1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.

201 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Thành Phần Hóa Học Và Hoạt Tính Gây Độc Tế Bào Ung Thư Cây Đại Bi - Blumea Balsamifera (L.) DC. Và Cây Ngải Cứu - Artemisia Vulgaris L. Thuộc Họ Cúc - Asteraceae
Tác giả Lê Thị Thúy Hằng
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Thanh, TS. Nguyễn Xuân Cường
Trường học Học viện Khoa học và Công nghệ
Chuyên ngành Hóa hữu cơ
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 201
Dung lượng 18,31 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU (19)
    • 1.1. Sơ lược về các đối tượng nghiên cứu (19)
    • 1.2. Tổng quan về cây đại bi - Blumea balsamifera (L.) DC (19)
      • 1.2.1. Đặc điểm thực vật của cây đại bi – B. balsamifera (L.) DC (19)
      • 1.2.2. Nghiên cứu về thành phần hóa học cây đại bi - B. balsamifera (L.) DC (22)
      • 1.2.3. Nghiên cứu về hoạt tính sinh học của cây đại bi – B. balsamifera (L.) DC (31)
    • 1.3. Tổng quan về cây ngải cứu - Artemisia vulgaris (40)
      • 1.3.1. Đặc điểm thực vật của cây ngải cứu A. vulgaris L (40)
      • 1.3.2. Nghiên cứu về thành phần hóa học trong cây ngải cứu - A. vulgaris (41)
      • 1.3.3. Nghiên cứu về hoạt tính sinh học của cây ngải cứu - A. vulgaris (51)
  • CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (55)
    • 2.1. Mẫu thực vật (55)
    • 2.2. Các phương pháp nghiên cứu (56)
      • 2.2.1. Phương pháp phân lập các hợp chất (56)
      • 2.2.2. Các phương pháp xác định cấu trúc (57)
      • 2.2.3. Phương pháp thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào (57)
    • 2.3. Phân lập các hợp chất (59)
      • 2.3.1. Phân lập các hợp chất từ cây đại bi – B. balsamifera (59)
      • 2.3.2. Phân lập các hợp chất từ cây ngải cứu A. vulgaris (68)
    • 2.4. Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được (72)
      • 2.4.1. Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập từ cây đại bi – B. balsamifera (72)
      • 2.4.2. Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A. vulgaris (76)
    • 2.5. Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập được (79)
  • CHƯƠNG III. THẢO LUẬN KẾT QUẢ (84)
    • 3.1. Xác định cấu trúc các hợp chất phân lập từ cây đại bi - B. balsamifera (84)
      • 3.1.1. Hợp chất BB1: Balsamiferoside A (Hợp chất mới) (84)
      • 3.1.2. Hợp chất BB2: Balsamiferoside B (Hợp chất mới) (91)
      • 3.1.3. Hợp chất BB3: Balsamiferine K (Hợp chất mới) (100)
      • 3.1.4. Hợp chất BB4: Isohemiphloin (109)
      • 3.1.5. Hợp chất BB5: ( − )-Angelicoidenol 2-O-β-D-glucopyranoside (111)
      • 3.1.6. Hợp chất BB6: (1S,2R,4S)-borneol β -D-glucopyranoside (116)
      • 3.1.7. Hợp chất BB7: 1 β ,4 β ,7 α -trihydroxyeudesmane (122)
      • 3.1.8. Hợp chất BB8: 6,15 α -epoxy-1 β ,4 β -dihydroxyeudesmane (125)
      • 3.1.9. Hợp chất BB9: Blumeanen J (128)
      • 3.1.10. Tổng hợp kết quả xác định cấu trúc các hợp chất từ cây Đại bi – B (133)
    • 3.2. Xác định cấu trúc các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A. vulgaris (134)
      • 3.2.1. Hợp chất AV1: Vulgarolide A (Hợp chất mới) (134)
      • 3.2.2. Hợp chất AV2: Vulgarolide B (Hợp chất mới) (143)
      • 3.2.3. Hợp chất AV3: Dihydrosyringin (152)
      • 3.2.4. Hợp chất AV4: Coniferin (156)
      • 3.2.5. Hợp chất AV5: Turpenionoside A (160)
      • 3.2.6. Hợp chất AV6: (6S,9R)-roseoside (165)
      • 3.2.7. Hợp chất AV7: Corchoionoside C (168)
      • 3.2.8. Hợp chất AV8: Pinoresinol glucoside (172)
      • 3.2.9. Hợp chất AV9: eucommin A (173)
      • 3.2.10. Hợp chất AV10: Syringaresinol glucoside (177)
      • 3.2.11. Tổng hợp kết quả xác định cấu trúc các hợp chất từ cây ngải cứu – A (178)
    • 3.3. Hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập được (181)
      • 3.3.1. Hoạt tính gây độc tế bào ung thư của các hợp chất phân lập từ cây đại bi – B. balsamifera (181)
  • KẾT LUẬN (185)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (188)

Nội dung

Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính gây độc tế bào ung thư cây đại bi Blumea balsamifera (L.) DC. và cây ngải cứu Artemisia vulgaris L. thuộc họ Cúc Asteraceae.

TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Sơ lược về các đối tượng nghiên cứu

Cây đại bi (Blumea balsamifera) và cây ngải cứu (Artemisia vulgaris) đều thuộc họ cúc (Asteraceae) và được người dân Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trồng phổ biến trong vườn nhà Cả hai loại cây này đã được sử dụng từ lâu trong các bài thuốc dân gian để phòng và chữa bệnh, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến sức khỏe phụ nữ như kinh nguyệt, sau sinh và cổ tử cung Ngoài ra, chúng còn có tác dụng trong việc điều trị các bệnh cảm mạo và các vấn đề về da Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một số hợp chất chiết xuất từ cây đại bi và cây ngải cứu có khả năng ức chế tế bào ung thư, do đó, chúng được lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu trong đề tài luận án để làm sáng tỏ thêm công dụng của chúng.

Tổng quan về cây đại bi - Blumea balsamifera (L.) DC

1.2.1 Đặc điểm thực vật của cây đại bi – B balsamifera (L.) DC

Cây Đại bi, hay còn gọi là cây cúc tần (Blumea balsamifera), là loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae), có hình dáng bụi thấp và sống lâu năm Cây cao từ 1-3 m, với thân có khía rãnh và phủ lông tơ vàng nhạt Lá cây mọc so le, hình bầu dục, dài 8-30 cm và rộng 2-12 cm, có mùi thơm dễ chịu như băng phiến Cụm hoa màu vàng, có nhiều lông tơ, thường mọc ở đầu cành và lá, với đường kính 8-10 mm Hoa có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều hoa cái và hoa lưỡng tính, với bầu hình trụ và chùm lông ở đỉnh quả Cây thường mọc ở ven rừng thưa, rừng tái sinh, và quanh các khu vực dân cư, ở độ cao khoảng 100 m.

1600 m Cây ra hoa vào tháng 3-5 và có quả tháng 7-8 [1].

