1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hợp tác kinh tế việt nam hàn quốc (1992 2020)

71 29 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hợp Tác Kinh Tế Việt Nam – Hàn Quốc (1992 – 2020)
Tác giả Nguyễn Bích Thảo
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Hoàng Huế
Trường học Đại học Thủ Dầu Một
Chuyên ngành Sư Phạm Lịch Sử
Thể loại báo cáo tốt nghiệp
Năm xuất bản 2020
Thành phố Bình Dương
Định dạng
Số trang 71
Dung lượng 1,75 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (6)
    • 1. Lý do chọn đề tài (6)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (7)
    • 3. Mục tiêu nghiên cứu (8)
    • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (9)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (9)
    • 6. Đóng góp của đề tài (9)
    • 7. Bố cục của đề tài (10)
  • B. NỘI DUNG (11)
  • CHƯƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ (10)
    • 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực (11)
      • 1.1.1. Bối cảnh quốc tế (11)
      • 1.1.2. Bối cảnh khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (14)
    • 1.2. Công cuộc cải cách ở Hàn Quốc và đổi mới ở Việt Nam (16)
      • 1.2.1. Công cuộc cải cách ở Hàn Quốc (16)
      • 1.2.2. Đổi mới ở Việt Nam (19)
    • 1.3. Khái quát về quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc (23)
      • 1.3.1. Quan hệ Việt - Hàn Quốc trước năm 1955 (23)
      • 1.3.2. Quan hệ Việt - Hàn Quốc (1955 – 1975) (24)
      • 1.3.3. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc (1975 – 1992) (26)
      • 1.3.4. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc (1992 - Nay) (27)
  • CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC (10)
    • 2.1. Quan hệ thương mại (30)
    • 2.2. Quan hệ đầu tƣ (41)
    • 2.3. Viện trợ phát triển chính thức (ODA) (48)
    • 2.4. Trong các lĩnh vực kinh tế khác (50)
      • 2.4.1. Trong hợp tác xuất khẩu lao động (50)
      • 2.4.2. Trong hợp tác du lịch (53)
    • 2.5. Hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc trong các quan hệ đa phương (55)
  • CHƯƠNG 3 TRIỂN VỌNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC (10)
    • 3.1. Một số nhận xét về quá trình hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc (1992 – 2020) (58)
      • 3.1.1. Thành tựu (58)
      • 3.1.2. Hạn chế (60)
    • 3.2. Triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc (60)
    • 3.3. Giải pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc (62)
    • C. KẾT LUẬN (66)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (68)
    • E. PHỤ LỤC (69)

Nội dung

NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ

Bối cảnh quốc tế và khu vực

Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, sự phức tạp trong việc hình thành trật tự thế giới mới đã trở nên rõ rệt do những biến đổi sâu sắc về tương quan lực lượng toàn cầu Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại của nhiều quốc gia, trong đó có quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc.

Sau gần nửa thế kỷ tồn tại, trật tự thế giới hai cực Ianta đã sụp đổ, dẫn đến nhiều thay đổi trong cục diện thế giới và cấu trúc quyền lực quốc tế Sự chuyển dịch này đã làm đảo lộn cơ cấu địa chính trị và phân bố quyền lực toàn cầu, với tương quan lực lượng nghiêng về phía chủ nghĩa tư bản và bất lợi cho chủ nghĩa xã hội Trong bối cảnh hình thành trật tự thế giới mới, hai khuynh hướng nổi bật đã xuất hiện.

Mỹ đang theo đuổi một thế giới đơn cực với vai trò lãnh đạo, trong khi các cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Ấn Độ lại ủng hộ một thế giới đa cực nhằm kiềm chế vị thế bá quyền của Mỹ Cuộc cạnh tranh giữa hai xu hướng này ngày càng gay gắt, với ưu thế nghiêng về đa cực Sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực đã dẫn đến sự hình thành một trật tự mới, nơi sức mạnh quốc gia không chỉ dựa vào quân sự mà còn bao gồm sức mạnh mềm và quan hệ hợp tác dựa trên lợi ích quốc gia Do đó, việc mở rộng hợp tác với các quốc gia khác là cần thiết để tăng cường sức mạnh tổng hợp và bảo đảm lợi ích dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa Thêm vào đó, sự thay đổi trong giao lưu quốc tế hiện nay nhấn mạnh vai trò hàng đầu của kinh tế, khiến phương thức tập hợp lực lượng trở nên linh hoạt, vừa hợp tác vừa đấu tranh trong hòa bình.

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, hay còn gọi là cách mạng công nghiệp 4.0, đang có những bước tiến mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế Quá trình toàn cầu hóa đã tác động đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội, đặc biệt trong việc bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia Đây vừa là nguy cơ, vừa là thời cơ, đòi hỏi các quốc gia, trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc, cần có sự điều chỉnh phù hợp.

Cách mạng 4.0 đã tạo ra những thành tựu vượt bậc trong việc phát triển lực lượng sản xuất toàn cầu, đóng góp quan trọng vào sự hình thành nền kinh tế tri thức Sự bùng nổ này không chỉ thu hút sự quan tâm của các quốc gia mà còn tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội, dẫn đến những thay đổi căn bản trong vị trí và sức mạnh của các quốc gia trên trường quốc tế.

Toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu hướng khách quan, thu hút nhiều quốc gia tham gia, nhưng cũng bị chi phối bởi các nước phát triển và tập đoàn xuyên quốc gia, chứa đựng nhiều mâu thuẫn với cả mặt tích cực và tiêu cực Xu hướng này không chỉ tạo ra biến đổi mạnh mẽ về kinh tế mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc gia gia tăng Việt Nam và Hàn Quốc cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro Quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước sẽ giúp hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình toàn cầu hóa Độc lập dân tộc và bình đẳng hóa quan hệ quốc tế vẫn là vấn đề bức xúc, đặc biệt cho các dân tộc yếu kém, trong khi các thế lực đế quốc tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đang phát triển Những thách thức này yêu cầu Việt Nam và Hàn Quốc phải hợp tác chặt chẽ để bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.

Sau chiến tranh lạnh, môi trường an ninh quốc tế đã trải qua nhiều biến động phức tạp, dẫn đến sự xáo trộn và bất ổn Sự đan xen giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền quốc gia và mối quan hệ quốc tế hiện đại Do đó, các quốc gia cần có cách tiếp cận phù hợp để thể hiện quan điểm chính trị, bảo vệ lợi ích quốc gia và duy trì độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời hướng tới phát triển hội nhập hiệu quả.

