát này vẫn chưa hoàn toàn thành công Kết thúc của câu chuyện nhấn mạnh rằng văn hóa gia trưởng là một không gian khó khăn để thoát ra, đòi hỏi phụ nữ phải phủ định để đạt được sự tự do thực sự Tương tự, nhân vật Hằng trong "Chờ nhau ở cuối đường" chọn tình yêu nhưng lại rơi vào tình huống trớ trêu với người tình phản bội Ngược lại, nhà văn Y Ban trong tác phẩm "Tự" đã thể hiện tinh thần giải phóng phụ nữ mạnh mẽ hơn, khi cho nhân vật Hoa không chỉ được tự do trong đời sống tình dục mà còn quyết tâm không để đàn ông can thiệp vào cuộc sống của mình Sau khi trải qua cuộc hôn nhân không hạnh phúc, Hoa đã tự tạo ra hạnh phúc cho bản thân bằng cách thủ dâm Trong khi đó, tác phẩm "Đàn bà xấu thì không có quà" của Y Ban, mặc dù mang tên có vẻ hạ thấp phụ nữ, thực chất lại là sự châm biếm cái nhìn trọng sắc khinh tài của xã hội.

Trong xã hội hiện nay, nhiều người phụ nữ bị đánh giá qua vẻ bề ngoài, với sắc đẹp được xem như một tài sản quý giá, trong khi sự xấu xí lại bị coi là nghèo nàn Đặc biệt, nếu một người phụ nữ không chỉ xấu mà còn thông minh, họ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn Tôi mong muốn đứng về phía những người phụ nữ xấu để nâng đỡ và tôn vinh họ.

Trần Thùy Mai thường khởi đầu nhiều truyện ngắn của mình bằng những cuộc xung đột và đè nén mà nhân vật nam phải trải qua Qua đó, những nhân vật nữ trong sáng, nhẹ dạ và hy sinh dần nhận ra giá trị bản thân Tác giả xây dựng hình tượng nữ giới mạnh mẽ, đứng lên phản kháng và giành quyền chủ động, thoát khỏi không gian quyền lực gia trưởng.

2.2.2 Ý thức tạo lập chủ thể nữ mang tinh thần nữ quyền

Nhà văn Trần Thùy Mai thể hiện ý thức nữ quyền mạnh mẽ qua việc xây dựng hình tượng nhân vật nữ độc lập và cá tính ngay từ đầu truyện, góp phần phản ánh sự phủ định và vượt qua không gian văn hóa gia trưởng.

Trong nhiều truyện ngắn, các nhân vật nữ thể hiện sự độc lập và ý thức về tự do cá nhân Điển hình là trong tác phẩm "Đưa em về nhà", nhân vật nữ chủ động nắm giữ cuộc sống của mình, khẳng định quyền tự quyết và sự tự do trong lựa chọn.

Thư hiện ra là một cô gái bướng bỉnh và phóng khoáng, khẳng định quyền làm chủ tình yêu và từ chối tư tưởng gia trưởng Nguyệt trong "Quỷ trong trăng" là hình mẫu của sự nổi loạn, không chấp nhận cuộc sống gia đình tù túng mà không có tình yêu, và tìm kiếm cảm xúc từ những người đàn ông, dù họ thường nhút nhát trước cá tính mạnh mẽ của cô Để thoát khỏi vùng đất khô cằn, Nguyệt quyết định ra đi Tương tự, Quyên trong "Cánh cửa thứ chín" cũng dũng cảm vượt rào lễ giáo để tìm kiếm một mối tình sống động hơn Nhiều cô gái khác trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai cũng thể hiện ý thức vượt thoát khỏi những rào cản xã hội.

Truyện "Lửa hoàng cung" nổi bật với bối cảnh thời quân chủ phong kiến triều Nguyễn, xoay quanh nhân vật công chúa Quỳnh Thơ Cô ngây thơ đặt ra câu hỏi về quyền tự do của bản thân và lý do phải chịu đựng những quy tắc, ràng buộc trong hoàng cung - nơi quyền lực nam giới chi phối mạnh mẽ Từ ý thức về quyền tự do, Quỳnh Thơ đã có những hành động đáng chú ý.

