Ngân sách nhà nước
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" hiện nay đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội của tất cả các quốc gia Tuy nhiên, có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân sách nhà nước, phản ánh sự đa dạng trong cách hiểu và áp dụng khái niệm này.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, ngân sách nhà nước là một tài liệu tài chính quan trọng, phản ánh các khoản thu và chi của Chính phủ, được lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đƣa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ngân sách nhà nước
The các nhà kinh tế Nga: “Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia”
Các nhà khoa học Pháp định nghĩa ngân sách nhà nước là tài liệu kế toán tổng hợp, trình bày chi tiết các khoản thu và chi phí của nhà nước trong một năm.
David Beeg, giáo sư kinh tế học tại Đại học Tổng hợp London, cùng với Stanley Fisher và Rudiger Dornbusch, hai giáo sư tại Học viện Công nghệ Massachusetts, định nghĩa ngân sách là bản tường trình về kế hoạch chi tiêu và tài trợ của cá nhân, công ty hoặc chính phủ Ngân sách chính phủ cụ thể mô tả hàng hóa và dịch vụ mà chính phủ dự kiến mua trong năm tới, các khoản thanh toán và chuyển nhượng mà chính phủ sẽ thực hiện, cũng như cách thức chính phủ sẽ tài trợ cho những khoản chi tiêu đó.
Luật Ngân sách nhà nước, được Quốc hội Việt Nam khóa XI thông qua vào ngày 16/12/2002, định nghĩa ngân sách nhà nước là tổng hợp các khoản thu, chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước (theo Điều 1, chương 1).
Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi do Chính phủ lập, trình Quốc hội phê duyệt và giao cho Chính phủ thực hiện.
Ngân sách nhà nước là hệ thống tài chính bao gồm các nguồn thu và khoản chi cụ thể, được định lượng rõ ràng Tất cả nguồn thu đều được nộp vào quỹ Ngân sách nhà nước, trong khi các khoản chi được xuất ra từ quỹ này Qua đó, ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và người nộp thuế, cũng như giữa Nhà nước và các cơ quan, đơn vị thụ hưởng quỹ Điều này cho thấy ngân sách nhà nước không chỉ là công cụ quản lý tài chính mà còn là biểu hiện của quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng theo quy định của pháp luật.
Thâm hụt ngân sách nhà nước
Thâm hụt ngân sách, hay bội chi ngân sách nhà nước, xảy ra khi các khoản chi của ngân sách lớn hơn các khoản thu không hoàn trả của nhà nước Phần chênh lệch giữa chi và thu này chính là thâm hụt ngân sách, và để đo lường mức độ thâm hụt, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu cụ thể.
- Mức thâm hụt ngân sách nhà nước = Thu trong cân đối NSNN – (Chi thường xuyên + Chi đầu tƣ phát triển)
- Tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước
Tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước thường không vượt quá 5% GDP tại Việt Nam và 3% GDP trong khu vực đồng tiền chung châu Âu Tuy nhiên, hàng năm, Quốc hội sẽ xem xét và phê duyệt chỉ tiêu thâm hụt ngân sách cụ thể dựa trên thực trạng kinh tế.
VD: Thâm hụt NSNN năm 2009 là 155 900 tỷ đồng, tỉ lệ thâm hụt so với GDP là 6.9 % (theo cách tính của Việt Nam)
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về cân đối NSNN hằng năm nhƣ sau:
A Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí) D Chi thường xuyên
B Thu về vốn (bán tài sản nhà nước) E Chi đầu tư
– Lấy từ nguồn dự trữ
Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc)
F Cho vay thuần (= cho vay mới – thu nợ gốc)
Trong đó: A + B + C = D + E + F Công thức tính thâm hụt NSNN của một năm sẽ nhƣ sau:
Thâm hụt NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng ngân sách nhà nước (NSNN) không cần phải cân bằng hàng tháng hay hàng năm, mà cần quản lý nguồn thu và chi để tránh thâm hụt lớn và kéo dài Tuy nhiên, nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, vẫn duy trì chính sách tài khóa thận trọng, yêu cầu chi ngân sách phải nằm trong giới hạn nguồn thu để ngăn ngừa tình trạng thâm hụt.
Phân loại thâm hụt NSNN
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ
Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được hình thành do các chính sách điều chỉnh của chính phủ, bao gồm quy định về thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội và mức chi tiêu cho các lĩnh vực như giáo dục và quốc phòng.
Thâm hụt chu kỳ là những khoản thâm hụt phát sinh do tình trạng của chu kỳ kinh tế, liên quan đến sự biến động của sản lượng và thu nhập quốc dân Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, dẫn đến việc giảm thu ngân sách từ thuế và đồng thời tăng chi ngân sách cho các khoản trợ cấp thất nghiệp.
Giá trị thâm hụt ngân sách thực có được xác định bằng cách liệt kê các khoản thu và chi trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một quý hoặc một năm, để tính toán thâm hụt bằng tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
Thâm hụt ngân sách cơ cấu là chỉ số quan trọng phản ánh tình hình tài chính của chính phủ, tính toán thu, chi và thâm hụt trong trường hợp nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng Việc hiểu rõ thâm hụt này giúp đánh giá khả năng bền vững tài chính và lập kế hoạch ngân sách hiệu quả cho tương lai.
Thâm hụt ngân sách chu kỳ là hiện tượng thâm hụt ngân sách xảy ra một cách tự nhiên do sự biến động theo chu kỳ của nền kinh tế thị trường Nó được xác định bằng cách tính toán sự chênh lệch giữa ngân sách thực tế và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ là cần thiết để hiểu sự khác biệt giữa chính sách tài chính ổn định tùy biến và ổn định tự động Sự phân loại này có vai trò quan trọng trong việc đánh giá tác động thực sự của các chính sách tài chính, đặc biệt là khi thực hiện chính sách mở rộng hoặc thắt chặt, từ đó giúp chính phủ điều chỉnh các biện pháp phù hợp trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
II – NGUYÊN NHÂN GÂY THÂM HỤT NGÂN SÁCH:
Trong lịch sử tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và kinh tế chậm phát triển Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau, ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô của nền kinh tế Các nguyên nhân chính gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bao gồm nhiều yếu tố khác nhau.
