1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

NCKH_Tổ chức thực hiện luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Những khó khăn và kiến nghị nhằm hoàn thiện

61 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 61
Dung lượng 76,79 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài

  • 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

  • 3. Mục tiêu nghiên cứu

  • 4. Phạm vi nghiên cứu

  • 5. Phương pháp nghiên cứu

  • 6. Kết cấu đề tài

  • CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

    • 1. Khái niệm về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

      • 1.1. Khái niệm

      • 1.2. Đặc điểm

      • 1.3. Phân loại

    • 2. Phân biệt Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Bộ luật Dân sự

    • 3. Mục đích, ý nghĩa của chế định Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

  • CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

    • 1. Quá trình ban hành pháp luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

    • 2. Nội dung pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

      • 2.1. Nguyên tắc bồi thường

      • 2.2. Các chủ thể trong quan hệ bồi thường

      • 2.4. Các trường hợp được bồi thường

      • 2.5. Thiệt hại được bồi thường

      • 2.6. Cơ quan giải quyết bồi thường

      • 2.7. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường

      • 2.8. Kinh phí bồi thường và thủ tục chi trả

      • 2.9. Về trách nhiệm hoàn trả

  • CHƯƠNG III: TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

    • 1. Khái quát tình hình và hệ thống tổ chức thực hiện pháp luật bồi thường của nhà nước ở Việt Nam

      • 1.1. Tổ chức thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước2009

      • 1.2. Tổ chức thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017

    • 2. Những kết quả đạt được

      • 2.1. Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước và nghiệp vụ giải quyết bồi thường

      • 2.2. Công tác hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường, giải đáp vướng mắc pháp luật, cung cấp thông tin hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường

      • 2.3. Công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết bồi thường, chi trả tiền bồi thường

      • 2.4. Tình hình tuân thủ pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

      • 2.5. Kết quả giải quyết bồi thường và thực hiện trách nhiệm hoàn trả

  • CHƯƠNG IV: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

    • 1. Một số nhận xét về pháp luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

    • 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Bài nghiên cứu khoa học thuộc ngành luật. Đề tài: Tổ chức thực hiện luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước. Những khó khăn và kiến nghị nhằm hoàn thiệnĐề tài phân tích về việc thực hiện luật trách nhiệm bồi thường nhà nước trên thực tế. Đồng thời chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và đưa ra kiến nghị cần hoàn thiện.

Tính cấp thiết của đề tài

Nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, đang xây dựng nhà nước pháp quyền, nơi mọi cá nhân, tổ chức và cả nhà nước đều phải tôn trọng pháp luật và bảo vệ quyền con người Một vấn đề nhức nhối là việc xử lý thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra cho công dân, điều này ảnh hưởng đến tiến trình hình thành nhà nước pháp quyền Việc ban hành đạo luật quy định chi tiết về trách nhiệm bồi thường là cần thiết để ngăn chặn tham nhũng và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ban hành lần đầu vào năm 2009 và thay thế bởi Luật năm 2017, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trong thủ tục, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền lợi của công dân Nghiên cứu này nhằm tìm ra biện pháp khắc phục những bất cập trong việc thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật trước đây, nhưng được cụ thể hóa với sự ra đời của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 Kể từ đó, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm và có nhiều bài viết nghiên cứu sâu sắc.

Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đỗ Kiên, năm 2014, tập trung vào việc thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước do công chức cơ quan hành chính nhà nước gây ra ở Việt Nam Nghiên cứu này phân tích các khía cạnh pháp lý và thực tiễn liên quan đến trách nhiệm bồi thường, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và bảo vệ quyền lợi của công dân.

- Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự”, tác giả Hoàng Thị Hoài, năm 2015.

- Luận văn thạc sĩ “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướctrong lĩnh vực quản lý thuế”, tác giả Cù Phương Thúy, năm 2014.

Bài viết của Nguyễn Thị Tươi, thuộc Cục Bồi thường Nhà nước, nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng phạm vi Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước (sửa đổi) Việc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho công dân và tăng cường tính công bằng trong hệ thống pháp luật Thông qua việc sửa đổi, Nhà nước sẽ có trách nhiệm rõ ràng hơn trong việc bồi thường thiệt hại, góp phần nâng cao niềm tin của người dân vào chính quyền.