C ÁC KHÁI NIỆM

3.1.1 Lối viết nữ: quan niệm và thủ pháp

Lối viết nữ có thể được hiểu là sự thể hiện bản sắc nữ qua ngôn từ, nhưng để khám phá điều này, trước tiên cần xem xét khái niệm bản sắc và cách nó được phản ánh trong văn chương Betty Friedan đã chỉ ra sự “khủng hoảng bản sắc nữ” trong tác phẩm Bí ẩn nữ tính, cho thấy rằng bản sắc nữ khó có thể xác định do bị che lấp bởi các giá trị văn hóa do nam giới tạo ra Điều này dẫn đến việc không thể tìm ra một bản sắc nữ nguyên thủy và biểu hiện nó qua tác phẩm của các nhà văn nữ.

Lối viết nữ, theo Hélène Cixous, là hiện tượng nhà văn nữ “viết chính mình”, thể hiện cơ thể và cảm xúc của nữ giới, những điều mà họ đã bị tước đoạt quyền phát ngôn suốt hàng thế kỷ Nguyễn Việt Phương tóm gọn tư tưởng chính trong Tiếng cười nàng Medusa bằng hai từ: phá hủy và tái tạo Lối viết nữ, theo nghĩa rộng, là cách viết thoát khỏi lối viết truyền thống của nam giới đã thống trị văn đàn bao thế kỷ (phá hủy), trong khi theo nghĩa hẹp, nó là phong cách tổ chức văn bản nghệ thuật khi viết về đời sống tính dục của nữ giới (tái tạo).

Chúng tôi xác định phương pháp tiếp cận lối viết nữ một cách phù hợp với văn hóa và thực tế văn học Việt Nam, nhằm tránh tình trạng "gọt chân vừa giày".

Nhà văn nữ sử dụng thủ pháp giải đại tự sự để phá vỡ những đại tự sự nam quyền và gia trưởng trong lịch sử và văn chương truyền thống Qua đó, họ khẳng định "cái tôi" của người nữ bằng cách sáng tạo những hình tượng mới trong thế giới nghệ thuật nữ giới.

Thủ pháp tự thuật được sử dụng như một cách để khẳng định phong cách viết của nữ giới, giúp họ thể hiện trải nghiệm về tình dục cũng như những cảm xúc và nội tâm sâu sắc.

"Đại tự sự" và "giải" là hai khái niệm quan trọng trong sáng tác, lý luận và phê bình của Chủ nghĩa Hậu hiện đại Chủ nghĩa này được phát triển từ lý thuyết "hậu hiện đại" của Jean-François Lyotard, được trình bày trong tác phẩm triết học "Hoàn cảnh hậu hiện đại".

Trong cuốn "Hoàn cảnh Hậu hiện đại" xuất bản năm 1979, Lyotard xác định từ năm 1960 trở đi là thời kỳ Hậu hiện đại, nhấn mạnh sự phân chia giữa đại tự sự và tiểu tự sự.

Trong công trình Hoàn cảnh Hậu hiện đại, Lyotard đề cập đến hai khái niệm

“Đại tự sự” (grands récits) và “tiểu tự sự” (petit récit) là hai khái niệm quan trọng mà ông yêu cầu phải có sự bình đẳng giữa chúng Đại tự sự, hiểu theo nghĩa rộng, là những câu chuyện lớn, phản ánh tiếng nói chung của xã hội và nhân loại qua các thời kỳ Nó có thể bao gồm các quan niệm, lý thuyết triết học, tục ngữ, kinh thánh, thần thoại và tôn giáo, mang giá trị phổ quát Theo nghĩa hẹp, đại tự sự (métarécit) theo Lyotard là những văn bản và khối tri thức được số hóa và truyền thông Điều này chỉ ra rằng, chỉ những gì được số hóa mới có thể tồn tại và được biết đến, trong khi những tri thức không được số hóa sẽ bị xem như không tồn tại.

Đại tự sự được xem như khối tri thức số hóa, trong khi tiểu tự sự (petit récit) là phần tri thức chưa được số hóa và không được biết đến, mặc dù vẫn tồn tại Tinh thần Hậu hiện đại thể hiện sự hoài nghi đối với các đại tự sự, đặt ra câu hỏi về tính chân thực của thông tin trên các kênh truyền thông Tiểu tự sự, theo nghĩa rộng, là những câu chuyện nhỏ mang tính địa phương và cá nhân, phản ánh tiếng nói và quan điểm riêng của mỗi người về thế giới.

