NỘI DUNG
Dầu Tiếng, một huyện thuộc tỉnh Bình Dương, nổi tiếng với vùng cao su rộng lớn Sự nổi bật của cây cao su ở Dầu Tiếng không chỉ đến từ yếu tố tự nhiên mà còn do ảnh hưởng của lịch sử Để cây cao su phát triển tốt, cần có đất đai phù hợp, và vùng đất cao su Dầu Tiếng được hình thành từ đất xám bình nguyên, bồi đắp bởi hai con sông lớn: sông Sài Gòn và sông Thị Tính Hai con sông này tạo thành một vùng chữ V ôm lấy Dầu Tiếng, không chỉ cung cấp nguồn nước mà còn giúp vùng đất này trở thành biểu tượng của sự chiến thắng và phát triển bền vững cho cây cao su.
Huyện Dầu Tiếng nằm ở phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Đông giáp huyện Bàu Bàng, phía Tây giáp Thị xã Bến Cát, phía Tây và Tây Nam giáp hồ Dầu Tiếng và tỉnh Tây Ninh, còn phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh Huyện có tổng diện tích 719 km² Để đến Dầu Tiếng bằng đường bộ, điểm khởi đầu sẽ là Thị trấn Dầu.
Tiếng nằm trên tỉnh lộ DT 744, cách Thành Phố Thủ Dầu Một 50 km về hướng tây bắc và 7 km về hướng Nam từ hồ Dầu Tiếng Huyện Dầu Tiếng có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm Thị trấn Dầu Tiếng (huyện lỵ) và 11 xã: An Lập, Định An, Định Hiệp, Định Thành, Long Hòa, Long Tân, Minh Hòa, Minh Tân, Minh Thạnh, Thanh An, và Thanh Tuyền.
Vùng cao su Dầu Tiếng tọa lạc dọc theo lưu vực tả ngạn sông Sài Gòn, hướng tây bắc huyện Bến Cát Kể từ năm 1987, khu vực này đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trung tâm sản xuất cao su quan trọng của tỉnh Bình Dương.
KHÁI QUÁT HUYỆN DẦU TIẾNG
Con người Dầu Tiếng
Chương 2: Hình thành và phát triển đồn điền cao su thời Pháp thuộc (1917-
2.1 Đồn điền cao su Dầu Tiếng đấu tranh chống phá khỏi xiềng xích (1917 -
2.1.1 Dấn thân vào kiếp công tra
2.1.2 Người công nhân đồn điền cao su Dầu Tiếng vùng dậy đấu tranh
2.2 Quá trình đồn điền cao su Dầu Tiếng đấu tranh chống Pháp (1945 –
2.2.1 Những ngày đầu độc lập
2.2.2 Đồn điền và căn cứ kháng chiến
2.2.3 Đấu tranh đòi cơm áo, đòi độc lập
2.3 Những đóng góp của đồn điền cao su Dầu Tiếng
2.3.1 Đóng góp trong kinh tế
2.3.2 Đóng góp trong văn hóa
2.3.3 Đóng góp trong xã hội
Chương 3: Vườn cao su Pháp thuộc giá trị lịch sử và thời đại
3.1 Giá trị lịch sử vườn cao su Pháp thuộc
3.2 Những đóng góp của đồn điền cao su Pháp thuộc trong giai đoạn hiện nay
B NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT HUYỆN DẦU TIẾNG 1.1 VÙNG ĐẤT DẦU TIẾNG
Dầu Tiếng, huyện thuộc tỉnh Bình Dương, nổi tiếng với vùng cao su rộng lớn Sự nổi bật của cây cao su ở đây không chỉ do yếu tố tự nhiên mà còn được hình thành qua quá trình lịch sử Để cây cao su phát triển tốt, cần có đất đai thích hợp, và Dầu Tiếng sở hữu đất xám bình nguyên được bồi đắp từ hai con sông Sài Gòn và Thị Tính Hai con sông này tạo thành một vùng chữ V ôm lấy Dầu Tiếng, không chỉ cung cấp điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây cao su mà còn trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, góp phần làm cho Dầu Tiếng trở thành địa điểm đáng nhớ trong lòng người.
Huyện Dầu Tiếng nằm ở phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Đông giáp huyện Bàu Bàng, phía Tây giáp Thị xã Bến Cát, phía Tây và Tây Nam giáp hồ Dầu Tiếng và tỉnh Tây Ninh, còn phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh Huyện có diện tích 719 km², và nếu muốn đến Dầu Tiếng bằng đường bộ, điểm đến đầu tiên sẽ là Thị trấn Dầu.