Sau chiến tranh lạnh, sự vận động của thế giới cho thấy các nước lớn và mối quan hệ giữa chúng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển toàn cầu Quan hệ của Hàn Quốc và Việt Nam với các cường quốc như Mỹ và Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc Đồng thời, nhân loại đang đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, bùng nổ dân số, an ninh lương thực, phân biệt chủng tộc, và khủng bố quốc tế Không một quốc gia nào có thể tự giải quyết những vấn đề này mà không có sự hợp tác đa phương Việt Nam và Hàn Quốc đều có những ưu tiên chung để cùng cộng đồng quốc tế giải quyết các thách thức này thông qua hợp tác quốc tế và song phương.

1.1.2 Bối cảnh khu vực Châu Á- Thái Bình Dương

Việt Nam và Hàn Quốc, nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đang chứng kiến sự phát triển quan hệ song phương bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố từ tình hình khu vực Mối quan hệ giữa hai nước không còn bị chi phối bởi ý thức hệ, mà thay vào đó là một bầu không khí hòa bình và hợp tác trong khu vực.

Khu vực Đông Nam Á đang bước vào một thời kỳ lịch sử mới với xu hướng đối thoại, hòa bình và hợp tác phát triển Châu Á - Thái Bình Dương trở thành nơi diễn ra sự hợp tác và cạnh tranh mạnh mẽ, từ liên khu vực đến hợp tác song phương, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và quốc phòng Bước vào thế kỷ XXI, khu vực này thể hiện rõ sự năng động trong quá trình hội nhập, với tổ chức lớn nhất là Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), trong đó Việt Nam và Hàn Quốc là các thành viên chính thức Hiện tại, APEC có 21 nền kinh tế thành viên từ bốn châu lục.

Sự hợp tác giữa các nhóm nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là trong khuôn khổ APEC, đang gia tăng mạnh mẽ ASEAN đang nỗ lực tăng cường liên kết sâu rộng để trở thành một cộng đồng mạnh mẽ hơn Quan hệ song phương giữa các cường quốc trong khu vực, đặc biệt là mối quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh như Hàn Quốc, có ảnh hưởng lớn đến hợp tác và cạnh tranh quốc tế Bước vào thế kỷ XXI, khu vực châu Á - Thái Bình Dương thể hiện tính năng động cao trong quá trình hội nhập, ảnh hưởng tích cực đến việc hình thành một cấu trúc thế giới công bằng hơn và tác động đến các quan hệ song phương, trong đó có Việt Nam - Hàn Quốc Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đang đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới, với xu hướng hòa bình, hợp tác và phát triển trong thời kỳ toàn cầu hóa.

11 vấn đề toàn cầu bức xúc đang thúc đẩy việc củng cố và tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong bối cảnh mới.

Công cuộc cải cách ở Hàn Quốc và đổi mới ở Việt Nam

1.2.1 Công cuộc cải cách ở Hàn Quốc

Từ năm 1991, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu phát triển ấn tượng nhờ vào các chính sách kinh tế đột phá và nỗ lực không ngừng Công cuộc cải cách là trọng tâm trong chính sách quốc gia, giúp Hàn Quốc chủ động điều chỉnh các chính sách một cách linh hoạt và kịp thời Để thúc đẩy đổi mới trong các ngành công nghiệp, Hàn Quốc đang triển khai các chính sách thân thiện với doanh nghiệp và củng cố hợp tác giữa các công ty lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ Chính phủ hiện đang chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, với ba trụ cột chính: tạo việc làm, thúc đẩy sáng tạo trong ngành công nghiệp, và phát triển cân bằng giữa các vùng và các loại hình doanh nghiệp Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, từ những năm 1980, Hàn Quốc đã chuyển hướng sang quy hoạch và thực hiện các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh công nghệ, với sự tập trung vào tăng cường đầu tư R&D và bồi dưỡng nguồn nhân lực có kỹ năng cao.

Hàn Quốc đã chú trọng vào việc tăng cường ngân sách cho nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm đảm bảo phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế Từ năm 2004, tổng đầu tư cho R&D đạt 19 tỷ USD, tương đương 2,85% GDP, thể hiện rõ tư duy phát triển kinh tế dựa trên khoa học - công nghệ Quốc gia này cũng tích cực đầu tư vào công nghệ phúc lợi công cộng để nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra các ngành công nghiệp mới.

2013, ngân sách của chính phủ đầu tƣ vào R&D là 14,5 tỷ USD, và liên tiếp cho các năm sau là 15,3 tỷ USD; 16,2 tỷ USD và 16,3 tỷ USD [4, tr.41] Trong năm

Năm 2020, Hàn Quốc dự kiến đầu tư 18 tỷ USD cho hoạt động R&D, nhấn mạnh tầm quan trọng của các tổ chức tài chính năng động và được giám sát chặt chẽ trong nền kinh tế thị trường hiện đại Ủy ban Giám sát Tài chính (FSC) đã thiết lập các quy chế mới và thực hiện giám sát thận trọng nhằm cải cách hệ thống tài chính Tính đến ngày 31/12/2005, Chính phủ Hàn Quốc đã huy động 168 tỷ won để hỗ trợ các tổ chức tài chính trong việc tái cấu trúc vốn và xử lý các khoản nợ xấu Thành công đáng chú ý của Hàn Quốc trong việc phát triển thị trường chứng khoán từ những năm 1950 đã giúp huy động vốn cho phát triển kinh tế, biến thị trường chứng khoán nước này thành một trong những thị trường hàng đầu châu Á và thế giới Để đạt được những thành tựu này, Hàn Quốc đã thực hiện cải cách mạnh mẽ thị trường vốn thông qua việc ban hành Luật các thị trường vốn và dịch vụ đầu tư tài chính (FSCMA).

1 Tham khảo https://baoquocte.vn/

Luật FSCMA, có hiệu lực từ năm 2009, đã cách mạng hóa quá trình cải cách thị trường vốn Hàn Quốc, bảo vệ nhà đầu tư và tăng cường giám sát thị trường Trước khi ban hành luật này, thị trường vốn Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn do sự mất cân bằng giữa đầu tư tài chính trực tiếp và gián tiếp, cùng với hệ thống quản lý không đồng nhất gây cản trở cho sự phát triển dịch vụ và sản phẩm Sau khi cải cách, thị trường vốn đã có những chuyển biến tích cực, với việc giảm một nửa số điều luật, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tổng giá trị thương mại nhập khẩu của Hàn Quốc chiếm 70% GDP vào năm 2005, trong khi doanh thu từ đầu tư nước ngoài chỉ đạt 14% GDP Đến năm 2012, đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc đạt 11 tỷ USD Hàn Quốc đứng thứ 10 thế giới về đầu tư R&D và là quốc gia đứng thứ ba về số lượng đơn đăng ký sáng chế quốc tế, với 15.000 đơn vào năm 2012 Theo thống kê năm 2017, Hàn Quốc là nước có số lượng bằng sáng chế về trí tuệ nhân tạo lớn thứ ba thế giới, chủ yếu tập trung vào công nghệ AI cho thiết bị di động và giải pháp truyền thông.