Cây Đại bi (Blumea balsamifera) phân bố rộng rãi ở nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam như Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, và một số tỉnh miền Trung và miền Nam Cây thường mọc hoang ở các vùng trung du, đồng bằng, ven đường và trên đồng cỏ, đặc biệt ở những nơi có ánh sáng tốt Với vị cay đắng và mùi thơm nồng, cây Đại bi có nhiều công dụng trong y học cổ truyền, được sử dụng để chữa trị các bệnh như cảm cúm, ho, viêm họng, đau bụng, và nhiều vấn đề khác liên quan đến tiêu hóa và sức khỏe Ngoài ra, lá cây còn có tính kháng khuẩn, chống nấm và được sử dụng để làm trà tại Philippines, nơi cây được biết đến với các tác dụng như lợi tiểu và điều trị sỏi thận.

1.2.2 Nghiên cứu về thành phần hóa học cây đại bi - B balsamifera (L.) DC

Cây đại bi, hay còn gọi là cây cúc tần, đã được sử dụng từ lâu trong y học dân gian tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác Nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây đại bi, khẳng định giá trị của nó trong việc chăm sóc sức khỏe.

Theo nghiên cứu của Yuxin Pang và cộng sự năm 2014, cây đại bi - B balsamifera chứa nhiều hợp chất hóa học như monoterpene, sesquiterpene, diterpene, flavonoid, acid hữu cơ, este, rượu, dihydroflavone và sterol, trong đó hai thành phần chính là terpene và flavonol Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Mai và cộng sự năm 2012 đã phát hiện một hợp chất dihydroflavonol mới (B1) cùng với bảy hợp chất đã biết khác (B2-B8).

Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã công bố về việc phân lập hợp chất từ cây đại bi Vào năm 1981, Nijsiji Ruangrungsi và các cộng sự đã chiết xuất thành công hai hợp chất flavonoid từ phân đoạn dịch chiết CHCl3, đó là (2R,3R)-dihydroquercetin-4’-methyl ether (B9) và (2R,3R)-dihydroquercetin-4’,7-dimethyl ether (B10).

Năm 1988, Yasuo Fujimoto và các cộng sự đã phát hiện ba hợp chất sesquiterpenelactone mới, được đặt tên là blumealactone A-C, từ dịch chiết lá cây đại bi (B43-B45) Đến năm 2005, Naoto Osaki và các cộng sự tiếp tục nghiên cứu và phân lập được hai hợp chất sesquiterpenoid ester mới từ các phân đoạn dịch chiết n-hexane và EtOAc của lá cây đại bi B balsamifera.

(B46- B47) và 9 hợp chất flavonoid đã biết khác (B11-B19) [6] Năm 2005,

Mohamed Hag Ali và các cộng sự đã phân lập thành công hợp chất biflavonoid mới 3-O-7’’-biluteolin (B20) cùng với hai hợp chất đã biết khác từ cây đại bi Trong nghiên cứu về khả năng quét gốc tự do, Nisakorn Saewan và nhóm của ông đã chiết xuất 9 flavonoid từ cây thảo dược này Ngoài ra, Consolacion Y Ragasa và các cộng sự cũng đã công bố việc phân lập hai hợp chất mới, icthyothereol acetate và cryptomeridiol, cùng với 10 hợp chất đã biết khác từ dịch chiết dichloromethane của cây đại bi vào năm 2005.

Chen và cộng sự đã phân lập mười sesquiterpenoid este mới, được gọi là blumeaene A-J, cùng với 13 flavonoid đã biết từ dịch chiết ethanol của lá và cành cây đại bi Trong khi đó, Shirota Osamu và cộng sự đã tìm ra 5 hợp chất sesquiterpene khung guaiane mới, 1 hợp chất eudesmane sesquiterpene mới và 3 hợp chất đã biết từ dịch chiết CD3OD của lá cây đại bi vào năm 2011 Năm 2012, Jing Xu đã phân lập thêm 10 sesquiterpene mới từ các bộ phận trên mặt đất của cây đại bi - B balsamifera Cũng trong năm này, Azis Saifudin và cộng sự đã phát hiện một hợp chất sesquiterpene khung guaian mới mang tên epiblumeaene K.

Trong nghiên cứu về cây đại bi, Tan Daopeng và các cộng sự đã phân lập thành công một hợp chất diterpene trans-phytol từ phân đoạn dịch chiết EtOAc Bên cạnh đó, họ cũng xác định được bốn hợp chất sesquiterpene khung guaian đã biết, ba hợp chất sesquiterpene (B77-B79) và chín hợp chất flavonoid khác (B39-B41), cùng với sáu hợp chất đã được công bố trước đó.

In 2013, several compounds were identified, including flavone 2,4-dicumylphenol, 7,4’,4’’-tri-O-methylamentoflavone (B80), as well as known substances such as p-hydroxybenzoic acid, gentisic acid, β-sitosterol, and β-daucosterol In 2018, Jun Ma and colleagues discovered a new diterpenoid compound (B81) and three novel guaiane sesquiterpenoids (B82-B84) from the plant B balsamifera.

Từ các nghiên cứu trên cho thấy, các hợp chất sạch được phân lập từ cây đại bi - B balsamifera được chia thành các lớp chất chính như sau:

Bảng 1.1: Các hợp chất thuộc lớp chất flavonoid của cây đại bi

Hình 1.2 : Công thức cấu tạo các hợp chất thuộc lớp chất flavonoid của cây đại bi

Bảng 1.2: Các hợp chất thuộc lớp chất terpene của cây đại bi

STT Tên chất Nhóm chất TLTK

B46 2-Butenoic,2-methyl-(3R,4S, 5R, 7R, 8S) - decahydro-4-methyl-1-methylene-7-(1- methylethyl)-8-oxo-5-azulenyl ester,(2Z)- rel-(+)

,(1R,3R,5E,10S)-10-hydroxyl-6,10- dimethyl-3-(1-methylethyl)-4,9-dioxo-5- cyclodecan-1-ester

Hình 1.3: Công thức cấu tạo các hợp chất sesquiterpene 2 vòng của cây đại bi

Hình 1.4: Công thức cấu tạo các hợp chất sesquiterpene 3 vòng của cây đại bi

Hình 1.5: Công thức cấu tạo các hợp chất diterpene của cây đại bi

Các chất sạch được phân lập từ cây đại bi chủ yếu thuộc hai nhóm chính là flavonoid và terpene, trong khi chỉ có khoảng dưới 10% là các hợp chất thuộc các nhóm khác.

1.2.3 Nghiên cứu về hoạt tính sinh học của cây đại bi – B balsamifera (L.) DC

Cây đại bi được nghiên cứu cho thấy có khả năng chống vi khuẩn, chống viêm, và có tác dụng chữa lành vết thương Ngoài ra, cây còn có hoạt tính kháng bệnh và côn trùng, cùng với khả năng gây độc tế bào ung thư và bảo vệ gan Các đặc tính chống oxy hóa của cây cũng đã được phát hiện, mở ra nhiều ứng dụng dược lý mới.

