1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của quan hệ hiệp hội các nước đông nam á (asean) trung quốc đối với quan hệ việt trung từ 1991 đến nay

137 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Quan Hệ Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) - Trung Quốc Đối Với Quan Hệ Việt - Trung Từ 1991 Đến Nay
Tác giả Trương Công Vĩnh Khanh
Người hướng dẫn PGS. Phan Văn Ban
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Thế Giới
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 137
Dung lượng 2,09 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Lý do chọn đề tài (7)
    • 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (9)
    • 3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn (13)
    • 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn (13)
    • 5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn (14)
    • 6. Phương pháp nghiên cứu (14)
    • 7. Đóng góp của luận văn (14)
    • 8. Kết cấu của luận văn (15)
  • B. NỘI DUNG (16)
  • Chương 1. TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ ASEAN - TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI QUAN HỆ VIỆT - TRUNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2003 (16)
    • 1.1. Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991 và tác động của mối quan hệ này đến tiến trình bình thường hoá (16)
      • 1.1.1. Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991 (16)
      • 1.1.2. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đến tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung (1989 - 1991) (19)
    • 1.2. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Trung từ 1991 đến năm 2003 (24)
      • 1.2.1. Cục diện thế giới và tình hình ASEAN sau Chiến tranh lạnh (24)
      • 1.2.2. Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từ 1991 đến năm 2003 (27)
      • 1.2.3. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Trung từ 1991 đến 2003 (31)
    • 2.1. Bối cảnh thế giới và khu vực (57)
    • 2.2. Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từ 2003 đến nay (59)
    • 2.3. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Trung từ 2003 đến nay (63)
      • 2.3.1. Đối với quan hệ chính trị - ngoại giao (63)
      • 2.3.2. Đối với việc giải quyết vấn đề tranh chấp trên biển Đông (68)
      • 2.3.3. Đối với quan hệ kinh tế (72)
      • 2.3.4. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đến quan hệ Việt - Trung trên các lĩnh vực khác (83)
  • Chương 3. NHẬN XÉT VỀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ASEAN - (57)
    • 3.1. Triển vọng phát triển của quan hệ ASEAN - Trung Quốc (93)
    • 3.2. Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đến sự phát triển của quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn hiện nay (96)
    • 3.3. Một số đề xuất trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc để thúc đẩy và cải thiện quan hệ Việt - Trung trong những năm sắp tới (98)
    • 3.4. Đề xuất một số giải pháp tích cực trong quan hệ ASEAN - (102)
    • 3.5. Một số đề xuất đối với Việt Nam trong quan hệ với ASEAN - (104)
    • C. KẾT LUẬN (110)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (114)

Nội dung

NỘI DUNG

1.1 Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991 và tác động của mối quan hệ này đến tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Trung

1.1.1 Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991

Chiến tranh lạnh là cuộc đối đầu ý thức hệ giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô, ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện chính trị toàn cầu Khu vực Đông Nam Á trở thành điểm nóng trong cuộc tranh giành quyền lực này, với nhiều mâu thuẫn trong mối quan hệ chiến lược giữa Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc.

Trong thời kỳ cao trào của “Cách mạng văn hoá” (1966 - 1969), Trung Quốc thực hiện nền “ngoại giao cách mạng” nhằm ủng hộ phong trào du kích vũ trang, dẫn đến sự gia tăng thù địch từ các nước Đông Nam Á và làm mất ổn định trong cộng đồng người Hoa Điều này góp phần kích thích sự ra đời của ASEAN vào ngày 8/8/1967, với 5 nước thành viên sáng lập là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore Từ khi thành lập, tư tưởng chống Trung Quốc đã trở thành một trong những định hướng chính trị chủ yếu của ASEAN, gây ra phản ứng gay gắt từ phía Trung Quốc, cho rằng ASEAN là một liên minh chống Cộng và công cụ của chủ nghĩa đế quốc nhằm chống lại Trung Quốc Từ đầu những năm 70, tình hình quốc tế và khu vực đã có nhiều thay đổi lớn như giải trừ quân bị và hạn chế chạy đua vũ khí chiến lược.

TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ ASEAN - TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI QUAN HỆ VIỆT - TRUNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2003

Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991 và tác động của mối quan hệ này đến tiến trình bình thường hoá

1.1.1 Khái quát quan hệ ASEAN - Trung Quốc trước năm 1991

Chiến tranh lạnh là cuộc đối đầu ý thức hệ giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cục diện chính trị toàn cầu Khu vực Đông Nam Á trở thành điểm nóng của cuộc tranh chấp này, nơi tập trung nhiều mâu thuẫn trong mối quan hệ chiến lược giữa Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc.

