PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang làm thay đổi mạnh mẽ nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế trong đó ngành tài chính ngân hàng được khẳng định là một trong những lĩnh vực đón đầu làn sóng cách mạng. Trong khi các tổ chức tài chính, ngân hàng đang phải nỗ lực vượt qua khó khăn sau cuộc khủng hoảng tài chính để trở lại mức lợi nhuận ban đầu thì sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech), trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng trở thành một vấn đề thách thức lớn. Trước sự phát triển các dịch vụ tài chính điện tử sáng tạo của Fintech, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải đưa ra các mô hình kinh doanh mới đảm bảo tính cạnh tranh, tăng cường kết nối và cập nhật công nghệ, phục vụ nhu cầu thanh toán, đầu tư và các dịch vụ tài chính khác của nền kinh tế số. Trong bối cảnh nền kinh tế số, xu thế số hóa hoạt động ngân hàng diễn ra mạnh mẽ không chỉ ở phạm vi mỗi quốc gia mà trên toàn thế giới. Nhiều ngân hàng trên thế giới đã triển khai thành công mô hình ngân hàng số và hầu hết các ngân hàng còn lại đều đang ở các giai đoạn chuyển đổi số khác nhau, từ giai đoạn chuyển đổi kỹ thuật đến giai đoạn chuyển đổi mô hình. Tại Việt Nam, các ngân hàng cơ bản đang ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, và cụ thể là sự phát triển các dịch vụ ngân hàng ứng dụng kỹ thuật số, dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ ngân hàng qua mạng. Trong đó, việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở các ngân hàng thương mại hiện nay là một trong bước tiến quan trọng không thể thiếu để tiến tới mô hình ngân hàng số. Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã và đang nỗ lực phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại, công nghệ cao cho khách hàng tổ chức và khách hàng cá nhân. Ở Việt Nam, dịch vụ ngân hàng điện tử được triển khai từ năm 2002 ở hình thái đơn giản nhất là các máy rút tiền ATMs, các máy thanh toán thẻ POS, nhưng mới chỉ thực sự bùng phát khi đất nước phổ cập Internet, là cơ sở cho sự phát triển ngân hàng qua mạng. Đến năm 2004, 2 Vietcombank là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam giới thiệu dịch vụ ngân hàng qua mạng. Sau hơn 15 năm phát triển, 78 TCTD tại Việt Nam đã cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet, trong đó 47 ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ thanh toán qua mobile vào năm 2019. Các ngân hàng đã tích hợp nhiều tính năng thanh toán trên thẻ để thanh toán trực tuyến mua sắm hàng hóa dịch vụ, thanh toán tiền điện nước, bưu chính viễn thông…đồng thời nghiên cứu hợp tác các công ty công nghệ, ứng dụng công nghệ trong thanh toán như: công nghệ nhận diện khuôn mặt, sinh trắc vân tay, mã phản hồi nhanh. Dịch vụ ngân hàng điện tử được ghi nhận đóng góp trông thấy cho sự phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước tiến đến hội nhập quốc tế. Đối với khách hàng, nhiều lựa chọn được cung cấp thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử với tính tiện ích cao hơn và chi phí rẻ hơn so với ngân hàng truyền thống. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại thu hút thêm nguồn khách hàng giá trị cao, đa dạng hóa loại hình SP - DV, thúc đẩy hoạt động huy động vốn và cho vay, góp phần xây dựng quảng bá hình ảnh ngân hàng, từ đó gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí. Những tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử đã được nhiều nhà khoa học và kinh tế chứng minh, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế số, tuy nhiên vẫn có nhiều nghiên cứu cho thấy sự xuất hiện của dịch vụ ngân hàng điện tử ở một mức độ nào đó chưa thực sự có tác động lớn đến kết quả hoạt động của ngân hàng ở giai đoạn đầu mới phát triển. Những kết quả nghiên cứu khác nhau về ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng vẫn đang là chủ đề gây tranh luận đối với các nhà khoa học và nghiên cứu viên. Đề tài “Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” được tôi lựa chọn làm luận án tiến sỹ nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để xác định tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp thực tiễn phát huy 3 những tác động tích cực và giảm thiểu những hạn chế khi triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử, thúc đẩy hoạt động ngân hàng đạt hiệu quả cao hơn và phù hợp với bối cảnh số hóa ngành ngân hàng hiện nay. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu -Mục tiêu chung: Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) tới kết quả hoạt động (KQHĐ) của các NHTM (NHTM) Việt Nam, từ đó gợi ý giải pháp nhằm phát huy các tác động tích cực của dịch vụ NHĐT. -Nhiệm vụ nghiên cứu: (i)Tổng quan lý thuyết về dịch vụ NHĐT, đặc điểm dịch vụ NHĐT, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT. (ii)Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ của các ngân hàng trên các quốc gia trên thế giới và Việt Nam. (iii)Lựa chọn và xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT tới (iv)Phân tích, đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM (v)Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đề xuất giải pháp chiến lược cho các NHTM nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ NHĐT. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là dịch vụ NHĐT và tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Nghiên cứu tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả tài chính cũng như các kết quả phi tài chính của các NHTM Việt Nam. Dịch vụ NHĐT được nghiên cứu dưới góc độ kinh tế và tài chính, không nghiên cứu ở góc độ kỹ thuật. 4 Về thời gian: Do điều kiện số liệu về dịch vụ NHĐT còn hạn chế, nghiên cứu sử dụng số liệu của các ngân hàng trong 05 năm giai đoạn 2014 - 2018. Đây cũng là những năm tình hình kinh tế Việt Nam duy trì tăng trưởng ổn định và ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ NHĐT ở các NHTM. Về không gian: Nghiên cứu dựa trên số liệu của 30 NHTM Việt Nam có tính chất đại diện cho hệ thống NHTM Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện có 49 ngân hàng trong đó có 35 NHTM Việt Nam (4 NHTM nhà nước, 31 NHTM cổ phần), 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng chính sách, 1 ngân hàng hợp tác xã và 2 ngân hàng liên doanh. Số liệu tác giả sử dụng trong luận án được thu thập từ 30 NHTM của Việt Nam trong đó có 4 NHTM nhà nước và 26 NHTM cổ phần với tổng tài sản chiếm trên 85% toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, đảm bảo tính đại điện cho hệ thống NHTM Việt Nam. Nghiên cứu không tính đến các NHTM liên doanh, NHTM nước ngoài tại Việt Nam do tính không đồng nhất về đặc điểm, cơ cấu tổ chức hoạt động. Danh sách 30 NHTM chi tiết tại phụ lục 5. 4.Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Quy trình nghiên cứu của luận án được bắt đầu bằng xác định mục tiêu nghiên cứu, tiếp đến tổng quan các tài liệu nghiên cứu và sử dụng các lý luận sẵn có, từ đó phát triển các giả thuyết nghiên cứu. Các giả thuyết này được kiểm định và xác nhận, hoặc phản bác, dẫn tới sự phát triển của các lý luận này, là nền tảng cho các nghiên cứu sau này (Saunders và cộng sự, 2009). -Hướng tiếp cận nghiên cứu: Dựa vào mục tiêu và bản chất của đề tài nghiên cứu mà việc lựa chọn phương pháp tiếp cận được các nhà nghiên cứu cân nhắc. Thông thường, một chủ đề có nhiều tài liệu giúp dễ dàng xây dựng cơ sở lý thuyết và giả thuyết sẽ sử dụng hướng tiếp cận diễn giải còn những đề tài nghiên cứu mới, ít tài liệu sẵn có và đang mang tính tranh luận sẽ phù hợp hơn với phương pháp quy nạp. Theo Saunder et al (2009), hướng tiếp cận diễn giải hay còn được hiểu là phương pháp kiểm định lý thuyết (testing theory) liên quan đến sự phát triển của 5 một lý thuyết thông qua những thử nghiệm nghiêm ngặt. Phương pháp này phổ biến trong các NCKH tự nhiên bằng cách dự đoán và kiểm soát các sự việc và hiện tượng dựa trên cơ sở lý luận sẵn có (Collis & Hussey, 2003). Hướng tiếp cận diễn giải hiệu quả trong việc kiểm định các lý thuyết và theo chiều từ trên xuống trên xuống (top down). Năm bước phát triển của một nghiên cứu theo hướng diễn giải theo Robson (2002) đó là: 1. Đề xuất giả thuyết từ cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu 2. Diễn giải giả thuyết trong điều kiện cụ thể (xác định thang đo và các biến số) 3. Sử dụng các phương pháp khác nhau để kiểm định giả thuyết 4. Kiểm tra kết quả giả thuyết, kết luận chấp nhận hay không chấp nhận lý thuyết 5. Sửa đổi lý thuyết bằng kết quả phát hiện nếu cần. Đặc điểm của hướng tiếp cận diễn giải đó là sử dụng các dữ liệu định lượng và cả định tính ở một số trường hợp để là giải thích mối quan hệ nhân quả giữa các biến, bên cạnh đó kiểm soát các biến đưa vào thử nghiệm và đảm bảo độ tin cậy bằng phương pháp cấu trúc chặt chẽ (Gill & Johnson, 2002). Các biến đảm bảo có thể đo lường được và có tính khái quát, cụ thể là phải chọn mẫu đủ kích thước để hình thành nên quy luật. Đối với đề tài “Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, số lượng các nghiên cứu liên quan trên thế giới cả về lý thuyết và thực nghiệm đã có cơ bản, vì vậy nghiên cứu sinh sử dụng hướng tiếp cận diễn giải nhằm kiểm định lý thuyết dựa trên các nghiên cứu sẵn có ở trong nước và trên thế giới. Từ cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu, luận án xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM Việt Nam với các biến đã vào thử nghiệm trước đây có sự điều chỉnh phù hợp với thực tế số lượng và đặc điểm các NHTM Việt Nam, từ đó kiểm định giả thuyết bằng cả phương pháp 6 định lượng và định tính về tác động tích cực hoặc tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các ngân hàng. -Phương pháp thu thập thông tin Để thu thập thông tin cho nghiên cứu của mình, tác giả đã thực hiện phương pháp tổng hợp, kế thừa tài liệu từ các nghiên cứu trước đây ở trong nước và nước ngoài, từ đó đặt ra các vấn đề nghiên cứu, đặt giả thuyết nghiên cứu và kiểm định giả thuyết nghiên cứu bằng các phương pháp xử lý thông tin định tính và định lượng. Các nguồn tài liệu thu thập thông tin: (i)Các công trình nghiên cứu (giáo trình, luận án, tạp chí) trong và ngoài nước về dịch vụ NHĐT và tác động của dịch vụ NHĐT tới KQHĐ ngân hàng; (ii) Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ NHĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng; (iii)Văn bản pháp luật của Việt Nam liên quan tới dịch vụ NHĐT, dịch vụ ngân hàng qua mạng, giao dịch điện tử, an toàn hoạt động ngân hàng; (iv) Số liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam, báo cáo thường niên của NHNN, số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, số liệu tổng hợp từ NHNN. -Phương pháp nghiên cứu Hiện nay có rất nhiều phương pháp nghiên cứu (PPNC) được phân loại theo các tiêu chí khác nhau, được lựa chọn sử dụng độc lập hoặc kết hợp nhằm thực hiện mục tiêu nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Phương pháp kết hợp (mixed method) có xu hướng sử dụng nhiều nhất (Bryman, 2006; Tashakkori & Teddlie, 2010) với nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng cho phương pháp này, chẳng hạn như PP tích hợp (integrating), PP kết hợp (synthesis), PP đa phương pháp (multimethod). Bản chất phương pháp này bao gồm là việc kết hợp hoặc tích hợp PPNC định tính và định lượng trong một nghiên cứu. Việc sử dụng phương pháp hỗn hợp giúp cho nhà nghiên cứu tận dụng được ưu điểm và khắc phục nhược điểm của các phương pháp, từ đó chứng minh/xây dựng được lý thuyết có tính khoa học thực tiễn. 7 Johnson, Onwuegbuzie, & Turner (2007) đã đưa ra chuỗi đặc tính của PP nghiên cứu kết hợp: (i) PP kết hợp liên quan đến việc thu thập cả TT định tính/ dữ liệu mở (open ended) và định lượng/dữ liệu đóng (closed-ended) để đối phó với các câu hỏi nghiên cứu hoặc giả thuyết; (ii) Phương pháp kết hợp bao gồm việc phân tích cả hai dạng dữ liệu. Các thủ tục để thu thập TT định tính và định lượng sau đó xử lý dữ liệu cần phải được được tiến hành chặt chẽ (ví dụ: lấy mẫu đầy đủ, nguồn thông tin, các bước phân tích dữ liệu); (iii) Hai dạng dữ liệu được tích hợp trong thiết kế phân tích thông qua việc hợp nhất dữ liệu, kết nối dữ liệu hoặc nhúng dữ liệu. Các quy trình này được kết hợp thành một phương thức hỗn hợp riêng biệt, bao gồm cả thời gian thu thập dữ liệu (đồng thời hoặc tuần tự) cũng như sự nhấn mạnh (bằng hoặc bất bình đẳng) cho mỗi cơ sở dữ liệu, và (iv) Những quy trình này cũng có thể được dựa vào một quan điểm về triết học hoặc một lý thuyết hình thành trước đó. Trong khuôn khổ đề tài tác giả sử dụng phương pháp kết hợp để trả lời câu hỏi nghiên cứu: (i)Dịch vụ NHĐT có tác động tích cực hay tiêu cực đến kết quả tài chính của ngân hàng, thể hiện ở các tỷ số tài chính như ROA, ROE, NIM? (ii)Dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng gì đến hiệu quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng? (iii)Giải pháp phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ của các NHTM Việt Nam? Phương pháp nghiên cứu định lượng được tiến hành trước với nguồn số liệu sơ cấp và thứ cấp do NCS tính toán và thu thập, với mục đích đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả kinh doanh ngân hàng thông qua mô hình hồi quy dữ liệu bảng. Phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng để phân tích các dữ liệu định tính thu thập được và giải thích kết quả của mô hình thông qua quá trình phỏng vấn chuyên gia. Nhằm đảm bảo sự thống nhất về hướng tiếp cận nghiên cứu, các dữ liệu định tính được phân tích theo hướng diễn giải, thông qua hai quá trình xử lý dữ liệu tóm tắt và phân nhóm với mục đích giải thích cho kết quả nghiên cứu định 8 lượng và giải quyết những câu hỏi định tính khác mà nghiên cứu định lượng chưa xử lý được. 5. Đóng góp của luận án •Hệ thống hóa lý thuyết về dịch vụ NHĐT, tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng, xét về góc độ tài chính và phi tài chính. •Kế thừa các mô hình nghiên cứu trên thế giới, thiết kế mô hình phù hợp đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng của các NHTM Việt Nam. •Phỏng vấn chuyên gia để đem đến kết quả phân tích có ý nghĩa thực tiễn, góp phần lý giải những hạn chế mà mô hình định lượng chưa giải quyết được. •Kết hợp kết quả nghiên cứu và bài học kinh nghiệm quốc tế để đưa ra những giải pháp cụ thể cho các nhà chính sách, lãnh đạo ngân hàng nhằm phát huy tác động tích cực của dịch vụ NHĐT đi kèm với hạn chế tác động tiêu cực, đưa dịch vụ NHĐT thành một công cụ giúp ngân hàng hoạt động đạt hiệu suất cao hơn. 6. Kết cấu của luận án Kết cấu của luận án được chia làm 5 chương: •Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu. •Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả hoạt động của ngân hàng. •Chương 3: Kết quả hoạt động và thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam. •Chương 4: Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. •Chương 5: Một số giải pháp và kiến nghị.
Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang thay đổi mạnh mẽ nền kinh tế, đặc biệt là ngành tài chính ngân hàng, nơi mà các tổ chức tài chính phải nỗ lực vượt qua khó khăn sau khủng hoảng để phục hồi lợi nhuận Sự xuất hiện của các công ty công nghệ tài chính (Fintech) đã tạo ra thách thức lớn cho ngân hàng truyền thống, buộc họ phải phát triển các mô hình kinh doanh mới nhằm duy trì tính cạnh tranh Để đáp ứng nhu cầu thanh toán, đầu tư và các dịch vụ tài chính trong nền kinh tế số, các ngân hàng thương mại cần tăng cường kết nối và cập nhật công nghệ.
Trong bối cảnh nền kinh tế số, xu hướng số hóa ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu Nhiều ngân hàng đã thành công trong việc triển khai mô hình ngân hàng số, trong khi phần lớn còn đang trong quá trình chuyển đổi số Tại Việt Nam, các ngân hàng chủ yếu đang ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, tập trung vào phát triển dịch vụ ngân hàng ứng dụng kỹ thuật số, ngân hàng điện tử và ngân hàng trực tuyến Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại là bước tiến quan trọng để tiến tới mô hình ngân hàng số.
Ngân hàng thương mại tại Việt Nam đang tích cực phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử để cung cấp giải pháp ngân hàng hiện đại cho cả khách hàng cá nhân và tổ chức Dịch vụ này bắt đầu từ năm 2002 với các hình thức cơ bản như máy rút tiền ATMs và máy thanh toán thẻ POS, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ khi Internet được phổ cập, tạo nền tảng cho ngân hàng trực tuyến Đến năm 2004, sự bùng nổ của dịch vụ ngân hàng điện tử đã diễn ra, đánh dấu bước tiến quan trọng trong ngành ngân hàng.
Vietcombank là ngân hàng tiên phong tại Việt Nam trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến Sau 15 năm phát triển, hiện có 78 tổ chức tín dụng tại Việt Nam cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet, trong đó 47 ngân hàng thương mại đã cung cấp dịch vụ thanh toán qua di động vào năm 2019 Các ngân hàng đã tích hợp nhiều tính năng thanh toán trên thẻ, cho phép thanh toán trực tuyến cho hàng hóa và dịch vụ, cũng như thanh toán tiền điện, nước và bưu chính viễn thông Đồng thời, họ cũng đang nghiên cứu hợp tác với các công ty công nghệ để ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong thanh toán, như nhận diện khuôn mặt, sinh trắc vân tay và mã phản hồi nhanh.
Dịch vụ ngân hàng điện tử đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế Khách hàng được hưởng nhiều lựa chọn với tính tiện ích cao và chi phí thấp hơn so với ngân hàng truyền thống Đồng thời, các ngân hàng thương mại cũng thu hút khách hàng giá trị cao và đa dạng hóa dịch vụ.
Dịch vụ ngân hàng điện tử SP - DV không chỉ thúc đẩy huy động vốn và cho vay mà còn góp phần xây dựng hình ảnh ngân hàng, từ đó gia tăng doanh thu và tiết kiệm chi phí Nhiều nghiên cứu đã chứng minh những tác động tích cực của dịch vụ này trong bối cảnh nền kinh tế số Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng sự xuất hiện của ngân hàng điện tử trong giai đoạn đầu phát triển chưa thực sự mang lại hiệu quả lớn cho hoạt động của ngân hàng.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam đang thu hút sự chú ý của các nhà khoa học Luận án tiến sỹ của tôi nhằm đánh giá tác động của dịch vụ này, sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính Mục tiêu là xác định ảnh hưởng của ngân hàng điện tử, từ đó đề xuất giải pháp thực tiễn nhằm phát huy những tác động tích cực và giảm thiểu hạn chế, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong bối cảnh số hóa hiện nay.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của bài viết là đánh giá ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tối ưu hóa những tác động tích cực của dịch vụ này.