Nguyên nhân khách quan như diễn biến chu kỳ kinh doanh, thiên tai, chiến tranh và bất ổn chính trị có thể gây ra giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước Những biến cố này không lường trước được, dẫn đến nhu cầu tăng cao để khắc phục hậu quả và phục hồi tình hình, từ đó gây ra thâm hụt ngân sách.
Thứ hai, là những nguyên nhân mang tính chủ quan, thuộc về quá trình quản lý và điều hành ngân sách nhà nước.
Nhóm nguyên nhân khách quan
Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, thu ngân sách nhà nước giảm sút, trong khi nhu cầu chi tiêu gia tăng để đối phó với các thách thức mới về kinh tế và xã hội, dẫn đến mức bội chi ngân sách nhà nước tăng cao.
Trong giai đoạn kinh tế phát triển, ngân sách nhà nước sẽ ghi nhận sự gia tăng thu nhập, trong khi chi tiêu không cần phải tăng tương ứng Điều này dẫn đến việc giảm thiểu bội chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) do chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ Ngoài ra, bội chi cũng có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên và các yếu tố bất khả kháng.
Xã hội luôn đối mặt với rủi ro thiên tai, bệnh dịch và các nguy cơ do con người gây ra như chiến tranh và khủng hoảng dân số Mặc dù các quốc gia đã lập dự toán ngân sách với biện pháp dự phòng, nhưng đôi khi rủi ro vượt quá dự đoán, buộc nhà nước phải tăng chi tiêu và dẫn đến thâm hụt ngân sách ngoài mong muốn để xử lý các tình huống khẩn cấp, nhằm ổn định hoạt động kinh tế xã hội.
Nhóm nguyên nhân chủ quan
a Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi
Khi nhà nước thực hiện chính sách đầu tư và kích thích tiêu dùng, mức bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) sẽ gia tăng Ngược lại, nếu nhà nước áp dụng chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng, bội chi NSNN sẽ giảm Tình trạng bội chi do ảnh hưởng của chính sách cơ cấu thu chi được gọi là bội chi cơ cấu Ngoài ra, việc điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý cũng góp phần vào tình trạng này.
Thuế là nguồn thu chính và bền vững cho ngân sách nhà nước, bên cạnh các nguồn thu khác như tài nguyên và doanh nghiệp nhà nước Tuy nhiên, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập và quản lý lỏng lẻo đã tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhiều doanh nghiệp, như Công ty Cocacola Việt Nam và Tập đoàn Metro, đã lợi dụng sự khác biệt về thuế suất giữa các quốc gia để chuyển giá và báo lỗ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Việc giãn, giảm và miễn thuế không chỉ giúp doanh nghiệp có thêm nguồn vốn để duy trì và mở rộng sản xuất, mà còn có thể ảnh hưởng đến các khoản chi ngân sách khác, dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Đầu tƣ công kém hiệu quả
Kể từ khi mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài, nhằm thúc đẩy phát triển hạ tầng và các dự án quan trọng quốc gia, phục vụ cho lợi ích phát triển của đất nước.
Nền hành chính công và dịch vụ công hiện đang gặp nhiều vấn đề về hiệu quả, thể hiện qua tình trạng quan liêu, bộ máy cồng kềnh và thủ tục rườm rà Sự trì trệ trong tư duy cùng với quản lý lỏng lẻo đã dẫn đến thất thoát nguồn thu và lãng phí trong chi tiêu Những yếu kém này càng làm gia tăng tình trạng thâm hụt ngân sách.
Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ đang thực hiện các biện pháp kích cầu kinh tế thông qua ba nguồn tài trợ chính: phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước Gói giải pháp này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng mà còn góp phần tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến mức thâm hụt ngân sách dự kiến tăng cao, đạt khoảng 8% - 12% GDP.
Mối quan hệ giữa chủ đầu tư phát triển và chi thường xuyên chưa được rõ ràng, dẫn đến căng thẳng về ngân sách và gia tăng áp lực bội chi ngân sách, đặc biệt là ở các địa phương.
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu tương ứng với nhiệm vụ chi cụ thể thông qua cơ chế phân cấp ngân sách và bổ sung từ ngân sách cấp trên Khi các địa phương vay vốn đầu tư, cần đảm bảo nguồn chi thường xuyên để vận hành và bảo trì các công trình sau khi hoàn thành, điều này có thể làm giảm hiệu quả đầu tư Để thực hiện nhiệm vụ, các địa phương thường phải vay mượn hoặc yêu cầu bổ sung ngân sách từ cấp trên, dẫn đến áp lực bội chi cho ngân sách nhà nước.
Quy mô chỉ tiêu của Chính phủ quá lớn
Tăng chi tiêu của Chính phủ có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính Sự thiếu hiệu quả trong chi tiêu công và cơ chế giám sát yếu kém có thể dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng Nhiều nhà kinh tế đồng thuận rằng khi chi tiêu Chính phủ vượt quá ngưỡng nhất định, nó sẽ gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế, dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả, thâm hụt ngân sách và gián tiếp thúc đẩy lạm phát.
III – TÁC ĐỘNG CỦA THÂM HỤT NGÂN SÁCH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Thâm hụt ngân sách nhà nước ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua lãi suất thị trường, tiết kiệm quốc gia, đầu tư và cán cân thương mại Các nhà kinh tế cho rằng mức độ tác động này là yếu tố quyết định trong việc đánh giá ảnh hưởng tổng thể của thâm hụt ngân sách.
Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách nhà nước, hầu hết các nhà kinh tế đều đồng thuận rằng thâm hụt ngân sách kéo dài với tỷ lệ cao làm tăng lãi suất thị trường, cản trở đầu tư, thúc đẩy nhập siêu, và gây khó khăn cho việc tạo việc làm cũng như đời sống của người lao động.
Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đến yếu tố lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng mức giá trung bình theo thời gian, thường xảy ra khi ngân sách thâm hụt lớn, dẫn đến việc chính phủ in thêm tiền để trang trải Sự gia tăng lượng tiền danh nghĩa là một nguyên nhân chính gây ra lạm phát, và khi giá cả tăng, thâm hụt ngân sách lại phát sinh, yêu cầu in thêm tiền, tạo ra một vòng luẩn quẩn khiến lạm phát tiếp tục leo thang Hậu quả của lạm phát rất nghiêm trọng, bao gồm việc phân phối lại thu nhập và tài sản một cách ngẫu nhiên, gây biến dạng trong cơ cấu sản xuất và lao động của nền kinh tế Do đó, thâm hụt ngân sách nhà nước gián tiếp gây ra những tác động tiêu cực, làm tổn hại đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động ngược đến thâm hụt ngân sách nhà nước Lạm phát phân phối lại của cải một cách ngẫu nhiên, giúp chính phủ dễ dàng hơn trong một chừng mực nhất định.
Thứ nhất, Chính phủ có thêm một nguồn thu nhập đó là thuế lạm phát
Thứ hai, Chính phủ có thể đƣợc lợi nếu lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng ít hơn bản thân của lạm phát
Và nhƣ vậy bản thân mức thâm hụt NSNN có thể giảm
Trong những năm gần đây, một số chính sách nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đã ảnh hưởng đến lạm phát tại Việt Nam, chủ yếu liên quan đến nợ công, bao gồm cả vay nợ nước ngoài và vay nợ trong nước.
Khi Chính phủ vay nợ nước ngoài, giai đoạn đầu sẽ có một lượng lớn ngoại tệ đổ vào nền kinh tế, giúp giảm áp lực về cân đối ngoại tệ Tuy nhiên, trong trung và dài hạn, việc này có thể dẫn đến những hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế.
Chính phủ cần cân đối nguồn ngoại tệ để trả nợ gốc và lãi, điều này sẽ làm tăng nhu cầu ngoại tệ và đẩy tỷ giá lên cao Hệ quả là giá trị đồng nội tệ giảm, khiến chi phí nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên liệu tăng, từ đó làm gia tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát.
Chính phủ vay nợ trong nước qua phát hành trái phiếu, ban đầu chỉ có các định chế tài chính và doanh nghiệp mua, khiến cung tiền không tăng và lạm phát thấp Tuy nhiên, khi trái phiếu chủ yếu được bán cho các ngân hàng thương mại lớn, việc các ngân hàng này cầm cố trái phiếu tại ngân hàng trung ương để lấy tiền mặt sẽ làm tăng cung tiền và dẫn đến lạm phát Hơn nữa, việc Chính phủ vay nợ trong nước cũng làm tăng lãi suất, giảm đầu tư và sản lượng Nếu không có biện pháp nâng cao năng suất lao động, lượng cung hàng hóa sẽ giảm, kéo theo giá cả chung tăng.
Việc vay nợ để bù đắp thâm hụt tài chính có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát trong tương lai, đặc biệt khi số nợ gia tăng mà khả năng chi trả lại hạn chế Điều này dễ dẫn đến tình trạng phải in tiền để trả nợ, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho nền kinh tế.
Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đến lãi suất và đầu tư
Thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến việc tiết kiệm của dân chúng tăng lên tương ứng, theo "Thuyết tương đương" của Ricardo, nhưng thực tế cho thấy khi ngân sách nhà nước thâm hụt, chi tiêu tăng và thu nhập giảm, GNP có thể tăng lên nhưng nhu cầu tiền tệ cũng tăng theo Với cung tiền cố định, lãi suất sẽ tăng, gây cản trở đầu tư và làm giảm một phần GNP gia tăng Hệ quả là thâm hụt ngân sách cao có thể dẫn đến thoái lui đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Khi không có ràng buộc hành chính, lãi suất trên thị trường vốn vay được xác định bởi cung và cầu Thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm của Chính phủ, từ đó ảnh hưởng đến tiết kiệm quốc gia và giảm cung vốn vay, dẫn đến việc tăng lãi suất Sự gia tăng lãi suất này sẽ gây ra sự suy giảm đầu tư từ khu vực tư nhân, tạo ra hiệu ứng lấn át đầu tư bởi chi tiêu công.
Trái phiếu Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách Trong những năm gần đây, sự thâm hụt ngân sách nhà nước liên tục xảy ra, đồng thời có sự thay đổi trong cơ cấu nợ.
Việt Nam đã chuyển từ vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước, với nợ nước ngoài hiện chiếm 58% và có xu hướng giảm, trong khi nợ trong nước chiếm 42% và có xu hướng tăng Sự chuyển đổi này đã làm tăng nhanh chóng lượng vốn huy động trên thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước, dẫn đến việc lãi suất tăng cao và giảm khả năng tiếp cận vốn vay với giá thấp cho khu vực tư nhân.
Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đến cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái
a Thâm hụt NSNN tăng làm tăng thâm hụt cán cân thương mại
- Thâm hụt ngân sách và tác động của đầu tư trong nước:
Trong nền kinh tế, tiết kiệm quốc dân được xác định bởi tổng đầu tư và thặng dư cán cân thương mại Khi ngân sách nhà nước thâm hụt, điều này sẽ dẫn đến giảm tiết kiệm quốc dân, ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư trong nước và làm giảm xuất khẩu ròng.
Khi ngân sách bị thâm hụt, chi tiêu của Chính phủ tăng lên, dẫn đến sản lượng trong nước không đủ bù đắp, buộc Chính phủ phải gia tăng nhập khẩu và làm giảm xuất khẩu ròng.
Khi ngân sách thâm hụt, tiết kiệm giảm dẫn đến giảm vốn đầu tư và lãi suất tăng cao, làm hạn chế đầu tư trong nước Sự sụt giảm hàng hóa sản xuất trong nước không đủ để bù đắp nhu cầu, dẫn đến giảm xuất khẩu và gia tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Kết quả là thâm hụt cán cân thương mại gia tăng.
Thâm hụt ngân sách có ảnh hưởng lớn đến cán cân thương mại của Việt Nam, thể hiện qua việc nhập khẩu vượt xuất khẩu, dẫn đến việc phải trả ngoại tệ cho nước ngoài Số ngoại tệ này có thể được sử dụng bởi người nước ngoài để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu Chính phủ hoặc bất động sản Điều này khiến Việt Nam trở thành nước nhập khẩu ròng hàng hóa và dịch vụ, đồng thời xuất khẩu ròng tài sản, làm tăng lượng tài sản trong nước do người nước ngoài nắm giữ.