Samsung Electronics Co đã đệ trình 3.188 bằng sáng chế liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI), trong khi LG Electronics Inc có 889 bằng sáng chế Viện Nghiên cứu điện tử và viễn thông cũng đã nộp 865 đơn xin cấp bằng sáng chế về AI.

LG Display với 350 đơn; Samsung Display Co và Samsung Electro - Mechanics là 207 đơn [4, tr 45]

Tính đến năm 2018, Hàn Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 183 quốc gia và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, khẳng định vị thế quan trọng trên trường quốc tế Kể từ khi gia nhập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) vào năm 1996, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ, đưa đất nước này vào danh sách 25 quốc gia hùng mạnh nhất thế giới Tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người đã tăng từ 100 USD vào năm 1963 lên 30.000 USD vào năm 2018, nhờ vào tốc độ tăng trưởng GDP cao trong các thập niên 1970, 1980 và 1990 Những kinh nghiệm và thành tựu trong quá trình phát triển của Hàn Quốc có thể làm mô hình tham khảo cho các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam.

Việt Nam, với vị trí địa lý - chính trị quan trọng ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á, thu hút sự quan tâm của nhiều nước lớn Trước thời kỳ đổi mới, đất nước đã gặp khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng do sai lầm trong các chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ vài năm sau khi thống nhất Tổ quốc Để đối phó với tình hình này, Tổng bí thư Trường Chinh đã tiến hành các biện pháp cần thiết.

Việt Nam đã trải qua một quá trình đổi mới tư duy quan trọng, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường và cạnh tranh lành mạnh Sau hơn 30 năm, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai Chính trị - xã hội ổn định cùng với môi trường hòa bình và hợp tác quốc tế đã giúp Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 197 nước và quan hệ kinh tế với hơn 224 quốc gia, bao gồm các đối tác chiến lược quan trọng Gia nhập các tổ chức quốc tế lớn như ASEAN, APEC và WTO đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng, giúp hàng hóa Việt Nam mở rộng thị trường ra toàn cầu Năm 2019, Việt Nam tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều tại Hà Nội, khẳng định vị thế và bản lĩnh của đất nước trong tiến trình hòa bình trên bán đảo Triều Tiên.

Kim Jong Un đã có những cuộc đối thoại quan trọng liên quan đến tình hình hạt nhân Triều Tiên, được quốc tế và khu vực đánh giá cao Việt Nam, với vai trò chủ nhà, đã thể hiện trách nhiệm và đóng góp tích cực cho hòa bình thế giới Năm 2020, Việt Nam trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với số phiếu kỷ lục 192/193, phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam Năm 2019 cũng ghi dấu sự kiện Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại quan trọng với EU, hoàn tất đàm phán RCEP, góp phần vào quá trình hội nhập kinh tế Đoàn thể thao Việt Nam đã xuất sắc tại SEA Games 30 với 98 huy chương vàng, 85 huy chương bạc và 105 huy chương đồng, đứng thứ hai toàn đoàn và lần đầu giành chức vô địch bóng đá nam và nữ.

Trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại Điều này không chỉ góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước mà còn thúc đẩy sự thịnh vượng chung của khu vực.

2 Tham khảo https://dangcongsan.vn/

Tính đến đầu năm 2016, Việt Nam đã ký kết và thực thi 10 hiệp định thương mại tự do (FTA), đồng thời kết thúc đàm phán 2 FTA và đang trong quá trình đàm phán 4 FTA khác Theo tạp chí The Economist, Việt Nam có khả năng trở thành trung tâm kinh tế mới của châu Á.

Từ năm 1990, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng trung bình gần 6% mỗi năm trên đầu người, chỉ sau Trung Quốc, giúp nước này từ một trong những nước nghèo nhất thế giới vươn lên thành quốc gia có thu nhập trung bình Nếu Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng 7% trong một thập niên tới, quỹ đạo phát triển của đất nước sẽ tương tự như Trung Quốc và các con hổ châu Á.

Dân số trẻ và nguồn lao động dồi dào là điểm mạnh của Việt Nam, giúp giảm áp lực tiền lương và phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động Việt Nam có chính sách hiệu quả hơn so với nhiều quốc gia khác, với thương mại chiếm khoảng 150% tổng sản lượng quốc gia, vượt trội hơn so với các nước có cùng mức GDP bình quân đầu người Lực lượng lao động không chỉ trẻ mà còn có tay nghề cao, với chi tiêu công cho giáo dục đạt khoảng 6,3% GDP, cao hơn mức trung bình của các quốc gia thu nhập thấp và trung bình Việt Nam đang tận dụng lợi thế này để hưởng lợi từ các thỏa thuận thương mại như CPTPP và EVFTA, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế.

Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức có thể cản trở sự phát triển của đất nước Một trong những vấn đề lớn là việc chưa tận dụng hiệu quả khu vực tư nhân, điều này ảnh hưởng đến tiềm năng tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Trong thập kỷ qua, khu vực tư nhân tại Việt Nam đã chứng kiến sự giảm sút mạnh mẽ, với tỷ lệ chỉ còn 0,7, tương đương với các doanh nghiệp nhà nước Một nguyên nhân chính là các tập đoàn lớn ở Việt Nam hiện đang hoạt động trong trung bình 6,4 ngành công nghiệp khác nhau Để nâng cao tính thương mại của doanh nghiệp nhà nước và phục hồi năng lực khu vực tư nhân, cần có những biện pháp cụ thể Sau nhiều năm tăng trưởng ổn định, Việt Nam đã gần đạt đến cột mốc quan trọng, hiện được phân loại là quốc gia có thu nhập trung bình và không còn nhận được các khoản tài trợ ưu đãi từ các ngân hàng phát triển như trước Tuy nhiên, với vị thế địa - chiến lược cùng những đặc điểm lịch sử, chính trị, văn hóa và thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam vẫn có nhiều tiềm năng để phát triển hơn nữa.

THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC

Quan hệ thương mại

Trước khi thiết lập quan hệ hợp tác, thương mại giữa hai nước rất khiêm tốn, với kim ngạch chỉ đạt 22,8 triệu USD vào năm 1983 Từ đó, kim ngạch buôn bán tăng dần, đạt 86 triệu USD vào năm 1989 Đến năm 1991, con số này đã tăng lên 240 triệu USD, và năm 1992 đạt 493,5 triệu USD, gấp 9,03 lần so với năm 1987, khi kim ngạch chỉ đạt 54,6 triệu USD.

(1 năm sau khi nước ta thực hiện đổi mới kinh tế)

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Hàn Quốc (1983-1992) Đơn vị: 1.000 USD, %

Năm Cán cân thương mại Nhập khẩu Xuất khẩu

Nguồn : Korea International Trade Associations (www.kita.org)

Hợp tác kinh tế Việt - Hàn sau khi thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ năm

Từ năm 1992, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ, với kim ngạch thương mại tăng gấp 40 lần trong 25 năm Sự bùng nổ thương mại bắt đầu ngay sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, với kim ngạch đạt 818 triệu USD vào năm 1993, tăng lên 1,5 tỷ USD vào năm 1995, 1,8 tỷ USD vào năm 1996 và 1,9 tỷ USD vào năm 1997.

Từ năm 1998 đến 1999, xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam giảm mạnh, nhưng từ năm 2000, kim ngạch thương mại đã liên tục tăng trưởng, đạt 1,7 tỷ USD vào năm 2000, 2,1 tỷ USD vào năm 2001, và 2,75 tỷ USD vào năm 2002 Đến năm 2003, kim ngạch thương mại đạt 3,116 tỷ USD, gấp 6 lần so với năm 1992, và tiếp tục tăng lên 4 tỷ USD vào năm 2004 và 4,125 tỷ USD vào năm 2005 Năm 2006, con số này vượt mốc 5 tỷ USD, gấp 10 lần so với năm 1992 Đến năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt hơn 7 tỷ USD, với Việt Nam xuất khẩu 700 triệu USD và nhập khẩu từ Hàn Quốc 6 tỷ USD Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ 25 của Hàn Quốc, đồng thời là thị trường xuất khẩu lớn thứ 15 và nhập khẩu lớn thứ 35 Những tiến triển này trong quan hệ chính trị - ngoại giao đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nhanh chóng giữa hai nước, với Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.

Năm 2009, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc bị ảnh hưởng tiêu cực do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dẫn đến sự giảm sút Tuy nhiên, vào năm 2010, thương mại đã phục hồi và đến năm 2011, tổng giá trị kim ngạch hai chiều đạt 18,5 tỷ USD.

Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc giai đoạn 1993-

Năm Tổng trao đổi Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại

Giá trị % so tổng kim ngạch

Nguồn : Thống kê Hải quan của Tổng cục Hải quan cho số liệu các năm 1993-

2003 và từ www.moit.gov.vn cho các năm 2004-08

Năm 2013, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc đạt 27,5 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 6,7 tỷ USD, tăng 19,9% so với năm 2012.

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ, với kim ngạch xuất khẩu đạt 20,8 tỷ USD vào năm 2012, tăng 34,1% so với năm trước Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2013, và là nguồn hàng nhập khẩu lớn thứ 2 Năm 2016, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 45,1 tỷ USD, tăng lên 61,5 tỷ USD vào năm 2017, tương ứng với mức tăng 41,3% so với năm 1992 Đến năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 65,7 tỷ USD, và năm 2019, con số này đã lên tới 66,6 tỷ USD Hai nước đang hướng tới mục tiêu kim ngạch thương mại đạt 100 tỷ USD vào năm 2020.

Bảng 2 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc giai đoạn 2013 – 2018 Đơn vị: Tỷ USD

(Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Tính đến năm 2012, Hàn Quốc là bạn hàng lớn thứ tư của Việt Nam, và đến năm 2014, Hàn Quốc vươn lên thứ ba trong danh sách đối tác thương mại của Việt Nam Mối quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước đã tạo động lực cho sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực kinh tế - thương mại Xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam từ năm 1995 luôn tăng trưởng, đặc biệt giai đoạn 2000-2009 với mức tăng bình quân hàng năm đạt 19,12% Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Hàn Quốc kể từ khi hiệp định thương mại song phương có hiệu lực vào tháng 12/2015, và vào năm 2017, Việt Nam đã vượt Hồng Kông để trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Hàn Quốc, chỉ sau Trung Quốc.

Việt Nam đã tăng 3 bậc trong xếp hạng thị trường xuất khẩu của Hàn Quốc, đứng thứ 31 vào năm 2014 Theo Hiệp hội Thương mại Quốc tế Hàn Quốc (KITA), dự kiến Việt Nam sẽ vượt Mỹ để trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Hàn Quốc vào năm 2020 nhờ vào việc thực hiện hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) Trong hơn 28 năm qua, giao dịch thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với Hàn Quốc hiện là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam, khẳng định vị thế của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc.

Hàn Quốc xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu các mặt hàng như vải, xe hơi, máy móc và sản phẩm hóa chất, trong khi Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu là dầu thô, than đá, quần áo, giày dép, nông sản và thực phẩm như cà phê Từ năm 2004, dầu thô trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Hàn Quốc, trong khi xăng dầu là sản phẩm xuất khẩu hàng đầu của Hàn Quốc vào Việt Nam Đến năm 2018, các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Hàn Quốc bao gồm điện thoại, dệt may, máy vi tính và thủy sản Năm 2019, điện thoại và linh kiện đứng đầu với kim ngạch 3,39 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 13,2% so với năm trước Nhóm dệt may xếp thứ hai với 2,2 tỷ USD, chiếm 17,1%, tăng 11,8%.

4,8% so với cùng kỳ; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng kiện đạt 1,01 tỷ USD, chiếm 7,9%, tăng 22,7%

Trong nửa đầu năm 2020, xuất khẩu sang Hàn Quốc ghi nhận chỉ có ba nhóm hàng đạt kim ngạch tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch Cụ thể, điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,51 tỷ USD, tương đương 27,49% tổng kim ngạch Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 1,26 tỷ USD, chiếm 13,85%, trong khi hàng dệt, may đạt 1,21 tỷ USD, chiếm 13,25%.