[22], ức chế tyrosinase [8], tăng cường thâm nhập tinh dầu đại bi qua da [23], chống béo phì [24].

1.2.3.1 Hoạt tính gây độc tế bào ung thư

Năm 2014, Yuxin Pang và các cộng sự đã nghiên cứu các hoạt tính sinh học của dịch chiết cây đại bi, cho thấy nhóm hợp chất flavonoid có khả năng ức chế tế bào ung thư hiệu quả trên nhiều dòng ung thư như ung thư vú, ung thư phổi và ung thư tuyến tụy, với chỉ số IC50 nhỏ hơn 50 µg/mL Ngoài ra, các hợp chất flavones trong blumea cũng cho thấy khả năng bảo vệ gan khỏi tổn thương do paracetamol, prednisolone và các hóa chất khác.

Hợp chất flavonol và dịch chiết methanol từ cây đại bi – B balsamifera có khả năng ức chế dòng tế bào ung thư bạch cầu Sự kết hợp giữa các hợp chất flavonol và các yếu tố gây hoại tử khối u đã cho thấy tăng cường khả năng ức chế tế bào ung thư bạch cầu, mở ra một chiến lược mới trong liệu pháp ung thư Ngoài ra, hợp chất này cũng cho thấy khả năng ức chế sự phát triển tế bào khối u ở gan theo cơ chế phụ thuộc liều lượng, với nồng độ IC50 từ 25-50 (àg/mL), chứng tỏ tiềm năng chống lại sự phát triển của tế bào ung thư gan.

Nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào ung thư từ các hợp chất sạch phân lập từ cây đại bi cho thấy nhiều hợp chất có khả năng ức chế các dòng tế bào ung thư Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Mai và cộng sự, các hợp chất B1-B4 và B6-B8 thể hiện khả năng ức chế enzyme xanthine oxidase, một enzyme quan trọng liên quan đến bệnh gút, trong đó B1, B4, và B8 cho thấy hiệu quả rõ rệt.

IC50 = 0,23; 1,91; 1,28 àM [2] Ba hợp chất (B45-B47) trong số cỏc hợp chất do các nhà nghiên cứu

Tổng quan về cây ngải cứu - Artemisia vulgaris

1.3.1 Đặc điểm thực vật của cây ngải cứu A vulgaris L

Cây ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) thuộc họ Cúc (Asteraceae) là một loại cây thảo lâu năm, cao từ 0,5-1,5 m với thân đứng và nhiều cành phủ lông tơ trắng Lá cây mọc so le, có hình dạng đa dạng từ xẻ lông chim đến xẻ thùy, với mặt trên màu xanh đậm và mặt dưới màu xanh trắng có lông Cây thường mọc hoang ở ven đường, bãi hoang, và nơi ẩm mát, ra hoa và kết quả từ tháng 10 đến tháng 12.

Hình 1.6: Cây ngải cứu – Artemisia vulgaris

Ngải cứu, có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm châu Âu và châu Á, hiện nay đã được trồng và hoang dại hóa ở nhiều khu vực nhiệt đới như Nam Á, Đông-Nam Á, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Bangladesh, Lào, Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc Tại Việt Nam, ngải cứu đã được trồng từ lâu đời và phân bố rộng rãi từ Bắc vào Nam, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.

Ngải cứu khô có vị đắng, mùi thơm và tính ấm, giúp điều hòa khí huyết, trừ hàn thấp, ôn kinh, an thai và cầm máu Tại Ấn Độ, cây này được biết đến với khả năng điều kinh, trị giun, kháng sinh và hỗ trợ tiêu hóa Ngải cứu thường được sử dụng để chữa các vấn đề như chảy máu tử cung, đe dọa sẩy thai, đau bụng kinh, và kinh nguyệt không đều do thiếu máu Ngoài ra, nó cũng có tác dụng chữa đau bụng lạnh, đau dạ dày, đau khớp, eczema và ngứa khi dùng ngoài.

1.3.2 Nghiên cứu về thành phần hóa học trong cây ngải cứu - A vulgaris Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về thành phần hóa học của cây ngải cứu - A. vulgaris mới được công bố trong một công trình khoa học của Nguyễn Thị Phương

Thảo và cộng sự tại Viện Sinh Thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã công bố một nghiên cứu vào năm 2004 Sử dụng các phương pháp sắc ký khí ghép nối khối phổ (GC/MS) và phổ cộng hưởng từ hạt nhân 13C, họ đã xác định được 43 hợp chất terpene (V1-V43) có trong tinh dầu của cây ngải cứu Nghiên cứu này xem xét các giai đoạn sinh trưởng của cây, bao gồm trước khi ra hoa, bắt đầu ra hoa, giai đoạn ra hoa và kết thúc ra hoa, trong đó có 28 monoterpene.

Nghiên cứu về thành phần hóa học của cây ngải cứu đã bắt đầu từ năm 1966, khi nhóm nghiên cứu Ấn Độ công bố thông tin về thành phần hóa học và việc sử dụng phương pháp sắc ký để tách các hợp chất trong tinh dầu của cây Các thành phần chính của cây ngải cứu được phân loại thành tinh dầu, polyphenol, foumarin và flavonoid Đặc biệt, trong thành phần dầu dễ bay hơi, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng chủ yếu chứa các hợp chất terpene, bao gồm monoterpene, oxygenated monoterpene, ketone và sesquiterpene.

Theo nghiên cứu của Igor Jerkovic và cộng sự, tinh dầu cây ngải cứu chứa các nhóm hợp chất như monoterpene (8,8–41,6%), oxygenated monoterpene (3,8–82,7%) và sesquiterpene (2–21%) Trong khi đó, Judžentienė và cộng sự cho biết rằng monoterpene chiếm 0,1–21,3%, oxygenated monoterpene 2,6–41,2%, ketone 0–33,1% và sesquiterpene 7,8–27,7% trong tinh dầu Nghiên cứu của Nano GM và cộng sự cho thấy monoterpene chiếm 9–70%, oxygenated monoterpene 5–66,4% và ketone 5–44,2% Cuối cùng, Mucciarelli M và cộng sự đã công bố rằng thành phần tinh dầu có monoterpene chiếm 9%, oxygenated monoterpene 7% và ketone 47%.

Năm 1981, Theo Nọf-Mỹller và cộng sự đã chỉ ra rằng cú ketone chiếm khoảng 65% trong thành phần tinh dầu, trong khi các thành phần monoterpene, oxygenated monoterpene và sesquiterpene không được thống kê cụ thể Thông tin này được xác nhận bởi Blagojević và cộng sự trong các nghiên cứu tiếp theo.

Nghiên cứu năm 2006 cho thấy tinh dầu cây ngải cứu chứa khoảng 13,5% monoterpene và 13,7% ketone, trong khi các thành phần oxygenated monoterpene và sesquiterpene không được thống kê cụ thể Theo nghiên cứu của Svetlana Vasylievna Zhigzhitzhapova và cộng sự, tinh dầu thu được từ quá trình thủy phân có chứa 44,49% monoterpene và 29,98% sesquiterpene Đồng thời, nghiên cứu của Asta Judžentienė và Justė Buzelytė cũng chỉ ra rằng tinh dầu của cây ngải cứu - A vulgaris có từ 17,1% đến 48,7% oxygenated monoterpene và sesquiterpene với tỷ lệ từ 17,1% đến 44,1%.