Mặc dù nhiều bài viết đã nghiên cứu về Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, nhưng hầu hết đều tập trung vào khía cạnh nhà nước và thiếu chú trọng đến những khó khăn của người bị thiệt hại trong việc áp dụng pháp luật Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, do mới được ban hành, cũng chưa được nghiên cứu nhiều Bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào những vướng mắc trong yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại và thực thi pháp luật theo Luật 2017, đồng thời đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật, nhằm đảm bảo tính công bằng và chính xác trong quá trình thực thi.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích cơ sở lý luận về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đồng thời xem xét các quy định liên quan thông qua hai đạo luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và 2017 Nghiên cứu sẽ chỉ ra những bất cập và hạn chế trong pháp luật Việt Nam hiện hành, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu có sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm:

● Phương pháp tổng hợp thông tin, tài liệu:

Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã thu thập thông tin từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật, cũng như các bài viết trên các trang web chuyên môn Qua việc tổng hợp và chọn lọc từ nhiều nguồn khác nhau, nhóm đã xác định và sử dụng những thông tin phù hợp cho đề tài nghiên cứu.

Bài nghiên cứu tiến hành so sánh giữa pháp luật mới và cũ, chỉ ra sự khác biệt giữa các quan hệ pháp luật tương tự Từ đó, nhóm tác giả sẽ phân tích sâu vấn đề nghiên cứu, phát hiện ưu điểm cần phát huy và nhược điểm cần khắc phục trong các quy định pháp luật.

Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên những vấn đề và thông tin thu thập từ quan sát thực tế của nhóm sinh viên Qua việc đánh giá và nhìn nhận từ bên ngoài, nhóm tác giả đã xác định định hướng và phát triển nội dung cho đề tài.

Kết cấu đề tài

Bài nghiên cứu có kết cấu chính gồm 04 phần:

Chương I Những vấn đề lý luận về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Chương II Pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Chương III Tổ chức thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcChương IV Nhận xét và kiến nghị

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

Khái niệm về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Việt Nam, với tư cách là một nhà nước pháp quyền, thể hiện quyền lực của nhân dân thông qua pháp luật và các thiết chế chính trị - xã hội nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân Nhà nước phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước xã hội, và khi nhà nước pháp quyền phát triển, tính trách nhiệm này cần được nâng cao và toàn diện hơn Do đó, "Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước" đã ra đời như một khái niệm quan trọng, phản ánh yêu cầu về tính trách nhiệm trong quản lý và phục vụ nhân dân.

Nhiều quốc gia đã ban hành luật riêng về bồi thường nhà nước, như Đức với Luật Liên bang về trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 1909, Mỹ với Luật Liên bang về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước năm 1946, Nhật Bản với Luật bồi thường nhà nước năm 1947, và Trung Quốc với Luật nhà nước bồi thường thiệt hại năm 1994 Học hỏi từ kinh nghiệm của các nước này, Việt Nam đã xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ và cải thiện chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước.

2009 Tuy nhiên, hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào định nghĩa về thuật ngữ

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là một khái niệm quan trọng trong việc thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Để nghiên cứu và phân tích các vấn đề liên quan đến tổ chức thực hiện luật này, trước tiên, cần hiểu rõ Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là gì.

Mặc dù chưa có văn bản pháp lý cụ thể định nghĩa Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, nhưng đã có nhiều khái niệm từ cá nhân và tổ chức được đề xuất sau quá trình nghiên cứu về vấn đề này.

Trách nhiệm bồi thường nhà nước, theo Th.S Nguyễn Minh Oanh từ Khoa Pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội, được định nghĩa là một loại trách nhiệm dân sự Theo đó, khi một cá nhân vi phạm nghĩa vụ pháp lý và gây tổn hại cho người khác, họ có nghĩa vụ phải bồi thường những thiệt hại mà mình đã gây ra.

Theo T.S Trần Thái Dương từ Đại học Luật Hà Nội, trách nhiệm bồi thường nhà nước là nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước phải thực hiện để bồi thường cho cá nhân hoặc tổ chức bị thiệt hại do hành vi của người thi hành công vụ gây ra.

