Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là nguyên nhân quan trọng hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu. Hiện nay, tử vong do COPD đứng hàng thứ tư, dự báo đến năm 2030, là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba chỉ sau bệnh tim thiếu máu cục bộ và đột quỵ. Đa số các trường hợp tử vong đều xảy ra trong đợt cấp. Suy dinh dưỡng do các nguyên nhân sau: Khó thở làm tăng tiêu hao khoảng 1015% năng lượng lúc nghỉ; Bệnh nhân khó thở gây nuốt khó hoặc nhai khó dẫn đến ăn kém; Bệnh nhân thở miệng mạn tính làm thay đổi mùi vị thức ăn, tăng tiết chất nhầy mạn tính gây ra các triệu chứng ho nhiều, mệt mỏi, chán ăn, trầm cảm; Chế độ ăn có nhiều glucid cũng làm tăng khó thở vì glucid cung cấp năng lượng tuy nhiên nó lại sản sinh ra CO2; Tác dụng phụ của thuốc; Giảm cân còn do cơ chế bệnh sinh của bệnh là phân giải protein gây tiêu các cơ trong cơ thể, tăng tiết các yếu tố viêm như interleukine 1B, IL6, IL8, yếu tố hoại tử (TNFa) làm cho bệnh nhân chán ăn. Hậu quả của bệnh nhân COPD đó chính là mất cân và teo cơ. Khoảng 20% suy dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD điều trị ngoại trú và 35% 70% suy dinh dưỡng ở bệnh nhân suy hô hấp cấp, mất cân gây tăng đợt cấp COPD, tăng nhập viện. Trong quá trình điều trị bệnh nhân, khoảng 20% bệnh nhân COPD bị giảm cân, và suy dinh dưỡng. Việc bổ sung suy dinh dưỡng và COPD góp phần làm giảm suy yếu chức năng cơ hô hấp, mức độ nghiêm trọng của bệnh nhân và tiến triển khuyết tật. Giảm cân, trọng lượng cơ thể thấp và suy dinh dưỡng ở COPD cũng có tác động tiêu cực đến tỷ lệ tử vong của bệnh. Trên thế giới suy dinh dưỡng ở bệnh COPD đã được chứng minh qua các nghiên cứu: Bủak Mete và CS: Trong 105 COPD được đưa vào nghiên cứu có 17% bệnh nhân COPD bị suy dinh dưỡng. Ở Việt Nam, theo tác giả Vũ Thị Thanh (2017) nghiên cứu trên 118 BN COPD thở máy có 73,7% BN COPD bị suy dinh dưỡng theo chỉ số BMI. Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu đánh giá tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan với COPD bằng nhiều phương pháp khác nhau tập trung vào đối tượng bệnh nhân phổi tắc nghẽn mạn tính. Ở Việt Nam thì chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề trên.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MÃN TÍNH
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ( COPD)
1.1.1 Sơ lược về lịch sử COPD:
Năm 1966, Burows đã giới thiệu thuật ngữ "bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính" (COPD) nhằm thống nhất các khái niệm về viêm phế quản mạn tính và khí phế thủng.
Năm 1992, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đồng thuận sử dụng thuật ngữ COPD để thay thế cho các tên gọi khác liên quan đến tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí Thuật ngữ này đã được áp dụng rộng rãi trên toàn cầu và được đưa vào phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 9 và thứ 10.
- 1995, hội lồng ngực Mỹ, hội hô hấp châu Âu và các hội lồng ngực khác thống nhất đưa ra hướng dẫn về chẩn đoán và điều trị COPD.
Năm 2001, nhóm GOLD (Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease) được thành lập nhằm đưa ra sáng kiến toàn cầu về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) Nhóm này đã phát triển các khuyến cáo đầu tiên về chẩn đoán, điều trị và dự phòng COPD, và những khuyến cáo này được cập nhật hàng năm, với chỉnh sửa định kỳ mỗi 5 năm.
-Năm 2006, GOLD chỉnh sửa lần 1 phân loại COPD thành 4 giai đoạn đựa theo chức năng hô hấp.