Terpene là thành phần chính trong tinh dầu của cây ngải cứu (A vulgaris), trong khi flavonoid chiếm tỷ lệ lớn trong dịch chiết của cây này Nhiều hợp chất hóa học đã được phân lập từ cây ngải cứu, theo các nghiên cứu được công bố bởi các nhà khoa học trong và ngoài nước.

Cây ngải cứu đã thu hút sự chú ý của nhiều nghiên cứu trên thế giới từ nhiều năm trước Năm 1966, Sabuj Kumar Kundu và các cộng sự đã phân lập thành công một hợp chất triterpene mới từ dịch chiết cây ngải cứu (V44) Tiếp tục nghiên cứu, vào năm 1968, Kundu lại phân lập được một hợp chất ancol triterpene pentacyclic.

Vào năm 1974, David Drake và cộng sự đã công bố một loạt dẫn xuất acetylen mới từ cây ngải cứu A vulgaris Tiếp theo, vào năm 1979, Rick G Kelsey và nhóm nghiên cứu đã phân lập các hợp chất sesquiterpene lactone thuộc chi Artemisia, trong đó A vulgaris chứa hai hợp chất quan trọng Đến năm 1990, J.Alberto Marco cùng các cộng sự đã phân lập hai hợp chất sesquiterpene acid mới thuộc khung eudesmane và một hợp chất đã biết từ mẫu cây ngải cứu.

Năm 1999, Sang-Jun Lee và các cộng sự đã phân lập 20 hợp chất flavonoid từ dịch chiết cây ngải cứu Tiếp theo, vào năm 2000, Andrée Carnat và các cộng sự đã tách được 2 hợp chất dicaffeoylquinic acid từ cây ngải cứu A vulgaris.

Vào năm 2000, Sang Jun Lee và cộng sự đã công bố kết quả phân lập các hợp chất từ dịch chiết ethylacetate của cây ngải cứu, trong đó họ đã phân lập được năm hợp chất flavonoid (V76-V80) cùng với ba hợp chất khác Tiếp theo, vào năm 2001, Sundaram Ravi và cộng sự đã công bố hai hợp chất mới là artemisia lactone và vulcaris lactone (V51).

Cấu trúc lập thể của hai hợp chất trong thành phần hóa học của cây ngải cứu vẫn chưa được xác định Nguồn gốc của hai hợp chất này đến từ dịch chiết dichloromethane của lá cây.

Consolacion Ragasa và cộng sự đã phân lập được một hợp chất sesquiterpene mới

(V53) và 5 hợp chất đã biết khác vào năm 2008 [59] Năm 2011, Gaudencio M

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mẫu thực vật

Mẫu cây đại bi - B balsamifera được thu hái tại Vĩnh Phúc vào tháng 5 năm

Năm 2016, mẫu tiêu bản TPCN-22 đã được giám định bởi TS Nguyễn Thế Cường thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Hiện tại, mẫu tiêu bản này được lưu trữ tại Viện Hóa sinh biển và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.

Cây đại bi (B balsamifera) và cây ngải cứu (A vulgaris L) được thu hái tại Bắc Từ Liêm, Hà Nội vào tháng 3 năm 2016 Mẫu cây ngải cứu đã được giám định bởi TS Nguyễn Thế Cường từ Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật Mẫu tiêu bản (TPCN-07) hiện đang được lưu giữ tại Viện Hóa sinh biển và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.

Các phương pháp nghiên cứu

2.2.1 Phương pháp phân lập các hợp chất

Sắc ký lớp mỏng (TLC) là phương pháp tách hỗn hợp chất bằng cách cho pha động là chất lỏng di chuyển trên bề mặt pha tĩnh là chất rắn Pha tĩnh được trải đều trên tấm kính hoặc tấm kim loại, thường là nhôm Khi chất lỏng di chuyển qua lớp hấp phụ, sự hấp phụ khác nhau của các chất trong hỗn hợp với dung môi sẽ tạo ra một sắc đồ trên lớp mỏng Quá trình này thường được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-Alufolien 60 F254 (Merck 1,05715) hoặc RP18 F254S (Merck) Để phát hiện chất, người ta sử dụng đèn tử ngoại ở bước sóng 254 nm hoặc 365 nm, hoặc phun dung dịch sulforic acid 10% lên bản mỏng, sau đó sấy khô và hơ nóng cho đến khi có màu sắc xuất hiện.

Sắc ký lớp mỏng điều chế sử dụng bản mỏng Silica gel 60G F 254 (Merck, ký hiệu 105875) để phát hiện vệt chất bằng đèn tử ngoại ở hai bước sóng 254 nm và 368 nm Ngoài ra, có thể cắt rìa bản mỏng và phun dung dịch H2SO4 10%, sau đó hơ nóng để xác định vệt chất Sau khi xác định vùng chất, lớp Silica gel có chất sẽ được cạo, giải hấp phụ và tinh chế lại bằng cách kết tinh trong dung môi thích hợp.

Sắc ký cột (CC) là phương pháp phân tích sử dụng chất hấp phụ như Silica gel pha thường và pha đảo Silica gel pha thường có kích thước hạt từ 0,040-0,063 mm (240-430 mesh, Merck), trong khi đó Silica gel pha đảo ODS (ODS-A, 12 nm S-150, YMC Co., Ltd.) cũng được sử dụng Ngoài ra, nhựa trao đổi ion Dianion HP-20 (Supelco) cũng là một lựa chọn trong sắc ký cột.

Sắc ký lỏng trung áp (MPLC) được thực hiện tại Viện Hóa sinh biển, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, bằng thiết bị Biotage - Isolera One, nhằm mục đích phân tách các phân đoạn dịch chiết hiệu quả.

Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) là phương pháp quan trọng trong việc phân tích và tinh chế các hợp chất Các thí nghiệm được tiến hành trên hệ thống HPLC phân tích Agilent, giúp đảm bảo độ chính xác và hiệu quả trong quá trình nghiên cứu.

1200 series và Hệ thống sắc ký lỏng điều chế Preparative HPLC-Agilent 1200 series tại Viện Hóa sinh biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

2.2.2 Các phương pháp xác định cấu trúc

Phương pháp xác định cấu trúc hoá học của các hợp chất thường bao gồm việc kết hợp các thông số vật lý với các kỹ thuật phổ hiện đại.

- Phổ khối lượng (ESI-MS): Phổ khối lượng phun mù điện tử (Electrospray

Ionization mass spectrometry) được đo trên máy AGILENT 1260 series single quadrupole LC/MS của Viện Hoá sinh biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) được thực hiện trên máy Bruker AM500 FT-NMR và AVANCE III HD 500 tại Viện Hóa học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Chất nội chuẩn sử dụng trong phân tích là TMS (Tetramethyl silan).

