TỔNG QUAN
Tổng quan về loratadin
1.1.1 Công thức hóa học và tính chất vật lý
Loratadin có tên khoa học là ethyl 4-(8-chloro-5,6-dihydro-11H- benzo[5,6]cyclohepta[1,2-b]pyridin-11-yliden)piperidin-1-carboxylat [25] và công thức phân tử là C22H23ClN2O2
Loratadin có khối lượng phân tử 382,9 g/mol và tồn tại dưới dạng bột kết tinh màu trắng hoặc trắng đục Chất này không tan trong nước nhưng dễ tan trong aceton, chloroform, methanol và toluen Theo phân loại sinh dược học (BCS), loratadin thuộc nhóm II, có tính thấm cao nhưng độ tan kém, với độ tan trong nước 0,995) cho thấy sự tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa độ hấp thụ quang và nồng độ loratadin trong khoảng từ 5 - 15 àg/ml Đường chuẩn được xây dựng có độ tuyến tính cao, đảm bảo tính chính xác cho việc phân tích định lượng loratadin.
Trong đú: y là độ hấp thụ quang, x là nồng độ loratadin (àg/ml)
Xác định độ hòa tan bão hòa của nguyên liệu loratadin
Cho lƣợng dƣ loratadin được hòa tan trong bốn dung môi: ethanol, aceton, methanol và nước Sau đó, dung dịch thu được sẽ được ly tâm và lọc qua màng cellulose acetat 0,45 µm Dịch lọc này sẽ được pha loãng và đo quang tại bước sóng 247 nm.
Kết quả thu đƣợc độ tan bão hòa của nguyên liệu loratadin trong ethanol là
350 mg/ml, trong acetone là 157,5 mg/ml, trong methanol là 179,5 mg/ml, nước là 0,769 mg/ml.
Bào chế hỗn dịch nano loratadin bằng phương pháp kết tủa trong dung môi
và cộng sự [3], do vậy ethanol đƣợc chọn làm dung môi hòa tan dƣợc chất loratadin
3.3 Bào chế hỗn dịch nano loratadin bằng phương pháp kết tủa trong dung môi
Hỗn dịch nano loratadin được bào chế từ dung dịch dược chất ethanol với nồng độ 60 mg/ml, theo mô tả tại mục 2.3.3 Nghiên cứu được thực hiện với các polymer HPMC E6, HPMC E15, và PVP-K30.
- Cân chính xác khoảng 0,3 g loratadin hòa tan trong 5 ml ethanol, lọc qua màng lọc cellulose acetat 0,45 àm (dung dịch 1)
- Chuẩn bị 100 ml dung dịch polymer 0,2 % trong cốc có mỏ 250 ml, lọc qua màng lọc cellulose acetat 0,45 àm (dung dịch 2)
- Dùng bơm tiêm hút dung dịch 1 để phun từ từ vào dung dịch 2, khuấy bằng máy khuấy trộn tốc độ cao ở tốc độ 1500 vòng/phút
-Sau khi phối hợp, hỗn hợp thu đƣợc đem đi đo KTTP
Kết quả thể hiện ở bảng 3.2 và hình 3.3
Bảng 3.2 KTTP, PDI của nano loratadin khi bào chế với polymer khác nhau
Mẫu Loại polymer KTTP (nm) PDI Thế Zeta
M2 HPMC E15 1120,5 ± 11,7 0,830 ± 0,190 -10,6±3,4 M3 PVP - K30 Nhìn thấy rõ tiểu phân bằng mắt thường
Hình 3.3 KTTP và PDI của nano loratadin khi bào chế với polymer khác nhau
Nhận xét: Dựa vào kết quả bảng 3.2 thấy rằng polymer HPMC E6 cho nano loratadin với KTTP nhỏ nhất (877,2 nm) Thế zeta của mẫu M1 và M2 không cao khoảng -10 tới -8 mV
Kết luận: Mẫu M1 (HMPC E6) đƣợc lựa chọn làm polymer để tiến hành các thí nghiệm sau
3.3.2 Khảo sát nồng độ polymer
Bào chế hỗn dịch nano loratadin tương tự như mẫu M1 nhưng chỉ khác nhau về nồng độ HPMC E6 Kết quả thể hiện ở bảng 3.3 và hình 3.4
Bảng 3.3 KTTP và PDI của mẫu bào chế nano loratadin với nồng độ HPMC E6 khác nhau (n=3)
Hình 3.4 KTTP và PDI của nano loratadin với nồng độ HPMC E6 khác nhau
Kết quả từ bảng 3.3 cho thấy nồng độ 0,6% HPMC E6 tạo ra kích thước tiểu phân nhỏ nhất Nồng độ HPMC E6 càng cao thì khả năng hấp phụ lên bề mặt tiểu phân loratadin càng hiệu quả, dẫn đến việc hình thành tiểu phân có kích thước nhỏ hơn.