Bảng 2.4: Hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc 6T/2020

(Tính toán từ số liệu công bố ngày 13/7/2020 của TCHQ) ĐVT: USD

Tổng kim ngạch XK 1.472.821.354 -1,57 9.139.588.672 0,31 100 Điện thoại các loại và linh kiện

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

4 Tham khảo http://www.vinanet.com.vn/

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

Gỗ và sản phẩm gỗ 56.667.001 -26,95 401.614.480 -3,27 4,39

Phương tiện vận tải và phụ tùng

Xơ, sợi dệt các loại 27.156.748 22,68 167.016.722 -1,15 1,83

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

Kim loại thường khác và sản phẩm

Sản phẩm từ sắt thép

Sản phẩm từ chất dẻo

Dây điện và dây cáp điện

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

Sản phẩm từ cao su 5.357.501 3,31 34.216.054 2,48 0,37

Vải mành, vải kỹ thuật khác

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

Sắn và các sản phẩm từ sắn

2.345.968 -3,34 15.624.433 -9,81 0,17 Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

Giấy và các sản phẩm từ giấy

Sản phẩm mây, tre, cói và thảm

1.976.750 17,85 10.269.101 21,29 0,11 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

Thức ăn gia súc và nguyên liệu

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

Quặng và khoáng sản khác

Cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai nước ổn định và phát huy lợi thế so sánh của từng bên, cho thấy sự bổ sung lẫn nhau giữa hai thị trường đã được khai thác hiệu quả Mặc dù có sự cạnh tranh khốc liệt, việc giao lưu và buôn bán các mặt hàng thế mạnh cùng với hợp tác lành mạnh đã góp phần thúc đẩy kinh tế và tạo dựng thương hiệu hình ảnh tích cực tại Hàn Quốc.

Quan hệ đầu tƣ

Đầu tư là lĩnh vực quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc, với Hàn Quốc trở thành đối tác chủ chốt trong chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hóa tại Việt Nam Đầu tư trực tiếp từ Hàn Quốc vào Việt Nam không ngừng gia tăng, đóng góp tích cực vào quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Các doanh nghiệp Hàn Quốc đã bắt đầu đầu tư vào Việt Nam từ năm 1988, và đến năm 1991, đã có sáu dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 45,4 triệu USD.

Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, với tổng vốn đầu tư lên tới 140 triệu USD cho chín dự án trong năm đầu tiên Đến năm 1995, Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai tại Việt Nam với 656,8 triệu USD, và năm 1996 được ghi nhận là năm kỷ lục với 802,5 triệu USD Tuy nhiên, từ năm 1997, đầu tư giảm do khủng hoảng tài chính châu Á, ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, trong đó có Hàn Quốc Sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký kết vào tháng 7 năm 2000, đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam đã tăng trở lại, đạt 3,152 tỷ USD vào cuối năm 2000 Từ năm 2002, Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hàng đầu của Hàn Quốc trong khu vực ASEAN, với tổng vốn đầu tư đạt 4,37 tỷ USD vào năm 2004, tạo ra khoảng 300.000 việc làm cho lao động Việt Nam Đến năm 2007, Hàn Quốc đứng đầu trong số các quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký lên tới 11,5 tỷ USD.

Việc gia nhập WTO và thực thi hiệp định thương mại tự do giữa Hàn Quốc và ASEAN đã chứng minh sự thành công của các doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam, đồng thời phản ánh nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam đang tích cực hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, và vai trò của cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc (KOTRA) tại Việt Nam là không thể thiếu trong quá trình này.

Năm 2018, Hàn Quốc dẫn đầu về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng vốn đạt 2,81 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm, tăng 24,5% so với năm 2017 Đến tháng 3/2018, Hàn Quốc đã có 6.760 dự án tại Việt Nam, tổng giá trị hơn 59 tỷ USD Năm 2019, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 38,02 tỷ USD, trong đó Hàn Quốc chiếm 7,92 tỷ USD, tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu Hồng Kông và Singapore lần lượt đứng thứ hai và thứ ba về đầu tư Đặc biệt, đầu tư từ Trung Quốc và Hồng Kông có xu hướng tăng do ảnh hưởng của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Năm 2020, tình hình đầu tư tiếp tục chịu tác động từ dịch Covid-19.

Diễn biến phức tạp của dịch bệnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và hệ thống chính trị, làm chậm tiến độ triển khai các dự án Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ưu tiên hàng đầu việc phòng chống dịch, hy sinh lợi ích kinh tế để bảo đảm sức khỏe của người dân, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế Trong 6 tháng đầu năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Hàn Quốc chiếm 6,5% với 544,8 triệu USD Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế vẫn lạc quan nhận định rằng Việt Nam vẫn có những thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.

Việt Nam đang tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, bao gồm FTA Việt Nam - EU (EVFTA), điều này được kỳ vọng sẽ tạo ra nền tảng vững chắc để thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào quốc gia.

Vị trí địa lý đầu tư tại Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung ở phía Nam, với các lĩnh vực như may mặc, hàng dệt may, túi xách, đồ dùng nhà bếp, giày dép, hàng điện tử và dược phẩm Từ năm 1993, Hàn Quốc đã giữ vị trí thứ ba trong danh sách các quốc gia đầu tư vào Việt Nam, chỉ sau Đài Loan và Hồng Kông, và liên tục nằm trong nhóm quốc gia hàng đầu Đến năm 2010, Hàn Quốc đã tụt xuống vị trí thứ hai, sau Singapore, Nhật Bản và Malaysia Việt Nam nhận định rằng "thành công của doanh nghiệp Hàn Quốc sẽ trở thành thành công của chúng ta" (Trương Tấn Sang).

Tính đến năm 2012, Hàn Quốc đã đầu tư mạnh mẽ vào các nước Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là điểm đến hàng đầu Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, Hàn Quốc đã đầu tư vào nhiều lĩnh vực như sắt, thép, điện tử gia dụng, và ngành may mặc Đặc biệt, từ những năm 2000, Hàn Quốc đã thực hiện các dự án đầu tư quy mô lớn, bao gồm bất động sản và đóng tàu thương mại Tuy nhiên, vào năm 2008, Hàn Quốc bắt đầu giảm đầu tư vào các dự án lớn, đứng thứ 10 trong danh sách đầu tư hàng năm Đến năm 2009, đầu tư của Hàn Quốc lại tăng mạnh vào lĩnh vực điện tử, chiếm vị trí thứ hai hoặc thứ ba trong danh sách các quốc gia đầu tư.