Các hoạt động xuất nhập hàng hóa được đánh giá không chỉ qua số lượng mà còn qua tỷ lệ trao đổi, tức là tỷ số giữa giá hàng xuất khẩu và giá hàng nhập khẩu của một quốc gia Nếu giá xuất khẩu tăng tương đối so với hàng nhập khẩu, cán cân thương mại sẽ cải thiện tích cực, ngược lại, nếu không có sự thay đổi về khối lượng hàng hóa Tình trạng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến việc lãi suất thị trường tăng, làm tăng giá trị đồng nội tệ và ảnh hưởng đến giá hàng hóa trong nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) có thể làm giảm lượng hàng xuất khẩu, dẫn đến việc hàng hóa của các quốc gia khác trở nên rẻ hơn so với hàng nội địa Điều này gây ra tình trạng nhập siêu, khi lượng hàng nhập khẩu vượt quá lượng hàng xuất khẩu, hạn chế việc sử dụng sản phẩm sản xuất trong nước và làm cho sản xuất gặp nhiều khó khăn Tình trạng này ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và cũng có tác động đến tỷ giá hối đoái.
Thâm hụt ngân sách, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng lãi suất nội tệ Điều này dẫn đến việc tăng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ để đầu tư, từ đó làm gia tăng nguồn cung ngoại tệ và nhu cầu nội tệ Kết quả là đồng nội tệ sẽ tăng giá trong khi đồng ngoại tệ giảm giá.
Hiện nay, tác động từ các yếu tố kinh tế chưa đủ để bù đắp áp lực mất giá của đồng nội tệ do thâm hụt thương mại lớn Kết quả là đồng nội tệ vẫn tiếp tục giảm giá so với nhiều ngoại tệ, đặc biệt là USD.
Tác động của thâm hụt ngân sách nhà nước đến tăng trưởng kinh tế quốc gia
Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò thiết yếu trong mọi thời đại và mô hình kinh tế, là công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường Một trong ba khía cạnh chính của NSNN là kích thích tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng thâm hụt NSNN cao và liên tục đang là một thực trạng đáng báo động.
10 năm gần đây làm cho tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hết sức hạn chế
- Thâm hụt NSNN tác động thông qua 2 kênh:
+ Thứ nhất, thâm hụt NSNN ảnh hưởng tới tiết kiệm, đầu tư, do vậy làm giảm năng lực sản xuất trong dài hạn
Thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) tác động tiêu cực đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực, từ đó ảnh hưởng đến sản lượng hiện tại và sự tăng trưởng trong tương lai.
Năm 2016
Theo báo cáo, quyết toán thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2016 đạt 1.407.572 tỷ đồng, tăng 9,2% (tương đương 92.881 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu nhờ vào sự gia tăng thu từ tiền sử dụng đất và cổ tức, lợi nhuận còn lại từ các doanh nghiệp nhà nước.
2016 là 1.574.448 tỷ đồng, tăng 1,7% (21.628 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu tăng chi đầu tƣ phát triển
Theo quyết toán thu chi NSNN năm 2016 đƣợc Quốc hội duyệt, số bội chi cả năm nay ở mức 248.728 tỷ đồng (5.52% GDP)
Theo các chuyên gia kinh tế, mặc dù tỷ lệ bội chi năm 2016 đã giảm so với dự toán và cùng kỳ năm 2015, con số này vẫn còn cao Đặc biệt, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước khu vực công và hành chính chưa được cải thiện rõ rệt Đồng thời, chi cho đầu tư và trả nợ vẫn ở mức thấp.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định rằng việc giảm bội chi là nỗ lực và quyết tâm lớn của Chính phủ trong việc thắt chặt đầu tư công, đồng thời thiết lập kỷ cương trong chi tiêu và sử dụng nguồn vốn ngân sách được phân bổ cho các địa phương và bộ ngành.
Mặc dù tỷ lệ bội chi đã giảm, nhưng chi thường xuyên và chi cho đơn vị sự nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với chi cho đầu tư phát triển và trả nợ Đặc biệt, chi thường xuyên chủ yếu tập trung vào lương cán bộ, điều này cho thấy cần thiết phải tinh giản bộ máy hành chính, giảm biên chế và giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, chi cho phát triển kinh tế, quản lý hành chính, và quốc phòng an ninh chiếm khoảng 786.000 tỷ đồng, tương đương gần 70% ngân sách Trong khi đó, chi trả nợ chỉ khoảng 150.000 tỷ đồng (13%) và chi đầu tư phát triển là 190.000 tỷ đồng (16,7%) trong tổng chi ngân sách.
Năm 2017
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho biết, bội chi NSNN năm 2017 là
Bội chi ngân sách năm nay đạt 61407 tỷ đồng, tương đương 2,74% GDP, giảm cả về số tuyệt đối và tương đối so với dự toán Quốc hội giao Đây là mức bội chi thấp nhất trong 10 năm qua, phản ánh nỗ lực cao trong việc điều hành ngân sách và kiểm soát bội chi của Chính phủ, cùng với quyết tâm và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp, ngành tài chính và toàn bộ hệ thống chính trị.
Theo Báo cáo thẩm tra, bội chi ngân sách Nhà nước năm 2017 giảm nhờ vào việc giảm bội chi của ngân sách địa phương, trong khi bội chi ngân sách trung ương lại tăng so với dự toán.
Năm 2017, nền kinh tế Việt Nam ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực với sự ổn định của kinh tế vĩ mô Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn từ cả trong nước và quốc tế Các yếu tố khách quan và chủ quan đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, tác động trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách theo Nghị quyết của Quốc hội.
Năm 2018
Năm 2018, bội chi ngân sách nhà nước đạt 191,5 nghìn tỷ đồng, giảm 12,5 nghìn tỷ đồng so với dự toán 204 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,46% GDP thực hiện.