Tiếng nằm trên tỉnh lộ DT 744, cách Thành Phố Thủ Dầu Một 50 km về hướng tây bắc và 7 km về phía nam hồ Dầu Tiếng Huyện Dầu Tiếng có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm Thị trấn Dầu Tiếng (huyện lỵ) và 11 xã: An Lập, Định An, Định Hiệp, Định Thành, Long Hòa, Long Tân, Minh Hòa, Minh Tân, Minh Thạnh, Thanh An, và Thanh Tuyền.
Vùng cao su Dầu Tiếng tọa lạc dọc theo lưu vực tả ngạn sông Sài Gòn, hướng về phía tây bắc huyện Bến Cát Kể từ năm 1987, khu vực này đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những vùng trồng cao su lớn nhất tại Việt Nam.
Khu vực này nằm trong huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương và một phần huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước, với tổng diện tích tự nhiên là 48.300 hécta Trong đó, diện tích trồng cây cao su đạt 22.962 hécta Phía bắc giáp hồ thủy lợi Dầu Tiếng (tỉnh Tây Ninh), phía nam giáp thị trấn Bến Cát, phía đông giáp Chơn Thành huyện Bình Long, và phía tây là sông Sài Gòn, đánh dấu ranh giới giữa huyện Bến Cát và huyện Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh) Hiện nay, diện tích đã được mở rộng gần 29.000 hécta, chiếm 60% tổng diện tích tự nhiên của huyện, với sản lượng mủ đạt gần 50.000 tấn mỗi năm, tạo việc làm cho 24.000 công nhân.
Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam, họ đã tiến hành bóc lột tài nguyên một cách triệt để, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ nhất, khi vốn đầu tư vào Việt Nam gia tăng nhanh chóng Pháp đầu tư mạnh vào khai thác mỏ, đặc biệt là than, với sự ra đời của nhiều công ty khai thác mới bên cạnh các công ty cũ Ngoài than, họ cũng khai thác thiếc, chì, và kẽm tại Cao Bằng, đồng thời mở rộng cơ sở công nghiệp tại Hà Nội, Hải Phòng, Vinh và Sài Gòn - Chợ Lớn Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực dân Pháp đã cướp đoạt ruộng đất của nông dân và lập đồn điền, chủ yếu là đồn điền cao su, với vốn đầu tư vào cao su đạt 40 triệu phơ-răng vào năm 1919, tăng 24 triệu phơ-răng so với năm trước.
Từ năm 1909 đến 1924, số vốn đầu tư vào ngành cao su tăng lên 100 triệu Phơ – răng, và trong những năm tiếp theo, số vốn này tiếp tục tăng gấp đôi, gấp ba so với năm 1924 Diện tích trồng cao su cũng tăng mạnh, từ 15.000 héc – ta năm 1924 lên 90.225 héc – ta vào năm 1929 Sản lượng nhựa cao su được sản xuất cũng tăng nhanh chóng trong giai đoạn này.
Năm 1915, sản lượng nhựa chỉ đạt 3.519 tấn, nhưng đến năm 1929, con số này đã tăng lên 10.309 tấn Sau năm 1930, diện tích khai thác và sản lượng cao su tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều công ty cao su tại miền Đông Nam Bộ.
Các công ty cao su tại Đông Nam Bộ đã được thành lập từ sớm, bắt đầu với Công ty Síp (S.I.P.H Société Indochinoise de Plantations d'Héréas) vào năm 1906 Tiếp theo là Công ty Đồng Nai (Les caoutchoucs du Donai), ban đầu mang tên hãng Bít Công ty cao su Đất Đỏ (Plantations des Terres Rouges) được thành lập vào năm 1908 với trung tâm tại Quản Lợi Cuối cùng, Công ty Mít – sơ – lanh (Société des plantations et pneumatiques Michelin au Việt) cũng đã góp mặt trong ngành cao su tại khu vực này.
Công ty cao su Dầu Tiếng, ra đời năm 1917, có quy mô lớn với trụ sở tại đồn điền Dầu Tiếng, chuyên trồng cao su trên đất xám gần khu vực nông dân Chủ công ty là Đờlaphông, Tổng thanh tra, đã xây dựng nhà máy sản xuất săm lốp xe đạp và xe hơi từ mủ cao su khai thác Từ 1917 đến 1935, công ty phát triển hai đồn điền lớn là Dầu Tiếng và Phú Riềng, sau đó là đồn điền Thuận Lợi Ngoài ra, công ty Xét – xô được thành lập năm 1911 dưới sự quản lý của tư bản Pháp Đờ – la – lăng, cùng với các công ty khác như Lắp – be, Tây Ninh và Thành Tuy Hạ, hầu hết đều do người Pháp làm chủ Từ 1906 đến 1960, nhờ vào sức lao động của công nhân, nhiều đồn điền lớn nhỏ đã được phát triển, khai thác tổng cộng 105.000 hécta cao su, hình thành bốn công ty lớn nhất là TERRES – ROUGES, SIPH, CEXO và MICHELIN.