Trong giai đoạn cao trào của “Cách mạng văn hoá” (1966 - 1969), Trung Quốc đã thực hiện nền “ngoại giao cách mạng” nhằm ủng hộ phong trào du kích vũ trang, dẫn đến sự gia tăng thù địch từ các nước Đông Nam Á và sự bất ổn trong cộng đồng người Hoa, góp phần kích thích sự ra đời của ASEAN vào ngày 8/8/1967 với 5 nước thành viên sáng lập Từ khi thành lập, tư tưởng chống Trung Quốc đã trở thành định hướng chính trị chủ yếu của ASEAN, gây ra phản ứng mạnh mẽ từ phía Trung Quốc, cho rằng ASEAN là liên minh chống Cộng và công cụ của chủ nghĩa đế quốc Tuy nhiên, từ đầu những năm 70, với những thay đổi lớn trong tình hình quốc tế và khu vực, ASEAN đã phải hợp tác với Trung Quốc để đối phó với ảnh hưởng gia tăng của liên minh Xô - Việt, từ đó thúc đẩy sự hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN.

Từ thời điểm này, Trung Quốc đã chuyển từ quan điểm đối địch sang tích cực ủng hộ nhiều sáng kiến hợp tác của ASEAN, bao gồm Tuyên bố về khu vực ASEAN hòa bình, tự do và trung lập (ZOPFAN) năm 1971 và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) năm 1976.

Sự kiện lịch sử năm 1975 và khủng hoảng Campuchia đầu năm 1979 đã làm gia tăng sự đối đầu về ý thức hệ giữa ba nước Đông Dương và năm nước thành viên ASEAN ban đầu Trước năm 1978, các nước ASEAN coi sự tồn tại của CHND Trung Hoa và hoạt động của Maoism tại Đông Nam Á là mối đe dọa lớn đối với hòa bình và an ninh khu vực Tuy nhiên, sau đó, mối đe dọa từ Việt Nam và Liên Xô trở nên nghiêm trọng hơn, khiến ASEAN công khai ủng hộ Trung Quốc và phản đối Việt Nam trên nhiều phương diện.

Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ thứ XX, quan hệ

ASEAN - Trung Quốc bắt đầu chuyển sang giai đoạn hợp tác và đối thoại, nhưng chưa bình thường hoá hoàn toàn

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các nước ASEAN duy trì mối quan hệ khép kín với Trung Quốc, chủ yếu tìm kiếm sự hỗ trợ an ninh từ các nước phương Tây Do đó, quan hệ ASEAN - Trung Quốc hầu như không có sự phát triển đáng kể cho đến cuối những năm 1980, ngoại trừ sự hợp tác nhằm ủng hộ Chính phủ Liên hiệp ba bên của Campuchia do Hoàng thân Shihanouk lãnh đạo trong cuộc đối đầu với quân đội Việt Nam và Chính phủ Phnom Penh được Việt Nam hỗ trợ Thực trạng này cho thấy quan hệ ASEAN - Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi sự phân chia giữa hai hệ tư tưởng chính trị khác nhau.

Vào cuối thập niên 60, Trung Quốc không có quan hệ ngoại giao với tất cả 5 thành viên ASEAN, nhưng thương mại giữa Trung Quốc và 10 nước Đông Nam Á, trong đó có 5 nước ASEAN, vẫn chiếm từ 5-6% tổng mức buôn bán đối ngoại của Trung Quốc Đặc biệt, Singapore và Malaysia, hai nước ASEAN, đóng góp tới 85,2% tổng mức buôn bán của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á.

Bước sang thập niên 70, tình hình trên thế giới, khu vực ĐNA và bản thân Trung Quốc cũng có nhiều biến đổi Trung Quốc cải thiện quan hệ với

Vào năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, vai trò của Mỹ tại Đông Nam Á chấm dứt, tạo điều kiện cho sự xích lại gần giữa Trung Quốc và các nước ASEAN Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Malaysia (1974), Thái Lan và Philippines (1975) Đến năm 1975, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 520 triệu USD, và vào năm 1977, trước khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách - mở cửa, con số này đã tăng lên hơn 1 tỷ USD, gấp 4 lần so với năm 1970 và chiếm 6,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc.

Năm 1978, Trung Quốc khởi xướng chính sách cải cách - mở cửa, biến khu vực Đông Nam Á (ĐNA) và các nước ASEAN thành hướng mở cửa quan trọng tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Trong năm đó, tổng kim ngạch buôn bán của Trung Quốc với thế giới đạt trên 20,64 tỷ USD, trong đó khu vực Châu Á - Thái Bình Dương chiếm 53,5% xuất khẩu và 56,3% nhập khẩu, còn ASEAN chiếm 7,6% xuất khẩu và 2,8% nhập khẩu Đến năm 1980, kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 2,2 tỷ USD Từ những năm 70 đến 80, ASEAN xem Trung Quốc là đối tác quan trọng, dẫn đến việc hợp tác kinh tế mở rộng sang đầu tư, mặc dù buôn bán vẫn là lĩnh vực hợp tác chủ yếu Đến năm 1989, kim ngạch buôn bán song phương đã đạt 6,6 tỷ USD, tăng gấp ba lần so với năm 1980.