Trong thập niên 90, các dự án đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam chủ yếu là nhỏ và vừa, tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ như dệt may và giày dép Tuy nhiên, từ năm 2000 đến 2009, quy mô vốn dự án của nhà đầu tư Hàn Quốc đã có sự đột phá mạnh mẽ với sự gia tăng đáng kể của các dự án lớn, chủ yếu trong các lĩnh vực công nghiệp, điện tử, thép, xây dựng đô thị mới, văn phòng và khách sạn Nhiều tập đoàn công nghiệp lớn như Posco và Doosan đã tham gia vào quá trình này.

5 Tham khao http://tapchitaichinh.vn/

Kumho, GS E&G, LG…cùng nhiều doanh nghiệp hàng đầu trongcác lĩnh vực công nghệ thông tin, năng lượng, dịch vụ, thương mại và tài chính

Gần đây, bên cạnh nhiều dự án đầu tư trên 100 triệu USD, đã xuất hiện những dự án siêu lớn với tổng vốn lên đến hàng tỉ USD, điều này chưa từng xảy ra trước đây.

- Dự án nhà máy sản xuất gang thép mà tập đoàn Posco đầu tƣ với vốn đăng kí 1,126 tỉ USD

Dự án Trung tâm Văn hóa - Thương mại Giảng Võ và khu triển lãm Mễ Trì tại Hà Nội, với tổng vốn đầu tư 2,5 tỷ USD, do tập đoàn Kumho Asiana thực hiện Bên cạnh đó, tập đoàn này cũng đang thúc đẩy đầu tư vào một số dự án lớn khác như xây dựng cảng biển Vũng Tàu và đường cao tốc Thủ Đức - Nhơn Trạch.

- Dự án xây dựng tổ hợp văn phòng khách sạn Landmark Tower với tổng số vốn 1 tỉ USD do tập đoàn Keangnam đầu tƣ

Dự án Hà Nội Plaza bao gồm cụm tháp đôi khách sạn 5 sao và khu văn phòng cao cấp, được đầu tư bởi tập đoàn Charmvit với tổng vốn lên tới 500 triệu USD.

Tại diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Hàn Quốc diễn ra vào ngày 1/3/2008 tại Seoul, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã ghi nhận những thành tựu quan trọng trong hợp tác kinh tế với Hàn Quốc Ông nhấn mạnh rằng Việt Nam có nền chính trị ổn định và kinh tế tăng trưởng cao, cùng với lực lượng lao động trẻ và dồi dào Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, vì vậy rất cần sự hỗ trợ từ Hàn Quốc về đầu tư cơ sở hạ tầng, vốn, công nghệ cao và đào tạo nguồn nhân lực Tại diễn đàn, 70 doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết nhiều hợp đồng kinh tế có giá trị lớn với các đối tác Hàn Quốc Các dự án FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam đã tạo ra hơn 500.000 việc làm, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

41 quan trọng trong mối quan hệ 25 năm giữa Việt Nam và Hàn Quốc (22/12/1992 -

Hàn Quốc luôn đứng trong TOP 3 nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đạt đỉnh vào các năm 1996, 2001 và 2007, đánh dấu những bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Hiện nay, Hàn Quốc là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam về cả lượng vốn và chất lượng đầu tư, với nhiều tập đoàn lớn như Samsung, LG, Kumho, Doosan, Hyundai, GS, Posco trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghiệp nặng và đóng tàu, cùng với CJ, Lotte, Shinsegae trong lĩnh vực phân phối và logistics Những doanh nghiệp này, cùng với hàng ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc, đã góp phần thay đổi diện mạo nền kinh tế Việt Nam Năm 2019, trong chuyến công tác tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN – Hàn Quốc, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh và Bộ trưởng Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc đã đồng chủ trì phiên họp cấp Bộ trưởng của Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác thương mại, công nghiệp và năng lượng Việt Nam - Hàn Quốc.

Năm 2019, tại Busan, hai bên đã thảo luận và thống nhất các biện pháp quan trọng để phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư Trong khuôn khổ các kỳ họp, hai Bộ trưởng đã chứng kiến lễ ký Biên bản ghi nhớ về Dự án “Nâng cao năng lực và phát triển chung trong ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam” giữa Bộ Công Thương và các đối tác Hàn Quốc, bao gồm Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng, Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Tập đoàn Lotte Ông Trần Duy Đông, Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, đại diện Bộ Công Thương, đã ký kết Bản ghi nhớ này Cùng năm, tại "Triển lãm Quốc tế máy móc thiết bị công nghiệp và Sản phẩm Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam," các bên đã tiếp tục thúc đẩy hợp tác.

Viện trợ phát triển chính thức (ODA)

Vốn ODA của Hàn Quốc vào Việt Nam được cung cấp dưới hai hình thức: viện trợ không hoàn lại và cấp tín dụng ưu đãi Từ năm 1991 đến 2008, Việt Nam đã nhận tổng ODA lên tới 745 triệu USD, trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm 79,4 triệu USD Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu viện trợ không hoàn trả cho Việt Nam thông qua Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) từ năm 1991 Các dự án ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam được khởi động khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam, quốc gia nhận viện trợ nhiều nhất từ Hàn Quốc Từ giữa những năm 1990, Hàn Quốc luôn xếp Việt Nam ở vị trí hàng đầu trong số các nước nhận viện trợ Đến năm 2004, chính phủ Hàn Quốc đã cung cấp 50.247.260 USD viện trợ không hoàn lại, tập trung vào các lĩnh vực y tế, giáo dục, năng lượng, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo ngắn hạn Trong giai đoạn 1991-2004, khoảng 1624 cán bộ Việt Nam đã được mời sang Hàn Quốc học tập.

Tính đến năm 2006, Hàn Quốc đã cử 157 tình nguyện viên sang Việt Nam để hỗ trợ trong lĩnh vực dạy tiếng Hàn, Taekwondo và y tế, cùng với 37 chuyên gia trao đổi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ Hàn Quốc đã thực hiện 28 dự án quan trọng về giáo dục, y tế và dạy nghề, bao gồm việc xây dựng 40 trường học và 5 bệnh viện tại miền Trung, cũng như các trường dạy nghề tại Hà Nội, Vinh và Đà Nẵng Tổng số vốn viện trợ không hoàn lại mà chính phủ Hàn Quốc dành cho Việt Nam lên tới 48,5 triệu USD, cùng với nguồn vốn ưu đãi từ quỹ viện trợ phát triển (EDCF).