Kết luận: Nồng độ HPMC 0,6% đƣợc chọn để tiến hành thí nghiệm sau
3.3.3 Khảo sát nồng độ dƣợc chất
Bào chế hỗn dịch nano loratadin tương tự như mẫu M5 nhưng chỉ khác nhau về nồng độ dƣợc chất loratadin Kết quả thể hiện ở bảng 3.4 và hình 3.5
Bảng 3.4 KTTP và PDI, thế zeta của mẫu bào chế với nồng độ loratadin khác nhau
(àg/ml) KTTP (nm) PDI Thế zeta
Hình 3.5 KTTP và PDI của nano loratadin của nano loratadin với nồng độ loratadin khác nhau
Kết quả từ bảng 3.4 cho thấy nồng độ 60 mg/ml của KTTP nano loratadin đạt kích thước nhỏ nhất với PDI < 0,3, cho thấy mẫu nano có khoảng phân bố hẹp Khi nồng độ tăng lên, dược chất phân tán không đồng đều trong dung dịch và không đủ lượng polymer để hấp phụ lên bề mặt tiểu phân, dẫn đến xu hướng kết tụ Ở nồng độ 40 mg/ml và 20 mg/ml, kích thước của các hạt nano có sự thay đổi đáng kể.
Khi nồng độ vượt quá 60 mg/ml, tốc độ tăng trưởng của tiểu phân lớn hơn tốc độ tạo mầm, dẫn đến kích thước tiểu phân lớn hơn Điều này xảy ra do quá trình bão hòa diễn ra chậm khi nồng độ dưới mức tối ưu.
Kết luận: Nồng độ loratadin 60 mg/ml đƣợc sử dụng để tiến hành các thí nghiệm sau
3.3.4 Khảo sát tỉ lệ dung môi hòa tan và dung môi kết tủa
Hỗn dịch nano loratadin được bào chế tương tự như mẫu M5, với sự khác biệt về tỉ lệ dung môi hòa tan và dung môi kết tủa Kết quả của quá trình này được thể hiện trong bảng 3.5 và hình 3.6.
Bảng 3.5 KTTP và PDI, thế zeta của mẫu bào chế với tỉ lệ dung môi và dung môi kết tủa thay đổi
Tỉ lệ dung môi/dung môi kết tủa
KTTP (nm) PDI Thế zeta
Hình 3.6 KTTP và PDI của nano loratadin với tỉ lệ dung môi và dung môi kết tủa thay đổi
Kết quả cho thấy tỉ lệ 1/100 cho kích thước tiểu phân (KTTP) nano là nhỏ nhất Khi tỉ lệ dung môi hòa tan/dung môi kết tủa tăng, mức độ quá bão hòa giảm, dẫn đến giảm tốc độ tạo mầm và tăng quá trình lớn dần của tiểu phân, từ đó làm tăng kích thước tiểu phân Do đó, khi tỉ lệ dung môi hòa tan/dung môi kết tủa lớn hơn 1/100, kích thước tiểu phân thu được sẽ lớn hơn.
Kết luận: Tỉ lệ dung môi hòa tan/dung môi kết tủa là 1/100 đƣợc lựa chọn để tiếp tục thí nghiệm sau
3.3.5 Khảo sát thiết bị trộn
Bào chế hỗn dịch nano loratadin tương tự như mẫu M14 nhưng chỉ khác nhau về thiết bị sử dụng:
Máy khuấy trộn tốc độ cao với tốc độ 1500 vòng/phút
Máy khuấy từ tốc độ 1500 vòng/phút
Súng phun với áp suất 10 kPa, tốc độ 10 ml/phút
Kết quả thể hiện ở bảng 3.6 và hình 3.7
Bảng 3.6 KTTP, PDI, thế zeta nano loratadin khi sử dụng thiết bị khác nhau
Mẫu Thiết bị KTTP (nm) PDI Thế zeta
M14 Máy khuấy trộn tốc độ cao 394,2 ± 19,9 0,253 ± 0,152 -7,7 ± 5,7
M15 Máy khuấy từ 422,2 ± 1,5 0,146 ± 0,014 -10,5 ± 9,7 M16 Súng phun 577,1 ± 36,1 0,284 ± 0,153 -8,3 ± 6,8
Hình 3.7 KTTP và PDI của nano loratadin khi sử dụng thiết bị khác nhau
Kết quả từ bảng cho thấy rằng khi sử dụng nano loratadin với thiết bị máy khuấy trộn tốc độ cao, kích thước tiểu phân đạt mức nhỏ nhất là 394,2 nm và chỉ số PDI là 0,253, nhỏ hơn 0,3.