(i)Tổng quan lý thuyết về dịch vụ NHĐT, đặc điểm dịch vụ NHĐT, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT.
Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam Nghiên cứu cho thấy rằng các dịch vụ NHĐT không chỉ tăng cường hiệu quả tài chính mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng Các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra mối liên hệ tích cực giữa việc cung cấp dịch vụ NHĐT và sự phát triển bền vững của các ngân hàng, từ đó góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế.
(iii) Lựa chọn và xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT tới
(iv)Phân tích, đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ các NHTM
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế giúp đề xuất các giải pháp chiến lược cho các ngân hàng thương mại (NHTM) nhằm tối ưu hóa tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT).
Hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu của luận án bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu nghiên cứu, tiếp theo là tổng quan tài liệu và áp dụng các lý luận hiện có Từ đó, các giả thuyết nghiên cứu được phát triển, kiểm định và xác nhận hoặc phản bác, góp phần vào sự phát triển của các lý luận, tạo nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo (Saunders và cộng sự, 2009).
- Hướng tiếp cận nghiên cứu:
Việc lựa chọn phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu phụ thuộc vào mục tiêu và bản chất của đề tài Các chủ đề có nhiều tài liệu hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở lý thuyết thường sử dụng phương pháp diễn giải, trong khi những đề tài mới mẻ, ít tài liệu và có tính tranh luận cao lại phù hợp hơn với phương pháp quy nạp.
Theo Saunder et al (2009), hướng tiếp cận diễn giải, hay phương pháp kiểm định lý thuyết, liên quan đến việc phát triển lý thuyết thông qua các thử nghiệm nghiêm ngặt Phương pháp này thường được áp dụng trong các nghiên cứu khoa học tự nhiên, nơi mà việc dự đoán và kiểm soát các sự kiện và hiện tượng dựa trên lý thuyết hiện có là rất quan trọng (Collis & Hussey, 2003) Hướng tiếp cận diễn giải đặc biệt hiệu quả trong việc kiểm định lý thuyết theo chiều từ trên xuống.
Năm bước phát triển của một nghiên cứu theo hướng diễn giải theo Robson
1 Đề xuất giả thuyết từ cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu nghiên cứu
2 Diễn giải giả thuyết trong điều kiện cụ thể (xác định thang đo và các biến số)
3 Sử dụng các phương pháp khác nhau để kiểm định giả thuyết
4 Kiểm tra kết quả giả thuyết, kết luận chấp nhận hay không chấp nhận lý thuyết
Sửa đổi lý thuyết dựa trên kết quả phát hiện là một phần quan trọng trong nghiên cứu, đặc biệt khi áp dụng hướng tiếp cận diễn giải Phương pháp này kết hợp dữ liệu định lượng và định tính để giải thích mối quan hệ nhân quả giữa các biến, đồng thời kiểm soát các biến trong thử nghiệm nhằm đảm bảo độ tin cậy Đối với đề tài “Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, nghiên cứu sinh đã chọn hướng tiếp cận diễn giải để kiểm định lý thuyết, dựa trên các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đã có sẵn trên thế giới và trong nước.
Dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan tài liệu, luận án xây dựng mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Mô hình này đã được điều chỉnh để phù hợp với số lượng và đặc điểm của các NHTM tại Việt Nam, từ đó tiến hành kiểm định giả thuyết về tác động tích cực hoặc tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ thông qua cả phương pháp định lượng và định tính.
Để thu thập thông tin cho nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp tổng hợp và kế thừa tài liệu từ các nghiên cứu trước đây trong nước và quốc tế Từ đó, tác giả xác định các vấn đề nghiên cứu, đặt ra giả thuyết và kiểm định giả thuyết thông qua các phương pháp xử lý thông tin định tính và định lượng Các nguồn tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin bao gồm các nghiên cứu trước đó và tài liệu liên quan.
Các nghiên cứu, bao gồm giáo trình, luận án và tạp chí, cả trong và ngoài nước, đã chỉ ra những tác động quan trọng của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đối với kết quả hoạt động của ngân hàng Những công trình này cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa dịch vụ NHĐT và hiệu quả kinh doanh trong ngành ngân hàng.
(ii) Tổng hợp kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ NHĐT nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng;
Văn bản pháp luật Việt Nam quy định về dịch vụ ngân hàng điện tử, bao gồm các quy định liên quan đến dịch vụ ngân hàng qua mạng, giao dịch điện tử và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng Những quy định này nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và tăng cường tính minh bạch trong các giao dịch ngân hàng.
Số liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại Việt Nam, cùng với báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước và thông tin công bố từ Tổng cục Thống kê Những số liệu này được tổng hợp từ Ngân hàng Nhà nước nhằm cung cấp cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính và hoạt động của ngành ngân hàng.
Hiện nay, có nhiều phương pháp nghiên cứu được phân loại theo các tiêu chí khác nhau, thường được sử dụng độc lập hoặc kết hợp để đạt hiệu quả tối ưu trong nghiên cứu Phương pháp kết hợp (mixed method) đang ngày càng phổ biến, với nhiều thuật ngữ như PP tích hợp, PP kết hợp và PP đa phương pháp Phương pháp này bao gồm việc kết hợp PPNC định tính và định lượng, giúp nhà nghiên cứu tận dụng ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng phương pháp, từ đó xây dựng lý thuyết có tính khoa học thực tiễn.
Johnson, Onwuegbuzie và Turner (2007) đã xác định các đặc điểm chính của phương pháp nghiên cứu kết hợp (PP): (i) PP kết hợp thu thập cả dữ liệu định tính (mở) và định lượng (đóng) để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu; (ii) Phương pháp này yêu cầu phân tích cả hai dạng dữ liệu với quy trình thu thập và xử lý dữ liệu chặt chẽ, bao gồm lấy mẫu đầy đủ và các bước phân tích rõ ràng; (iii) Hai loại dữ liệu được tích hợp trong thiết kế phân tích thông qua việc hợp nhất, kết nối hoặc nhúng dữ liệu, với sự chú trọng vào thời gian thu thập dữ liệu (đồng thời hoặc tuần tự) và mức độ nhấn mạnh khác nhau cho từng loại dữ liệu; và (iv) Các quy trình này có thể dựa trên quan điểm triết học hoặc lý thuyết đã được hình thành trước đó.
Trong khuôn khổ đề tài tác giả sử dụng phương pháp kết hợp để trả lời câu hỏi nghiên cứu:
Dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) có ảnh hưởng đáng kể đến kết quả tài chính của ngân hàng, được thể hiện qua các chỉ số tài chính quan trọng như ROA (tỷ suất lợi nhuận trên tài sản), ROE (tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) và NIM (biên lợi nhuận lãi ròng) Những tác động này có thể là tích cực, khi NHĐT giúp tăng cường hiệu quả hoạt động và lợi nhuận, hoặc tiêu cực nếu không được quản lý đúng cách, dẫn đến rủi ro tài chính.
(ii) Dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng gì đến hiệu quả hoạt động phi tài chính của ngân hàng?
(iii) Giải pháp phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ của các NHTM Việt Nam?
Phương pháp nghiên cứu định lượng được thực hiện trước với dữ liệu sơ cấp và thứ cấp nhằm đánh giá tác động của dịch vụ NHĐT đến kết quả kinh doanh ngân hàng thông qua mô hình hồi quy dữ liệu bảng Đồng thời, phương pháp nghiên cứu định tính được áp dụng để phân tích và giải thích các dữ liệu định tính thu thập được qua phỏng vấn chuyên gia Để đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu, dữ liệu định tính được xử lý theo hướng diễn giải thông qua tóm tắt và phân nhóm, nhằm làm rõ kết quả nghiên cứu định lượng và giải quyết các câu hỏi định tính chưa được nghiên cứu định lượng đề cập.
Đóng góp của luận án
Hệ thống hóa lý thuyết về dịch vụ NHĐT, tác động của dịch vụ NHĐT đến KQHĐ ngân hàng, xét về góc độ tài chính và phi tài chính.
Mô hình nghiên cứu được thiết kế dựa trên các mô hình quốc tế nhằm đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Phỏng vấn chuyên gia mang lại kết quả phân tích thực tiễn, giúp làm sáng tỏ những hạn chế mà mô hình định lượng chưa khắc phục.
Kết hợp kết quả nghiên cứu và bài học kinh nghiệm quốc tế, bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể cho nhà chính sách và lãnh đạo ngân hàng nhằm tối ưu hóa tác động tích cực của dịch vụ ngân hàng điện tử Mục tiêu là giảm thiểu tác động tiêu cực và biến dịch vụ này thành công cụ hiệu quả, giúp ngân hàng hoạt động với hiệu suất cao hơn.
Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án được chia làm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử tới kết quả hoạt động của ngân hàng.
Chương 3: Kết quả hoạt động và thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 4: Đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 5: Một số giải pháp và kiến nghị.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu ở các quốc gia trên thế giới
1.1.1 Nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả tài chính của ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có sức ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng, vì chúng thường mang lại lợi nhuận cao và chi phí thấp Tuy nhiên, các nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy kết quả khác nhau về tác động của NHĐT đến lợi nhuận ngân hàng Những nghiên cứu này được phân loại thành hai nhóm dựa trên mức độ phát triển của quốc gia: các nước đang phát triển và các nước phát triển.