Công ty Michelin, một công ty cao su của Pháp, được thành lập tại huyện Dầu Tiếng, nơi trước đây chỉ là rừng già với nhiều cây và gỗ quý Tên gọi Dầu Tiếng có nhiều cách giải thích, trong đó có ý kiến cho rằng "Dầu Tiếng" xuất phát từ cây dầu rái, được người Hoa gọi là "thổ long mộc" do chất nhựa dễ bén lửa Theo truyền thuyết, tên gọi Thủ Dầu Một có nguồn gốc từ việc nơi đây có cây dầu cao lớn, gọi là "Dầu một", nằm gần đồn để kiểm soát Dầu Tiếng nổi tiếng với cây dầu và từng là vùng hoang vu, với rừng cây dày đặc bên bờ sông Sài Gòn, nơi có một cây dầu lớn tạo thành cầu tự nhiên cho ghe thuyền.
Dầu Tiếng, nổi tiếng với cây “dầu”, là vùng đất có địa hình biến đổi từ cao đến thấp, với gò đồi nhấp nhô và dãy núi Cậu ở phía bắc Nơi đây nằm trên vùng bán bình nguyên với đất phù sa cổ, lớp đất mặt màu xám nâu và tỷ lệ cát cao Khí hậu Dầu Tiếng ôn hòa, ít thiên tai, nhiệt độ trung bình khoảng 27°C, với 500 – 700 giờ nắng và lượng mưa khoảng 2.200mm/năm Đặc biệt, khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế và cây trồng nhiệt đới.
Trên thế giới, các cuộc đại chiến như Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại Những cuộc chiến này không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế và xã hội của nhiều quốc gia mà còn tác động lớn đến chính trị toàn cầu Đặc biệt, Pháp là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), đế quốc Pháp, mặc dù là nước thắng trận, đã phải đối mặt với những tổn thất nặng nề, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế Các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và giao thông vận tải đều giảm sút nghiêm trọng Đầu tư vào Nga bị mất trắng, đồng Phrăng sụt giá, và Pháp gánh chịu một khoản nợ lớn tính đến năm 1980.
Năm 1920, Pháp phải đối mặt với khoản nợ 300 tỷ Phơrăng, buộc họ phải khai thác thuộc địa, trong đó có Việt Nam, để bù đắp thiệt hại sau Chiến tranh thế giới thứ nhất Việt Nam trở thành một nguồn cung cấp quan trọng cho Pháp, với nhu cầu cao về nguyên liệu như cao su và nhiên liệu như than đá Điều kiện tự nhiên phong phú cùng với nguồn lao động dồi dào và giá rẻ tại Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp trong việc khai thác tài nguyên, củng cố nền kinh tế và vị thế của họ trên trường quốc tế.
11 kiện đã thu hút Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần hai tại Việt Nam
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐỒN ĐIỀN CAO SU THỜI PHÁP THUỘC (1917 - 1954)
ĐỒN ĐIỀN CAO SU DẦU TIẾNG ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁ KHỎI XIỀNG XÍCH (1917 -1945)
2.1.1 Dấn thân vào kiếp công tra
2.1.2 Người công nhân đồn điền cao su Dầu Tiếng vùng dậy đấu tranh
QUÁ TRÌNH ĐỒN ĐIỀN CAO SU DẦU TIẾNG ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP (1945 – 1954)
2.2.1 Những ngày đầu độc lập
2.2.2 Đồn điền và căn cứ kháng chiến
2.2.3 Đấu tranh đòi cơm áo, đòi độc lập
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỒN ĐIỀN CAO SU DẦU TIẾNG
2.3.1 Đóng góp trong kinh tế
2.3.2 Đóng góp trong văn hóa
2.3.3 Đóng góp trong xã hội
Chương 3: Vườn cao su Pháp thuộc giá trị lịch sử và thời đại
3.1 Giá trị lịch sử vườn cao su Pháp thuộc
3.2 Những đóng góp của đồn điền cao su Pháp thuộc trong giai đoạn hiện nay
B NỘI DUNG Chương 1 KHÁI QUÁT HUYỆN DẦU TIẾNG 1.1 VÙNG ĐẤT DẦU TIẾNG
Dầu Tiếng, huyện thuộc tỉnh Bình Dương, nổi tiếng với vùng cao su rộng lớn Sự phát triển của cây cao su tại đây không chỉ nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi mà còn do ảnh hưởng của lịch sử Đất xám bình nguyên, được bồi đắp từ sông Sài Gòn và sông Thị Tính, tạo ra môi trường lý tưởng cho cây cao su phát triển Hai con sông này không chỉ bao quanh vùng cao su Dầu Tiếng mà còn biểu tượng cho sự thịnh vượng và chiến thắng, góp phần làm cho nơi đây trở thành một điểm đến nổi bật trong lòng người dân.