Trước năm 1989, quan hệ ASEAN - Trung Quốc chủ yếu bị chi phối bởi yếu tố chính trị, dẫn đến việc thiếu những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao và kinh tế - thương mại Mặc dù một số quốc gia như Singapore, Thái Lan và Malaysia có hoạt động buôn bán với Trung Quốc, nhưng tổng thể, giá trị thương mại vẫn còn thấp và không đáng kể.

1.1.2 Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đến tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung (1989 - 1991)

Tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Trung diễn ra tương đối song song và đồng thời với tiến trình bang giao mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc

Vào năm 1991, việc bình thường hóa quan hệ Việt - Trung chủ yếu xuất phát từ nhu cầu nội tại của cả hai quốc gia Tuy nhiên, quá trình này cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc.

Ngày 4/6/1989, Trung Quốc nổ ra sự kiện Thiên An Môn, các nước phương Tây bắt đầu thi hành chính sách cấm vận đối với Trung Quốc Trung

Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng bị bao vây và cô lập, đe dọa đến mục tiêu “bốn hiện đại hoá” Để thoát khỏi tình trạng này, Trung Quốc đã tăng cường quan hệ với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó ASEAN đóng vai trò quan trọng Trung Quốc tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước ASEAN để đối phó với sức ép từ phương Tây tại các diễn đàn Liên Hợp Quốc liên quan đến vấn đề nhân quyền và giải trừ quân bị.

Mặt khác, do bối cảnh quốc tế mới cuối thập niên 80 và đầu thập niên

Khu vực CA-TBD đang hình thành một cấu trúc chiến lược mới với sự tham gia của năm nước chính: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga và ASEAN Trong đó, mối quan hệ tam giác giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau, trong khi ASEAN đóng vai trò quan trọng như một yếu tố cân bằng trong quá trình hình thành cục diện chiến lược đa cực ASEAN có thể chưa đạt tới “một cực” nhưng là một cái van điều tiết trong mối quan hệ tam giác này, ngăn chặn sự phát triển theo hướng cực đoan Chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN đã trở thành ưu tiên của Trung Quốc từ cuối thập niên 80 đến đầu thập niên 90 Để thực hiện điều này, Trung Quốc cần giải quyết những vấn đề bất ổn trong khu vực như tranh chấp biên giới và vấn đề Biển Đông, buộc nước này phải điều chỉnh chiến lược nhằm cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và tránh nguy cơ bị cô lập từ phương Tây.

Trung Quốc đang tăng cường quan hệ với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ASEAN, điều này thúc đẩy nhu cầu gia tăng quan hệ với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam Do đó, tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Việt - Trung đầu thập niên 90 cũng chịu tác động và chi phối bởi những thay đổi trong chính sách ĐNA của Trung Quốc

Từ năm 1986 đến 1991, Việt Nam đã có những điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại, đặc biệt sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng đã xác định chủ trương mới nhằm thiết lập khu vực Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, dẫn đến nhiều chuyển biến tích cực trong quan hệ với ASEAN, đặc biệt là việc rút quân khỏi Campuchia, giúp giải quyết “vấn đề Campuchia” theo hướng hòa bình Nhờ đó, các nước ASEAN đã bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam và không còn xem Việt Nam là mối đe dọa đối với khu vực.

Sự tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN, cùng với những nỗ lực của Việt Nam trong việc đàm phán giải quyết tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, đã góp phần xây dựng lòng tin và thiện chí trong khu vực Việc Việt Nam cam kết rút quân khỏi Campuchia trước thời hạn vào năm 1988 là một minh chứng rõ ràng cho chính sách ngoại giao tích cực và trách nhiệm của Việt Nam đối với các nước ASEAN.

Tác động của quan hệ ASEAN - Trung Quốc đối với quan hệ Việt - Trung từ 1991 đến năm 2003

1.2.1 Cục diện thế giới và tình hình ASEAN sau Chiến tranh lạnh Đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, cục diện thế giới đã có những biến đổi sâu sắc, làm cho cơ cấu địa - chính trị thế giới và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, tương quan lực lượng thế giới nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định

Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, nhiều xu thế an ninh - chính trị đang diễn ra, với xu hướng hòa hoãn ngày càng chiếm ưu thế Hòa bình và hợp tác phát triển trở thành những giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế Các nước lớn đang nhanh chóng điều chỉnh mối quan hệ của mình, tìm kiếm sự cân bằng mới và kiềm chế bất đồng để tránh xung đột Mỗi quốc gia đều chú trọng vào việc tạo lập những điều kiện quốc tế thuận lợi, nâng cao an ninh quốc gia và xây dựng mối quan hệ theo mô hình "đối tác chiến lược".