Kết luận: Máy khuấy trộn tốc độ cao đƣợc lựa chọn cho các thí nghiệm sau
3.3.6 Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
Bào chế hỗn dịch nano loratadintương tự như mẫu M14 nhưng chỉ khác nhau về nhiệtđộ thí nghiệm Kết quả thể hiện ở bảng 3.7 và hình 3.8
Bảng 3.7 KTTP, PDI, thế zeta của nano loratadin ở nhiệt độ khác nhau
Mẫu Nhiệt độ (°C) KTTP (nm) PDI Thế zeta
Hình 3.8 KTTP và PDI của nano loratadin ở nhiệt độ khác nhau
Kết quả từ bảng trên cho thấy việc bào chế nano loratadin ở nhiệt độ 25°C mang lại kích thước hạt nhỏ nhất và chỉ số PDI đạt yêu cầu Do đó, nhiệt độ 25°C được lựa chọn cho các thí nghiệm tiếp theo.
3.3.7 Khảo sát ảnh hưởng của chất diện hoạt
Bào chế hỗn dịch nano loratadin tương tự như mẫu M14 nhưng chỉ khác nhau về chất diện hoạt Kết quả thể hiện ở bảng 3.8 và hình 3.9
Bảng 3.8 KTTP và PDI, thế zeta của nano loratadin với chất diện hoạt khác nhau
Chất diện hoạt KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)
Poloxame 188 305,3 ± 5,5 0,188 ± 0,142 -9,0 ± 5,6 Tween 80 Nhìn thấy tiểu phân bằng mắt thường -8,8 ± 4,9
Hình 3.9.KTTP và PDI của nano loratadin với chất diện hoạt khác nhau
Kết quả từ bảng cho thấy rằng việc sử dụng chất diện hoạt NaLS trong bào chế giúp đạt được kích thước tiểu phân nhỏ nhất và ổn định hơn nhờ vào thế zeta cao NaLS, là chất diện hoạt ion hóa, tạo ra lực đẩy tĩnh điện giữa các tiểu phân trong dung dịch, kết hợp với polymer HPMC E6 tạo ra lực cản không gian, từ đó tạo ra tiểu phân có kích thước nhỏ hơn Ngược lại, poloxame 188 và Tween 80, là chất diện hoạt không ion hóa, chủ yếu chỉ tạo ra cản trở không gian cho các tiểu phân mà không giúp ổn định hệ thống.
Kết luận: Lựa chọn chất diện hoạt NaLS làm chất diện hoạt của công thức
Qua quá trình khảo sát các yếu tố, đề tài đã xác định các thông số tối ưu cho quá trình bào chế nano loratadin bằng phương pháp kết tủa trong dung môi.
+ Nồng độ dung dịch Loratadin trong ethanol là 60 mg/ml
+ Nồng độ dung dịch HPMC E6 trong nước là 0,6%
+ Nồng độ dung dịch NaLS trong nước là 0,01%
+Tỉ lệ dung môi hòa tan/dung môi kết tủa là 1/100
+ Thiết bị sử dụng là máy khuấy trộn tốc độ cao, tốc độ 1500 vòng/phút + Tốc độ tiêm bằng kim tiêm xi lanh với tốc độ 120 giọt/phút.
Đánh giá một số đặc tính của tiểu phân nano loratadine
Hỗn dịch nano loratadin sau khi bào chế theo công thức và quy trình đã lựa chọn được sấy phun để thu lấy bột Bột nano loratadin được đóng gói trong túi zip kín và bảo quản ở nhiệt độ phòng trong bình tránh ẩm nhằm đánh giá các đặc tính của sản phẩm.