Huyện Dầu Tiếng nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Đông giáp huyện Bàu Bàng, phía Tây giáp Thị xã Bến Cát và hồ Dầu Tiếng, còn phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh Với diện tích 719 km², Dầu Tiếng là một điểm đến dễ dàng tiếp cận bằng đường bộ qua Thị trấn Dầu.
Tiếng nằm trên tỉnh lộ DT 744, cách Thành Phố Thủ Dầu Một 50 km về hướng tây bắc và cách hồ Dầu Tiếng 7 km về hướng Nam Huyện Dầu Tiếng có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm Thị trấn Dầu Tiếng (huyện lỵ) và 11 xã: An Lập, Định An, Định Hiệp, Định Thành, Long Hòa, Long Tân, Minh Hòa, Minh Tân, Minh Thạnh, Thanh An, Thanh Tuyền.
Vùng cao su Dầu Tiếng tọa lạc ven bờ tả ngạn sông Sài Gòn, trải dài về phía tây bắc huyện Bến Cát Kể từ năm 1987, khu vực này đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất cao su quan trọng tại Việt Nam.
Diện tích của huyện Bến Cát (tỉnh Bình Dương) và một phần huyện Bình Long (tỉnh Bình Phước) là 48.300 hécta, trong đó có 22.962 hécta trồng cao su Huyện này tiếp giáp hồ thủy lợi Dầu Tiếng ở phía bắc, thị trấn Bến Cát ở phía nam, Chơn Thành huyện Bình Long ở phía đông và sông Sài Gòn ở phía tây, tạo thành ranh giới với huyện Củ Chi (thành phố Hồ Chí Minh) Đến nay, diện tích đã được mở rộng gần 29.000 hécta, chiếm 60% tổng diện tích tự nhiên của huyện, với sản lượng mủ đạt gần 50.000 tấn mỗi năm, tạo việc làm cho 24.000 công nhân.
Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam, họ đã tiến hành bóc lột tài nguyên và khai thác thuộc địa một cách triệt để Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, vốn đầu tư của Pháp vào Việt Nam tăng nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp với sự đầu tư lớn vào khai thác hầm mỏ, chủ yếu là than Ngoài việc duy trì các công ty khai thác than cũ, Pháp còn thành lập nhiều công ty mới và mở rộng khai thác các khoáng sản khác như thiếc, chì, và kẽm tại Cao Bằng, đồng thời phát triển thêm các cơ sở công nghiệp tại Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, và Sài Gòn – Chợ Lớn Trong lĩnh vực nông nghiệp, thực dân Pháp đã cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập đồn điền, chủ yếu là cao su, với vốn đầu tư vào cao su năm 1919 đạt 40 triệu phơ-răng, tăng 24 triệu phơ-răng so với năm trước.
Từ năm 1909 đến 1924, số vốn đầu tư vào ngành cao su đã tăng lên 100 triệu Phơ – răng Những năm tiếp theo, vốn tiếp tục tăng gấp đôi, gấp ba so với năm 1924, kéo theo diện tích trồng cao su cũng tăng mạnh Cụ thể, vào năm 1924, diện tích trồng chỉ đạt 15.000 héc – ta, nhưng đến năm 1929, con số này đã vọt lên 90.225 héc – ta Sản lượng nhựa cao su cũng tăng nhanh chóng trong giai đoạn này.
Năm 1915, sản lượng nhựa chỉ đạt 3.519 tấn, nhưng đến năm 1929, con số này đã tăng lên 10.309 tấn Sau năm 1930, diện tích khai thác và sản lượng cao su tiếp tục gia tăng đáng kể, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều công ty cao su tại miền Đông Nam Bộ.