Nghiên cứu ở các nước phát triển
- Các nghiên cứu cho thấy kết quả tác động tích cực của dịch vụ NHĐT đến kết quả hoạt động ngân hàng
Các nghiên cứu của Hasan et al (2002), Kagan et al (2005), DeYoung
(2005, 2007), Hernando, I và Nieto, M J., (2007), Onay, Ozsoz và Helvacioglu
Nghiên cứu của Delgado et al (2004, 2007) và Onay cùng Ozsoz (2013) chỉ ra rằng ứng dụng ngân hàng điện tử có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng, mặc dù có một độ trễ thời gian nhất định, đặc biệt tại các quốc gia Châu Âu và Hoa Kỳ Các nghiên cứu khác của Egland et al cũng hỗ trợ cho kết luận này.
Nghiên cứu của Sullivan (2000) và Sathye (2005) cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng điện tử, cụ thể là ngân hàng qua mạng, không có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Hoa Kỳ và Úc.
Nghiên cứu của DeYoung (2005) cho thấy các ngân hàng điện tử tại Mỹ có lợi nhuận tương đối thấp hơn so với ngân hàng truyền thống, do chi phí lao động cao và doanh thu từ phí dịch vụ thấp Dù vậy, các ngân hàng điện tử lại có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn và có khả năng cạnh tranh tài chính tốt hơn khi mở rộng quy mô Tương tự, nghiên cứu của Delgado và cộng sự (2004, 2006) ở Châu Âu cũng chỉ ra kết quả tương đồng, với sự phát triển của nền kinh tế công nghệ rõ ràng hơn trong các nghiên cứu của họ (2004, 2007) so với DeYoung.
Nghiên cứu của DeYoung et al (2007) mang tên “How the Internet affects output and performance at community banks” đã thực hiện khảo sát trên 424 ngân hàng địa phương tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1999-2001 để đánh giá tác động của Internet lên kết quả và lợi nhuận của các ngân hàng Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tích hợp kênh phân phối Internet vào mạng lưới chi nhánh ngân hàng đã dẫn đến sự gia tăng rõ rệt về lợi nhuận, chủ yếu nhờ vào việc tăng thu nhập ngoài lãi từ phí dịch vụ trên tài khoản tiền gửi Sự tiện lợi của ngân hàng trực tuyến đã khuyến khích khách hàng tiếp tục sử dụng các dịch vụ khác và sẵn sàng chi trả thêm cho các dịch vụ đã sử dụng trước đó.
Hernando, I và Nieto, M J., (2007) với nghiên cứu “Is the Internet Delivery
Nghiên cứu "Channel changing Banks’ Performance?" đã phân tích tác động của việc sử dụng trang web giao dịch đến hiệu suất tài chính của 72 ngân hàng thương mại tại Tây Ban Nha trong giai đoạn 1994-2002 Các chỉ tiêu tài chính được đo lường bao gồm tỷ lệ chi phí trên tổng tài sản, chi phí công nghệ và tiếp thị trên tổng tài sản, cùng với các chỉ số lợi nhuận như ROA, ROE, tỷ suất lãi trung gian (NIM) và hoa hồng môi giới chứng khoán Kết quả chỉ ra rằng việc chấp nhận web giao dịch cần thời gian để phát huy hiệu quả Sự chấp nhận Internet như kênh phân phối sản phẩm ngân hàng giúp giảm chi phí vận hành, đặc biệt là chi phí nhân sự, tiếp thị và công nghệ thông tin, nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê sau một năm rưỡi Sự giảm chi phí này dẫn đến cải thiện khả năng sinh lời, tác động tích cực đến ROA và thu nhập từ hoa hồng và phí sau một năm rưỡi, ảnh hưởng tích cực đến ROE sau ba năm, trong khi không có tác động đáng kể đến NIM của ngân hàng.
Nghiên cứu của Kegan và cộng sự (2005) đã phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng trực tuyến đến hiệu suất của các ngân hàng ở Mỹ, sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) Mẫu nghiên cứu bao gồm 10 ngân hàng cộng đồng với tổng tài sản dưới một tỷ đô la, hoạt động tại Iowa, Minnesota, Montana, North Dakota và South Dakota Kết quả cho thấy các ngân hàng cung cấp dịch vụ online banking có hiệu suất tốt hơn so với những ngân hàng khác, đồng thời cải thiện khả năng thu nhập qua chỉ số lợi nhuận/vốn chủ sở hữu và nâng cao chất lượng tài sản.
Nghiên cứu của Hasan và cộng sự (2002) dựa trên dữ liệu từ các ngân hàng ở Ý cho thấy rằng các tổ chức có dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) hoạt động hiệu quả hơn đáng kể so với nhóm ngân hàng truyền thống Các chỉ số rủi ro liên quan đến ngân hàng điện tử cũng thấp hơn, trong khi tỷ lệ Tài sản/Nợ cho thấy các ngân hàng điện tử có giá trị trung bình cao hơn, với hoạt động đầu tư và giao dịch vượt trội, đồng thời ít phụ thuộc vào tiền gửi so với ngân hàng truyền thống Tuy nhiên, yếu tố chi phí không lãi suất là điểm yếu duy nhất của nhóm ngân hàng điện tử, do yêu cầu đầu tư công nghệ ban đầu cao dẫn đến tăng chi phí hoạt động ngoài lãi.
Nghiên cứu của Onay, Ozsoz và Helvacioglu (2008) về ảnh hưởng của ngân hàng trực tuyến đến khả năng sinh lời của ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy không có mối liên hệ giữa ngân hàng trực tuyến với thu nhập lãi cận biên, thu nhập từ phí và hoa hồng Tuy nhiên, dịch vụ ngân hàng trực tuyến bắt đầu đóng góp vào ROE của ngân hàng sau hai năm, trong khi tác động tiêu cực xuất hiện với độ trễ một năm, tương tự như kết quả của Hernando và Nieto (2007) Nghiên cứu khuyến cáo rằng các quyết định đầu tư vào dịch vụ ngân hàng trực tuyến cần được cân nhắc kỹ lưỡng để đánh giá chi phí và doanh thu ảnh hưởng đến hiệu suất ngân hàng Đến năm 2013, Onay và Ozsoz đã tiếp tục sử dụng dữ liệu từ năm 1990 để phân tích thêm.
Nghiên cứu năm 2008 của 18 ngân hàng bán lẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy việc áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử có mối liên hệ tích cực với lợi nhuận, tiền gửi và cho vay trên mỗi chi nhánh Tuy nhiên, sau hai năm triển khai, dịch vụ này lại gây ra tác động tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng Các tác giả cho rằng nguyên nhân của sự giảm sút lợi nhuận là do dịch vụ ngân hàng điện tử làm gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng, dẫn đến mức thu nhập lãi thấp hơn.
Nghiên cứu ở các nước đang phát triển
Nghiên cứu tại các nước đang phát triển như Jordan, Pakistan, Bangladesh, Iran, Ả Rập Saudi và Kenya cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng nhưng chưa rõ rệt đến kết quả hoạt động ngân hàng (KQHĐ) Một số nghiên cứu, như của Rahman (2007) và Malhotra và Singh (2009), chỉ ra rằng NHĐT cải thiện hiệu suất hoạt động ngân hàng ở một mức độ nhất định Tuy nhiên, các nghiên cứu của Siam (2006) và Khrawish, A.H cùng Al-Sa'di, N.M (2011) cho thấy chi phí cơ sở hạ tầng cao trong việc phát triển dịch vụ NHĐT và số lượng khách hàng chưa tương xứng ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng trong các nước này.
Cụ thể, nghiên cứu của Khrawish, A.H và Al-Sa'di, N.M (2011) “The
Bài viết "Tác động của ngân hàng điện tử đến lợi nhuận của ngân hàng: Bằng chứng từ Jordan" nhằm mục đích khảo sát ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả lợi nhuận của các ngân hàng tại Jordan trong giai đoạn 2000-2009 Nghiên cứu sử dụng một ma trận các biến giả để đại diện cho dịch vụ ngân hàng điện tử, trong đó "INTERNET" được xác định dựa trên thời gian áp dụng dịch vụ Cụ thể, INTERNET 1 = 1 nếu ngân hàng đã áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, INTERNET 2 = 1 nếu ngân hàng áp dụng dịch vụ này trong 2 năm qua, và INTERNET 3 = 1 nếu ngân hàng đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử hơn 2 năm.
Kết quả mô hình hồi quy cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) không có tác động đáng kể đến lợi nhuận của các ngân hàng mới ứng dụng dịch vụ này, được thể hiện qua chỉ số ROA và ROE, với chi phí cao liên quan đến việc áp dụng NHĐT Đối với các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ NHĐT trong 2 năm, kết quả hồi quy có ý nghĩa hơn nhưng vẫn không cho thấy tác động đáng kể đến lợi nhuận, tương tự như kết quả nghiên cứu của Mohammad và Saad (2011), Malhotra và Singh (2009).
Nghiên cứu của Siam (2006) chỉ ra rằng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng trong ngắn hạn, do khách hàng tại Jordan vẫn phụ thuộc vào các kênh truyền thống Chi phí triển khai NHĐT cao hơn doanh thu từ dịch vụ điện tử, vì vậy các ngân hàng cần tăng cường thúc đẩy dịch vụ này và củng cố lòng tin của khách hàng Năm 2011, Al-Smadi và Al-Wabel đã nghiên cứu tác động của NHĐT đến hoạt động của 15 ngân hàng Jordan giai đoạn 2000-2010, phát hiện rằng dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến hiệu quả tài chính, được đo bằng ROE Hạn chế của nghiên cứu là không xem xét ROE sau một năm áp dụng NHĐT, vì chi phí công nghệ mới có thể mất thời gian để hồi phục.
Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) và kết quả hoạt động của các ngân hàng ở các quốc gia đang phát triển Josiah và Nancy (2012) kết luận rằng NHĐT có ảnh hưởng tích cực đến ROA tại các ngân hàng Kenya, đặc biệt qua việc sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và ATM Tương tự, Agboola (2006) cũng ghi nhận kết quả tương tự ở Nigeria Nghiên cứu của Oyewole et al (2013) cho thấy NHĐT bắt đầu có tác động tích cực đến hiệu suất ngân hàng tại Nigeria sau hai năm áp dụng, mặc dù có tác động tiêu cực trong năm đầu tiên Tại Bangladesh, Rahman (2007) chỉ ra rằng các ngân hàng áp dụng công nghệ ngân hàng điện tử đã cải thiện hiệu suất, nhưng nghiên cứu không xác định rõ mức độ ý nghĩa của những thay đổi này theo thời gian.
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Số lượng nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng đầu tư tại Việt Nam còn hạn chế so với các lĩnh vực khác trong tài chính ngân hàng Đặc biệt, rất ít nghiên cứu tập trung vào tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến kết quả hoạt động của ngân hàng.
Nghiên cứu điển hình duy nhất hiện nay về tác động của ngân hàng trực tuyến đến hiệu suất ngân hàng là bài báo khoa học của Dinh Van (2015), mang tên “Measuring the Impacts of Internet banking to Bank performance.”
Evidence from Vietnam” trên Tạp chí thương mại điện tử và Internet banking.
Nghiên cứu đã áp dụng mô hình định lượng để phân tích tác động của dịch vụ Internet banking đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2009-2014 Internet banking được xem như biến giả do không thể định lượng, trong khi các chỉ tiêu tài chính như ROA, ROE, chi phí hoạt động và thu nhập ngoài lãi là biến phụ thuộc Kết quả cho thấy Internet banking có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập ngoài lãi, tác động đến lợi nhuận ngân hàng với độ trễ 3 năm, nhưng ở mức độ rất nhỏ Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chưa có mối liên hệ rõ ràng giữa Internet banking và chi phí hoạt động của ngân hàng Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở phương pháp định lượng với biến giả cho Internet banking, do đó chưa phản ánh đầy đủ tác động của dịch vụ này đến kết quả hoạt động Để có cái nhìn tổng quát hơn, cần thu thập dữ liệu định lượng cụ thể và áp dụng các phương pháp định tính như phỏng vấn sâu với chuyên gia.
Một số nghiên cứu khác có cùng đối tượng nghiên cứu là dịch vụ NHĐT, dịch vụ thanh toán thẻ, TTKDTM như:
- Luận án tiến sỹ (LATS) của NCS Phạm Thu Hương (2012) “Phát triển dịch vụ NHĐT tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế 2012”, Đại học ngoại thương;
Nghiên cứu của Phạm Long (2012) về chất lượng dịch vụ ngân hàng đầu tư tại Việt Nam đã được công bố trong Kỷ yếu Hội thảo Kinh doanh hàng năm lần 2 tại Đại học Sam Houston State Nghiên cứu này nhằm xây dựng một mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ ngân hàng đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam.
- Nghiên cứu của Trương Thị Vân Anh và Lê Văn Huy (2008): “Mô hình nghiên cứu chấp nhận E-Banking tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số
Nghiên cứu của Trần Đức Thắng (2016) tại Đại học KTQD đã phân tích mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử và mức độ thỏa mãn cũng như mức độ trung thành của khách hàng tại Việt Nam Kết quả cho thấy chất lượng dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng đối với ngân hàng điện tử.
- LATS của Nguyễn Danh Lương (2003): “Những giải pháp nhằm phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt Nam”, Học viện ngân hàng và;
- LATS của Trịnh Thanh Huyền (2012): Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTM ở Việt Nam, Học viện tài chính.
Các nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) tại Việt Nam đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc, phân tích đặc điểm và phân loại sản phẩm - dịch vụ NHĐT Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc đánh giá sự phát triển của dịch vụ NHĐT và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển này, đồng thời khám phá các yếu tố tác động đến mức độ chấp nhận dịch vụ NHĐT của khách hàng tại các ngân hàng trong nước.
Khoảng trống nghiên cứu
Đến nay, nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam vẫn còn hạn chế Tài liệu nghiên cứu trong nước và quốc tế chủ yếu tập trung vào phương pháp nghiên cứu định lượng hoặc định tính, mà chưa có nhiều công trình kết hợp đầy đủ cả hai phương pháp này.
Nghiên cứu về tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng cho thấy sự khác biệt tùy thuộc vào đặc điểm từng ngân hàng, lịch sử phát triển dịch vụ NHĐT và môi trường chính trị, kinh tế của mỗi quốc gia Tác động này có thể tích cực hoặc tiêu cực, thậm chí không có tác động nào Hơn nữa, các nghiên cứu trong và ngoài nước chủ yếu tập trung vào ảnh hưởng của NHĐT đến kết quả tài chính qua các chỉ tiêu lợi nhuận, trong khi các kết quả phi tài chính ít được đề cập Phương pháp nghiên cứu định tính như khảo sát và phỏng vấn chuyên gia vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp kết hợp song song định lượng và định tính nhằm xác định ảnh hưởng của dịch vụ Ngân hàng Đầu tư (NHĐT) đến các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của ngân hàng Mục tiêu là làm rõ tác động tích cực hay tiêu cực của dịch vụ NHĐT đối với kết quả hoạt động của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh dịch vụ này đã có sự phát triển nhất định Điểm mới của luận án nằm ở việc phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa dịch vụ NHĐT và hiệu quả hoạt động của các NHTM.
Mô hình đánh giá tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cần được thiết kế phù hợp với đặc điểm và tính chất riêng của các NHTM tại Việt Nam Việc này sẽ giúp tối ưu hóa hiệu quả hoạt động và nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành ngân hàng.
- Đánh giá kết quả kinh doanh, thực trạng hoạt động NHĐT của các NHTM Việt Nam ở giai đoạn ngân hàng điện tử bắt đầu bùng phát mạnh mẽ.
Nghiên cứu này phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, sử dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính và dữ liệu cập nhật trong giai đoạn mới Kết quả cho thấy dịch vụ NHĐT ảnh hưởng tích cực đến các chỉ tiêu tài chính, đặc biệt là tỷ lệ sinh lời, đồng thời cũng tác động đến các chỉ tiêu phi tài chính như gia tăng sức cạnh tranh, mở rộng quy mô khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải tiến quy trình vận hành.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử
2.1.1 Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử
Nguồn gốc của dịch vụ ngân hàng điện tử gắn liền với thương mại điện tử, đóng vai trò là hạ tầng thanh toán trực tuyến cho TMĐT và cũng là một sản phẩm của nó Dịch vụ NHĐT không chỉ cung cấp thông tin mà còn mang lại các dịch vụ ngân hàng truyền thống và hiện đại thông qua các phương tiện điện tử và mạng Internet.
Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) cho phép khách hàng truy cập tài khoản và thông tin sản phẩm qua Internet, bổ sung kênh phân phối mới bên cạnh các phương thức truyền thống như ATM, PC bank và Home bank NHĐT tạo ra mô hình đa kênh phổ biến trong ngành ngân hàng, mang lại tiềm năng lớn với cách thức giao dịch thuận tiện và hiệu quả mà trước đây chưa được cung cấp.
Dịch vụ ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng điện tử, là một thuật ngữ phức tạp và khó định nghĩa do sự đa dạng trong cách tiếp cận và mục đích sử dụng khác nhau.
Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) được định nghĩa bởi IMF (2002) là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử cho sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, là một phần của tài chính điện tử Allen và cộng sự (2002) cũng khẳng định NHĐT là phương thức cung cấp dịch vụ tài chính qua phương tiện điện tử Hiện nay, các ngân hàng bán lẻ đang chuyển sang cung cấp dịch vụ tài chính đa kênh trong môi trường kỹ thuật số, mang đến các dịch vụ truyền thống của ngân hàng thông qua Internet.
Khác với các định nghĩa truyền thống, Siddik và cộng sự (2016) định nghĩa “ngân hàng điện tử” là một hệ thống cho phép nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp và cá nhân truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ tài chính kỹ thuật số từ mạng tư nhân hoặc công cộng Ví dụ, thông qua các thiết bị thông minh như máy tính cá nhân, máy rút tiền tự động (ATM) và trợ lý kỹ thuật số cá nhân (PDA), khách hàng có thể truy cập ngân hàng điện tử và thực hiện giao dịch mà không bị giới hạn về không gian và thời gian như trong ngân hàng truyền thống.
Nghiên cứu của Shah và Clarke (2009) định nghĩa dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) là việc cung cấp dịch vụ tài chính qua kênh phân phối điện tử của tổ chức cho khách hàng, bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp Các ngân hàng hiện nay cung cấp dịch vụ tài chính điện tử đầy đủ và tinh vi, cho phép khách hàng truy cập tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, mở tiết kiệm, thanh toán hóa đơn, vay vốn, giao dịch ngoại hối, ủy thác, bảo hiểm và nhiều sản phẩm tài chính khác.
Dịch vụ ngân hàng điện tử là việc sử dụng các kênh phân phối điện tử nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đến tay khách hàng.
Các kênh phân phối điện tử là hệ thống phương tiện điện tử tương tác và quy trình tự động hóa mà ngân hàng sử dụng để giao tiếp và cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng Những kênh phân phối điện tử phổ biến bao gồm giao dịch qua ATM, POS, Internet banking và Mobile banking Khái niệm này sẽ được áp dụng xuyên suốt trong luận án.