Giải (de-) & Giải đại tự sự

Theo nhóm tác giả của cuốn Từ điển tiếng Việt, "giải" được định nghĩa là gỡ bỏ những rắc rối và trói buộc Trong tinh thần Hậu hiện đại, hoạt động "giải" không chỉ đơn thuần là gỡ bỏ mà còn mang tính chất phá hủy, đặc biệt là đối với đại tự sự Lyotard đã chỉ ra sự bất tín đối với đại tự sự và kêu gọi sự bình đẳng giữa đại tự sự và tiểu tự sự Tuy nhiên, phải đến Jacques Derrida với lý thuyết Giải cấu trúc, hoạt động "giải" mới thực sự trở nên phổ biến trong triết học và phê bình văn học.

Giải đại tự sự bao gồm nhiều tập hợp con như giải huyền thoại, giải tôi (deself), giải luận đề (dethesis), giải trung tâm (decentralisation), giải lãnh thổ, giải thiêng và giải quyền lực Hiện nay, các khái niệm này được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực văn học Khi nghiên cứu văn học Hậu hiện đại và đương đại, việc đề cập đến các khái niệm này là điều không thể thiếu.

Giải đại tự sự nam quyền như một thủ pháp nữ quyền

Lý thuyết Hậu hiện đại và Nữ quyền luận đều phản đối các đại tự sự, với Chủ nghĩa Hậu hiện đại coi đại tự sự là những giá trị chân lý được nhân loại công nhận, trong khi Chủ nghĩa Nữ quyền xem đó là những quy tắc văn hóa nam quyền áp đặt lên phụ nữ Như đã nêu trong chương Một, các nhà nữ quyền đã phê phán và bác bỏ những quy tắc chuẩn mực đã tồn tại hàng thế kỷ đối với phụ nữ.

Có thể nói, Chủ nghĩa Nữ quyền là đứa con thừa hưởng những gen trội của Chủ nghĩa Hậu hiện đại!

Trong sáng tác và phê bình, giải đại tự sự được coi là một thủ pháp quan trọng của nữ quyền Các nhà văn nữ không chỉ chống lại quan niệm bất bình đẳng giới mà còn sử dụng thủ pháp giải đại tự sự để phê phán nam quyền và đưa ra những tiểu tự sự riêng Qua đó, họ thể hiện thế giới quan cá nhân trong bối cảnh tự do ngôn luận hiện đại Những thủ pháp như giải trung tâm quyền lực nam giới, giải tôi, giải huyền thoại và giải biểu tượng người cha thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của các nhà văn nữ, phản ánh ý thức về địa vị giới và văn hóa gia trưởng.

Nghiên cứu truyện ngắn của Trần Thùy Mai cho thấy tác phẩm của nhà văn nằm trong xu hướng giải huyền thoại và giải biểu tượng, đặc biệt là hình ảnh người cha Hiện tượng giải đại tự sự gia trưởng trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai được trình bày chi tiết ở mục 3.2.

Tự thuật, hay còn gọi là tự sự, là khái niệm chỉ việc kể về chính mình, mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống giao tiếp của người Việt Nam hiện đại.

“tự thuật” thường được đề cập trong sơ yếu lý lịch cá nhân, được hiểu là tự giới thiệu về bản thân

H IỆN TƯỢNG GIẢI ĐẠI TỰ SỰ GIA TRƯỞNG TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY

Soi chiếu lý thuyết văn học Hậu hiện đại vào tác phẩm của Trần Thùy Mai cho thấy sự hiện diện của thủ pháp Hậu hiện đại, nhưng không thể coi bà là đại diện cho trào lưu này Văn học đương đại Việt Nam, với bối cảnh thời đại và không khí sôi động, trở thành một giao lộ với nhiều điểm giao thoa thú vị Sự kết hợp giữa tính giải đại tự sự của Hậu hiện đại và chất nữ quyền trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai tạo nên một giao điểm đặc sắc.