Năm 2011, GOLD đã thực hiện chỉnh sửa lần thứ hai trong phân loại COLD dựa trên triệu chứng lâm sàng, yếu tố nguy cơ, chức năng hô hấp và định nghĩa COPD là bệnh thường gặp, có thể ngăn ngừa và điều trị Bệnh này đặc trưng bởi sự hạn chế luồng khí kéo dài, thường tiến triển nặng dần, kèm theo tăng đáp ứng viêm mạn tính tại đường thở và tiếp xúc với khí và hạt độc hại Đợt cấp và các bệnh đồng mắc cũng góp phần làm gia tăng mức độ nặng của bệnh ở từng bệnh nhân.
Năm 2014, GOLD đã cập nhật dựa trên 292 bài báo tiêu chuẩn năm 2013, với nhiều thay đổi quan trọng so với các năm 2011 và 2013 Một trong những điểm nổi bật là hội chứng chồng lấp giữa hen và COPD, được gọi là ACOS (Asthma COPD Overlap Syndrome), với tỷ lệ ước tính 15-20% theo chẩn đoán của bác sĩ Những bệnh nhân mắc hội chứng này thường trải qua các cơn kịch phát nặng hơn, chất lượng cuộc sống suy giảm, chức năng hô hấp kém, tỷ lệ tử vong cao và chi phí điều trị gia tăng COPD được phân loại thành nhiều kiểu hình dựa trên lâm sàng và sinh lý bệnh học COLD 2014 đã thực hiện đánh giá toàn diện, bao gồm các yếu tố như hô hấp ký, đợt kịch phát, CAT, mMRC và các bệnh đồng mắc, cùng với các phương pháp điều trị theo nhóm A, B, C, D.
Năm 2017, GOLD đã tiến hành đánh giá lại phân loại bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) một cách toàn diện, cung cấp hướng dẫn điều trị dựa trên kiểu hình và cá thể hóa bệnh nhân Phân loại GOLD 2017 bao gồm việc phân loại dựa trên hô hấp ký và chia bệnh nhân thành các nhóm A, B, C, D.
Vào năm 2018 và 2019, GOLD vẫn duy trì phân loại COPD dựa trên chức năng hô hấp và triệu chứng lâm sàng thông qua thang điểm CAT và Mmrc Tuy nhiên, trong hướng dẫn điều trị, GOLD 2019 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của triệu chứng lâm sàng trong quyết định điều trị cho bệnh nhân, phân loại theo các nhóm GOLD A, B, C, D mà không cần phụ thuộc vào kết quả chức năng hô hấp.
- Tổ chức y tế thế giới ước tính năm 1990 trên thế giới có 210 triệu người mắc COPD, đến năm 2010 con số này khoảng 340 triệu
Theo nghiên cứu NHANES III, tại Mỹ, tỷ lệ bệnh nhân mắc COPD đạt 13,9%, tương đương khoảng 23,6 triệu người Trong số đó, 1,4% mắc COPD ở mức độ nặng, và 63% chưa từng được chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Một nghiên cứu gần đây tại Tây Ban Nha cho thấy có hơn 21,4 triệu người trong độ tuổi từ 40 đến 80 được kiểm tra chức năng phổi để chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) Đáng chú ý, 73% trong số những người này chưa từng được chẩn đoán bệnh.
Nghiên cứu năm 2005 tại Trung Quốc, thông qua phỏng vấn, khám lâm sàng, đo thông khí phổi và chụp X-quang theo tiêu chuẩn GOLD, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh COPD ở người trên 40 tuổi là 8,2% Cụ thể, tỷ lệ này ở nam giới là 12,4% và ở nữ giới là 5,1%.
Nghiên cứu tại 12 quốc gia Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ mắc bệnh COPD dựa trên tỷ lệ hút thuốc ở mỗi nước Kết quả cho thấy Hồng Kông và Singapore có tỷ lệ mắc thấp nhất là 3,5%, trong khi Trung Quốc ghi nhận tỷ lệ cao nhất với 6,5%, và Việt Nam có tỷ lệ là 3,4%.