Nếu trật tự thế giới hai cực bị xóa bỏ, điều này sẽ dẫn đến việc mất đi các giới hạn kiềm chế xung đột và làm bộc lộ những mâu thuẫn tiềm ẩn ngày càng gay gắt Môi trường an ninh toàn cầu sau Chiến tranh Lạnh vẫn còn nhiều bất ổn, với sự gia tăng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, và các vấn đề liên quan đến mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang và khủng bố, đặc biệt tại các nước đang phát triển.

Đầu thập niên 90, sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho sự tiến bộ của các quốc gia Tuy nhiên, các nước đang phát triển gặp nhiều hạn chế, khiến họ khó tiếp cận được những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến Họ còn đối mặt với nguy cơ trở thành nơi tiếp nhận công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển.

Toàn cầu hoá không chỉ tạo ra biến đổi mạnh mẽ về kinh tế mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc gia theo cả bề rộng lẫn chiều sâu Nó mang lại cơ hội cho các quốc gia đang phát triển hội nhập vào hệ thống quan hệ quốc tế, từ đó tăng tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, toàn cầu hoá cũng có xu hướng gia tăng khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, đặt ra nhiều thách thức cho các nước đang phát triển.

Trước tình hình hiện nay, các quốc gia, bất kể giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, cần tích cực tham gia vào hợp tác và phân công lao động quốc tế để không bị tụt hậu Sự hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh là biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ Kết thúc Chiến tranh Lạnh đã mở ra giai đoạn phát triển mới cho ASEAN trong việc hợp tác và liên kết khu vực, chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan Các yếu tố quốc tế, như sự thay đổi trong cục diện chính trị thế giới, sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ và điều chỉnh chính sách của các nước lớn, đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Mỹ đã loại bỏ các rào cản về ý thức hệ chính trị trong quan hệ với ASEAN, mở ra cơ hội hợp tác với các nước theo hệ thống xã hội chủ nghĩa như Liên Xô.

Xô, Đông Âu, Trung Quốc và Việt Nam đang chứng kiến những chuyển biến quan trọng Đặc biệt, vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á cùng với các nền tảng hợp tác và liên kết mà ASEAN đã xây dựng từ năm 1967 đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của khu vực này.

- 1991 có ảnh hưởng rất lớn đến viễn cảnh hợp tác, liên kết của ASEAN sau Chiến tranh lạnh

Sau Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa ASEAN và các nước trong khu vực cũng như trên thế giới không còn bị rào cản ý thức hệ, tạo cơ hội cho ASEAN mở rộng liên kết và hợp tác Đầu thập niên 90, ASEAN đã tích cực tham gia vào các vấn đề an ninh, chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội, từng bước xoá bỏ rào cản chính trị và thúc đẩy hội nhập Sự kiện Hội nghị Paris về “vấn đề Campuchia” năm 1991 đã giải quyết thành công những vấn đề chính trị, nâng cao hình ảnh của ASEAN trên trường quốc tế và khẳng định vai trò của ASEAN như một cộng đồng chính trị - ngoại giao quan trọng trong khu vực CA-TBD.

Sau Chiến tranh Lạnh, xu thế hòa bình và hợp tác tại Đông Nam Á (ĐNA) và ASEAN đã được củng cố, với việc các nước trong khu vực chú trọng cải thiện quan hệ với các cường quốc Chính sách đối ngoại của ASEAN trở nên phong phú, như Thủ tướng Thái Lan từng phát biểu, mong muốn biến ĐNA từ chiến trường thành thương trường Điều này đã giúp các nước ASEAN phá bỏ rào cản do Chiến tranh Lạnh tạo ra và thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với các nước lớn Việt Nam, Indonesia, Brunei và Singapore đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, trong khi quan hệ Việt - Mỹ cũng được cải thiện đáng kể Từ một điểm nóng của Chiến tranh Lạnh, ĐNA đã nhanh chóng trở thành trung tâm hợp tác giữa các nước trong khu vực và các đối tác bên ngoài, là yếu tố quan trọng mà ASEAN và Trung Quốc cần xem xét trong chiến lược và chính sách đối ngoại của mình.