Mối quan hệ giữa ngân hàng điện tử và ngân hàng số
Ngân hàng điện tử, hay còn gọi là ngân hàng số, là một mô hình kinh doanh hoàn toàn mới, không dựa vào chi nhánh truyền thống Theo Chris (2014), ngân hàng số hoạt động và tổ chức dựa vào nguồn lực và mạng lưới số, tạo thành giá trị cốt lõi của ngân hàng Khách hàng tương tác và sử dụng dịch vụ ngân hàng số hoàn toàn thông qua công nghệ, không cần đến chi nhánh hay nhân viên ngân hàng Ngân hàng số cho phép tự động hóa và chuẩn hóa tất cả các hoạt động ngân hàng trên nền tảng số (Gasser, 2017) Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng số, nhưng cơ bản, nó là việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng thông qua công nghệ số, chủ yếu qua internet, điện thoại di động, máy tính bảng, và các nền tảng mạng xã hội, thương mại điện tử.
Ngân hàng số có phạm vi và tính toàn diện vượt trội so với dịch vụ ngân hàng điện tử và các khái niệm như ngân hàng trực tuyến hay ngân hàng Internet, vì chúng chỉ phản ánh một phần trong việc số hóa ngân hàng Ngân hàng số không chỉ ứng dụng công nghệ điện tử và “không chạm” vào các dịch vụ như thanh toán, đầu tư, quản lý tài khoản, bảo hiểm hay chứng khoán, mà còn tích hợp số hóa vào toàn bộ hoạt động ngân hàng Mô hình ngân hàng số (NHS) dựa trên nền tảng số giúp quản trị và điều hành hiệu quả, thích ứng với hạ tầng kỷ nguyên số, nâng cao hiệu suất hoạt động và gắn kết với khách hàng, đồng thời mang lại tiện ích linh hoạt với chi phí hợp lý cho cả cá nhân và doanh nghiệp.
Ngân hàng số không chỉ bao gồm ngân hàng điện tử hay ngân hàng trực tuyến mà còn đại diện cho một mô hình kinh doanh hoàn toàn số hóa, từ dịch vụ đến cơ cấu tổ chức và quy trình hoạt động Ngân hàng điện tử là phần thiết yếu của ngân hàng số, đánh dấu sự chuyển mình từ mô hình ngân hàng chi nhánh sang ngân hàng không chi nhánh Việc phát triển dịch vụ ngân hàng số là nhu cầu cấp thiết, giúp các ngân hàng vượt qua thách thức, tạo ra lợi thế cạnh tranh và thích ứng bền vững trong kỷ nguyên CMCN 4.0 và sự phát triển của kinh tế số, đồng thời thúc đẩy tài chính toàn diện quốc gia.
2.1.2 Vai trò của dịch vụ ngân hàng điện tử
Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đóng vai trò quan trọng trong ngành ngân hàng và nền kinh tế toàn cầu, không thể phủ nhận Với xu hướng số hóa và toàn cầu hóa, phát triển dịch vụ NHĐT trở thành yếu tố thiết yếu, vừa là hạ tầng thanh toán trực tuyến cho nền kinh tế số, vừa là sản phẩm công nghệ tài chính của ngân hàng NHĐT nhanh chóng trở thành phần không thể thiếu trong kinh doanh ngân hàng hiện đại, giúp gia tăng khả năng cạnh tranh và thay đổi cách tiếp cận sản phẩm tài chính một cách sâu sắc.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là qua đại dịch COVID-19, dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) đã trở nên ngày càng phổ biến và phù hợp với bối cảnh kinh tế chính trị xã hội toàn cầu NHĐT không chỉ là phương thức kinh doanh hiệu quả cho ngân hàng mà còn cải thiện hình ảnh và mối quan hệ với khách hàng thông qua việc cung cấp dịch vụ cao cấp và sản phẩm tùy chỉnh Furst và cộng sự (2000) nhận định rằng NHĐT hoạt động như một kênh phân phối từ xa, trong khi Kricks (2009) mô tả nó là hình thức giao hàng tự động sản phẩm ngân hàng đến tay khách hàng qua các kênh điện tử Sự xuất hiện của NHĐT đã thay thế dần các sản phẩm ngân hàng truyền thống, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, truy cập thời gian thực và giảm chi phí hoạt động, giúp ngân hàng đạt hiệu quả tối đa (Ovia, 2001; Gonzalez, 2008) Điều này mở ra cơ hội cho ngân hàng nâng cao cơ sở khách hàng và gia tăng lợi nhuận (Okibo, Wario 2014).
Theo Sumra và Manzoor (2011), dịch vụ ngân hàng trực tuyến sử dụng Internet để cung cấp các dịch vụ như mở tài khoản tiền gửi, thanh toán hóa đơn điện tử và chuyển khoản trực tuyến Các dịch vụ tài chính này có thể được truy cập qua nhiều kênh, bao gồm website của ngân hàng truyền thống, ứng dụng điện tử, hoặc ngân hàng ảo Internet banking là một kênh phân phối hiệu quả, cho phép cung cấp các sản phẩm tài chính giá trị cao với chất lượng cải thiện và chi phí thấp hơn, không bị giới hạn bởi không gian vật lý, đồng thời hỗ trợ bán chéo các sản phẩm như thẻ tín dụng và khoản vay.
Theo Lin, Hu và Sung (2005), dịch vụ ngân hàng trực tuyến (NHĐT) là một kênh bổ sung hiệu quả, giúp cung cấp dịch vụ cho khách hàng với chi phí thấp hơn Các kênh này không chỉ tối ưu hóa chi phí mà còn mở rộng khu vực địa lý phục vụ khách hàng.
NH và có thể giúp thu hút và giữ KH hơn nữa (Dandapani, Karels và Lawrence,
Đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng
2.2.1 Khung xếp hạng hoạt động ngân hàng CAMELS
Trong những năm gần đây, khung xếp hạng CAMELS đã trở thành mô hình phổ biến để ước tính hiệu suất hoạt động của ngân hàng Hệ thống này, do các nhà quản lý ngân hàng liên bang phát triển, được sử dụng để đánh giá hiệu suất tổng thể của các ngân hàng Hoa Kỳ (Rose & Hudgins, 2012) Kể từ năm 1988, Ủy ban Basel đã khuyến nghị áp dụng CAMELS để đánh giá sự lành mạnh của các tổ chức tài chính, bao gồm ngân hàng thương mại Các cơ quan quản lý như Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ, Văn phòng kiểm soát tiền tệ Mỹ và Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ đều áp dụng hệ thống này.
Nghiên cứu của Barr và cộng sự (2002) chỉ ra rằng tiêu chí đánh giá CAMELS đã trở thành công cụ thiết yếu cho các nhà giám sát và cơ quan quản lý ngân hàng Hệ thống này nhằm mục đích nâng cao hoạt động của ngân hàng bằng cách xem xét nhiều khía cạnh khác nhau dựa trên thông tin từ báo cáo tài chính, nguồn tài trợ, dữ liệu kinh tế vĩ mô, ngân sách và dòng tiền Các ngân hàng trung ương có trách nhiệm giám sát các ngân hàng trong từng quốc gia thông qua hệ thống xếp hạng để đánh giá tính chính xác của các ngân hàng (Doumpos & Zopounidis, 2010).
Từ viết tắt CAMELS là viết tắt của: “Capital adequacy”- Mức độ an toàn vốn; “Asset quality”- Chất lượng tài sản có; “Management”- Khả năng quản lý;
"Earning" thể hiện khả năng sinh lời, trong khi "Liquidity" đề cập đến thanh khoản Các nhà điều hành đã bổ sung yếu tố "Sensitivity" để đánh giá rủi ro thị trường liên quan đến sự thay đổi lãi suất và các yếu tố khác, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng tài chính (Kandrac, 2014).
Mức độ an toàn vốn của ngân hàng (CAR) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá an toàn trong hoạt động ngân hàng, được tính toán từ bảng cân đối kế toán CAR, do Ủy ban Basel giám sát, xem xét các rủi ro tài chính như rủi ro ngoại hối, tín dụng và lãi suất bằng cách gán trọng số cho tài sản Tỷ lệ này thể hiện giá trị sổ sách của vốn tự có (chủ yếu là vốn cấp 1 và 2) so với giá trị sổ sách của tài sản đã điều chỉnh rủi ro Tỷ lệ CAR cao hơn cho thấy mức độ an toàn vốn cao hơn, và Hiệp định Basel I năm 1992 đã thiết lập tỷ lệ an toàn vốn đối với tài sản điều chỉnh.
Tỷ lệ vốn tự có (RR) của các ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt ít nhất 4% so với tài sản có rủi ro Theo tiêu chuẩn Basel II và III, tỷ lệ này đã được nâng lên 8%.
Chất lượng tài sản có của ngân hàng thương mại (NHTM) là yếu tố then chốt quyết định tình hình hoạt động và rủi ro tín dụng (TD) mà ngân hàng phải đối mặt Rủi ro TD chịu ảnh hưởng lớn từ chất lượng tài sản mà NHTM nắm giữ, bao gồm các rủi ro cụ thể, xu hướng phát triển của các khoản nợ xấu và khả năng sinh lời của người vay, đặc biệt trong khu vực doanh nghiệp.
Chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể được đánh giá qua nhiều yếu tố, bao gồm mức độ tập trung cho vay theo ngành và khu vực, như lĩnh vực nông nghiệp chịu rủi ro từ thời tiết Cấu trúc khách hàng cũng đóng vai trò quan trọng, với sự phân chia giữa cá nhân, hộ kinh doanh và doanh nghiệp Ngoài ra, chất lượng và giá trị của tài sản thế chấp, mục đích vay, tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay cũng cần được xem xét kỹ lưỡng Rủi ro chính trị, như các chương trình xóa nợ và trần lãi suất, cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của NHTM.