Các kỹ thuật phổ cộng hưởng từ hạt nhân được sử dụng bao gồm:

+ Phổ cộng hưởng từ hạt nhân một chiều: 1 H-NMR, 13 C-NMR và DEPT. + Phổ cộng hưởng từ hạt nhân hai chiều: HSQC, HMBC, 1 H- 1 H COSY, NOESY và ROESY.

Dung môi CD3OD được sử dụng trong quá trình đo lường, với việc lựa chọn dung môi phụ thuộc vào bản chất của mẫu Nguyên tắc chính là dung môi phải có khả năng hòa tan hoàn toàn mẫu đo để đảm bảo độ chính xác trong kết quả.

- Độ quay cực ([ α ] D ): Độ quay cực được đo trên máy Jasco P-2000 polarimeter của Viện Hóa sinh biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Quang phổ lưỡng sắc tròn (CD) được ghi lại bằng máy đo quang phổ Chirascan, do Viện Hóa sinh biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện, với sự hỗ trợ của Applied Photophysics tại Surrey, Vương quốc Anh.

2.2.3 Phương pháp thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào

2.2.3.1 Phương pháp nuôi cấy tế bào in vitro

Các dòng tế bào ung thư được nuôi cấy dưới dạng đơn lớp trong môi trường DMEM, với thành phần bổ sung gồm 2 mM L-glutamine, 10 mM HEPES, 1,0 mM sodium pyruvate và 10% serum bò thai (FBS) từ GIBCO.

-Tế bào được cấy chuyển sau 3-5 ngày với tỉ lệ (1:3) và nuôi trong tủ ấm

CO2 ở điều kiện 37oC, 5% CO2.

2.2.3.2 Phép thử sinh học xác định tính độc tế bào (cytotoxic assay)

Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI) công nhận là tiêu chuẩn để sàng lọc và phát hiện các chất có khả năng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt tế bào ung thư trong điều kiện in vitro Phép thử này được thực hiện theo phương pháp của Monks.

Năm 1991, nghiên cứu được thực hiện tại Viện Công nghệ sinh học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhằm xác định hàm lượng protein tế bào tổng số thông qua mật độ quang học (OD) Phép thử sử dụng Sulforhodamine B (SRB) để nhuộm protein tế bào, với giá trị OD tỉ lệ thuận với lượng SRB gắn vào phân tử protein Do đó, số lượng tế bào và hàm lượng protein càng cao thì giá trị OD càng lớn Phép thử được tiến hành dưới các điều kiện cụ thể.

Chất thử được sàng lọc ở nồng độ 100 µg/mL, và những chất có khả năng ức chế hơn 50% sự phát triển của tế bào sẽ được xác định giá trị IC50 tại các nồng độ khác nhau.

100 àg/mL, 20 àg/mL; 4 àg/mL; 0.8 àg/mL và 0.16 àg/mL.

Chất thử (20 µL) được pha trong dung môi DMSO 1% và sau đó được đưa vào các giếng của khay 96 giếng, tạo ra các nồng độ lần lượt là 100 µg/mL, 20 µg/mL, 4 µg/mL, 0.8 µg/mL và 0.16 µg/mL.

- Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng đếm để điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm.

- Thờm vào cỏc giếng thớ nghiệm lượng tế bào phự hợp (trong 180 àL mụi trường) và để chúng phát triển trong vòng từ 3-5 ngày.

Một khay 96 giếng không chứa chất thử nhưng có tế bào ung thư được sử dụng làm đối chứng vào ngày 0 Sau 1 giờ, tế bào trong đĩa đối chứng ngày 0 được cố định bằng Trichloracetic acid (TCA).

Phân lập các hợp chất

2.3.1 Phân lập các hợp chất từ cây đại bi – B balsamifera

Mẫu đại bi – B balsamifera sau khi thu hái được phơi trong bóng râm và nghiền mịn thành 2kg bột Bột này được ngâm trong methanol ở nhiệt độ phòng trong 24 giờ, sau đó chiết xuất mà không sử dụng siêu âm Dịch chiết được rút ra và quay dưới áp suất giảm để loại bỏ dung môi, thu được cao chiết methanol Quá trình này được lặp lại ba lần, mỗi lần với 5 lít methanol, để thu được 300 gam phần cặn chiết methanol.

Bột khô 2kg (cành, lá, thân)

Bổ sung nước và chiết phân bố lần lượt với các dung môi n-hexane, dichloromethane

(3 lần x 2 lít cho mỗi loại dung môi)

Dịch nước Phần không tan

Hình 2.1: Sơ đồ tạo dịch chiết mẫu cây đại bi

Cặn chiết methanol được hòa vào nước và chiết xuất lần lượt bằng các dung môi có độ phân cực tăng dần, bao gồm n-hexane và dichloromethane Mỗi dung môi được sử dụng 3 lần, mỗi lần 2 lít, nhằm thu được các sản phẩm chiết xuất: n-hexane (39 g), dichloromethane (45 g), cùng với phần dịch nước và phần không tan.

Kiểm tra vết chất trên sắc ký bản mỏng silica gel và RP18 cho thấy cặn dichloromethane và dịch nước có vết rõ nét, trong khi cặn n-hexane có vết mờ hơn Do đó, cần tiến hành phân lập các hợp chất từ cặn dichloromethane và dịch nước.

Phần dịch nước được lọc hết cặn không tan trước khi đưa lên cột diaion HP-

Để loại bỏ đường và muối vô cơ, đầu tiên rửa giải bằng nước, sau đó sử dụng hệ dung môi gradient với các tỷ lệ methanol: nước lần lượt là 50/50, 75/25 và 100% methanol, thu được các phân đoạn W1 (650mg), W2 (8,7gam) và W3 (16gam) Kiểm tra vết chất trên các phân đoạn cho thấy W1 có lượng ít và vết chất rất mờ, trong khi W3 mặc dù có khối lượng lớn nhưng vết chất không rõ ràng và kéo dài, không thể tách được Chỉ có phân đoạn W2 với các vết chất rõ ràng, đậm nét và có khả năng tách chất.

Vì vậy chúng tôi se tiến hành phân lập các hợp chất từ phân đoạn W2 của dịch nước.