3.4.1 Đánh giá độ hòa tan bão hòa của nano loratadin Độ tan bão hòa của nguyên liệu loratadin trong nước ở nhiệt độ phòng là 0,769 mg/ml, còn của nano loratadin là 1,579 mg/ml, tăng gấp 2,5 lần so với nguyên liệu Nhƣ vậy là nano loratadin có độ hòa tan cao hơn so với dạng nguyên liệu Nguyên nhân là do trong công thức bào chế nano loratadin có sử dụng các chất mang có bản chất là polymer thân nước (HPMC E6) và chất diện hoạt (NaLS)
3.4.2 Đánh giá đặc tính của nano loratadin
3.4.2.1 Kính hiển vi quét điện tử (SEM)
36 a Loratadin nguyên liệu b Nano loratadin
Hình 3.10 Hình ảnh phân tích bằng kính hiển vi điện tử
Hình ảnh SEM cho thấy nguyên liệu loratadin có hình dạng kết tinh dạng que với nhiều góc cạnh và kích thước tiểu phân lớn hơn 10 µm, phân bố kích thước tương đối rộng Ngược lại, tiểu phân nano loratadin có hình thái cầu và kích thước đồng đều hơn so với nguyên liệu thô, đồng thời bề mặt tiểu phân nano cũng mịn hơn.
3.4.2.2 Phương pháp quét phổ vi sai (DSC)
Hình 3.11 Hình ảnh gộp phổ giản đồ nhiệt vi sai DSC
Giản đồ phân tích nhiệt quét vi sai (DSC) cho thấy nguyên liệu loratadin có điểm chảy tại 136,1°C, trong khi HPMC E6 có pic tỏa nhiệt ở 278,6°C NaLS xuất hiện nhiều pic thu nhiệt ở các khoảng nhiệt độ 105 - 120°C, 170 - 180°C và 265 - 275°C Sự vắng mặt của pic ở khoảng nhiệt độ 135°C trong giản đồ pha của nano loratadin cho thấy nguyên liệu đã chuyển hoàn toàn từ trạng thái tinh thể sang trạng thái vô định hình.
Hình 3.12 Hình ảnh gộp phổ hồng ngoại của nano loratadin, loratadin nguyên liệu, HPMC E6, NaLS
Phân tích phổ hồng ngoại của loratadin nguyên liệu cho thấy các đỉnh hấp thụ quan trọng: tại bước sóng 995,2 cm-1 đặc trưng cho liên kết aryl C-Cl, 1222,6 cm-1 cho liên kết C-N của nhóm aryl N, dải 1558,7 cm-1 đến 1699,7 cm-1 đặc trưng cho liên kết C-O của nhóm amid hoặc ester, và dải 2862,6 cm-1 đến 2981,9 cm-1 biểu thị cho liên kết C-H.
Phổ hồng ngoại cho thấy sự tương đồng giữa nano loratadin và polymer HPMC E6, có thể do hàm lượng loratadin trong hệ nano thấp (khoảng 20%) so với HPMC E6 chiếm khoảng 60% Điều này dẫn đến đỉnh hấp thụ đặc trưng của loratadin bị che khuất bởi đỉnh hấp thụ của HPMC E6 Ngoài ra, phổ hồng ngoại của nano loratadin chưa cho thấy sự tương tác rõ ràng giữa dược chất và chất mang trong quá trình bào chế bằng phương pháp kết tủa kết hợp với phun sấy.
Hình 3.13 Hình ảnh phổ nhiễu xạ tia X của loratadin và nano loratadin
Phổ nhiễu xạ tia X cho thấy loratadin tồn tại ở trạng thái kết tinh với nhiều pic nhiễu xạ, đặc biệt trong khoảng từ 10° đến 20°, trong khi các đỉnh đặc trưng của nano loratadin đã biến mất ở vùng này, chỉ còn lại một số ít đỉnh ở 5° hoặc ngoài 20° Hiện tượng này chứng tỏ trạng thái kết tinh đã mất trong quá trình kết tủa và phun sấy Giả thuyết này được xác nhận qua giản đồ DSC, tăng cường độ chính xác về trạng thái của nguyên liệu loratadin và nano loratadin được bào chế.