Theo PGS, TS Trịnh Đức Thảo, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể được phân tích theo hai khía cạnh lý luận: trách nhiệm trực tiếp và trách nhiệm thay thế.

Lý thuyết trách nhiệm trực tiếp khẳng định rằng hành vi của công chức chính là hành vi của Nhà nước Do đó, khi công chức thực hiện hành vi gây hại, trách nhiệm sẽ thuộc về Nhà nước, cho thấy rằng mọi hành động của công chức đều có thể ảnh hưởng đến uy tín và trách nhiệm của Nhà nước.

Lý thuyết về trách nhiệm thay thế cho rằng, mặc dù công chức nhà nước đại diện cho nhà nước, nhưng hành vi của họ không phải là hành vi của nhà nước Do đó, trách nhiệm của nhà nước là trách nhiệm thay thế, nghĩa là công chức phải bồi thường thiệt hại nếu có sai sót Tuy nhiên, vì nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền công dân, nên nhà nước sẽ nhận trách nhiệm và chi trả bồi thường Công chức hành động vì lợi ích của nhà nước, do đó, nhà nước cũng phải có trách nhiệm khi công chức thực hiện hành vi công vụ, vốn tiềm ẩn rủi ro Nhà nước quy định cho công chức thực hiện các hoạt động này, nên cũng phải gánh chịu rủi ro và bồi thường thiệt hại Nếu yêu cầu công chức phải tự bồi thường, khả năng tài chính của họ sẽ khó đảm bảo, dẫn đến lo ngại trong việc thực thi công vụ và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả công việc.

1 Bài viết: “Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại”

- 05/04/2010 - Th.S Nguyễn Minh Oanh - Khoa Pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội

2 Bài viết: “Trách nhiệm bồi thường nhà nước và phân biệt với đền bù nhà nước” - 05/04/2019 - T.S Trần Thái Dương - Đại học Luật Hà Nội

3 Bài viết đăng trên TCnCLP số 113, tháng 1/2008 - PGS, TS Trịnh Đức Thảo

Trong bài viết đăng trên TCnCLP số 113, tháng 1/2008, PGS, TS Trịnh Đức Thảo nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lành mạnh trong hoạt động của nhà nước, đồng thời khẳng định rằng nhà nước cần phải chịu trách nhiệm đối với những hoạt động của mình.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước được định nghĩa là nghĩa vụ của nhà nước trong việc bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi của người thi hành công vụ gây ra trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, người thi hành công vụ là những cá nhân thực hiện nhiệm vụ công quyền.

Người thi hành công vụ là cá nhân được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức Họ đảm nhận vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án Ngoài ra, cũng có thể là những người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án.

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được xem là một loại trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng đặc biệt, có những đặc điểm và đặc trưng riêng biệt giúp nhận diện mối quan hệ này.

Thứ nhất, về chủ thể

Trong mối quan hệ về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có ba chủ thể chính: người thi hành công vụ (người làm phát sinh trách nhiệm bồi thường), nhà nước (người chịu trách nhiệm bồi thường) và người bị thiệt hại (các cá nhân, tổ chức khác) Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không thuộc về người thi hành công vụ mà thuộc về nhà nước, mặc dù hành vi gây thiệt hại là do người thi hành công vụ thực hiện Theo quy định pháp luật, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước phát sinh từ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, nhưng hành vi này không được xem là hành vi của Nhà nước.

Bài viết trong TCnCLP số 113, tháng 1/2008 của PGS, TS Trịnh Đức Thảo nêu rõ rằng việc bồi thường do nhà nước chịu trách nhiệm liên quan đến hành vi trái pháp luật gây thiệt hại bởi người thi hành công vụ là một phần không thể thiếu trong công việc của nhà nước, xuất phát từ những cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện công vụ.