3.2.1 Giải biểu tượng gia trưởng qua tình huống trớ trêu và xung đột

Trần Thùy Mai đã khéo léo giải biểu tượng gia trưởng trong văn hóa Việt qua nhiều truyện ngắn của mình Trong xã hội xưa, những hình mẫu như quân tử, quân vương, và Nho sĩ được tôn sùng, nhưng theo Đoàn Lê Giang, văn chương nhà Nho chỉ ca ngợi những biểu tượng quyền lực này Đến thời hiện đại, hình ảnh người chồng, người cha vẫn giữ vị thế vững chắc trong gia đình Việt Nam Tuy nhiên, với góc nhìn của một nhà văn nữ, Trần Thùy Mai phác họa những người đàn ông mang tư tưởng lạc hậu của Nho giáo, thể hiện sự "trọng nam khinh nữ" và quyền lực vượt trội trong gia đình, như trong tác phẩm "Lửa của khoảnh khắc".

Trong thế giới nghệ thuật của Trần Thùy Mai, hình ảnh "gia trưởng" được thể hiện qua những người chồng và người cha trong nhiều tác phẩm như "Câu chuyện một gia đình", "Người điên vì hoa", và "Khói trên sông Hương" Những nhân vật này thường tạo ra bầu không khí ngột ngạt, áp lực cho con gái, thể hiện qua các tác phẩm như "Bài thơ về biển khơi" và "Cha nuôi" Thay vì ca ngợi mẫu hình gia trưởng, Trần Thùy Mai tập trung vào việc giải ảo các biểu tượng quyền lực thông qua những tình huống trớ trêu và xung đột, mang đến cái nhìn sâu sắc về cuộc sống gia đình.

Những nhân vật nam trong các tác phẩm như Tàu ngầm xuyên đại dương, Cố nhân, và Oan gia ngõ hẹp đều thể hiện bản tính hèn nhát qua những tình huống trớ trêu và sự bất ngờ Hạo trong Oan gia ngõ hẹp vừa là kẻ Sở Khanh vừa không có quyền lực trong xã hội Tượng đài "vị Thánh sống" trong lòng cô Hạnh bị sụp đổ khi cô thấy "anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi giặt một đống áo quần đủ loại" Hằng trong Chờ nhau ở cuối đường nhận ra rằng chồng, tình nhân hay đàn ông không phải là niềm hứng thú của cuộc đời cô, mà hội họa mới thực sự là "niềm đam mê và tình yêu dài lâu nhất trong đời tôi".

Trong các tác phẩm như "Khói trên sông Hương", "Trăng nơi đáy giếng" và "Câu chuyện của một gia đình", những tình huống xung đột giữa hai giới được thể hiện rõ nét, tạo nên những mạch truyện hấp dẫn và sâu sắc Kết thúc của những câu chuyện này không chỉ mang lại sự thỏa mãn cho độc giả mà còn phản ánh những mâu thuẫn xã hội và tâm lý phức tạp trong mối quan hệ giữa nam và nữ.

Trong bài thơ "Mưa đời sau" và tác phẩm "Bài thơ về biển khơi", các nhân vật người chồng và người cha đều bị tước bỏ quyền lực, trở thành những con người bằng xương bằng thịt, không còn khả năng điều khiển cuộc sống của nhân vật nữ.

3.2.2 Con người ngoại vi tiến vào trung tâm

Trong các tác phẩm như "Trái xanh," "Nốt ruồi son," và "Một đêm ở thành Phú Xuân," nhà văn đã khéo léo đưa những con người bé nhỏ, đặc biệt là các cô gái điếm, từ ngoại vi vào trung tâm câu chuyện Bối cảnh hiện đại và thời kỳ Mở cửa tạo nên nền tảng cho những nhân vật này, trong khi người kể chuyện là những nhân vật nam vô danh, thể hiện sự nhạt nhòa của hình tượng nam giới Qua đó, nhà văn làm nổi bật thân phận của các nhân vật nữ như Mận Chín và Mận Xanh, phản ánh sâu sắc cuộc sống và số phận của họ trong xã hội.

Trong truyện Nốt ruồi son, nhân vật Trái xanh và Hà thể hiện rõ sự miệt thị mà gái điếm phải chịu đựng trong xã hội, bất kể là ở phương Đông hay phương Tây Tương tự như Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh, mặc dù sở hữu tài sắc vẹn toàn, nhưng trong văn hóa Việt Nam, cô vẫn bị coi là phận kỹ nữ, cho thấy sự bất công trong cách nhìn nhận về phụ nữ trong xã hội.