3.4.3 Đánh giá độ hòa tan của nguyên liệu và nano loratadin
Bảng 3.9 Độ hòa tan của nguyên liệu và nano loratadin theo thời gian
Thời gian (phút) Tỉ lệ loratadin hòa tan (%)
Hình 3.14 Đồ thị hòa tan của nguyên liệu và nano loratadin
Độ hòa tan của loratadin nguyên liệu sau 5 phút hầu như không tăng, trong khi nano loratadin lại tăng đều theo thời gian Cụ thể, loratadin nguyên liệu hòa tan được 8,44% sau 5 phút, trong khi nano loratadin đạt 31,72%, gấp 3,76 lần so với nguyên liệu ban đầu Ở các thời điểm sau, độ hòa tan của nguyên liệu nano hầu như không tăng, cho thấy sự khác biệt trong khả năng hòa tan giữa hai dạng này.
Nano loratadin cho thấy sự cải thiện đáng kể về độ hòa tan trong môi trường đệm phosphat pH 6,8, với mức độ hòa tan đạt 67,51% sau 60 phút, gấp 5,71 lần so với nguyên liệu ban đầu Điều này chứng tỏ tiềm năng của nano loratadin trong việc tăng cường khả năng hòa tan của các hoạt chất.
Sự có mặt của các chất ổn định như polymer và chất diện hoạt trong công thức bào chế KTTP bé đã làm tăng độ hòa tan của nano loratadin Hơn nữa, loratadin ở trạng thái vô định hình cũng góp phần vào việc tăng tốc độ hòa tan của dạng nano.
BÀN LUẬN
Phương pháp bào chế nano loratadin
Trong nghiên cứu này, phương pháp kết tủa trong dung môi được lựa chọn để bào chế nano loratadin nhờ vào những ưu điểm nổi bật như tính đơn giản, dễ thực hiện và không cần thiết bị phức tạp Phương pháp này cho phép tạo ra tiểu phân nano trong thời gian ngắn, dễ dàng đạt được kích thước mong muốn, sử dụng các thiết bị và dụng cụ phổ biến.
Kết quả đánh giá độ tan của loratadin trong các dung môi khác nhau
Ethanol là dung môi lý tưởng để hòa tan dược chất nhờ vào tính an toàn, khả năng hòa tan loratadin tốt nhất, dễ loại bỏ và hiệu quả kinh tế Đây cũng là dung môi được Alshweiat Areen sử dụng trong nghiên cứu của mình Ngược lại, methanol và aceton, mặc dù có khả năng hòa tan tốt, nhưng lại độc hại và có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường, do đó cần hạn chế sử dụng.
Kết quả khảo sát yếu tố ảnh hưởng tới KTTP
HPMC E6 được chọn làm polymer cho kích thước tiểu phân nhỏ nhất nhờ khả năng hấp phụ lên bề mặt tiểu phân, giúp ngăn chặn sự kết tụ nhờ cản trở không gian giữa các tiểu phân Ngược lại, PVP - K30, mặc dù là polymer không ion hóa, lại tạo ra kích thước tiểu phân quá lớn có thể nhìn thấy bằng mắt thường Điều này xảy ra do sự hấp phụ kém của polymer lên bề mặt loratadin và tương tác lưỡng cực - lưỡng cực yếu giữa loratadin và polymer do bề mặt loratadin có tính phân cực thấp.
Lựa chọn nồng độ HPMC E6 là 0,6% cho KTTP nhỏ nhất là hợp lý, vì nồng độ polymer cao hơn giúp tăng khả năng hấp phụ lên bề mặt dược chất, ngăn ngừa sự kết tập của tiểu phân Bên cạnh đó, nồng độ tăng cũng dẫn đến độ nhớt của dung dịch tăng, từ đó giảm sự dịch chuyển của tiểu phân và hạn chế hiện tượng kết tập dược chất.
Lựa chọn nồng độ dược chất tối ưu là 60 mg/ml cho tiểu phân nhỏ nhất của loratadin, vì nồng độ cao hơn có thể dẫn đến sự phân tán không đều trong dung dịch và thiếu polymer để hấp phụ lên bề mặt tiểu phân, gây ra xu hướng kết tụ Trong khi đó, nồng độ 40 mg/ml và 20 mg/ml cho kích thước tiểu phân lớn hơn.
Nồng độ 60mg/ml được giải thích là do khi nồng độ dưới mức tối ưu, quá trình bão hòa diễn ra chậm, dẫn đến tốc độ tăng trưởng lớn hơn tốc độ tạo mầm, vì vậy kích thước tiểu phân trở nên lớn hơn.