Phân biệt Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Bộ luật Dân sự

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước là một hình thức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự, được gọi tắt là trách nhiệm bồi thường dân sự Loại trách nhiệm pháp lý này không chỉ có những đặc điểm chung với bồi thường trách nhiệm dân sự mà còn sở hữu những yếu tố riêng biệt, tạo nên sự khác biệt trong quy định và thực hiện trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

Thứ nhất, về chủ thể gây thiệt hại

Trong Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, chủ thể gây thiệt hại là người thi hành công vụ hoặc cá nhân đại diện cho Nhà nước Ngược lại, trong trách nhiệm bồi thường dân sự, bất kỳ cá nhân nào có hành vi trái pháp luật, dù cố ý hay vô ý, đều phải bồi thường thiệt hại cho người khác Điều này cho thấy sự rõ ràng và cụ thể trong việc xác định chủ thể trong Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đồng thời cũng thể hiện những yếu tố đặc trưng riêng biệt.

Thứ hai, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.

Trong bồi thường của nhà nước, trách nhiệm bồi thường thuộc về nhà nước khi cán bộ, công chức thực hiện hành vi, quyết định trong thi hành công vụ gây thiệt hại và trái luật Ngược lại, nếu hành vi của cán bộ, công chức không liên quan đến công vụ, họ sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân và nhà nước không phải bồi thường.

Trong trách nhiệm bồi thường dân sự, người gây thiệt hại là chủ thể chính chịu trách nhiệm bồi thường, có thể bao gồm cả người thứ ba như cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự Ngoài ra, pháp nhân và người dạy nghề cũng có trách nhiệm bồi thường khi người lao động, học viên gây thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc được giao.

Mục đích, ý nghĩa của chế định Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Xây dựng chế định về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hệ thống pháp luật có mục đích và ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động và sự phát triển của nhà nước pháp quyền.

Chế định Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền bình đẳng, quyền con người và quyền công dân Tại những quốc gia có quy định này, quyền con người và quyền công dân thường được tôn trọng và bảo vệ tốt hơn.

Trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, nhà nước giữ vai trò chủ thể duy nhất với quyền lực riêng biệt, nhưng vẫn phải tuân thủ pháp luật Quyền lực nhà nước được quy định rõ ràng về phạm vi, biện pháp và chế tài xử lý vi phạm Tất cả cá nhân, tổ chức, kể cả nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật và phải chịu trách nhiệm khi vi phạm Điều này đảm bảo quyền bình đẳng, quyền công dân và quyền con người, bảo vệ lợi ích của công dân trong trường hợp nhà nước gây thiệt hại, không có sự thiên vị nào đối với nhà nước.

Chế định Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn lạm quyền và nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ.

Nhà nước đại diện cho nhân dân và là chủ thể duy nhất được trao quyền quản lý xã hội thông qua pháp luật Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước có thể xuất hiện những cá nhân thiếu liêm khiết, dễ bị cám dỗ bởi vật chất, dẫn đến lạm dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân Nếu không có biện pháp xử lý và quy chế đảm bảo, những hành vi này sẽ gây ra bất bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi của người dân và cản trở sự phát triển Do đó, chế định về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được hình thành như một biện pháp pháp lý hiệu quả để giải quyết vấn đề này, từ đó hình thành thói quen tích cực và thúc đẩy phát triển nhà nước pháp quyền.

Thứ ba, xây dựng chế định về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcgóp phần đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế thông qua việc tham gia các điều ước quốc tế và ký kết hiệp định song phương, đa phương với nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới Để được công nhận, Việt Nam cần đáp ứng các yêu cầu về thực tiễn pháp lý và cập nhật, sửa đổi pháp luật trong nước để phù hợp với các cam kết quốc tế Chẳng hạn, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (16/12/1966) và Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (1945) đều chứa đựng những quy định liên quan đến Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Nhà nước được thành lập nhằm xây dựng môi trường sống tốt, đảm bảo quyền và lợi ích cơ bản cho con người Việc thiết lập một hệ thống pháp luật vững chắc, công bằng và thiết thực là bước quan trọng để phát triển nhà nước pháp quyền Do đó, chế định về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã ra đời, yêu cầu nhà nước cần hoàn thiện và áp dụng rõ ràng trong thực tiễn Điều này sẽ tạo niềm tin cho người dân, góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển đất nước.

PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

Quá trình ban hành pháp luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Trước khi ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, Việt Nam đã có các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra Hiến pháp năm 1992 quy định quyền bồi thường thiệt hại cho người bị bắt, giam giữ, truy tố trái pháp luật (Điều 72) và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước (Điều 74) Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 đã quy định rõ trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước tại các điều 623, 624 và 619, 620 Để cụ thể hóa các quy định này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn như Nghị định số 47-CP và Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11, cùng với các văn bản khác từ các bộ, ngành liên quan về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.

Các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra hiện nay còn nhiều hạn chế, như văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý không cao và chỉ được quy định rải rác trong các Luật, Nghị định, Nghị Quyết Pháp luật chưa xây dựng trên quan điểm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mà chỉ là trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể Việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết bồi thường còn mơ hồ, thiếu quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan liên quan, dẫn đến kết quả giải quyết không đạt yêu cầu Trách nhiệm hoàn trả của công chức cũng chưa được quy định rõ, đặc biệt trong trường hợp lỗi vô ý hay khi nhiều người cùng gây thiệt hại Nghị định số 47-CP ngày 03/05/1997 không phát huy tác dụng và chưa được áp dụng hiệu quả trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính Kết quả thực hiện Nghị định này trong quản lý hành chính rất hạn chế, với việc giải quyết bồi thường chủ yếu gắn với thủ tục khiếu nại hành chính mà không trực tiếp áp dụng Nghị định.

Ngày 18/6/2009, Quốc hội Khóa XII đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có hiệu lực từ 01/01/2010, đánh dấu bước tiến mới trong tư duy lập pháp Việt Nam Luật này là sự kiện quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, bao gồm quyền bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ Điều này góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó giảm thiểu rủi ro cho người dân trong hoạt động công vụ.

Sau gần 10 năm thực thi, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 đã bộc lộ nhiều bất cập trong quản lý hành chính, thủ tục giải quyết bồi thường và trách nhiệm hoàn trả Bài viết này sẽ nêu rõ hai mặt hạn chế chính của đạo luật, phản ánh những vấn đề cần được khắc phục.

Thủ tục giải quyết bồi thường là quy trình bắt buộc tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường Sau khi tiếp nhận và xác minh yêu cầu bồi thường, cơ quan sẽ cử đại diện có thẩm quyền để thương lượng, và kết quả thương lượng sẽ được lập thành biên bản, làm căn cứ cho quyết định bồi thường Tuy nhiên, nhiều vụ việc thương lượng kéo dài mà không đạt kết quả, gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việc không bình đẳng trong quan hệ yêu cầu bồi thường khiến cá nhân, tổ chức gặp bất lợi, buộc họ phải thương lượng trước khi kiện ra Tòa án Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi để tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại có thể lựa chọn phương án yêu cầu bồi thường tốt hơn, thông qua thương lượng hoặc kiện ngay ra Tòa án.

Trách nhiệm hoàn trả theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện còn hạn chế, với mức hoàn trả kinh phí chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến sự không tương xứng giữa trách nhiệm của công chức và số tiền bồi thường mà Nhà nước phải chi trả Nghị định số 16/2010/NĐ-CP quy định chi tiết về vấn đề này nhưng chưa đủ sức răn đe, do đó cần nghiên cứu và sửa đổi để tăng cường trách nhiệm của công chức Việc xác định mức hoàn trả nên dựa trên mức độ lỗi và trách nhiệm của từng cá nhân trong các vụ việc cụ thể, nhằm đảm bảo công chức có trách nhiệm và tự tin hơn trong thi hành công vụ.

Vào ngày 01/07/2017, Quốc hội đã thông qua Luật Bồi thường trách nhiệm Nhà nước nhằm khắc phục những hạn chế và lạc hậu trong hệ thống bồi thường, phù hợp với sự phát triển của đất nước.

Kỳ họp thứ 3 đã ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mới, có hiệu lực từ ngày 01/7/2018, thay thế hoàn toàn luật cũ năm 2009 Luật mới này được xem là công cụ quan trọng nhằm giải quyết các vướng mắc và cản trở trong việc bảo vệ quyền lợi cho những người bị oan sai.