Nghiên cứu dịch tễ học COPD do Ngô Quý Châu và cộng sự thực hiện vào năm 2006 tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trong cộng đồng dân cư từ 40 tuổi trở lên là 2% Trong đó, tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 3,4% và ở nữ giới là 0,7%.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh lý hô hấp mạn tính có thể phòng ngừa và điều trị Bệnh này đặc trưng bởi sự tắc nghẽn luồng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn, thường tiến triển từ từ và liên quan đến phản ứng viêm bất thường của phổi Các tác nhân gây bệnh chủ yếu bao gồm các phân tử nhỏ và khí độc hại, trong đó khói thuốc lá và thuốc lào đóng vai trò quan trọng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỉ lệ mắc bệnh COPD vào năm 1990 là 9,33/100.000 người ở nam giới và 7,33/100.000 người ở phụ nữ Năm 1999, có khoảng 2.660.000 ca tử vong do COPD trên toàn thế giới, chiếm 4,8% tổng số ca tử vong.
Hiện nay, có hơn 300 triệu người mắc bệnh COPD, và dự báo tỷ lệ tử vong toàn cầu do bệnh này sẽ gia tăng, đặc biệt là do sự gia tăng tiêu thụ thuốc lá ở các nước đang phát triển COPD được dự đoán sẽ trở thành nguyên nhân tử vong đứng thứ ba trên toàn thế giới vào năm 2020.
Nét cơ bản về giải phẫu, sinh lý hô hấp bệnh COPD
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là nhóm bệnh lý thường cần can thiệp thông khí nhân tạo Đặc trưng của COPD là tình trạng hẹp đường thở, gây khó khăn khi hít vào và làm chậm quá trình thở ra, dẫn đến nguy cơ ứ khí trong phổi (auto PEEP).
Thanh môn là phần hẹp nhất của khí quản ở người lớn, và ở trẻ em, vị trí này được xác định bởi sụn nhẫn Trong môi trường bệnh viện, vi khuẩn như MRSA và các vi khuẩn Gram âm kháng thuốc có thể xuất hiện nếu bệnh nhân nằm viện trên 48 giờ Chất tiết và vi khuẩn từ đường hô hấp trên có thể bị hút xuống đường hô hấp dưới, làm tăng nguy cơ viêm phổi trong thở máy Khi thở máy xâm nhập, chức năng làm ẩm và lọc bụi của hệ hô hấp bị mất, dẫn đến nguy cơ nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới cao hơn Hiện nay, ống nội khí quản thường được đặt qua đường miệng do kích thước lớn hơn, giảm thiểu chấn thương và nguy cơ viêm xoang.
Hệ hô hấp bao gồm thanh môn, thanh quản, khí quản và phế quản, thường vô khuẩn và có lông chuyển giúp đẩy chất tiết ra ngoài Sụn nhẫn có thể được sử dụng trong nghiệm pháp Sellick để chống trào ngược khi đặt nội khí quản (NKQ) Phế quản gốc phải thẳng và lớn hơn phế quản gốc trái, do đó NKQ thường được đặt sâu hơn hoặc vào bên phải Trong trường hợp co thắt thanh môn, có thể chọc kim qua màng nhẫn giáp hoặc thực hiện MKQ cấp cứu Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một trong những bệnh lý thường cần thông khí nhân tạo, đặc trưng bởi hẹp đường thở, khiến việc bơm khí vào khó khăn và khí ra chậm, dẫn đến nguy cơ ứ khí trong phổi (auto PEEP).
1.2.3 Nhu mô phổi Phế nang, tuần hoàn phổi, màng phế nang mao mạch.
Surfactant là lớp phospholipid do tế bào phế nang type II sản xuất, giúp giảm sức căng bề mặt trong phế nang, ngăn ngừa xẹp phổi ở phế nang nhỏ và chấn thương áp lực ở phế nang lớn Các bệnh lý như ARDS, phù phổi cấp huyết động, viêm phổi và bệnh phổi kẽ (xơ phổi) đều gây tổn thương nhu mô phổi, dẫn đến giảm độ đàn hồi và thể tích phổi, ảnh hưởng đến quá trình trao đổi khí, chủ yếu là ôxy, do shunt hoặc rối loạn thông khí tưới máu.
Trong quá trình thở máy, áp lực dương trong khoang màng phổi có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tuần hoàn máu Đặc biệt, ở bệnh nhân bị tràn khí màng phổi chưa được dẫn lưu, tình trạng suy hô hấp có thể dẫn đến trụy mạch và tử vong nhanh chóng Tràn khí màng phổi là một biến chứng nguy hiểm, do đó việc phát hiện sớm thông qua khám lâm sàng là rất quan trọng Đối với bệnh nhân đang thở máy, việc dẫn lưu liên tục bằng ống dẫn lưu có kích thước đủ lớn là cần thiết để ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Rối loạn thông khí tắc nghẽn: Bệnh nhân không thở ra được.