Quản lý là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến hiệu suất của ngân hàng, mặc dù việc đo lường nó khá khó khăn Để đánh giá chất lượng quản lý, có thể sử dụng một số chỉ số như tỷ lệ tăng trưởng tổng tài sản, cho vay và danh mục đầu tư; hiệu suất hoạt động thông qua tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập và thu nhập trên mỗi nhân viên; thị phần tiền gửi và tín dụng; mức độ tự động hóa và nhận diện thương hiệu trong hệ thống vận hành; cũng như lợi ích cổ đông liên quan đến việc tuân thủ mục tiêu chiến lược và chính sách chi trả cổ tức.
Khả năng sinh lời là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá hiệu suất của ngân hàng thương mại (NHTM) NHTM không có lãi thường xuyên có nguy cơ mất khả năng thanh toán, trong khi lợi nhuận cao bất thường có thể chỉ ra rủi ro quá mức Các chỉ số thể hiện khả năng sinh lời bao gồm lợi nhuận trên tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ chênh lệch lãi suất, tỷ lệ thu nhập chênh lệch và tỷ suất lợi nhuận gộp Hệ số biên lợi nhuận hoạt động và tỷ suất lợi nhuận ròng là những chỉ số phổ biến được sử dụng để đánh giá hiệu quả lợi nhuận tại các NHTM.
Thanh khoản là một yếu tố quan trọng, bởi rủi ro thanh khoản có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các tổ chức tài chính Đối với ngân hàng thương mại (NHTM), rủi ro này thường bắt đầu khi người gửi tiền rút tiền của họ, buộc ngân hàng phải vay vốn hoặc bán tài sản với giá thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền Nếu giá bán tài sản không đủ, ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán Ngoài ra, rủi ro thanh khoản cũng xuất hiện khi có sự gia tăng đột ngột trong nhu cầu vay vốn mà ngân hàng không thể đáp ứng do thiếu hụt vốn.
Các ngân hàng thương mại có thể tăng cường huy động vốn bằng cách giảm bớt tài sản tiền mặt, vay thêm từ thị trường tiền tệ, và bán các tài sản khác với giá thấp hơn dự kiến Rủi ro thanh khoản bên trách nhiệm (rủi ro loại thứ nhất) và rủi ro thanh khoản bên tài sản (rủi ro loại thứ hai) đều có tác động tiêu cực đến hoạt động tài chính của ngân hàng thương mại (Saunders và Cornett, 2006).
Việc duy trì vị thế thanh khoản cao giúp giảm thiểu rủi ro, nhưng cũng ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của các tổ chức tài chính, do lợi nhuận từ tài sản có tính thanh khoản cao gần như bằng không Vì vậy, các TCTC cần cân nhắc giữa vị thế thanh khoản và lợi nhuận để đảm bảo hiệu suất tốt Đánh giá tính thanh khoản của NHTM có thể thực hiện thông qua phân tích cung và cầu thanh khoản, với tổng thanh khoản ròng được tính bằng cách khấu trừ tổng số sử dụng thanh khoản khỏi tổng số nguồn thanh khoản Bên cạnh đó, các tỷ lệ đánh giá thanh khoản như tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn, tỷ lệ cho vay/tiền gửi và tỷ lệ bảo đảm thanh khoản cũng đóng vai trò quan trọng, trong đó tài sản có tính thanh khoản cao phải lớn hơn hoặc bằng tài sản nợ phải thanh toán trong vòng 30 ngày (ADB, 2018).
Độ nhạy cảm rủi ro của các ngân hàng thương mại (NHTM) ngày càng gia tăng do sự đa dạng trong các hoạt động như cho vay, đi vay, giao dịch ngoại hối và đầu tư chứng khoán Những hoạt động này phải đối mặt với nhiều loại rủi ro thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, và rủi ro giá tài sản cũng như hàng hóa Khi hiệu suất của một NHTM nhạy cảm hơn với những rủi ro này, điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng đang đối mặt với nguy cơ cao hơn so với những ngân hàng ít nhạy cảm hơn Các chỉ số như rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro giá cổ phiếu và rủi ro giá hàng hóa đều là những yếu tố quan trọng phản ánh độ nhạy cảm với rủi ro thị trường.
Cẩm nang Đánh giá NHTM được ban hành bởi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã mô tả năm mức xếp hạng tổng hợp như sau (Siems và Barr, 1998).
CAMELS = 1 : một NH về cơ bản là có hiệu suất hoạt động tốt trong mọi khía cạnh.
CAMELS = 2 : một NH nhìn chung là họat động tốt tuy nhiên có một vài điểm yếu cần khắc phục.
CAMELS = 3 : một NH có điểm yếu về tài chính, hoạt động hoặc chưa bảo đảm tính tuân thủ gây ra sự lo ngại trong quá trình đánh giá.
CAMELS = 4 : một NH có điểm yếu tài chính nghiêm trọng dẫn đến có thể làm giảm khả năng hoạt động và tồn tại trong tương lai.
CAMELS = 5 : một NH có điểm yếu tài chính quan trọng khiến cho dự báo khả năng thất bại rất cao trong thời gian tới.
Mô hình CAMELS của các ngân hàng có mức độ bảo mật cao vì chứa đựng thông tin nội bộ nhạy cảm thu thập trong quá trình điều tra, bên cạnh dữ liệu tài chính công khai Do đó, mô hình này chủ yếu phục vụ cho quyết định quản lý ngân hàng, không được công khai và chỉ được biết đến bởi quản lý cấp cao và nhân viên giám sát tại các bộ phận liên quan.
2.2.2 Một số tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động của ngân hàng 2.2.2.1 Đánh giá kết quả hoạt động tài chính (financial performance) của ngân hàng
Theo Piyu (1992), các chỉ tiêu tài chính chủ yếu được sử dụng để đánh giá sự vững chắc tài chính và chất lượng quản lý của ngân hàng thương mại Elizabeth và Ellot (2004) chỉ ra rằng các chỉ số hiệu quả tài chính như tỷ lệ lãi suất, lợi nhuận trên tài sản và mức độ an toàn vốn có mối quan hệ tích cực với chất lượng dịch vụ khách hàng Việc đánh giá kết quả hoạt động thông qua các chỉ tiêu tài chính là cần thiết, bên cạnh việc xây dựng báo cáo tài chính bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo thu nhập, báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu và thuyết minh báo cáo tài chính (Salhuteru & Wattimena, 2015).
Tác động của dịch vụ ngân hàng điện tử đến kết quả hoạt động ngân hàng
2.3.1 Tác động đến kết quả tài chính của ngân hàng
- Dịch vụ ngân hàng điện tử góp phần tăng doanh thu, giảm chi phí hoạt động ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có ảnh hưởng tích cực đến kết quả hoạt động (KQHĐ) của ngân hàng, thể hiện qua các chỉ số tài chính như tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) Theo lý thuyết, NHĐT không chỉ kỳ vọng tăng doanh thu dịch vụ mà còn giúp cắt giảm chi phí nhân công và chi phí duy trì mạng lưới chi nhánh, nhờ vào sự hỗ trợ của công nghệ và mạng không dây, từ đó nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Nghiên cứu cho thấy việc bổ sung kênh phân phối Internet vào danh mục kênh phân phối của ngân hàng có thể tăng thu nhập đáng kể, chủ yếu từ các khoản thu ngoài lãi như phí dịch vụ thẻ, thanh toán, chuyển tiền và chuyển đổi ngoại tệ Các ngân hàng cũng có khả năng cung cấp dịch vụ bán chéo, quản lý dịch vụ từ các ngân hàng khác để tăng doanh thu Do đó, dịch vụ ngân hàng trực tuyến đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao doanh thu hoạt động của ngân hàng bán lẻ, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi.
Dịch vụ ngân hàng điện tử mang lại nhiều lợi ích rõ rệt, bao gồm việc giảm chi phí hoạt động như văn phòng, điện nước và nhân công Nhờ vào công nghệ điện tử, ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ với chi phí thấp nhất, tự động hóa và đơn giản hóa quy trình, từ đó hạn chế nhu cầu giao dịch trực tiếp Hơn nữa, dịch vụ này còn cải thiện tỷ lệ CASA (tỷ lệ tiền gửi thanh toán/tổng tiền gửi), giúp ngân hàng giảm chi phí vốn huy động Bằng cách thu hút các khoản tiền gửi không kỳ hạn với chi phí thấp từ 0,1-0,5%/năm, ngân hàng tiết kiệm được chi phí đầu vào Hệ thống thanh toán hiện đại và số lượng giao dịch chuyển tiền qua tài khoản cao sẽ gia tăng tỷ lệ CASA và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Vấn đề liệu các khoản thu nhập từ dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có đủ để đảm bảo lợi tức đầu tư hợp lý (ROI) đang là chủ đề tranh luận Nhiều nghiên cứu tại các nước đang phát triển chỉ ra rằng chi phí đầu tư cho dịch vụ NHĐT, bao gồm tích hợp hệ thống và các biện pháp an ninh, rất lớn, dẫn đến doanh thu từ dịch vụ này chưa mang lại lợi nhuận rõ rệt cho ngân hàng Các nghiên cứu đồng thuận rằng chi phí cho mỗi giao dịch của dịch vụ NHĐT thường giảm nhanh hơn so với dịch vụ ngân hàng truyền thống khi đạt được một khối lượng khách hàng đáng kể Do chi phí cố định của dịch vụ NHĐT cao hơn nhiều so với chi phí biến đổi, khi cơ sở khách hàng của ngân hàng mở rộng, chi phí mỗi giao dịch sẽ giảm xuống.