1.2.2 Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từ 1991 đến năm 2003

Trong bối cảnh biến đổi nhanh chóng của tình hình quốc tế, quan hệ ASEAN - Trung Quốc đã có những chuyển biến đáng kể từ năm 1989 Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách mở cửa đối ngoại, không chỉ duy trì chính sách ở vùng ven biển mà còn chú trọng mở cửa khu vực biên giới và cải thiện quan hệ với các nước phát triển, bao gồm cả ASEAN Trong thập niên 90, ASEAN nhìn nhận Trung Quốc vừa là đối tác phát triển vừa là đối thủ cạnh tranh Trung Quốc, với mong muốn tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, và an ninh, đã từng bước cải thiện và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN sau chuyến thăm của Thủ tướng Lý Bằng vào năm 1990.

Năm 1991, Trung Quốc lần đầu tiên tham dự Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 24 tại Kuala Lumpur với tư cách khách mời, đánh dấu sự khởi đầu trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc Đến năm 1992, Trung Quốc được mời tham gia các cuộc họp nội bộ của ASEAN và dần trở thành “đối tác tham khảo” của tổ chức này Năm 1993, mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc bước sang một giai đoạn mới khi Trung Quốc mời các nguyên thủ ASEAN thăm nước mình, đồng thời cử các lãnh đạo cấp cao sang thăm các quốc gia ASEAN.

Vào ngày 11/11/1994, trong bài phát biểu tại Malaysia, Chủ tịch Giang Trạch Dân nhấn mạnh rằng sự phát triển của Trung Quốc cần một môi trường hòa bình quốc tế lâu dài, và việc tăng cường hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng là một phần quan trọng trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc Ông khẳng định rằng chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập và tự chủ của Trung Quốc sẽ không thay đổi, bất kể sự giàu có trong tương lai Trung Quốc cam kết phát triển hợp tác hữu nghị với các nước xung quanh không chỉ là một kế sách tạm thời mà là sự lựa chọn tất yếu vì lợi ích lâu dài của nhân dân Trung Quốc và các nước trong khu vực Cũng trong năm này, Trung Quốc đã trở thành thành viên đối thoại chính thức của Diễn đàn khu vực (ARF), góp phần thúc đẩy giải quyết các vấn đề an ninh chung trong khu vực Đông Nam Á.

Năm 1996, Trung Quốc trở thành “đối tác đối thoại toàn diện” của

Từ năm 1996 đến 2003, nhiều sự kiện và cuộc gặp gỡ cấp cao không chính thức giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã diễn ra Đặc biệt, trong cuộc họp tại Bắc Kinh vào tháng 2/1997, hai bên đã đồng thuận xây dựng các nguyên tắc và cơ chế đối thoại, bao gồm Đối thoại chính trị cấp cao (ASEAN China Senior Officials Political Consultation - ACSOPC), Uỷ ban hỗn hợp (ASEAN China Joint Cooperation Committee - ACJCC) và Ủy ban ASEAN tại Bắc Kinh.

Vào tháng 12 năm 1997, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức đầu tiên, trong đó họ đã thông qua "Tuyên bố chung xây dựng quan hệ đối tác láng giềng thân thiện và tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ XXI" Tuyên bố này đã thiết lập một khung và lộ trình cho mối quan hệ toàn diện giữa hai bên.

Bối cảnh thế giới và khu vực

Bước vào thế kỷ XXI, bối cảnh toàn cầu và khu vực đã có những biến đổi lớn, ảnh hưởng đến quá trình hội nhập giữa các quốc gia Quan hệ ASEAN - Trung Quốc đã cải thiện đáng kể nhờ xu thế toàn cầu hóa kinh tế Sau sự kiện 11/9, hai bên có nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác Trong khi Mỹ tập trung vào mục tiêu "dân chủ hóa" và chống khủng bố, các nước ASEAN ưu tiên phục hồi kinh tế Trong bối cảnh Nhật Bản gặp khó khăn kinh tế và Nga đối mặt với thách thức nội địa, Trung Quốc đã trở nên mạnh mẽ và chủ động thúc đẩy hợp tác khu vực với ASEAN.

37] Những đòi hỏi đó đã tạo điều kiện khách quan cho ASEAN - Trung Quốc ngày càng tăng cường hợp tác trên tất cả các lĩnh vực

Quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa đã mang lại cơ hội cho các nước đang phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh đa cực hóa thế giới và toàn cầu hóa kinh tế Sự phát triển của các tổ chức như WTO, NAFTA và EU đã tạo áp lực buộc ASEAN và Trung Quốc phải thúc đẩy tự do hóa thương mại và hội nhập để duy trì lợi thế cạnh tranh Đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc nổi bật với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, yêu cầu hợp tác chặt chẽ với các nước trong khu vực Việc củng cố quan hệ ASEAN - Trung Quốc là thiết yếu để Trung Quốc tận dụng nguồn lao động phong phú tại đây Tăng cường quan hệ đối tác với ASEAN là cơ hội để Trung Quốc hiện đại hóa đất nước, và thực tế cho thấy Trung Quốc đã chứng minh mình là đối tác tin cậy và hiệu quả của ASEAN, bao gồm cả Việt Nam.