Các công ty cao su tại Đông Nam Bộ đã được thành lập từ đầu thế kỷ 20, bao gồm Công ty Síp (S.I.P.H.) từ năm 1906, Công ty Đồng Nai (Les caoutchoucs du Donai) ban đầu mang tên hãng Bít, Công ty cao su Đất Đỏ (Plantations des Terres Rouges) ra đời năm 1908 với trung tâm tại Quản Lợi, và Công ty Mít – sơ – lanh (Société des plantations et pneumatiques Michelin au Việt).
Công ty cao su Dầu Tiếng, ra đời năm 1917, chuyên trồng cao su tại vùng đất xám, do Đờlaphông làm chủ và kiêm Tổng thanh tra Trong giai đoạn từ 1917 đến 1935, công ty đã xây dựng hai đồn điền lớn là Dầu Tiếng và Phú Riềng, cùng với đồn điền Thuận Lợi sau này Ngoài ra, Công ty Xét – xô được thành lập năm 1911 dưới sự quản lý của tư bản Pháp Đờ – la – lăng, và Công ty Lắp – be có trụ sở tại Phước Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một Công ty Tây Ninh và Công ty Thành Tuy Hạ cũng là những công ty cao su nhỏ, với chủ yếu là lao động địa phương Từ năm 1906 đến 1960, nhờ sự lao động của công nhân, nhiều đồn điền lớn nhỏ đã được phát triển, khai thác tổng cộng 105.000 hécta cao su, trong đó nổi bật là bốn công ty lớn: TERRES – ROUGES, SIPH, CEXO, và MICHELIN.
Công ty Michelin, một doanh nghiệp cao su của Pháp, được thành lập tại huyện Dầu Tiếng, nơi trước đây chỉ là rừng già với nhiều cây và gỗ quý Tên gọi Dầu Tiếng có nhiều cách giải thích, trong đó có ý kiến cho rằng "Dầu Tiếng" xuất phát từ cây dầu rái, được người Hoa gọi là "thổ long mộc" do có nhựa dễ bén lửa Theo truyền thuyết, tên gọi Thủ Dầu Một xuất phát từ việc vùng đất này có cây dầu cao lớn, được gọi là “Dầu một”, gần nơi kiểm soát canh giữ (thủ) Thời kỳ đó, Dầu Tiếng là chốn hoang vu, rừng cây chủ yếu là cây dầu rậm rạp bên bờ sông Sài Gòn, trong đó có một cây dầu lớn nằm ngang dòng sông, tạo thành cầu tự nhiên cho ghe thuyền qua lại.
Dầu Tiếng, nổi tiếng với cây "dầu", là vùng đất có địa hình đa dạng từ cao đến thấp, với những gò đồi nhấp nhô và dãy núi Cậu ở phía bắc Khu vực này nằm trên bán bình nguyên được hình thành từ đất phù sa cổ, có lớp đất mặt màu xám nâu và tỷ lệ cát cao Khí hậu Dầu Tiếng tương đối ôn hòa, ít thiên tai, với nhiệt độ trung bình khoảng 27°C và độ ẩm từ 75% đến 80% Nơi đây có mùa khô và mùa mưa rõ rệt, với 500 – 700 giờ nắng và lượng mưa khoảng 2.200mm mỗi năm, rất thích hợp cho phát triển cây trồng nhiệt đới.
Trên thế giới, các cuộc đại chiến như Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại Nhiều quốc gia, trong đó có Pháp, đã phải gánh chịu những tác động nặng nề về kinh tế, xã hội và chính trị Những ảnh hưởng này không chỉ thay đổi cục diện của các quốc gia mà còn định hình lại quan hệ quốc tế trong suốt thế kỷ 20.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), đế quốc Pháp, mặc dù là nước thắng trận, nhưng đã chịu tổn thất nặng nề với sự tàn phá nghiêm trọng trong nền kinh tế Các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và giao thông vận tải đều giảm sút đáng kể Đặc biệt, các khoản đầu tư vào Nga bị mất trắng và đồng Phrăng đã mất giá, dẫn đến việc Pháp phải gánh chịu một khoản nợ lớn.
Năm 1920, Pháp đối mặt với khoản nợ 300 tỷ Phơrăng, dẫn đến việc họ bóc lột nhân dân lao động trong nước và khai thác thuộc địa để bù đắp thiệt hại sau chiến tranh Việt Nam, một trong những thuộc địa của Pháp, không thể tránh khỏi sự khai thác này Sau Thế chiến thứ nhất, Pháp cần thuộc địa và thị trường tiêu thụ để củng cố nền kinh tế và vị thế toàn cầu Nhu cầu về nguyên liệu như cao su và nhiên liệu như than đá gia tăng, trong khi Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào và chi phí nhân công thấp.
11 kiện đã thu hút Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần hai tại Việt Nam