“Sá chi liễu ngõ hoa tường, Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.”

Những nhân vật gái điếm trong Trái xanh, Nốt ruồi son cũng bị xã hội khinh miệt, cười cợt:

- Vừa dưỡng bệnh vừa làm điếm, chuyện ngược đời

- Nó mượn bệnh viện làm chỗ tạm trú để hành nghề, chứ đau ốm gì Trông phây phây như thế

Không phải đâu, có người khẳng định một cách dứt khoát như thể đang nhận diện tội phạm Họ nói rằng cô gái này là một ca ve tại nhà hàng Tương Lai, nhưng do mắc bệnh nên thời gian gần đây không ai gọi, buộc phải chuyển sang đứng đường.

Dù nghề nghiệp bị xã hội xa lánh, những người làm nghề này lại mang trong mình những hoàn cảnh đáng thương Trong tác phẩm, nhân vật Hà là người duy nhất lắng nghe và cảm thông cho họ.

Nốt ruồi son chia sẻ rằng: “Nếu không đi khách, tôi không có tiền để chữa bệnh, nhưng khi đi thì tình trạng bệnh lại càng nặng hơn Tôi cứ mãi luẩn quẩn trong vòng xoáy này, năm này qua năm khác.”

Nhân vật Mận Chín trong tác phẩm Trái xanh chấp nhận làm gái điếm với mong muốn cải thiện cuộc sống cho gia đình ở quê, đặc biệt là để em gái có cơ hội học hành tử tế.

Những con người bé nhỏ từ ngoài vi còn là người mẹ chửa hoang trong

Trong các tác phẩm như "Chị Hai ơi", "Giông mùa xuân", "Am bà cô", "Lửa của khoảnh khắc", và "Bầy thú bông của Quỳnh", Trần Thùy Mai khắc họa những người phụ nữ bị xã hội lên án, từ những phụ nữ quá lứa lỡ thời đến những người trót chửa hoang và cả mối tình đồng tính Mỗi nhân vật nữ đều mang trong mình hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều trở thành trung tâm của câu chuyện Tác giả không phân biệt cao thấp, mà quan sát và viết về họ với sự trân trọng và nhân văn Qua phương thức tự thuật, Trần Thùy Mai trao cho các nhân vật nữ cơ hội để thể hiện tiếng nói của chính mình, như những tiểu tự sự của giới nữ, điều này sẽ được bàn luận kỹ lưỡng trong phần 3.2.1 Nhân vật nữ tự thuật không chỉ khẳng định sự tồn tại mà còn phản ánh những góc khuất trong xã hội.

Hiện tượng giải đại tự sự trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai nổi bật với hoạt động giải huyền thoại, đặc biệt là huyền thoại lịch sử về Vua Gia Long Vua Gia Long, người có công thống nhất đất nước và lập nên nhà Nguyễn tại Phú Xuân vào năm 1802, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Hình tượng vua Gia Long được khắc họa rõ nét trong nhiều tác phẩm truyện ngắn của Trần Thùy Mai, bao gồm các tác phẩm như "Thần nữ đi chân không", "Lời hứa của hoàng đế" và "Lửa hoàng cung".

H IỆN TƯỢNG TỰ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN T RẦN T HÙY M AI

3.3.1 Tự thuật từ chủ thể nữ giới như sự khẳng định tồn tại

Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn đã khéo léo thể hiện đời sống tâm lý của các nhân vật nữ qua thủ pháp tự thuật, khẳng định tiếng nói nữ trong không gian văn hóa gia trưởng Trước bầu không khí ngột ngạt và áp bức, phụ nữ thường rơi vào tình trạng dồn nén và câm lặng, như hình ảnh Tang Nương trong Thiên thạch, không có cơ hội lên tiếng trước lúc chết Các nhân vật như cô Vân trong Người điên vì hoa hay Hạnh trong Trăng nơi đáy giếng cũng phản ánh cuộc sống đơn độc, hiu quạnh nhưng đầy tâm sự Để phản kháng lại tình trạng mất tiếng nói, Trần Thùy Mai đã cho nhiều nhân vật nữ lên tiếng, khẳng định sự tồn tại và quyền được thừa nhận của họ, vì tự do ngôn luận là quyền căn bản của mọi con người.