Kiểm toán Nhà nước nhận định rằng, số bội chi có khả năng giảm nếu Chính phủ tiến hành rà soát và điều chỉnh kế hoạch vốn năm 2018 sao cho phù hợp với khả năng giải ngân đạt 88,2% dự toán.
Về giá trị tuyệt đối, thâm hụt ngân sách năm 2018 đã được Quốc hội phê duyệt và chỉ chiếm 0,03% GDP, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vấn đề trong cơ cấu nguồn thu và chi.
Bội chi ngân sách nhà nước năm 2018 giảm so với dự toán chủ yếu do giải ngân vốn đầu tư công từ nguồn vốn vay chậm, không phải do tiết kiệm chi để giảm vay Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy ý kiến của đại biểu Quốc hội là xác đáng và khuyến nghị Chính phủ cần có giải pháp hiệu quả hơn trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.
Năm 2019
Với kết quả thu, chi NSNN, bội chi NSNN năm 2019 là 202,97 nghìn tỷ đồng, giảm 19 nghìn tỷ đồng so dự toán, bằng 3,36% GDP thực hiện
Năm 2019, tất cả 63 tỉnh, thành phố trên cả nước đều đạt và vượt dự toán thu ngân sách nhà nước Tuy nhiên, ngân sách nhà nước vẫn không đủ để bù đắp chi tiêu.
Theo các chuyên gia, phân bổ ngân sách năm 2019 giữa các tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, với nhiều nguồn thu chưa được khai thác hết tiềm năng Mỗi năm, các tỉnh, thành phố lập dự toán gửi Bộ Tài chính để điều chỉnh và cân đối thu chi ngân sách Tuy nhiên, chỉ có 16 tỉnh, thành phố phải nộp phần lớn số thu ngân sách về Trung ương.
Theo Kiểm toán Nhà nước, thu ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm tăng mạnh chủ yếu từ tiền sử dụng đất, dầu thô và xổ số kiến thiết Tuy nhiên, mặc dù số thu tăng cao, chi ngân sách cũng tiếp tục gia tăng và luôn vượt dự toán Quốc hội giao, dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách.
Năm 2020
Dự toán bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2020 được Quốc hội phê duyệt là 234,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 3,44% GDP Tuy nhiên, kết quả thực tế cho thấy bội chi NSNN đạt 251,35 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,99% GDP thực hiện, trong đó bội chi ngân sách trung ương chỉ tăng 20,9% so với mức tăng mà Quốc hội cho phép.
Năm 2020, khủng hoảng kinh tế toàn cầu do dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam, dẫn đến ngân sách nhà nước bị ảnh hưởng tiêu cực Đến cuối năm 2020, ngân sách nhà nước đã chi khoảng 18,1 nghìn tỷ đồng cho công tác phòng chống dịch và hỗ trợ 12,95 triệu người dân gặp khó khăn Ngân sách Trung ương đã sử dụng gần 12,4/17,5 nghìn tỷ đồng dự phòng để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh, cũng như đầu tư vào các dự án khẩn cấp nhằm nhanh chóng ứng phó và phục hồi sau thiên tai.
Bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 được kiểm soát chặt chẽ, với thu ngân sách khả quan và việc tiết kiệm chi tiêu Dự kiến, bội chi đạt khoảng 255 nghìn tỷ đồng, tăng 30,3 nghìn tỷ đồng so với dự toán, tương đương khoảng 4% GDP thực hiện, trong giới hạn điều chỉnh của Quốc hội (dưới 4,5% GDP).
Kết quả này thể hiện nỗ lực chung của toàn ngành trong việc duy trì kỷ cương và kỷ luật tài chính, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Tổng quan
Theo thống kê, trong những năm gần đây, tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam duy trì ở mức 3-4% GDP, với xu hướng giảm so với giai đoạn năm 2000.
Tỷ lệ thâm hụt ngân sách Việt Nam trong năm 2016 đã đạt 5.52% GDP, vượt mức cảnh báo quốc tế Từ năm 2019 đến 2020, tốc độ tăng thâm hụt ngân sách rất cao, từ 6% lên 23.8% Cụ thể, thâm hụt ngân sách năm 2019 khoảng 202,972 nghìn tỷ đồng đã tăng lên 251,355 nghìn tỷ đồng vào năm 2020, cho thấy áp lực lớn đối với ngân sách nhà nước.
Dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2021 cho thấy tỷ lệ bội chi NSNN dự kiến khoảng 4% GDP điều chỉnh, tương đương 343,67 nghìn tỷ đồng Đến cuối năm 2021, dự kiến dư nợ công đạt khoảng 46,1% GDP điều chỉnh, trong khi dư nợ Chính phủ khoảng 41,9% GDP điều chỉnh Tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm 2021 sẽ cao hơn mức của năm trước, điều này cho thấy nguồn lực đầu tư vẫn chưa phục hồi đủ để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tình trạng ngân sách nhà nước đã có những chuyển biến tích cực, không còn cảnh "thu được đồng nào xài hết đồng ấy" hay "điều hành ngân sách như đi trên dây" Mặc dù gặp nhiều khó khăn như bội chi, nợ công gia tăng và đặc biệt là tác động của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã nỗ lực điều hành chính sách tài chính một cách hiệu quả Năm 2020, đại dịch và các yếu tố thiên tai, biến đổi khí hậu đã làm chậm tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách, nhưng vẫn cho thấy sự cần thiết phải thích ứng và cải thiện quản lý ngân sách.
Dù gặp nhiều khó khăn, ngành Tài chính vẫn đoàn kết và chủ động triển khai các giải pháp chính sách tài khóa hiệu quả, nhằm hoàn thành nhiệm vụ tài chính – NSNN Điều này không chỉ góp phần củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô mà còn đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế Hiện nay, ngành Tài chính đã thực hiện thành công các chủ trương và giải pháp về cơ cấu lại NSNN, phù hợp với mục tiêu của Nghị quyết số 07-NQ/TW.
Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội Tính chung cả giai đoạn
Từ năm 2016 đến 2020, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) đạt 6,89 triệu tỷ đồng, vượt kế hoạch đề ra với tỷ lệ 100,4%, một kết quả tích cực trong bối cảnh thu NSNN năm 2020 gặp khó khăn và tăng trưởng kinh tế thấp hơn dự kiến Ngành Tài chính đã thực hiện cơ cấu lại chi NSNN, ưu tiên tăng chi đầu tư ngay từ khâu dự toán, với tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng từ 25,7% năm 2017 lên 26,9% năm 2020 Mặc dù tỷ trọng chi đầu tư phát triển thực hiện đạt 27 - 28% tổng chi, thấp hơn mục tiêu, nhưng đây vẫn là kết quả rất tích cực, đặc biệt trong bối cảnh quy mô chi NSNN so với GDP giảm.
Trong giai đoạn 2016-2020, bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) bình quân đạt khoảng 3,8% GDP mỗi năm, đảm bảo không vượt quá mục tiêu 3,9% GDP theo nghị quyết 25/2016/QH14 của Quốc hội Đến cuối năm 2020, dư nợ công khoảng 55,8% GDP và nợ chính phủ khoảng 49,6% GDP, đều nằm trong giới hạn cho phép và giảm mạnh so với mức 63,7% và 52,7% vào năm 2016.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh rằng, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức lớn, công tác điều hành tài chính – ngân sách nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc Quy mô ngân sách nhà nước tiếp tục phát triển bền vững, tạo ra dư địa tài khóa tốt hơn, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và nâng cao vị thế cũng như tín nhiệm của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong thời gian tới, mặc dù còn nhiều khó khăn và thách thức, những thành tựu về tài chính và ngân sách nhà nước đã đạt được sẽ là nền tảng quan trọng giúp ngành Tài chính tiếp tục gặt hái nhiều thành công trong giai đoạn tiếp theo.
Biện pháp tăng thu giảm chi
"Tăng thu giảm chi" là giải pháp tạm thời nhưng quan trọng cho các quốc gia đối phó với bội chi ngân sách và lạm phát Chính phủ cần tính toán hợp lý để tăng thu từ nguồn thuế và cắt giảm chi tiêu Tuy nhiên, việc xác định mức tăng thu và giảm chi cần được thực hiện cẩn thận để hạn chế tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
1.1 Giảm thâm hụt ngân sách bằng cắt giảm chi tiêu công Đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu Cụ thể là Chính phủ chỉ thị:
(i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước
Rà soát và loại bỏ các hạng mục đầu tư không hiệu quả trong doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực Đồng thời, việc cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước ở các cấp sẽ giúp tiết kiệm ngân sách và tối ưu hóa hoạt động của chính quyền.
Đầu tư từ Nhà nước, bao gồm ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua doanh nghiệp nhà nước, luôn chiếm khoảng 50% tổng đầu tư xã hội Việc cắt giảm các khoản đầu tư kém hiệu quả và ưu tiên thấp sẽ giúp giảm áp lực lạm phát Tương tự, nếu các cơ quan nhà nước giảm chi thường xuyên, chiếm 59% tổng chi ngân sách năm 2020, thì lạm phát cũng sẽ được kiềm chế hiệu quả hơn.
Mặc dù cắt giảm chi tiêu công là chính sách hợp lý, nhưng hiệu quả của các biện pháp cụ thể vẫn chưa rõ ràng do ít nhất bốn lý do.
Việc cắt giảm hoặc giãn tiến độ đầu tư công là một thách thức lớn, đặc biệt khi các dự án đã được quyết định bởi các cơ quan lập pháp, đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành và địa phương, cũng như đã được triển khai Điều này càng trở nên phức tạp hơn khi các dự án liên quan đến lợi ích thiết thân của các cơ quan có liên quan.
Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát các khoản đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu do chính sách phân cấp quản lý đầu tư và sự tự lập ngân hàng của một số tập đoàn lớn.
Trong bối cảnh lạm phát hiện nay, việc duy trì tổng mức đầu tư công theo đúng dự toán được xem là một thành tích đáng ghi nhận.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc giảm chi thường xuyên thường là thách thức lớn và thường nằm ở vị trí cuối cùng trong danh sách cắt giảm Tại Việt Nam, khả năng cắt giảm chi thường xuyên cũng hạn chế, vì trước tiên phải trừ đi quỹ lương, chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên, cùng với các khoản phụ cấp, chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho tổ chức quốc tế, và các khoản chi đã được thực hiện.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nếu thực hiện quyết liệt, có thể tiết kiệm khoảng 3.000 tỉ đồng từ chi phí hội họp và mua sắm xe, tương đương với 0,8% tổng chi ngân sách.
1.2 Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công
Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là cần thiết nhưng chưa đủ hiệu quả Để nỗ lực giảm chi tiêu công của Chính phủ thực sự có tác dụng, cần có cơ chế đảm bảo hiệu quả cho các khoản đầu tư còn lại Trước tiên, cần quản lý đầu tư công chặt chẽ để loại bỏ những dự án kém hiệu quả ngay từ đầu, như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ Tiếp theo, cần đảm bảo các dự án được thực hiện đúng tiến độ, tránh thất thoát và lãng phí.
112 và các dự án đầu tƣ xây dựng cơ bản - đƣợc ƣớc lƣợng là thất thoát trung bình 30%)
Một biện pháp hiệu quả để cải thiện quản lý đầu tư công là thành lập hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập Nguyên nhân chính gây thất thoát và lãng phí trong đầu tư công là do quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành bị ảnh hưởng bởi nhóm lợi ích, dẫn đến thiếu tính khách quan Hội đồng này có nhiệm vụ đánh giá và thẩm định toàn diện, khách quan các dự án vượt quá quy mô đầu tư nhất định Kết luận của hội đồng sẽ được công bố rộng rãi, tương tự như báo cáo kiểm toán các doanh nghiệp nhà nước và dự án đầu tư công lớn cũng cần được công khai.