Hàn Quốc đã cam kết 148 triệu USD cho các dự án hạ tầng kinh tế-xã hội, bao gồm xây dựng trường học và bệnh viện, nhằm xóa đói giảm nghèo Năm 2006, chính phủ Hàn Quốc quyết định tăng mức viện trợ lên 100 triệu USD/năm, với 9,5 triệu USD viện trợ không hoàn lại mỗi năm trong giai đoạn 2006-2009 Vào ngày 23/8/2007, đại diện Bộ Tài chính và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam đã ký 3 hiệp định vay vốn EDCF từ Hàn Quốc.

Từ năm 2008, Hàn Quốc đã cấp vốn EDCF cho Việt Nam thực hiện 11 dự án với tổng giá trị 298,43 triệu USD, trong đó có dự án mở rộng Nhà máy nước Thiện Tân giai đoạn 2 và xây dựng Bệnh viện đa khoa tỉnh Thừa Thiên Huế Hàn Quốc cũng đã cam kết cung cấp 188 triệu USD tín dụng ưu đãi và 80 triệu USD viện trợ không hoàn lại Đến năm 2009, Hàn Quốc đứng thứ hai về viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam với 682 triệu USD và cam kết 1 tỷ USD cho giai đoạn 2008-2011 Ngày 8/11/2017, hai bên đã ký kết Hiệp định khung về tín dụng ODA trị giá 1,5 tỷ USD cho giai đoạn 2016-2020.

Năm 2020, nguồn tài chính sẽ được sử dụng để hỗ trợ các dự án do chính phủ hai nước lựa chọn Hiệp định này được coi là bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác phát triển giữa hai nước, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.

Năm 2018, tỉnh Quảng Trị và KOICA đã triển khai chương trình "Hạnh phúc Quảng Trị" giai đoạn 2015-2018 tại bảy xã, dựa trên mô hình thành công của chương trình "Làng mới" ở Hàn Quốc Với tổng vốn đầu tư hơn 11,6 triệu USD, trong đó KOICA viện trợ không hoàn lại hơn 9,6 triệu USD, chương trình đã đạt được mục tiêu nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo Năm 2019, Hàn Quốc tiếp tục cam kết viện trợ cho các dự án phát triển tại tỉnh này.

Vào ngày 28/3/2019, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã tổ chức Lễ khởi động dự án "Nâng cấp và phát triển Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư" với khoản tài trợ không hoàn lại 5,5 triệu USD.

Vào năm 2020, văn phòng KOICA Việt Nam đã hợp tác với câu lạc bộ học viên KOICA để trao tặng gói hỗ trợ khẩn trị trị giá 10,530 USD cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Gói hỗ trợ này nhằm giúp đỡ những người thuộc Dự án Ngôi nhà bình yên Peace House Shelters, xóm chạy thận, nhóm phụ nữ và người khuyết tật có thu nhập thấp, trong bối cảnh kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19 Ngoài ra, KOICA còn hỗ trợ nhóm phụ nữ lao động nhập cư và những người thất nghiệp do dịch bệnh.

Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng, tạo nên sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế Vốn ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam, thông qua các dự án khác nhau, đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam Điều này không chỉ nâng cao quan hệ hai nước mà còn gắn kết lợi ích trong hợp tác lâu bền giữa Việt Nam và Hàn Quốc.

Trong các lĩnh vực kinh tế khác

2.4.1 Trong hợp tác xuất khẩu lao động

Hàn Quốc đã nổi lên như một thị trường xuất khẩu lao động đầy tiềm năng cho Việt Nam Xuất khẩu lao động từ Việt Nam sang Hàn Quốc đang trở thành một xu hướng quan trọng, mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động Việt.

7 Tham khảo https://thoidai.com.vn/

Chương trình hợp tác lao động giữa Việt Nam và Hàn Quốc không chỉ tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho gia đình lao động mà còn góp phần đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, phục vụ cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước Hàn Quốc cam kết tiếp nhận thêm lao động Việt Nam với môi trường làm việc ổn định và mức lương cao Hiện tại, Việt Nam là quốc gia xuất khẩu lao động lớn thứ ba sang Hàn Quốc, chỉ sau Malaysia và Đài Loan, với tổng số 82.000 lượt người lao động được đưa sang làm việc trong hơn 10 năm hợp tác từ năm 2008.

Ngoài việc giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập của người lao động ở Hàn Quốc đã tăng lên đáng kể, đạt khoảng 1.800 USD Những lao động làm việc ở nước ngoài đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế Việt Nam thông qua lượng kiều hối gửi về nước Sau thời gian làm việc ở nước ngoài, nhiều lao động tích lũy được kinh nghiệm, tay nghề và khả năng ngoại ngữ, giúp họ tìm được công việc với mức thu nhập cao khi trở về quê hương.

Tính đến năm 2009, có khoảng 54.000 người Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 2010, Việt Nam đã đưa được 85.546 lao động ra nước ngoài, trong đó có 8.628 người sang Hàn Quốc Đến cuối năm 2012, theo báo cáo của Cục Quản lý lao động ngoài nước, tổng số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đạt 80.320 người, với hơn 9.200 người tại Hàn Quốc.

Tính đến cuối năm 2017, cộng đồng người Việt tại Hàn Quốc đã đạt 162.137 người, trong đó có 48.537 lao động, 41.936 công dân kết hôn di trú và 21.823 du học sinh Năm 2014, gần 7.000 lao động Việt Nam đã xuất khẩu sang Hàn Quốc Đồng thời, Hàn Quốc cũng có khoảng 150.000 kiều dân tại Việt Nam, chủ yếu là doanh nhân.

Theo Cục Xuất nhập cảnh, năm 2018, Việt Nam đã có hơn 50.000 lao động xuất cảnh sang nước ngoài làm việc, tăng gần 9% so với cùng kỳ năm trước.

Năm 2017, Hàn Quốc có 2.708 lao động Việt Nam, tăng 17,68% so với năm trước Đến năm 2019, tổng số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đạt 147.387 người, trong đó có 49.324 lao động nữ, vượt 22,8% kế hoạch năm 2019 (120.000 lao động) và đạt 103,2% so với cả năm.

Năm 2018, tổng số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đạt 142.860 người, trong đó Nhật Bản tiếp nhận 80.002 lao động (bao gồm 28.948 lao động nữ), Đài Loan có 54.480 lao động (18.287 lao động nữ), và Hàn Quốc thu hút 7.215 lao động.

Tại Rumania, có 1.400 lao động, trong đó có 41 lao động nữ; Ả Rập Xê Út tiếp nhận 1.357 lao động, trong đó 1.062 lao động nữ; Malaysia có 454 lao động, với 138 lao động nữ; Macao ghi nhận 367 lao động, bao gồm 224 lao động nữ; và Algeria có 359 lao động nam cùng với các thị trường khác.