Trong việc khẳng định tiếng nói nữ, các nhân vật nữ chia sẻ cuộc đời và trải nghiệm của mình qua những tiểu tự sự, tập trung vào hai khía cạnh chính: tự thuật tâm lý và tự thuật tính dục Tâm lý, theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu trong Tâm lý học, là toàn bộ hiện tượng và tiến trình tinh thần trong con người, điều hành mọi hoạt động của họ Các hiện tượng tâm lý như ý thức, vô thức, cảm giác, tri giác, tư duy, tình cảm và hành vi là những yếu tố quan trọng được nghiên cứu và phản ánh trong những tự thuật này.

Trong văn học nghệ thuật, hiện tượng tâm lý của nhân vật phản ánh thế giới nội tâm phong phú với những nỗi nhớ, ước mơ, và cảm xúc đa dạng như buồn vui, yêu thương, và oán giận Khác với nghiên cứu tâm lý trong khoa học, nơi mà hành vi, cơ thể sinh học và lời nói được quan sát, văn học nội tâm được khám phá qua ngôn từ mà các nhà văn sử dụng để miêu tả.

Vậy, “tự thuật tâm lý” là hoạt động xưng “tôi” và kể lại toàn bộ đời sống nội tâm của nhân vật người kể chuyện

Tính dục (sexuality) được hiểu là cách mà con người cảm nhận cơ thể, lạc thú và khát khao của bản thân, trong khi tình dục (sex) chỉ đơn thuần là hoạt động giao phối giữa hai cá nhân Mặc dù hai khái niệm này có nội hàm khác nhau, nhưng chúng thường bị nhầm lẫn Tính dục có phạm vi rộng hơn và bao hàm tình dục, do đó, nó có thể được xem là một đối tượng nghiên cứu trong Tâm lý học Khi áp dụng lý thuyết tâm lý học vào phê bình văn học nữ quyền, chúng tôi cho rằng cần tách biệt vấn đề tính dục để phân tích, vì đây là một khía cạnh quan trọng trong Lối viết nữ.

“tự thuật tính dục” là tự kể về cảm giác của cơ thể, ham muốn tình dục của cá nhân

Trong tác phẩm "Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ", Trần Thúy Anh nhận định rằng hầu hết các nhà văn nữ đều khai thác nội tâm nhân vật từ góc nhìn nội quan Nhà văn Trần Thùy Mai cũng áp dụng thủ pháp tự thuật tâm lý, giúp miêu tả nội tâm nhân vật một cách chân thực và sống động.

Nhân vật trong Gió thiên đường chia sẻ những cảm xúc đa dạng về tình yêu, thể hiện sự chân thành và hạnh phúc của một cô gái trẻ lần đầu trải nghiệm tình cảm.

“Mùa đông không còn lạnh lẽo, những giờ học khiêu vũ trở nên thú vị, buổi tối luyện thi không còn chán nản Tôi không còn lo lắng về tiền bạc khi mẹ cần mua sắm hay ba cần thuốc men Cuộc sống khó khăn bỗng trở nên nhẹ nhàng hơn.”

Tình yêu trong lòng cô gái trẻ mang lại sự nhẹ nhàng, xóa tan những khó khăn trong cuộc sống Nhân vật cảm nhận rằng “không còn cảm thấy lạnh” và cuộc sống trở nên dễ chịu hơn Lan trong Tàu ngầm xuyên đại dương thể hiện những cảm xúc “ngượng ngùng hồi hộp” khi lần đầu gặp người yêu, trong khi nhân vật trong Hoa sứ trắng cũng trải qua sự rụt rè khi đối diện bạn trai Bài hát đêm cuối năm kể về mối tình đầu của Miên, người phụ nữ đã có cháu ngoại, với những cảm giác “ngượng ngùng và xa cách” khi gặp Tư, cùng nỗi sợ hãi và rụt rè khi phải nói dối.