Rối loạn thông khí hạn chế: Bệnh nhân khó thở vào hoặc trao đổi khí giảm.
Công hô hấp: Công để thắng sức cản đường thở, sức cản nhu mô phổi và thành ngực
1.2.6 Trao đổi khí tại phổi Thông khí/tưới máu:
Bình thường tỷ lệ là 0,8 (4l/phút thông khí, 5 l/phút tưới máu phổi).
Khoảng chết là phần thông khí không tham gia vào quá trình trao đổi khí, bao gồm khoảng chết giải phẫu và sinh lý Khoảng chết giải phẫu, thường khoảng 2,2 ml/kg, có thể tăng ở bệnh nhân thở máy do ống nội khí quản; việc cắt ngắn ống này hoặc mở khí quản có thể giảm khoảng chết Khoảng chết sinh lý là thông khí ở những vùng không tiếp xúc với màng phế nang mao mạch trong tuần hoàn phổi Shunt là phần máu tĩnh mạch không được trao đổi khí tại phổi, bao gồm shunt giải phẫu từ tim phải sang tim trái mà không qua tuần hoàn phổi, thường tồn tại do động mạch phế quản và xoang tĩnh mạch vành Shunt sinh lý xảy ra khi có tưới máu ở những phế nang không thông khí, thường gặp trong các tình trạng như ARDS, viêm phổi và xẹp phổi Tăng FiO2 không cải thiện được quá trình trao đổi khí ở bệnh nhân suy hô hấp do shunt tăng.
Sinh lý bệnh COPD
1.3.1 Sự tăng tiết chất nhầy và rối loạn chức năng hô hấp
Sự tăng tiết chất nhầy xảy ra khi các tuyến tiết chất bị kích thích bởi các chất trung gian gây viêm như Leucotrien, Proteinase và Neuropeptides Hơn nữa, sự dị sản dạng vây của các tế bào lông dẫn đến suy giảm khả năng thanh thải nhầy của hệ thống này.
1.3.2 Sự giới hạn lưu lượng khí thở và sự căng phồng phổi.
Sự giới hạn lưu lượng khí thở không hồi phục chủ yếu do tái cấu trúc, xơ hoá và hẹp đường thở nhỏ, đặc biệt là ở tiểu khí quản có khẩu kính < 2mm Trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, kháng lực đường thở tăng gấp đôi so với bình thường, dẫn đến sự phá huỷ phế bào và khí phế thũng Biểu hiện của sự giới hạn lưu lượng khí thở được thể hiện qua sự giảm FEV1 và tỉ lệ FEV1/FVC, trong đó tỉ lệ FEV1/FVC giảm thường là dấu hiệu đầu tiên của tình trạng này.
1.3.3 Bất thường về sự trao đổi khí
Mất cân bằng giữa thông khí và tưới máu là nguyên nhân chính do tổn thương thành đường thở ngoại vi và khí phế thũng Trong tình trạng khí phế thũng, chỉ số DLCO/L giảm, dẫn đến tình trạng viêm và thiếu oxy máu Thiếu oxy máu và tăng khí carbonic thường ít xảy ra khi FEV1 đạt 90%.
- Cho điều trị và tăng (nếu cần) liều thuốc giãn phế quản phun hít Dùng thuốc giãn phế quản đường tiêm truyền nếu cần
- Corticoid: Nên dùng dạng kết hợp Trường hợp nặng cần tiêm truyền.
- Kháng sinh: Doxycycline, Cephalosporin và nhóm Quinolone.
- Thuốc long đờm: BN có đàm đặc có thể dùng thuốc long đàm
- Thuốc ho: Không dùng đều đặn ở BN mắc COPD
- Các phương pháp điều trị không dùng thuốc bao gồm: oxy liệu pháp, hoạt động thể lực, phục hồi chức năng hô hấp và can thiệp phẫu thuật.