1.3 Tăng thuế Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu nhƣ hiện nay Khi Việt Nam gia nhập WTO thì hàng rào thuế quan và phi thuế quan thì việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO và tham gia các khu vực mậu dịch tự do sẽ ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách Điều này cũng dễ hiểu khi số thu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện chiếm một tỷ trong khá lớn so với các nước đang phát triển; khoảng 13% tổng thu ngân sách từ phí và lệ phí Bộ Tài chính đã dự tính, việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm khoảng 10% số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu Bên cạnh đó, dưới tác động gián tiếp của cắt giảm thuế, tính ổn định và bền vững của thu ngân sách sẽ bị ảnh hưởng Số thu từ khu vực kinh tế trong nước, nhất là từ các doanh nghiệp nhà nước sẽ bị ảnh hưởng mạnh do tác động của cạnh tranh quốc tế và quá trình cải cách doanh nghiệp Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những thay đổi thị trường trong quá trình hội nhập cũng sẽ thay đổi nguồn thu Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững cho
24 ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh
Tăng thuế suất thuế thu nhập trong vùng có khả năng chịu đựng sẽ giúp tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, đồng thời khuyến khích các đối tượng mở rộng hoạt động kinh tế Điều này không chỉ nâng cao khả năng sinh lời mà còn tạo ra một phần lợi nhuận để nộp cho ngân sách nhà nước, phần còn lại sẽ là thặng dư cho cá nhân.
Tăng thuế suất trực thu trong bối cảnh nền kinh tế vượt qua giới hạn chịu đựng có thể dẫn đến giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước và gia tăng tình trạng trốn thuế Giải pháp này không chỉ khó áp dụng mà còn tốn kém Khả năng tăng thuế phụ thuộc vào sức chịu đựng của nền kinh tế và hiệu quả của hệ thống thu Trong thời kỳ suy thoái, việc tăng thuế không chỉ không khả thi mà còn cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, làm gia tăng nợ đọng thuế của doanh nghiệp và ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính của họ, từ đó giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.
Vay nợ
Vay nợ trong nước tại Việt Nam được Chính phủ thực hiện thông qua việc phát hành công trái và trái phiếu, là các chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước Đây là loại chứng khoán do nhà nước phát hành nhằm huy động vốn từ dân cư, tổ chức kinh tế - xã hội và các tổ chức tín dụng Chính phủ thường ủy nhiệm cho Kho bạc nhà nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình.
Biện pháp này cho phép Chính phủ duy trì thâm hụt ngân sách mà không cần tăng cơ sở tiền tệ hay giảm dự trữ quốc tế, từ đó được xem là một phương pháp hiệu quả để kiểm soát lạm phát.
- Tập trung đƣợc khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cƣ, tránh đƣợc nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài
Việc vay tiền gặp nhiều rủi ro có thể kìm hãm sự phát triển kinh doanh của nền kinh tế Để giải quyết vấn đề này, chính phủ cần đa dạng hóa các hình thức vay như phát hành trái phiếu, tín phiếu và công trái Đồng thời, cần thực hiện các biện pháp để thu hút người cho vay, bao gồm việc tăng lãi suất và mở rộng ưu đãi thuế thu nhập Ngoài ra, chính phủ cũng cần triển khai các hoạt động tuyên truyền và vận động để huy động tối đa nguồn tiền từ dân cư, nhằm hoàn thành kế hoạch vay đã đề ra.
Tổng lượng tiền mà nhân dân và các đơn vị có thể cho nhà nước vay bị giới hạn bởi tổng lượng tiết kiệm của xã hội Khi chính phủ huy động được nhiều nguồn vốn, phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong khu vực ngoài quốc doanh sẽ giảm.
Chính phủ chưa công bố kế hoạch cụ thể cho lượng tiền huy động được, nhưng điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và người dân Nếu các biện pháp thu hút tiền vay từ chính phủ và ngân hàng có lãi suất cao, sẽ dẫn đến việc chuyển dịch vốn từ khu vực doanh nghiệp và dân cư sang hệ thống tài chính - ngân hàng, thay vì được sử dụng cho sản xuất kinh doanh.
Vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách tiềm ẩn nguy cơ cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế Giải pháp này, mặc dù nhằm mục tiêu chấn hưng kinh tế, lại có thể gây trở ngại cho chính sự phục hồi này.
Trong bối cảnh kinh tế đình trệ, hầu hết các quốc gia đều hạn chế áp dụng biện pháp này, vì nó chỉ phát huy hiệu quả khi nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ.
Việc trả lãi trong tương lai tạo gánh nặng nợ cho Chính phủ, đặc biệt ở các nước đang trải qua lạm phát cao như Việt Nam hiện nay Giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, khiến chúng trở nên kém hấp dẫn Mặc dù Chính phủ có thể yêu cầu các chủ thể khác trong nền kinh tế giữ trái phiếu, nhưng nếu tình trạng này kéo dài, uy tín của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, làm cho việc huy động vốn trở nên khó khăn trong tương lai.
Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua nguồn vốn nước ngoài, bao gồm việc nhận viện trợ và vay nợ từ các chính phủ khác, các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và các tổ chức liên chính phủ khác.
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển của các quốc gia, được cung cấp bởi các chính phủ, tổ chức liên chính phủ và tổ chức quốc tế Nguồn viện trợ này chủ yếu được thể hiện qua hình thức ODA (Official Development Assistance), nhằm hỗ trợ các chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng
Đây là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hiệu quả, giúp bù đắp thâm hụt mà không gây áp lực lạm phát cho nền kinh tế Nó cũng cung cấp nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho sự thiếu hụt trong nước, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ nhất, việc vay nước ngoài sẽ khiến gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ
Việc phụ thuộc vào nước ngoài có thể làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương, đặc biệt khi nhiều khoản vay và viện trợ đi kèm với những điều kiện về chính trị, quân sự và kinh tế.
Vay nước ngoài thường phụ thuộc vào các đối tác cho vay và chịu nhiều điều kiện khắt khe về lãi suất cũng như thời hạn trả nợ Các hình thức vay chủ yếu bao gồm hiệp định song phương, nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vay từ thị trường tài chính quốc tế Mặc dù ODA đi kèm với nhiều điều kiện ưu đãi, nhưng ngày càng trở nên hiếm hoi và phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
Sử dụng dự trữ ngoại hối
Quỹ dự trữ ngoại hối là số lượng ngoại hối, bao gồm ngoại tệ mạnh và vàng, mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan quản lý tiền tệ của một quốc gia nắm giữ để thực hiện thanh toán quốc tế và hỗ trợ đồng tiền quốc gia Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại hối để bù đắp cho thâm hụt ngân sách.