Phân đoạn W2 (8,74g) được tiến hành phân tách bằng sắc ký cột pha đảo RP-

Trong quá trình phân tách bằng dung môi methanol/nước với tỷ lệ 1/4 ÷ 1/2, đã thu được 6 phân đoạn chính từ W2A đến W2F Phân đoạn W2B (756 mg) được tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường, sử dụng dung môi dichloromethane/methanol/nước với tỷ lệ 7/1/0,05÷5/1/0,1, cho ra các phân đoạn W2B1 đến W2B8 Tiếp theo, W2B5 (59 mg) được phân tách bằng sắc ký cột pha đảo RP-18, thu được hợp chất BB1 (6 mg) Phân đoạn W2D (2 gam) cũng được tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường, cho ra các phân đoạn W2D1 đến W2D8, trong đó W2D7 (177 mg) được tách tiếp bằng sắc ký cột pha đảo RP-18, tạo ra W2D7A (36 mg) và W2D7B (54 mg) Phân đoạn W2D7A được phân tách thêm bằng sắc ký cột sephadex LH-20, cho ra W2D7A1 (16 mg) và W2D7A2 (5 mg), và W2D7A1 tiếp tục cho hợp chất BB2 (7 mg) Phân đoạn W2C được phân tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường, tạo ra các phân đoạn W2C1 đến W2C4, trong đó W2C1 được tách thành W2C1A, W2C1B, và W2C1C Phân đoạn W2C1B được tách tiếp, tạo ra hợp chất BB7 (3 mg) Phân đoạn W2C3 được tách thành nhiều phân đoạn nhỏ hơn, trong đó W2C3A cho ra BB4 (7 mg) và W2C3A3 cho ra BB5 (2,2 mg) Cuối cùng, phân đoạn W2F (591 mg) được tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường, tạo ra các phân đoạn W2F1 đến W2F5, trong đó W2F5 (43 mg) cho ra hợp chất BB6 (24 mg).

Cặn dichloromethane (45 gam) được lọc để loại bỏ cặn không tan, sau đó được phân tách trên cột silica gel bằng hệ dung môi dichloromethane/methanol với các tỷ lệ 100% dichloromethane; 50/1; 20/1; 10/1; 5/1; 2/1 và 100% methanol, tạo ra các phân đoạn D1-D7 Trong số các phân đoạn này, phân đoạn D3 có nồng độ chất cao nhất, do đó chúng tôi đã tiến hành phân lập chất từ phân đoạn D3.

Phần D3 nặng 9,89 gam được đưa vào cột sắc ký silica gel pha thường và được phân tách bằng hệ dung môi n-hexan/axeton với tỷ lệ 5/1.

3/1 và 1/1 được 3 phân đoạn D3A; D3B và D3C.

Phân đoạn D3B (3,27 gam) đã được tách bằng phương pháp sắc ký cột pha đảo RP-18, sử dụng hỗn hợp dung môi methanol và nước với tỷ lệ 1/1, tạo ra các phân đoạn từ D3B1 đến D3B7 Trong đó, phân đoạn D3B3 (280 mg) tiếp tục được tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường, rửa giải bằng dung môi dichloromethane và methanol theo tỷ lệ 17/1, cho ra các phân đoạn nhỏ hơn từ D3B3A đến D3B3D Cuối cùng, phân đoạn D3B3A (18 mg) được tách tiếp bằng sắc ký cột silica gel pha thường, sử dụng dung môi n-hexan và ethylacetate để hoàn thiện quá trình phân tách.

Phân đoạn D3B3A1 (11 mg) đã được phân giải tiếp bằng sắc ký cột sephadex LH-20, sử dụng dung môi methanol/nước với tỷ lệ 1/1, từ đó thu được hợp chất BB3 (2,4 mg).

Phân đoạn D3A (2,22 gam) đã được tách bằng sắc ký cột pha đảo RP-18, sử dụng hỗn hợp dung môi methanol và nước với tỉ lệ 1/1, tạo ra các phân đoạn D3A1 đến D3A4 Tiếp theo, phân đoạn D3A1 (296 mg) được tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường và rửa giải bằng dung môi dichloromethane/methanol tỉ lệ 30/1, thu được các phân đoạn nhỏ hơn từ D3A1A đến D3A1D Cuối cùng, phân đoạn D3A1C (24,6 mg) được tách tiếp bằng sắc ký cột pha đảo RP-18 và rửa giải bằng dung môi methanol/nước tỉ lệ 1/1, cho ra các phân đoạn D3A1C1 đến D3A1C3.

Phân đoạn D3A1C3 (11 mg) được tiếp tục xử lý bằng cách sử dụng cột nhồi silica gel pha thường và rửa giải với dung môi n-hexan/ethylacetate theo tỷ lệ 1/1,5, từ đó thu được hợp chất BB8 với khối lượng 1,8 mg Đồng thời, phân đoạn D3A1B (15 mg) cũng được tách riêng bằng phương pháp sắc ký cột sephadex LH.

Rửa giải phân đoạn D3A1B1 bằng dung môi methanol/nước với tỷ lệ 1/1, sau đó thực hiện phân tách bằng sắc ký cột silica gel pha thường với dung môi n-hexan/axeton tỷ lệ 3/1, thu được phân đoạn D3A1B1.1 Tiếp theo, phân đoạn này được đưa lên cột sắc ký pha đảo RP-18 và rửa giải bằng dung môi methanol/nước tỷ lệ 1,5/1, dẫn đến việc thu được hợp chất BB9 với khối lượng 3,7 mg.

LH-20: sephadex RP-18: sắc ký cột pha đảo

Dịch nước cây đại bi

Hình 2.2: Sơ đồ phân lập các hợp chất từ dịch chiết nước cây đại bi

Hình 2.3: Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cặn chiết dichloromethane cây đại bi

Sau khi phân lập 9 hợp chất từ các dịch chiết của cây đại bi, chúng tôi nhận thấy số lượng chất này đã đáp ứng đủ yêu cầu cho luận án, vì vậy chúng tôi quyết định ngừng việc phân lập hợp chất tại phân đoạn D3.

2.3.2 Phân lập các hợp chất từ cây ngải cứu A vulgaris

Mẫu ngải cứu A vulgaris sau khi thu hái được phơi trong bóng râm và nghiền thành bột mịn, thu được 2kg Bột này được ngâm trong methanol ở nhiệt độ phòng trong 24 giờ (3 lần x 5 lít), sau đó dịch chiết được rút ra và quay dưới áp suất giảm để loại bỏ dung môi, thu được phần cao chiết methanol Quá trình này lặp lại 3 lần, thu được 300 g cặn chiết methanol Cặn chiết methanol sau đó hòa vào nước và được chiết lần lượt với các dung môi n-hexane, dichloromethane, ethylacetate, mỗi dung môi được lặp lại 3 lần, mỗi lần 2 lít theo tỷ lệ 1:1, thu được các cặn chiết: n-hexane (30 g), dichloromethane (12 g), ethylacetate (10 g), cùng với phần cặn không tan và phần dịch nước.

Bột khô 2kg (cành, lá, thân)

Dịch nước Phần không tan

Hình 2.4: Sơ đồ tạo dịch chiết mẫu cây ngải cứu

Chúng tôi nhận thấy phần dịch nước có khối lượng lớn nhất, do đó dự đoán rằng các lớp chất se sẽ tập trung ở đây Kiểm tra vết chất trên sắc ký bản mỏng silica gel RP-18 cho thấy vết chất ở phần dịch nước rõ ràng và nhiều nhất, trong khi các phần cặn n-hexane, dichloromethane, ethylacetate chỉ có rất ít vết chất và không rõ nét Vì vậy, chúng tôi quyết định tập trung vào việc phân lập các hợp chất ở phần dịch nước.