Vào đầu thế kỷ XXI, ASEAN đã giải quyết các vấn đề trong quan hệ giữa các thành viên, trở thành một khối thống nhất với đầy đủ 10 nước Đông Nam Á (trừ Đông Timor) Tổ chức này hoạt động trong khu vực có chính trị ổn định, thu hút đầu tư và khoa học - kỹ thuật từ các nước phát triển Với nền kinh tế năng động, ASEAN ngày càng chủ động và linh hoạt trong việc tăng cường hợp tác với các đối tác lớn, đặc biệt là Trung Quốc, giúp khẳng định vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á.

Đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc và ASEAN vẫn đối mặt với một số rào cản cần được chú ý, đặc biệt là vấn đề chủ quyền Biển Đông Để thúc đẩy hợp tác song phương, cả hai bên cần thống nhất giải quyết những vấn đề này Nếu không giải quyết được, những trở ngại này sẽ cản trở quá trình hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, bao gồm cả Việt Nam.

Sự thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, cùng với việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của ASEAN và Trung Quốc vào đầu thế kỷ XXI, đã thúc đẩy mối quan hệ giữa hai bên theo hướng tích cực, chủ động và linh hoạt hơn.

Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từ 2003 đến nay

2.2.1 Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao

Kể từ khi Trung Quốc và ASEAN thiết lập mối quan hệ đối tác tin cậy vào năm 2003, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai bên đã ghi nhận nhiều thành tựu đáng kể.

Năm 2003 đánh dấu sự gia tăng hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc, khi Trung Quốc trở thành đối tác đối thoại đầu tiên của ASEAN tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hữu nghị (TAC) tại Hội nghị thượng đỉnh ở đảo Bali, Indonesia Hai bên đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có "Thông cáo về đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng".

Sau khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2003, niềm tin chính trị giữa Trung Quốc và ASEAN đã được củng cố và tăng cường Năm 2003, Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên ngoài khu vực ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) Sự hợp tác trong khuôn khổ ASEAN+3, được thành lập từ năm 1997, đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy mối quan hệ này.

Kể từ năm 2003, ASEAN và Trung Quốc đã có những đóng góp quan trọng trong việc thực hiện sáng kiến Cộng đồng Đông Á (EAC), bao gồm việc tổ chức thành công ba Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á tại Malaysia (2005), Philippines (2007) và Singapore (2008) Đặc biệt, vào năm 2006, Trung Quốc đã đưa ra ý tưởng hợp tác mới, góp phần thúc đẩy mối quan hệ trong khu vực.

Quan hệ ASEAN - Trung Quốc đã có những bước tiến đáng kể vào năm 2007, ảnh hưởng sâu sắc đến lĩnh vực kinh tế - thương mại cũng như chính trị - ngoại giao Vào ngày 26-27/7/2007, Trung Quốc tổ chức "Diễn đàn kinh tế Vịnh Bắc bộ mở rộng" tại Nam Ninh, đánh dấu sự phát triển trong hợp tác giữa hai bên.

Hội nghị "Cùng xây dựng tăng trưởng mới Trung Quốc - ASEAN" đã thu hút sự tham gia của nhiều quan chức và học giả từ các nước ASEAN Tại đây, các chuyên đề quan trọng được thảo luận bao gồm hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng và xây dựng khu vực tự do thương mại ASEAN - Trung Quốc Mục tiêu của Trung Quốc trong hợp tác này là thiết lập một cơ chế khu vực hoàn thiện, hướng tới hình thành một cộng đồng kinh tế khu vực Vịnh Bắc Bộ mở rộng và phát triển thành một cực phát triển kinh tế bờ Tây Thái Bình Dương Năm 2010, Hội nghị quan chức cao cấp ASEAN đã đóng góp quan trọng vào tiến trình này.

Hội nghị ASEAN - Trung Quốc diễn ra tại Việt Nam vào ngày 26-27/4/2010, là sự kiện hàng năm trong khuôn khổ quan hệ đối thoại giữa ASEAN và Trung Quốc Đây là hội nghị đầu tiên trong giai đoạn Việt Nam điều phối quan hệ này từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2012 Tại hội nghị, các nước ASEAN và Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ đối thoại, đồng thời trao đổi các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường mối quan hệ chiến lược giữa hai bên trong tương lai.