Việc dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh khủng hoảng, nhưng việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt ngân sách tiềm ẩn nhiều rủi ro và cần hạn chế Nếu khu vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ mỏng manh, niềm tin vào khả năng can thiệp của chính phủ vào thị trường ngoại hối sẽ giảm, dẫn đến dòng vốn chảy ra ồ ạt, làm giảm giá đồng nội tệ và tăng sức ép lạm phát Hơn nữa, việc giảm quỹ dự trữ ngoại tệ, kết hợp với vay nợ nước ngoài, sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái và suy yếu sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước.
Phát hành tiền
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt, chính phủ có thể phát hành thêm tiền cơ sở để tài trợ cho số thâm hụt, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái Việc này sẽ giúp đưa nền kinh tế gần hơn với mức sản lượng tiềm năng mà không gây ra lạm phát, đồng thời thực hiện các mục tiêu của chính sách ổn định hóa kinh tế.
Khi nhu cầu kinh tế tăng cao và sản lượng thực tế vượt mức tiềm năng, chính phủ không nên bù đắp thâm hụt bằng cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở Hành động này sẽ chỉ làm gia tăng tổng cầu, đẩy sản lượng thực tế xa hơn mức tiềm năng và dẫn đến lạm phát tăng cao.
Nhu cầu bù đắp NSNN đƣợc đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần
Tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước có xu hướng làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế, dẫn đến lạm phát gia tăng nhanh chóng Biện pháp này tiềm ẩn nguy cơ lạm phát lớn, gây ảnh hưởng tiêu cực đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội.
Bài học rút ra từ việc phát hành tiền quá dễ dãi nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước đã dẫn đến tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam trong thập niên 80 của thế kỷ XX.
Trong những năm qua, Việt Nam đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng cách in thêm tiền, dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao kỷ lục lên tới 760% Hệ quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ.
Chính vì những hậu quả đó mà biện pháp này rất ít khi đƣợc sử dụng
II – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC XỬ LÝ THÂM HỤT NSNN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ
Những vấn đề đặt ra trong việc xử lý thâm hụt ngân sách NSNN ở Việt Nam
Trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát mức thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) ở giới hạn cho phép, không quá 5% GDP/năm, và chủ yếu sử dụng nguồn vay cho đầu tư phát triển Đồng thời, chúng ta cũng đã tích lũy một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí cho đầu tư phát triển Đây là những thành công bước đầu trong quản lý cân đối NSNN và kiểm soát thâm hụt Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi lạm phát gây ra khó khăn lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, cần lưu ý một số vấn đề quan trọng trong việc xử lý thâm hụt NSNN.
Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn phát triển kinh tế lớn đã dẫn đến việc vay mượn để bù đắp Chúng ta chủ yếu vay để đầu tư vào hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia, nhưng thực tế, việc quản lý số tiền vay, đặc biệt là từ nước ngoài, chưa chặt chẽ Tình trạng đầu tư dàn trải ở địa phương và tiến độ thi công chậm cho các dự án trọng điểm vẫn tồn tại Do đó, các khoản đầu tư phát triển từ nguồn vốn vay cần tuân thủ quy định của Luật NSNN và mức thâm hụt hàng năm do Quốc hội quyết định.
Trong những năm qua, sự thiếu hụt ngân sách đã được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, thể hiện rõ qua cân đối ngân sách nhà nước hàng năm Nguyên tắc xác định số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách dựa trên tổng thu trừ đi tổng chi trong năm Thông thường, số thâm hụt được xác định trước theo mức Quốc hội cho phép, và nguồn còn lại có thể được chuyển sang năm sau Chính sách ngân sách thận trọng này áp dụng lý thuyết thâm hụt một cách chủ động mà không gây xáo trộn cho chính sách kinh tế vĩ mô Tuy nhiên, cần phải kiểm tra xem toàn bộ số thâm hụt có được sử dụng hiệu quả cho đầu tư phát triển các dự án trọng điểm, từ đó tạo thêm công ăn việc làm hay không.
29 làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không
Mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên chưa được chú trọng, dẫn đến căng thẳng ngân sách và áp lực thâm hụt ngân sách, đặc biệt là ở các địa phương Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, cùng với việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới, cho thấy ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu tương ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể trong dự toán ngân sách hàng năm Khi các địa phương vay vốn để đầu tư, họ cần đảm bảo nguồn chi thường xuyên để vận hành các công trình hoàn thành, cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng, điều này làm giảm hiệu quả đầu tư Tình trạng này tạo ra áp lực ngân sách, vì để duy trì hoạt động, các địa phương phải vay thêm hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai đều góp phần vào thâm hụt ngân sách nhà nước.
Kiến nghị
Để giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách nhà nước ở Việt Nam, cần thiết phải có những quy định chặt chẽ hơn Các giải pháp có thể áp dụng bao gồm việc tăng cường quản lý tài chính công, cải thiện thu ngân sách và kiểm soát chi tiêu hiệu quả.
+ Khi hạch toán ngân sách phải tính toán một cách minh bạch theo thông lệ quốc tế
Cần thực hiện đánh giá toàn diện về hiệu quả của các dự án và chi tiêu công, đồng thời áp dụng cắt giảm hợp lý để tránh việc giảm đồng loạt tất cả các khoản chi theo tỷ lệ nhất định Hơn nữa, cần rà soát chặt chẽ để ngăn chặn lãng phí trong các khoản chi thường xuyên.
Cải cách hệ thống thuế là cần thiết để đảm bảo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch Hiện nay, gánh nặng thuế ở Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, điều này có thể dẫn đến sự kém hiệu quả của hệ thống thuế, khuyến khích hành vi trốn thuế và làm méo mó phân bổ nguồn lực.
Cần giám sát chặt chẽ hiệu quả và tính minh bạch của doanh nghiệp nhà nước, vì chỉ số ICOR của họ cao gấp 1,5 lần so với khu vực ngoài nhà nước Sự kém hiệu quả này góp phần vào việc nguồn thu ngân sách không được bảo đảm.