Suy dinh dưỡng ở bệnh nhân đợt cấp BPTNMT nặng
Bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) thường gặp phải tình trạng suy dinh dưỡng do nồng độ cytokine tiền viêm cao, dẫn đến giảm cân không mong muốn Nghiên cứu cho thấy sự giải phóng các chất trung gian gây viêm làm tăng tiêu hao năng lượng, gây ra tình trạng cơ thể không đủ calo cần thiết Viêm hệ thống trong COPD được đặc trưng bởi sản xuất các yếu tố như interleukin-6, interleukin-8 và TNF-alpha, gây chán ăn và tăng chi phí năng lượng khi nghỉ ngơi Quá trình này liên quan đến con đường ubiquitin-proteasome, nơi protein trong cơ thể bị đánh dấu để tiêu hủy Leptin, hormone điều chỉnh thèm ăn và tiêu hao năng lượng, cũng bị ảnh hưởng bởi các cytokine gây viêm như IL-1 và TNF-alpha, làm thay đổi nồng độ leptin và ảnh hưởng đến tình trạng nhiễm trùng Những thay đổi trong chuyển hóa leptin có thể góp phần vào sự thay đổi dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD trong giai đoạn cấp tính nặng.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân BPTNMT
Mối quan hệ giữa suy dinh dưỡng và bệnh COPD vẫn còn nhiều tranh cãi, với suy dinh dưỡng thường được coi là hậu quả của bệnh Truyền thống xem giảm cân là hệ quả của COPD, nhưng nghiên cứu cho thấy hỗ trợ dinh dưỡng có thể cải thiện các chỉ số nhân trắc học như trọng lượng và khối lượng cơ bắp Khoảng 25% đến 40% bệnh nhân COPD gặp phải tình trạng suy dinh dưỡng, với trọng lượng cơ thể thấp và khối lượng chất béo thấp được xem là yếu tố bất lợi Không có xét nghiệm nào duy nhất có thể chẩn đoán tình trạng dinh dưỡng một cách chính xác; các phương pháp như chỉ số khối cơ thể, chế độ ăn uống, và các chỉ số nhân trắc học thường được sử dụng Nghiên cứu của Cano và cộng sự (2002) cho thấy nếu chỉ đánh giá dựa trên trọng lượng và giảm cân không chủ ý, nhiều bệnh nhân có thể không được phát hiện mặc dù có cạn kiệt chất béo Một nghiên cứu trên 300 bệnh nhân COPD điều trị ngoại trú cho thấy 17% có chỉ số BMI thấp, trong khi tỷ lệ suy giảm FFM cao hơn Suy kiệt có thể được thúc đẩy bởi phản ứng viêm mạnh mẽ, nhưng có thể được hạn chế thông qua hỗ trợ dinh dưỡng Nghiên cứu của Nguyễn Quang Minh và cộng sự ở Việt Nam cũng đã chỉ ra vấn đề này.
Nghiên cứu năm 2011 tại phòng khám bệnh viện Thống Nhất đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thể tích tối đa giây (FEV1) của bệnh nhân BPTNMT cho thấy, nhóm thiếu cân chiếm 35,65%, trong khi nhóm béo phì chỉ chiếm 5,42% Kết quả cho thấy nhóm bệnh nhân có FEV1 < 50% có chỉ số BMI trung bình là 18,42 ± 4,32, trong khi nhóm có FEV1 ≥ 50% có BMI trung bình là 23,16 ± 2,36 Kết luận cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng dinh dưỡng kém và mức độ tắc nghẽn dòng khí nặng nề hơn.
1.5.1 Đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng phương pháp đánh giá tổng thể đối tượng
(Subject Global Assessment) SGA là một kỹ thuật kết hợp dữ liệu từ các khía cạnh chủ quan và khách quan SGA có 2 phần đánh giá
Phần 1: Kiểm tra bệnh sử (thay đổi cânnặng, chế độ ăn uống, các triệu chứng tiêu hóa, và những thay đổi chức năng),
Phần 2: Kiểm tra lâm sàng (mất lớp mỡ dưới da, teo cơ, phù mắt cá chân vàcổ chướng) giúp sàng lọc dinh dưỡng khi bệnh nhân vào viện Hiệu quả ưuđiểm của phương pháp này là biết rõ được thời điểm gần đây bệnh nhân cóthay đổi tình trạng dinh dưỡng.
- Phương pháp SGA không phải tính điểm bằng số.
- Điểm nguy cơ dinh dưỡng tổng thể không dựa vào mối nguy cơ riêng lẻ.