Hai bên đã thỏa thuận nhanh chóng hoàn tất chương trình hành động giai đoạn 2011 - 2015 nhằm thực hiện Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc, dựa trên kết quả của giai đoạn 2006 - 2010, cho thấy mối quan hệ ngày càng thực chất và hiệu quả Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc lần thứ 13 vào ngày 29/10/2010, hai bên khẳng định cam kết tuân thủ và thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký năm 2002, nhằm duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực Ngoài ra, hai bên cũng nhất trí tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa trong năm 2011 để kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc, đánh dấu năm 2011 là năm giao lưu và hữu nghị ASEAN - Trung Quốc.

2.2.2 Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại

Sau khi ASEAN và Trung Quốc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, hai bên đã ghi nhận nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực kinh tế và thương mại.

Năm 2003, ASEAN và Trung Quốc đã ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện nhằm thúc đẩy cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng trong chương trình thu hoạch sớm (EHP) Tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 11/2004, hai bên đã ký các Hiệp định về thương mại hàng hóa và Cơ chế giải quyết tranh chấp Ngày 1/7/2005, Trung Quốc và 6 nước ASEAN cũ đã cắt giảm thuế quan đối với 7455 loại hàng hóa Đến năm 2010, Trung Quốc và các nước này sẽ áp dụng mức thuế quan bằng không cho hầu hết hàng hóa, trong khi các nước ASEAN mới sẽ thực hiện điều này vào năm 2015.

Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc lần thứ 10 diễn ra tại Cebu, Philippines vào tháng 1/2007, hai bên đã ký Hiệp định thương mại dịch vụ và chính thức thực hiện từ tháng 7/2007 Vào tháng 10/2007, các Bộ trưởng ASEAN và Trung Quốc đã tổ chức cuộc họp đầu tiên về kiểm dịch, kiểm tra và giám sát chất lượng nhằm tăng cường hợp tác trong an toàn thực phẩm, thúc đẩy giao thương thực phẩm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Ngoài ra, hai bên cũng đạt được nhiều tiến bộ trong hợp tác tài chính, bao gồm việc thiết lập mạng lưới giám sát dòng vốn, nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm và từng bước xây dựng thị trường trái phiếu quốc gia và khu vực, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác tổng kết tình hình kinh tế và đối thoại tài chính.

Vào tháng 3 năm 2009, Bộ trưởng Bộ Tài chính ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận thành lập Kho dự trữ ngoại tệ khu vực trị giá 120 tỷ USD, trong đó Trung Quốc và Nhật Bản mỗi nước đóng góp 34,4 tỷ USD, Hàn Quốc 19,4 tỷ USD, phần còn lại do ASEAN đảm nhận, nhằm hỗ trợ các quốc gia trong khu vực đối phó với tình trạng thiếu tiền mặt Ngày 15 tháng 8 năm 2009, ASEAN và Trung Quốc đã ký Hiệp định đầu tư để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư từ các nước trong khu vực, tiến tới tự do hóa đầu tư giữa hai bên trong tương lai.

Trung Quốc và ASEAN đang phát triển quan hệ hợp tác đa dạng trong nhiều lĩnh vực, bao gồm hợp tác tiểu vùng, giao thông, năng lượng, văn hóa, sức khỏe cộng đồng, du lịch và an toàn thực phẩm.

Kể từ khi Hiệp định khung ACFTA có hiệu lực vào ngày 1/1/2003, kim ngạch thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đã liên tục tăng trưởng Năm 2003, kim ngạch thương mại đạt 78,25 tỷ USD, tăng 42,8% so với năm 2002, vượt xa các đối tác thương mại lớn như Nhật Bản và Mỹ Đến năm 2005, kim ngạch thương mại song phương đạt 130,4 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2004 Năm 2006, con số này tiếp tục tăng lên 160,8 tỷ USD, tương ứng với mức tăng 23,4% Năm 2007, kim ngạch thương mại đạt 202 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2006, và đến năm 2008, con số này đã lên tới 231 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2007.

Và theo ước tính, kim ngạch thương mại ASEAN - Trung Quốc năm 2010 sẽ đạt trên 250 triệu USD.