Phần dịch nước được lọc hết cặn không tan trước khi đưa lên cột diaion HP-

20 và rửa giải trước tiên bằng nước để loại bỏ phần đường và muối vô cơ Tiếp theo

68 rửa giải bằng hệ dung môi gradient với các tỷ lệ methanol: nước lần lượt là 25:75, 50:50, 75:25 và 100% methanol để thu được 4 phân đoạn W4 – W7.

Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được

2.4.1 Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập từ cây đại bi – B balsamifera

2.4.1.1 Hợp chất BB1: Balsamiferoside A (Hợp chất mới)

Chất bột màu trắng Độ quay cực [α]20 = -61 (c = 0,05, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

HR-ESI-MS: m/z = 451,0644 [M+Na]Tính toán lý thuyết cho cation

2.4.1.2 Hợp chất BB2: Balsamiferoside B (Hợp chất mới)

Chất bột màu trắng Độ quay cực [α]20 = -65 (c = 0,05, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

HR-ESI-MS: m/z = 441,1167 [M + Na]Tính toán lý thuyết cho cation

2.4.1.3 Hợp chất BB3: Balsamiferine K (Hợp chất mới):

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]20 = +25 (c = 0,05, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

HR-ESI-MS: m/z = 407,2046 [M + Na]Tính toán lý thuyết tính toán lý thuyết cho cation [C20H32NaO7] +

Chất dạng dầu, không màu.

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Tính toán lý thuyết CTPT C21H22O10 (M = 434)

2.4.1.5 Hợp chất BB5: (-)angelicoidenol 2-O- β -D-glucopyranoside

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]22 = -36,50 (c = 1,0, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

2.4.1.6 Hợp chất BB6: (1S,2R,4S)-borneol β -D-glucopyranoside

Chất tinh thể, màu trắng Độ quay cực [α]24 = – 49,50 (c = 0,5, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]20 = -9,50 (c = 0,55, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

2.4.1.8 Hợp chất BB8: 6,15 α -epoxy-1 β ,4 β -dihydroxyeudesmane

Chất dạng bột, màu trắng Độ quay cực [α]16 = -250 (c = 0,1, CHCl3)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]20 = +350 (c = 0,06, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

2.4.2 Thông số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A vulgaris

2.4.2.1 Hợp chất AV1: Vulgarolide A (Hợp chất mới)

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]25 = -25 (c = 0,05, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

HR-ESI-MS: m/z 281,13868 [M+H]Tính toán lý thuyết cho cation [C 15 H21O5] + + là 281,13835

2.4.2.2 Hợp chất AV2: Vulgarolide B (Hợp chất mới)

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]25 = -11 (c = 0,05, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

HR-ESI-MS: m/z = 281,1388 [M + H]Tính toán lý thuyết CTPT C15H21O5 (M 281.1383)

Chất dạng dầu, không màu.

1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]20 = -43,5° (c = 0,35, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

2.4.2.5 Hợp chất AV5: (3S,5R,6S,9S)-3,6,9-trihydroxymegastigman-7-ene-3-O- β -D- glucopyranoside

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]22 = -34,5° (c = 0,80, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]25 = +61,40 (c = 0,08, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]29 = +21,80 (c = 0,1, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125MHz, CD3OD): xem

2.4.2.8 Hợp chất AV8: pinoresinol glucoside

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực [α]25 = -84,60 ( c = 0.08, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực cực [α]18 = +20,20 ( c = 2,3,

CH3OH) Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz,

2.4.2.10 Hợp chất AV10.: Syringaresinol glucoside

Chất dạng dầu, không màu Độ quay cực cực [α]18 = -5,080 ( c = 3,8, CH3OH)

Số liệu phổ 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) và 13C-NMR (125 MHz, CD3OD): xem

Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập được

2.5.1 Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào ung thư của các hợp chất phân lập từ cây đại bi – B balsamifera

Các hợp chất được chiết xuất từ cây đại bi (B balsamifera) đã được nghiên cứu và cho thấy hoạt tính gây độc trên năm dòng tế bào ung thư, bao gồm KB (ung thư biểu mô miệng), HepG2 (ung thư gan), MCF7 (ung thư vú), SK-Mel-2 (ung thư da) và LNCaP (ung thư tiền liệt tuyến).

-human prostate carcinoma) theo phương pháp thử hoạt tính gây độc tế bào in vitro được thực hiện như mục 2.2.3

Kết quả sàng lọc sơ bộ cho thấy hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập từ cây đại bi - Blumea balsamifera ở nồng độ 100 àM, được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.5.1.a: % Ức chế sự phát triển tế bào của các hợp chất phân lập từ cõy đại bi – B balsamifera tại nồng độ 100 àM

Hợp chất Dòng tế bào

LNCap HepG2 KB MCF7 SK Mel2

Kết quả sàng lọc của cỏc hợp chất cho thấy, ở nồng độ 100 àM, chỉ cú hợp chất

BB5 và BB9 có khả năng ức chế hơn 50% sự phát triển của tế bào ung thư, bao gồm các dòng tế bào KB, HepG2, MCF7, SK Mel2 và LNCap Trong khi đó, các hợp chất còn lại chỉ có khả năng ức chế dưới 50%.

BB5 và BB9 được tiếp tục thí nghiệm ở các nồng độ khác nhau để xác định giá trị IC50,

Kết quả đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất BB5 và BB9 được thể hiện qua giá trị % ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ở các nồng độ thử nghiệm, như trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.5.1.b: Kết quả đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập từ cây đại bi – B balsamifera

LNCap HepG2 KB MCF7 SK Mel2

Ghi chú: ĐC * : chất đối chứng dương (Ellipticine)

2.5.2 Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào ung thư của các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A vulgaris

Các hợp chất từ cây ngải cứu A vulgaris đã được nghiên cứu về hoạt tính gây độc trên các dòng tế bào ung thư như KB, HepG2, MCF7, SK-Mel-2 và LNCaP thông qua phương pháp thử nghiệm in vitro.

Kết quả sàng lọc sơ bộ cho thấy các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A vulgaris có hoạt tính gây độc tế bào ở nồng độ 100 àg/mL, như được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.5.2.a: % Ức chế sự phát triển tế bào của các hợp chất phân lập từ cõy ngải cứu A vulgaris tại nồng độ 100 àg/mL

Hợp chất Dòng tế bào

KB HepG2 MCF7 SK Mel2 LNCap

Kết quả sàng lọc cho thấy, ở nồng độ 100 µg/mL, chỉ có hợp chất AV1 và AV2 ức chế hơn 50% sự phát triển của các tế bào ung thư KB, HepG2, MCF7, SK Mel2, LNCap, trong khi các hợp chất khác chỉ ức chế dưới 50% Do đó, AV1 và AV2 sẽ được tiếp tục thử nghiệm ở các nồng độ khác nhau để xác định giá trị IC50.