Bên cạnh đó, những chuyển điệu trong tình yêu cũng được nhân vật nữ diễn tả một cách trọn vẹn Như mấy câu thơ của Xuân Quỳnh,

“Dữ dội và diệu êm Ồn ào và lặng lẽ”

Tình yêu luôn trải qua những biến chuyển phức tạp và không bao giờ đứng yên trong thế giới nội tâm Nhân vật Lan trong tác phẩm "Tàu ngầm xuyên đại dương" thể hiện cảm xúc mãnh liệt khi từ trạng thái hạnh phúc bỗng dưng "chết lặng" khi nhận tin chia tay từ người yêu, với những giọt nước mắt không thể kiềm chế Tương tự, Hạnh trong "Trăng nơi đáy giếng" cũng trải lòng về muôn vàn cảm xúc trong tình yêu, từ sự chăm sóc cho chồng và con đến nỗi đau khi phát hiện ra sự phản bội của chồng.

Nhân vật Mi trong Gió thiên đường trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, từ hạnh phúc của tình yêu đến nỗi lo sợ và nghi ngờ về sự phản bội Cô thể hiện nỗi sợ hãi mơ hồ khi nghĩ đến việc gặp Hiếu bên ai khác: “Tôi ở nhà Tôi sợ, sợ một điều gì không rõ.” Cuối cùng, Mi nhận ra sự trưởng thành của bản thân và dần khám phá những góc khuất trong tâm hồn mình.

Tôi nhận ra mình đã trưởng thành và trở thành một con người khác, hiểu được ý nghĩa của yêu thương và sự chịu đựng Đôi mắt và nỗi buồn mà Hiếu để lại cho tôi khiến tôi suy ngẫm về tình cảm gia đình Tôi thương ba và cũng thương chính mình, và từ đó tôi hiểu vì sao ba tôi không bao giờ quên được Thanh Thúy Tàu, một người đã phản bội.

Nhà văn Trần Thùy Mai khéo léo diễn tả những phức tạp trong cảm xúc của người phụ nữ khi yêu, bởi chính bà là người trải nghiệm và hiểu sâu sắc thế giới nội tâm của họ Bà cho rằng cuộc sống của các nhân vật nữ như một sự nối dài của chính cuộc sống của mình, từ đó tạo nên những hình ảnh chân thực và sâu sắc về tình yêu và tâm hồn phụ nữ.

Trong nhiều truyện ngắn, các nhân vật nữ không chỉ thể hiện tình yêu mà còn chia sẻ những trải nghiệm cảm xúc phong phú trong cuộc sống hàng ngày Hạnh trong "Trăng nơi đáy giếng" diễn tả nỗi cô đơn của mình bằng giọng điệu thê lương và nức nở, trong khi Miên trong "Bài hát đêm cuối năm" thể hiện sự cô độc qua chất giọng êm ái, trầm buồn.

Trong tác phẩm "Nước vĩnh cửu," nhân vật Út trải lòng về những cảm xúc phức tạp, từ sự trách giận và ghen tuông với chị gái nuôi cho đến rung động đầu đời với Luân Cô chia sẻ về những giấc mơ và khát khao được ở trong vòng tay của Luân Cuối cùng, Út bày tỏ nỗi thương cảm sâu sắc dành cho người chị, người đã hy sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của Út.

Tiểu tự sự của nhân vật nữ trong "Dịu dàng như cỏ" thể hiện những cảm xúc tự nhiên và nữ tính sâu sắc Cô chia sẻ những cảm xúc riêng tư khi bị thầy dạy đàn so sánh với bạn khác, khiến cô cảm thấy tủi thân và muốn rời bỏ lớp học Tuy nhiên, cảm xúc đó nhanh chóng chuyển thành quyết tâm mạnh mẽ, khi cô khẳng định rằng mình phải vượt qua Stuttgart trong lòng thầy Cuối cùng, nhân vật nữ tự phân tích bản thân để nhận ra và khẳng định bản tính nữ của mình.