NHẬN XÉT VỀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ASEAN -

Ngày đăng: 04/10/2021, 17:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] ASEAN - Trung Quốc tăng cường hợp tác, http://www.nciec.gov.vn/index.nciec?1422 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ASEAN - Trung Quốc tăng cường hợp tác
[2] Lê Quảng Ba, (2003), “Tìm hiểu về quan niệm an ninh phi truyền thống của Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 6(52) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu về quan niệm an ninh phi truyền thống của Trung Quốc”, "Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: Lê Quảng Ba
Năm: 2003
[4] Nguyễn Phương Bình, (2000), “Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên và đối với khu vực CA-TBD”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò của ASEAN đối với các nước thành viên và đối với khu vực CA-TBD”, "Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế
Tác giả: Nguyễn Phương Bình
Năm: 2000
[5] Bộ Ngoại giao - Vụ ASEAN, (1998), Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Tác giả: Bộ Ngoại giao - Vụ ASEAN
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1998
[6] Nguyễn Hữu Cát - Trịnh Mai Hoa, (1996), “Quan hệ Trung Quốc - ASEAN phát triển, một nhân tố quan trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 02(6) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Trung Quốc - ASEAN phát triển, một nhân tố quan trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại”, "Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: Nguyễn Hữu Cát - Trịnh Mai Hoa
Năm: 1996
[7] Hồ Châu, (2006), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc quá trình hình thành và triển vọng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc quá trình hình thành và triển vọng
Tác giả: Hồ Châu
Nhà XB: Nxb Lý luận Chính trị
Năm: 2006
[8] “Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thế kỉ mới (Bài phát biểu của Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lí Triều Tinh tại “Diễn đàn quốc tế Trung Quốc và thế giới thế kỉ XXI” (ngày 12/09/2001)”, Tài liệu tham khảo đặc biệt (TTXVN), ngày 01/10/2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thế kỉ mới (Bài phát biểu của Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lí Triều Tinh tại “Diễn đàn quốc tế Trung Quốc và thế giới thế kỉ XXI” (ngày 12/09/2001)”, "Tài liệu tham khảo đặc biệt (TTXVN)
[9] “Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Đông Nam Á (2000), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Đông Nam Á (2000), "Kỷ yếu hội thảo khoa học
Tác giả: “Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Đông Nam Á
Năm: 2000
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987), Văn kiện Đại hội VI, Nxb Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội VI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Sự thật
Năm: 1987
[11] Trần Văn Độ, (2002), Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những sự kiện 1991 - 2000, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những sự kiện 1991 - 2000
Tác giả: Trần Văn Độ
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 2002
[12] Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Hữu Cát - Nguyễn Thị Quế, (2008), Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hoàng Giáp - Nguyễn Hữu Cát - Nguyễn Thị Quế
Nhà XB: Nxb Lý luận Chính trị
Năm: 2008
[13] Vũ Văn Hà (Chủ biên), (2007), Quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam
Tác giả: Vũ Văn Hà (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 2007
[14] Nguyễn Minh Hằng, (1996), Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời mở cửa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời mở cửa
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1996
[15] Nguyễn Minh Hằng, (1999), “Trung Quốc với sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN, Tác dụng tích cực và những nhân tố không ổn định”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 1(23) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trung Quốc với sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN, Tác dụng tích cực và những nhân tố không ổn định”, "Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: Nguyễn Minh Hằng
Năm: 1999
[16] Dương Phú Hiệp, (2007), “Vài nét về đặc điểm quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 1(68) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài nét về đặc điểm quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc”, "Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: Dương Phú Hiệp
Năm: 2007
[17] Hiệp định FTA ASEAN - Trung Quốc: Khu vực mậu dịch lớn nhất thế giới đón luồng gió mới, Sở Ngoại vụ Hà Giang,http://ngoaivuhagiang.gov.vn/home/nc81/tintuc-1799/Hiep-dinh-fta-asean-trung-quoc-khu-vuc-mau-dich-lon-nhat-the-gioi-don-luong-gio-moi.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệp định FTA ASEAN - Trung Quốc: Khu vực mậu dịch lớn nhất thế giới đón luồng gió mới
[18] “Nguyễn Phương Hoa, (2001), “Quan hệ Trung Quốc - ASEAN năm 2000”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 03(37) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Phương Hoa, (2001), “Quan hệ Trung Quốc - ASEAN năm 2000”, "Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: “Nguyễn Phương Hoa
Năm: 2001
[19] Học viện Ngoại giao - Hội Luật gia Việt Nam, (2009), Hội thảo khoa học quốc tế Biển Đông: Tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo khoa học quốc tế Biển Đông: Tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực
Tác giả: Học viện Ngoại giao - Hội Luật gia Việt Nam
Năm: 2009
[20] Nguyễn Huy Huý, (2002), “Quan hệ hữu nghị Việt - Trung hướng tới thế kỉ mới”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, Số 05(45) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ hữu nghị Việt - Trung hướng tới thế kỉ mới”, "Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc
Tác giả: Nguyễn Huy Huý
Năm: 2002
[85] Website Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=12956517&Ne ws_ID=211154504[86] Website Việt báo,http://vietbao.vn/Chinh-Tri/Hoi-nghi-cap-cao-ky-niem-15-nam-Quan-he-doi-thoai-ASEANTrung-Quoc/65071875/96/ Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2. Lịch trỡnh giảm thuế đối với Việt Nam - Tác động của quan hệ hiệp hội các nước đông nam á (asean)   trung quốc đối với quan hệ việt   trung từ 1991 đến nay
Bảng 2. Lịch trỡnh giảm thuế đối với Việt Nam (Trang 78)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w