2 Nội dung pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, thi hành các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và tạo sự đồng bộ, thống

Nội dung chế độ Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Nguyên tắc bồi thường được kế thừa từ Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009, quy định rằng việc giải quyết bồi thường sẽ diễn ra tại cơ quan quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại và được tích hợp trong quá trình giải quyết vụ án hành chính Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã mở rộng quyền khởi kiện của người bị thiệt hại, cho phép họ có thể khởi kiện tại tòa án ngay khi có văn bản yêu cầu bồi thường trong các hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự Người bị thiệt hại có quyền lựa chọn cơ chế giải quyết bồi thường phù hợp, nhưng nếu cơ quan giải quyết bồi thường đã thụ lý yêu cầu, họ không được quyền yêu cầu cơ quan khác giải quyết bồi thường.

2.2 Các chủ thể trong quan hệ bồi thường

2.2.1 Đối tượng được bồi thường

Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, những cá nhân và tổ chức bị thiệt hại về vật chất và tinh thần do hành vi của người thi hành công vụ gây ra sẽ được bồi thường.

2.2.2 Về đối tượng có quyền yêu cầu bồi thường

So với Điều 2 và Điều 4 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009, Điều 5 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã quy định rõ ràng hơn về quyền yêu cầu bồi thường Luật này cụ thể hóa các đối tượng có quyền yêu cầu bồi thường và phân loại chi tiết từng nhóm đối tượng đó.

“Những người đương nhiên có quyền yêu cầu bồi thường, bao gồm:

2 Người thừa kế của người bị thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của tổ chức bị thiệt hại đã chấm dứt tồn tại;

3 Người đại diện theo pháp luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự;

4 Cá nhân, pháp nhân được những người quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này ủy quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.”

2.3 Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Theo Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:

Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại khoản 2 của Điều này, từ đó yêu cầu bồi thường tương ứng.

- Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi Trách nhiệm bồi thường của Nhà nướctheo quy định của Luật này;

- Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.

Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã bổ sung năm điều quan trọng về các văn bản yêu cầu bồi thường, áp dụng cho nhiều lĩnh vực như quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự So với luật năm 2009, những quy định này được xây dựng dựa trên thực tiễn và các thông tư hướng dẫn trước đó, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường Các cơ quan quản lý và Tòa án có thẩm quyền sẽ tiếp nhận và xử lý các yêu cầu bồi thường theo quy định của pháp luật hiện hành.

Năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi theo hướng quy định rõ ràng về các văn bản pháp luật có hiệu lực do cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành Những quy định này xác định cụ thể hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và các trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự.

Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đã xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Người bị kiện đã có yêu cầu bồi thường trước hoặc trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.

Tòa án có thẩm quyền đã xác định bị cáo vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ, gây thiệt hại thuộc trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Hành vi này xảy ra trong các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, dẫn đến yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

2.4 Các trường hợp được bồi thường

So với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường trong các lĩnh vực, nhằm đảm bảo sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật hiện hành, đồng thời bảo vệ quyền lợi của công dân.

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 đã bổ sung hai trường hợp được bồi thường liên quan đến việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính trái pháp luật (điểm b, c khoản 3 Điều 17) và một trường hợp bồi thường do áp dụng biện pháp xử lý hành chính trái pháp luật “giáo dục tại xã, phường, thị trấn” (khoản 5 Điều 17).

Việc bổ sung trường hợp này xuất phát từ việc Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã mở rộng phạm vi khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính Điều này bao gồm cả việc xử lý kỷ luật đối với công chức, đặc biệt là "công chức giữ chức vụ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật".

Theo Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, người khiếu nại có quyền khôi phục quyền lợi hợp pháp và được bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật Trong hơn 6 năm thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009, nhiều vụ việc yêu cầu bồi thường đã phát sinh, đặc biệt là trong các trường hợp xử lý kỷ luật công chức bằng hình thức buộc thôi việc trái pháp luật, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật Ngoài ra, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng quy định biện pháp giáo dục tại địa phương là một trong những phương thức xử lý hành chính.

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 duy trì các quy định về bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự, hành chính và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất với các quy định hiện hành.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC

NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

Ngày đăng: 28/09/2021, 22:29

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w