- Không nên sử dụng hệ thống tính điểm cứng nhắc dựa trên các tiêuchuẩn cụ thể.
* Hầu hết tính điểm từ
Phần 1: Sụt cân; Khẩu phần ăn.
Phần 2: Giảm khối cơ; Giảm dự trữ mỡ.
* Chỉ số gợi ý nhiều đến tính điểm “A” hoặc ít nguy cơ dinh dưỡng
• Cân nặng bình thường hoặc gần đây tăng cân trở lại.
• Khẩu phần ăn bình thường hoặc cải thiện khẩu phần ăn.
• Mất lớp mỡ dưới da tối thiểu hoặc không mất Không giảm khối cơ hoặc giảm tối thiểu.
* Chỉ số gợi ý nhiều đến tính điểm “B” hoặc tăng nguy cơ dinh dưỡng
• Sụt cân tổng thể mức độ vừa đến nặng trước khi nhập viện (5-10%).
• Khẩu phần ăn có thay đổi (ăn ít hơn bình thường < 50%).•
Mất lớp mỡ dưới da, giảm nhiều hoặc mất khoảng 2cm.
* Chỉ số gợi ý nhiều đến tính điểm “C” hoặc tăng nguy cơ dinh dưỡng
• Sụt cân rõ hoặc tiến triển (thường ít nhất 10% cân nặng bình thường).
• Khẩu phần ăn có thay đổi nhiều (ăn ít hơn bình thường > 50%).
• Mất lớp mỡ > 2cm, giảm khối cơ nặng
• Mức A: không có nguy cơ suy dinh dưỡng.
• Mức B: Nguy cơ suy dinh dưỡng mức độ nhẹ.
• Mức C: nguy cơ suy dinh dưỡng mức độ nặng.
Chú ý:Khi do dự giữa điểm A hoặc B, chọn B Khi do dự giữa điểm B hoặc C,chọn B.
Tác động của suy dinh dưỡng ở bệnh nhân COPD
Thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là protein và sắt, có thể làm giảm tính đàn hồi và chức năng hô hấp của phổi, dẫn đến nồng độ hemoglobin thấp, từ đó giảm khả năng vận chuyển oxy và làm tăng mức độ nặng của đợt cấp COPD Ngoài ra, thiếu vitamin cũng ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp collagen, một thành phần quan trọng trong mô liên kết tại phổi.
Thiếu hụt các chất dinh dưỡng như Magie, Canxi, Phospho và Kali có thể gây tổn hại cho nhiều chức năng tế bào, dẫn đến sự giảm sản xuất Protein, phospholipid, albumin và Glycoprotein Điều này góp phần vào sự hư hại của phế nang và gây ra hiện tượng phù phổi.
Suy dinh dưỡng làm suy yếu hệ thống miễn dịch, khiến bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng phổi và giảm số lượng bạch cầu lympho T hỗ trợ Điều này dẫn đến tình trạng chán ăn, suy thoái cơ bắp và thay đổi chuyển hóa chất béo, gây ra sốt Bệnh nhân suy dinh dưỡng cũng gặp phải sự thay đổi về hình thái, chức năng và sức bền của cơ hô hấp, làm giảm hiệu suất hô hấp khi gắng sức và tăng nguy cơ suy hô hấp cấp tính Hơn nữa, bệnh nhân COPD suy dinh dưỡng có tỷ lệ nhập viện cao hơn, nhu cầu thở máy hỗ trợ tăng, thời gian nằm viện kéo dài và tỷ lệ tử vong cao hơn.
Nhu cầu dinh dưỡng cho đợt cấp BPTNMT nặng
Bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính thường gặp phải các triệu chứng như nhiễm trùng, khó thở và mệt mỏi kéo dài, dẫn đến việc họ tiêu thụ ít thức ăn hơn so với nhu cầu dinh dưỡng cần thiết Đồng thời, tình trạng tăng chuyển hóa do bệnh lý khiến cho người bệnh ngày càng suy kiệt.