8 Tham khảo http://www.vinacomvietnam.vn/

Bảng 2.5: Số lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2019

Nguồn:http://kinhtedothi.vn/bieu-do-nam-2019-hon-147-nghin-lao-dong-viet- nam-di-lam-viec-o-nuoc-ngoai-361608.html

2.4.2 Trong hợp tác du lịch

Du lịch Việt Nam-Hàn Quốc đã được chú trọng phát triển, với sự hợp tác trong lĩnh vực này ngày càng mạnh mẽ Hiệp định hợp tác du lịch giữa hai nước được ký kết vào tháng 8/2002, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ du lịch Trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã trở thành một trong những thị trường cung cấp khách du lịch lớn nhất cho Việt Nam, với lượng khách tăng trung bình 30% mỗi năm Hiện tại, Hàn Quốc đứng thứ 3 trong số các thị trường du lịch quốc tế hàng đầu đến Việt Nam, với 75.000 lượt khách vào năm 2001 và 200.000 lượt vào năm 2002 Việt Nam cũng đã miễn thị thực cho công dân Hàn Quốc trong thời gian gần đây để thúc đẩy du lịch.

Kể từ ngày 1/7/2004, công dân Hàn Quốc có thể lưu trú tại Việt Nam dưới 15 ngày mà không cần visa, dẫn đến sự gia tăng đột biến lượng du khách Hàn Quốc đến Việt Nam, từ 186.543 lượt năm 2005 lên 450.000 lượt năm 2007 Đến năm 2012, con số này đã đạt 756.000 lượt Đồng thời, số lượng du khách Việt Nam đến Hàn Quốc cũng tăng đều, với khoảng 26.000 lượt mỗi năm, tăng trên 22% Việt Nam và chính quyền Seoul đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác phát triển thị trường du lịch, nhằm thúc đẩy sự chia sẻ thông tin và hỗ trợ lẫn nhau Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017 có 2.415.245 du khách Hàn Quốc đến Việt Nam, tăng 156,4% so với năm trước, và năm 2018 con số này đạt 3,16 triệu lượt Đến tháng 9-2019, lượng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam đã vượt 3,1 triệu lượt, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2018, trở thành thị trường du lịch quan trọng thứ hai của Việt Nam sau Trung Quốc Tuy nhiên, trong nửa đầu năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lượng du khách Hàn Quốc giảm mạnh, mặc dù hiện tại dịch đã được kiểm soát tại khu vực châu Á.

Việt Nam và Hàn Quốc được đánh giá cao về thành tích chống dịch, mở ra cơ hội phục hồi tích cực Sau thành công của “Những ngày Hàn Quốc tại Hà Nội năm 2017” và “Lễ hội Văn hóa và Du lịch Việt Nam – Hàn Quốc năm 2019” tại TPHCM, KTO dự kiến tổ chức “Những ngày Hàn Quốc tại Hà Nội năm 2020” vào tháng 11 tới Sự kiện sẽ quy tụ các cơ quan du lịch hai nước, giới thiệu điểm đến và tour du lịch mới, cùng nhiều hoạt động trải nghiệm văn hóa phong phú.

TRIỂN VỌNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC

Ngày đăng: 06/10/2021, 15:09

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
(1). Lee Han Woo - Bùi Thế Cường (2015), Việt Nam – Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam – Hàn Quốc: Một phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển
Tác giả: Lee Han Woo - Bùi Thế Cường
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Năm: 2015
(2). Nguyễn Hoàng Giáp (chủ biên), Nguyễn Thị Quế-Mai Hoài Anh-Phan Duy Quang-Nguyễn Thị Minh Thảo, Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc.NXB chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc
Nhà XB: NXB chính trị quốc gia
(3). Nguyễn Hoàng Giáp,Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Văn Dương (2011), Quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc từ năm 1992 đến nay và triển vọng phát triển đến năm 2020, NXB chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc từ năm 1992 đến nay và triển vọng phát triển đến năm 2020
Tác giả: Nguyễn Hoàng Giáp,Nguyễn Thị Quế, Nguyễn Văn Dương
Nhà XB: NXB chính trị quốc gia
Năm: 2011
(4). Nguyễn Văn Lan (cb, 2019), Việt Nam – Hàn Quốc: 25 năm hợp tác phát triển (1992-2017) và triển vọng đến năm 2022, NXB chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam – Hàn Quốc: 25 năm hợp tác phát triển (1992-2017) và triển vọng đến năm 2022
Nhà XB: NXB chính trị quốc gia
(7). Nguyễn Anh Thái (2008), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử thế giới hiện đại
Tác giả: Nguyễn Anh Thái
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2008
(9). Bộ công thương: http://www.vinanet.com.vn (10). Bộ kế hoạch và đầu tƣ http://www.mpi.gov.vn/ Link
(12). Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư http://www.fia.mpi.gov.vn (13). Tổng cục thống kê Việt Nam:http:// WWW.gso.gov.vn Link
(8). Cơ quan Thông tin Hải Ngoại Hàn Quốc, Hàn Quốc, Đất nước - con người.Tài liệu từ các trang web Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc (1983-1992) - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc (1983-1992) (Trang 30)
THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NA M– HÀN QUỐC (1992 – 2020)  - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
1992 – 2020) (Trang 30)
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc giai đoạn 1993- 1993-2008  - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
Bảng 2.2 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc giai đoạn 1993- 1993-2008 (Trang 32)
Đơn vị: Triệu USD, % - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
n vị: Triệu USD, % (Trang 32)
Bảng 2. 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam–Hàn Quốc giai đoạn 2013 – 2018 - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
Bảng 2. 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam–Hàn Quốc giai đoạn 2013 – 2018 (Trang 35)
Bảng 2.4: Hàng hóa xuất khẩu sang thị trƣờng Hàn Quốc 6T/2020 (Tính toán từ số liệu công bố ngày 13/7/2020 của TCHQ)  - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
Bảng 2.4 Hàng hóa xuất khẩu sang thị trƣờng Hàn Quốc 6T/2020 (Tính toán từ số liệu công bố ngày 13/7/2020 của TCHQ) (Trang 37)
Bảng 2.5: Số lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài năm 2019. - Hợp tác kinh tế việt nam   hàn quốc (1992   2020)
Bảng 2.5 Số lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài năm 2019 (Trang 53)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w