Dựa trên giá trị phần trăm ức chế sự phát triển của các dòng tế bào ở các nồng độ thử nghiệm, kết quả đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất AV1 và AV2 đã được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.5.2.b: Kết quả đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A vulgaris

KB HepG2 MCF7 SK Mel2 LNCap

Ghi chú: ĐC * : chất đối chứng dương (Ellipticine)

Nếu đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các chất AV1 và AV2 theo đơn vị àM ta cú giỏ trị thu được như bảng dưới đõy:

Bảng 2.5.2.c: Kết quả đánh giá hoạt tính gây độc tế bào của các hợp chất phân lập từ cây ngải cứu A vulgaris

KB HepG2 MCF7 SK Mel2 LNCap

Ghi chú: ĐC * : chất đối chứng dương (Ellipticine)

THẢO LUẬN KẾT QUẢ

Ngày đăng: 28/09/2021, 15:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Vo Van Chi, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2012, 856-857 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển cây thuốc Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
[2] Y. Pang, D. Wang, Z. Fan, X. Chen, F. Yu, X. Hu, K. Wang, L. Yuan. Blumea balsamifera - A phytochemical and pharmacological review. Molecules, 2014, 19(7), 9453-9477 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Blumeabalsamifera "- A phytochemical and pharmacological review. "Molecules", 2014,"19
[3] M.T. Nguyen, N.T. Nguyen. Xanthine oxidase inhibitors from Vietnamese Blumea balsamifera L. Phytother. Res., 2012, 26(8), 1178-1181 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phytother. Res.", 2012, "26
[4] N. Ruangrungsi, P. Tappayuthpijarn, P. Tantivatana, R.P. Borris, G.A. Cordell.Traditional Medicinal Plants of Thailand. I. Isolation and Structure Elucidation of Two New Flavonoids, (2R,3R)-Dihydroquercetin-4'-Methyl Ether and (2R,3R)- Dihydroquercetin-4',7-Dimethyl Ether From Blurnea balsamifera. J.Nat. Prod., 1981, 44(5), 541-545 Sách, tạp chí
Tiêu đề: J."Nat. Prod.", 1981, "44
[5] Y. Fujimoto, A. Soemartono, M. Sumatra. Sesquiterpenelactones from Blumea balsamifera. Phytochemistry, 1988, 27(4), 1109-1111 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phytochemistry", 1988, "27
[6] N. Osaki, T. Koyano, T. Kowithayakorn, M. Hayashi, K. Komiyama, M.Ishibashi. Sesquiterpenoids and Plasmin-Inhibitory Flavonoids from Blumea balsamifera. J. Nat. Prod., 2005, 68(3), 447-449 Sách, tạp chí
Tiêu đề: J. Nat. Prod.", 2005, "68
[7] D.M. Ali, K.C. Wong, P.K. Lim. Flavonoids from Blumea balsamifera.Fitoterapia, 2005, 76(1), 128-130 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Fitoterapia", 2005, "76
[8] N. Saewan, S. Koysomboon, K. Chantrapromma. Anti-tyrosinase and anti- cancer activities of flavonoids from Blumea balsamifera DC. J. Med. Plants Res., 2011, 5(6), 1018-1025 Sách, tạp chí
Tiêu đề: J. Med. PlantsRes.", 2011, "5
[9] C.Y. Ragasa, A.L. Co, J.A. Rideout. Antifungal metabolites from Blumea balsamifera. Nat. Prod. Res., 2005, 19(3), 231-237 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nat. Prod. Res.", 2005, "19
[10] M. Chen, J.J. Qin, J.J. Fu, X.J. Hu, X.H. Liu, W.D. Zhang, H.Z. Jin. Blumeaenes A-J, sesquiterpenoid esters from Blumea balsamifera with NO inhibitory activity. Planta Med., 2010, 76(9), 897-902 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Planta Med.", 2010, "76
[11] O. Shirota, J.M. Oribello, S. Sekita, M. Satake. Sesquiterpenes from Blumea balsamifera. J. Nat. Prod., 2011, 74(3), 470-476 Sách, tạp chí
Tiêu đề: J. Nat. Prod.", 2011, "74
[12] J. Xu, D.Q. Jin, C. Liu, C. Xie, Y. Guo, L. Fang. Isolation, characterization, and NO inhibitory activities of sesquiterpenes from Blumea balsamifera. J. Agric.Food. Chem., 2012, 60(32), 8051-8058 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Blumea balsamifera. J. Agric."Food. Chem.", 2012, "60
[13] A. Saifudin, K. Tanaka, S. Kadota, Y. Tezuka. Chemical constituents of Blumea balsamifera of Indonesia and their protein tyrosine phosphatase 1B inhibitory activity. Nat. Prod. Commun., 2012, 7(7), 815-818 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Blumeabalsamifera "of Indonesia and their protein tyrosine phosphatase 1B inhibitoryactivity. "Nat. Prod. Commun.", 2012, "7
[14] D. Tan, Q. Yan, H. Kang. Chemical constituents from Blumea balsamifera.Chem. Nat. Compd., 2013, 48(6), 1072-1073 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chem. Nat. Compd.", 2013, "48
[15] J. Ma, Q. Ren, B. Dong, Z. Shi, J. Zhang, D.-Q. Jin, J. Xu, Y. Ohizumi, D. Lee, Y. Guo. NO inhibitory constituents as potential anti-neuroinflammatory agents for AD from Blumea balsamifera. Bioorg. Chem., 2018, 76, 449-457 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bioorg. Chem.", 2018, "76
[16] J. Li, G.Z. Zhao, H.H. Chen, H.B. Wang, S. Qin, W.Y. Zhu, L.H. Xu, C.L. Jiang, W.J. Li. Antitumour and antimicrobial activities of endophytic streptomycetes from pharmaceutical plants in rainforest. Lett. Appl. Microbiol., 2008, 47(6), 574- 580 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lett. Appl. Microbiol.", 2008, "47
[17] A. Noor Rain, S. Khozirah, M.A. Mohd Ridzuan, B.K. Ong, C. Rohaya, M.Rosilawati, I. Hamdino, A. Badrul, I. Zakiah. Antiplasmodial properties of some Malaysian medicinal plants. Trop. Biomed., 2007, 24(1), 29-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trop. Biomed.", 2007, "24
[18] D. Wang, W.J. Fu, Y.X. Pang, H. Wang, X. Hu, H. Nie. The study of skin allergy and acute toxicity of Blumea balsamifera oil. Chin. J. Trop. Crop., 2013, 34, 2499–2502 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Blumea balsamifera "oil. "Chin. J. Trop. Crop.", 2013, "34
[19] S.S. Chu, S.S. Du, Z.L. Liu. Fumigant Compounds from the Essential Oil of Chinese Blumea balsamifera Leaves against the Maize Weevil (Sitophilus zeamais). J. Chem., 2013, 2013, 289874 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Blumea balsamifera "Leaves against the Maize Weevil ("Sitophiluszeamais). J. Chem.", 2013, "2013
[21] H.L. Pu, J.H. Zhao, S.B. Xu, Q. Hu. Protective actions of Blumea flavanones on primary cultured hepatocytes against lipid peroxidation. Chin. Trad. Herb.Drug., 2000, 31, 1113–1115 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chin. Trad. Herb."Drug.", 2000, "31

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w