1.7.1 Nhu cầu năng lượng Đối với bệnh nhân BPTNMT, bệnh nhân luôn phải nỗ lực để hô hấp, năng lượng tiêu hao cần tăng lên khoảng 10-15% so với chuyển hóa cơ bản.Tính toán nhu cầu năng lượng có thể sử dụng phương pháp nhiệt lượng gián tiếp hoặc phương trình Harris – Benedict Năng lượng khuyến nghị: 28 – 35 kcal/kg/ngày được nhiều tác giả sử dụng cho đợt cấp BPTNMT nặng Hoặc BEE x 1,25 – 1,56 đối với bệnh nhân BPTNMT có đợt cấp phải nằm điều trị tại bệnh viện có thở máy (BEE: basal energy expenditure)
Công thức cho Nam BEE= 66,5+ (13,75 x kg) + (5,003 x cm)-(6,775 x tuổi)
Công thức cho Nữ: BEEe5,1 + (9,563 x kg)+(1,850 x cm)–(6,774 x tuổi)
Nghiên cứu của Yazdanpanah và cộng sự (2010) cho thấy rằng giảm cân và chỉ số BMI thấp liên quan đến việc khởi phát đợt cấp, tăng tần suất nằm viện, tỷ lệ thông khí nhân tạo và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân COPD Soler và cộng sự (2004) chỉ ra rằng suy dinh dưỡng làm gia tăng tỷ lệ nằm viện, thời gian thở máy, thời gian nằm viện kéo dài và tỷ lệ tử vong Theo nghiên cứu của Cano và cộng sự (2002), trong số 300 bệnh nhân COPD điều trị ngoại trú, 17% có BMI thấp dẫn đến tình trạng suy kiệt và dễ bị nhiễm trùng, nhưng tình trạng này có thể được cải thiện nhờ hỗ trợ dinh dưỡng Lee và cộng sự (2007) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của dinh dưỡng trong quản lý bệnh COPD.
Tỷ lệ tử vong sau 2 năm ở bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể (BMI) dưới 20 cao gấp 3 lần so với bệnh nhân có BMI cao Nghiên cứu của Nguyễn Quang Minh và cộng sự (2011) tại bệnh viện Thống Nhất cho thấy, trong nhóm bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT), tỷ lệ thiếu cân chiếm 35,65%, trong khi nhóm béo phì chỉ chiếm 5,42% Các bệnh nhân có chỉ số FEV1 dưới 50% có BMI trung bình là 18,42 ± 4,32, trong khi nhóm có FEV1 ≥ 50% có BMI trung bình là 23,16 ± 2,36 Nghiên cứu kết luận rằng tình trạng dinh dưỡng thấp làm nặng thêm tình trạng tắc nghẽn dòng khí.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ THỰC TRẠNG TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân nhập viện tại khoa Hồi sức tích cực, khoa Cấp cứu và Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai được chọn theo tiêu chuẩn sau:
• Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
Bệnh nhân được chẩn đoán đợt cấp COPD: theo tiêu chuẩn của GOLD (2019) khi có các triệu chứng:
- Tiền sử có phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ (nghề nghiệp, hút thuốc lá, môi trường sống )
• Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có các bệnh kèm theo như ung thư, có can thiệp phẫu thuật trong thời gian nhập viện
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 1/2019 đến tháng 11/ 2019.
- Ðịa điểm: Khoa Cấp cứu, Hồi sức tích cực, Trung tâm hô hấp Bệnh viện BạchMai.
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả.
- Cỡ mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu thuận tiện.
Lập danh sách toàn bộ bệnh nhân BPTNMT bao gồm các thông tin: họ và tên, giới, tuổi, địa chỉ, mã bệnh án.
Các chỉ số đánh giá của bệnh nhân đợt cấp BPTNMT nặng
2.4.1 Các chỉ số đánh giá về tình trạng dinh dưỡng
- Chỉ số đánh giá tổng thể đối tượng (SGA): mức độ A;B;C +Mức A: Không có nguy cơ suy dinh dưỡng
+Mức B: Nguy cơ suy dinh dưỡng mức độ nhẹ
+ Mức C: Nguy cơ suy dinh dưỡng mức độ nặng
- Phân loại nguy cơ dinh dương theo chu vi vòng cánh tay Tình trạng dinh dưỡng
Chu vi vòng cánh tay
SDD mức độ vừa 19 - < 22cm
SDD mức độ nặng < 19 cm
- Ngưỡng đánh giá một số chỉ số hóa sinh:
Trị số thiếu ở các mức độ khác nhau
SDD nhẹ và trung bình: Albumin 28 đến