Lựa chọn tỉ lệ dung môi/dung môi kết tủa là 1/100 cho kích thước tiểu phân (KTTP) nhỏ nhất là hợp lý, vì tỉ lệ này giúp duy trì mức độ bão hòa hợp lý, tăng tốc độ tạo mầm và đảm bảo sự phân tán đều của tiểu phân dược chất trong dung dịch Tuy nhiên, tỉ lệ 1/100 cũng dẫn đến chi phí cao về dung môi trong quá trình thí nghiệm.
Lựa chọn thiết bị khuấy trộn với tốc độ 1500 vòng/phút là giải pháp tối ưu cho các hệ thống KTTP nhỏ Cánh khuấy trộn có khả năng phân cắt các tiểu phân, giúp chúng có kích thước nhỏ hơn so với khuấy từ Mặc dù súng phun được xem là thiết bị tạo ra tiểu phân nhỏ, nhưng thực tế kích thước tiểu phân lại lớn hơn khi sử dụng Nguyên nhân là do tốc độ phun mạnh của súng phun khiến polymer chuyển động hỗn loạn, làm giảm khả năng hấp phụ lên bề mặt tiểu phân dược chất, dẫn đến kích thước tiểu phân lớn hơn.
Nhiệt độ tối ưu cho công thức là 25°C, trong khi khi thực hiện ở nhiệt độ thấp hơn, đặc biệt là 5°C, kích thước tiểu phân nano lại tăng lên Sự gia tăng này có thể được giải thích bởi quá trình kết tinh diễn ra nhanh hơn ở nhiệt độ thấp, dẫn đến việc tiểu phân nano bị kết tụ và kích thước của chúng tăng lên.
Lựa chọn NaLS làm chất diện hoạt cho hệ thống thuốc nhỏ nhất với thế zeta ổn định là hợp lý, vì NaLS là chất diện hoạt ion hóa Khi NaLS hấp thụ lên bề mặt dược chất, nó tạo ra sự cản trở do sự tích điện ở bề mặt, ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống.
Các phân tử có điện tích giống nhau sẽ đẩy nhau, giúp ngăn chặn sự kết tụ Kết hợp với tính chất cản trở không gian của polymer, kích thước của tiểu phân sẽ được giảm xuống Ngoài ra, sự tích điện tạo ra lực đẩy trong không gian cũng giúp duy trì sự ổn định của hệ thống theo thời gian.
Đặc tính của tiểu phân nano loratadin bào chế đƣợc
Nano loratadin có kích thước tiểu phân (KTTP) nhỏ, khoảng 273,95 nm, với chỉ số phân tán (PDI) là 0,06 và thế zeta đạt -32,2 mV, cho thấy độ ổn định cao So với nghiên cứu trước đó, nơi KTTP dao động từ 353 đến 441 nm, PDI từ 0,167 đến 0,229 và thế zeta từ -25,7 mV đến -20,7 mV, nghiên cứu này cho thấy KTTP nhỏ hơn và thế zeta lớn hơn, cho thấy hệ ổn định hơn Sự khác biệt này có thể do kỹ thuật bào chế, chất ổn định, thiết bị sử dụng và điều kiện kiểm soát khác nhau.
Nano loratadin có độ tan bão hòa trong nước cao gấp 2,05 lần so với nguyên liệu gốc, cho thấy rằng dạng nano đã cải thiện đáng kể độ hòa tan của loratadin Sự gia tăng này là nhờ vào kích thước tiểu phân nhỏ và khả năng tăng cường thấm ướt bề mặt của chất ổn định.
Hình ảnh SEM cho thấy tiểu phân nano loratadin có bề mặt mịn và đồng nhất hơn so với nguyên liệu thô Các phân tích DSC và phổ nhiễu xạ tia X cho thấy nano loratadin tồn tại ở trạng thái vô định hình, trong khi nguyên liệu ở trạng thái kết tinh, điều này chỉ ra sự thay đổi đặc tính của nano Tuy nhiên, cần đánh giá thêm sự ổn định để đảm bảo trạng thái này bền vững trong thực tiễn Phổ hồng ngoại cho thấy không có tương tác nhóm chức giữa dược chất và tá dược trong công thức Đặc biệt, độ hòa tan của nano loratadin cao gấp 3,76 lần so với nguyên liệu tại thời điểm 5 phút và gấp 5,71 lần tại 60 phút, khẳng định tính ưu việt của công nghệ nano trong bào chế nano loratadin.