Ngày đăng: 06/10/2021, 23:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
01. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB. Thành Phố Hồ Chí Minh, TPHCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hóa sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: NXB. Thành Phố Hồ Chí Minh
Năm: 1992
02. Phan Thị Vàng Anh (1994), Khi người ta trẻ, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khi người ta trẻ
Tác giả: Phan Thị Vàng Anh
Nhà XB: NXB. Hội Nhà Văn
Năm: 1994
03. Lại Nguyên Ân (giới thiệu và biên soạn) (2017), Phan Khôi: Vấn đề phụ nữ ở nước ta, NXB. Phụ Nữ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phan Khôi: Vấn đề phụ nữ ở nước ta
Tác giả: Lại Nguyên Ân (giới thiệu và biên soạn)
Nhà XB: NXB. Phụ Nữ
Năm: 2017
04. Honore de, Banzac (Huỳnh Lý dịch) (2014), Ơgiêni Grăngđê, NXB. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ơgiêni Grăngđê
Tác giả: Honore de, Banzac (Huỳnh Lý dịch)
Nhà XB: NXB. Văn Hóa Thông Tin
Năm: 2014
05. Y Ban (2004), Đàn bà xấu thì không có quà, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đàn bà xấu thì không có quà
Tác giả: Y Ban
Nhà XB: NXB. Hội Nhà Văn
Năm: 2004
06. Y Ban (2006) I am đàn bà, NXB. Công An Nhân Dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: I am đàn bà
Nhà XB: NXB. Công An Nhân Dân
07. Lê Huy Bắc (2017), Văn học Hậu hiện đại: lý thuyết và tiếp nhận, NXB. Đại Học Sư Phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Hậu hiện đại: lý thuyết và tiếp nhận
Tác giả: Lê Huy Bắc
Nhà XB: NXB. Đại Học Sư Phạm
Năm: 2017
08. Beauvoir, Simone de (1996), Giới nữ, NXB. Phụ Nữ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới nữ
Tác giả: Beauvoir, Simone de
Nhà XB: NXB. Phụ Nữ
Năm: 1996
09. Bourdieu, Pierre (2017), Sự thống trị của nam giới, NXB. Tri Thức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự thống trị của nam giới
Tác giả: Bourdieu, Pierre
Nhà XB: NXB. Tri Thức
Năm: 2017
10. Bôcaxiô (1985), Mười ngày, NXB. Văn Học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mười ngày
Tác giả: Bôcaxiô
Nhà XB: NXB. Văn Học
Năm: 1985
11. Mai Huy Bích (2009), Giáo trình Xã hội học giới. NXB. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Xã hội học giới
Tác giả: Mai Huy Bích
Nhà XB: NXB. Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Năm: 2009
12. Nhật Bình (2011), “Có hay không dòng văn học đồng tính ở việt nam?”, Tạp chí Da Màu, xem tại: http://damau.org/archives/18782; ngày truy cập: 01-06- 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Có hay không dòng văn học đồng tính ở việt nam?”, "Tạp chí Da Màu
Tác giả: Nhật Bình
Năm: 2011
13. Nhật Chiêu (1997), Câu chuyện văn chương phương Đông, NXB. Giáo Dục, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Câu chuyện văn chương phương Đông
Tác giả: Nhật Chiêu
Nhà XB: NXB. Giáo Dục
Năm: 1997
14. Nguyễn Du (2000), Truyện Kiều, NXB. Đồng Nai, Đồng Nai Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Nhà XB: NXB. Đồng Nai
Năm: 2000
15. Nguyễn Dữ (Trúc Khê dịch) (2016), Truyền kỳ mạn lục, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyền kỳ mạn lục
Tác giả: Nguyễn Dữ (Trúc Khê dịch)
Nhà XB: NXB. Hội Nhà Văn
Năm: 2016
17. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bóng đè
Tác giả: Đỗ Hoàng Diệu
Nhà XB: NXB. Đà Nẵng
Năm: 2005
18. Đỗ Hoàng Diệu (2015), Lam Vỹ, NXB. Hội Nhà Văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lam Vỹ
Tác giả: Đỗ Hoàng Diệu
Nhà XB: NXB. Hội Nhà Văn
Năm: 2015
19. Lâm Hán Đạt (1997), Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, NXB. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Trung Quốc 5000 năm
Tác giả: Lâm Hán Đạt
Nhà XB: NXB. Văn Hóa Thông Tin
Năm: 1997
20. Kim Định (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam. NXB. Nguồn Sáng, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn gốc văn hóa Việt Nam
Tác giả: Kim Định
Nhà XB: NXB. Nguồn Sáng
Năm: 1973
21. Nguyễn Văn Động (2008), Giáo trình về Nhà nước và Pháp luật, NXB. Giáo Dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình về Nhà nước và Pháp luật
Tác giả: Nguyễn Văn Động
Nhà XB: NXB. Giáo Dục
Năm: 2008

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w