- Dịch vụ ngân hàng điện tử tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng trong dài hạn
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến lợi nhuận của ngân hàng Nghiên cứu của Merenzi, Hichman và Dehler là một trong những nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này.
(2000) Nghiên cứu này dự báo lợi nhuận cho các tổ chức thực hiện các ứng dụng
Ngân hàng (NH) cung cấp các dịch vụ như thanh toán hóa đơn điện tử, quản lý tiền mặt, tổng hợp tài khoản, cổng dịch vụ tài chính thương mại điện tử (TMĐT) và ứng dụng cho vay trực tuyến cho vay tiêu dùng Mô hình nghiên cứu nhằm kiểm tra mối liên hệ giữa lợi nhuận và các yếu tố như quy mô, số lượng khách hàng (KH), tài sản, cũng như việc sử dụng dịch vụ NHĐT để thanh toán hóa đơn, TMĐT và cho vay trực tuyến Lợi nhuận được đo bằng giá trị hiện tại ròng và tỷ suất hoàn vốn nội bộ trong 5 năm, đồng thời xem xét thói quen chuyển dịch của KH từ các kênh truyền thống sang trực tuyến Kết quả cho thấy mặc dù chưa chiếm lĩnh toàn bộ thị trường, nhưng các chỉ số cho thấy ứng dụng dịch vụ NHĐT mang lại lợi nhuận tích cực cho NH.
Nghiên cứu của Siam (2006) đã chỉ ra rằng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động tích cực đến lợi nhuận của các ngân hàng tại Jordan trong giai đoạn 1999-2004, với mối tương quan có ý nghĩa thống kê Tương tự, Ongare (2013) đã nghiên cứu ảnh hưởng của dịch vụ NHĐT đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng thương mại ở Kenya, sử dụng các chỉ số như lợi nhuận sau thuế và các biến độc lập như số lượng ATM, thẻ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng di động, internet Kết quả cho thấy dịch vụ NHĐT có ảnh hưởng mạnh mẽ và đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng, khẳng định mối quan hệ tích cực giữa dịch vụ NHĐT và hoạt động ngân hàng.
-Dịch vụ ngân hàng điện tử tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng
Trong nghiên cứu của Hernando và Nieto (2007), tác giả đã phân tích tác động của việc giao dịch dịch vụ ngân hàng qua website đến hiệu quả tài chính của 72 ngân hàng thương mại tại Tây Ban Nha từ năm 1994 đến 2002 Sử dụng các tỷ lệ hiệu quả tài chính như tỷ lệ cho vay, tiền gửi và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cùng với lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), kết quả cho thấy việc áp dụng trang web giao dịch có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất của các ngân hàng sau một năm rưỡi Sự giảm chi phí dẫn đến cải thiện khả năng sinh lời, với tác động rõ rệt hơn sau ba năm về ROE.
Mahotra và Singh (2007) đã nghiên cứu tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến hiệu suất và rủi ro của ngân hàng tại Ấn Độ, thông qua việc xem xét một bộ dữ liệu toàn diện.
10 biện pháp tài chính giúp tác giả đánh giá hiệu suất của ngân hàng (NH) một cách nghiêm túc Nghiên cứu chuyên sâu về tác động của Internet cho thấy NH áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có lợi nhuận cao hơn và chi phí hoạt động thấp hơn so với các NH truyền thống Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện chiến lược kinh doanh và quy trình hoạt động để nâng cao hiệu quả tài chính.
NH không có ứng dụng dịch vụ NHĐT.
Nghiên cứu của Oyewole và cộng sự (2013) đã phân tích ảnh hưởng của dịch vụ ngân hàng đầu tư đến hoạt động ngân hàng tại Nigeria, dựa trên dữ liệu từ năm 1999.
Nghiên cứu năm 2010 của 8 ngân hàng thương mại cho thấy dịch vụ ngân hàng đầu tư có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến hiệu suất của các ngân hàng, được đo qua chỉ số ROA và NIM Tuy nhiên, nghiên cứu không phát hiện tác động nào đối với chỉ số ROE.
Nghiên cứu năm 2014 đã chỉ ra rằng dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động rõ rệt đến hiệu suất hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Pakistan, đặc biệt là tỷ suất lợi nhuận, ROA và ROE Các ngân hàng áp dụng dịch vụ NHĐT gần đây cho thấy sự cải thiện đáng kể về ROE và NIM, trong khi các ngân hàng đầu tiên triển khai dịch vụ này có ảnh hưởng tích cực đến ROE nhưng ít tác động đến ROA Kết luận từ nghiên cứu cho thấy, các ngân hàng có thể xem dịch vụ NHĐT như một chiến lược hiệu quả để tiết kiệm chi phí và cạnh tranh với các ngân hàng trong và ngoài nước, nếu họ kiểm soát tốt các rủi ro liên quan.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu cho thấy dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) có tác động tích cực đến hoạt động của các ngân hàng, nhưng một số nghiên cứu lại chỉ ra tác động tiêu cực Al-Smadi và Al-Wabel (2011) đã khảo sát 15 ngân hàng ở Jordan trong giai đoạn 2000 - 2010 và phát hiện rằng hiệu suất ngân hàng, được đo bằng tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch vụ NHĐT Họ lưu ý rằng nghiên cứu không xem xét ROE sau một năm áp dụng dịch vụ, trong khi việc áp dụng công nghệ thông tin vào ngân hàng thường đi kèm với nhiều chi phí, có thể mất thời gian để hồi phục Tương tự, Onay và Ozsoz (2013) đã phân tích dữ liệu từ 18 ngân hàng bán lẻ tại Thổ Nhĩ Kỳ từ 1990 đến 2008 và cũng chỉ ra tác động tiêu cực đến lợi nhuận sau 2 năm áp dụng dịch vụ NHĐT, với lý do rằng dịch vụ này làm gia tăng cạnh tranh và dẫn đến thu nhập lãi thấp hơn.
Tác động của dịch vụ ngân hàng đầu tư (NHĐT) đối với kết quả tài chính của các ngân hàng, chủ yếu thông qua các chỉ số ROA và ROE, cho thấy sự tích cực đáng kể Mặc dù hầu hết các nghiên cứu chỉ ra kết quả tích cực, cũng có một số nghiên cứu nêu lên ảnh hưởng tiêu cực hoặc không rõ ràng Điều này tạo ra một cái nhìn đa dạng cho các học giả, nhà nghiên cứu và nhà quản lý trong việc khám phá tác động của dịch vụ NHĐT đối với hoạt động tài chính của các ngân hàng.
2.3.2 Tác động đến kết quả phi tài chính của ngân hàng
Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử hướng tới mô hình ngân hàng số nhằm nâng cao kết quả hoạt động ngân hàng
tử hướng tới mô hình ngân hàng số nhằm nâng cao kết quả hoạt động ngân hàng
2.4.1 Về định danh số và xây dựng hệ sinh thái số
Kinh nghiệm của Ấn Độ
Định danh số là yếu tố then chốt trong chuyển đổi số dịch vụ tài chính ngân hàng, đặc biệt là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển do thiếu dữ liệu định danh chính thống Kinh nghiệm từ Ấn Độ với chương trình quốc gia India Stack đã tạo ra bước đột phá trong hệ sinh thái kỹ thuật số và khởi nghiệp, không chỉ giải quyết các thách thức của Chính phủ mà còn mở ra cơ hội phát triển cho hệ sinh thái này Những bài học từ quá trình xây dựng và phát triển hệ sinh thái kỹ thuật số ở Ấn Độ có thể là nguồn cảm hứng quý báu cho các nước đang phát triển như Việt Nam.
Trước khi triển khai chương trình India Stack, Ấn Độ đã phải đối mặt với hệ thống dịch vụ công không đồng đều và kém hiệu quả Là quốc gia đông dân thứ hai thế giới với hơn 1,3 tỷ người, trong đó 65% sống ở khu vực nông thôn, nhiều người không tiếp cận được công nghệ và dịch vụ công Điều này đặt ra thách thức lớn cho chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục và thực phẩm cho toàn bộ công dân Vấn đề lớn nhất mà Ấn Độ phải giải quyết là tính bao trùm, khi các chính sách trước đây chưa thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của mọi thành phần dân cư và khu vực khác nhau.
Hệ thống dịch vụ công của Ấn Độ gặp nhiều vấn đề về hiệu quả và gian lận Để gia hạn giấy phép lái xe, người dân phải trở lại chính văn phòng nơi họ đã đăng ký ban đầu, do hệ thống dịch vụ công dựa vào danh tính công dân gắn với vị trí cố định Thông tin này được lưu trữ cục bộ tại các cơ quan địa phương, gây khó khăn trong việc truy xuất và sử dụng thông tin ở các nơi khác Sự không đồng đều trong tính bao trùm thông tin đã dẫn đến lãng phí thời gian và tiền bạc, cùng với việc gia tăng các vấn đề gian lận và tham nhũng trong hệ thống.
Chính phủ Ấn Độ nhận thức rõ sự cần thiết phải cải cách toàn bộ hệ thống cung cấp dịch vụ công, hướng tới một mô hình mới linh hoạt và có khả năng kiểm soát truy cập Giải pháp cho vấn đề này là tích hợp kỹ thuật số, dẫn đến việc ra mắt chương trình Aadhaar vào năm 2009, một hệ thống nhận dạng kỹ thuật số sinh trắc học Aadhaar chứa các thông tin cơ bản như tên, địa chỉ, ngày sinh, giới tính, ảnh chân dung cùng dữ liệu sinh trắc học như dấu vân tay và/hoặc quét mống mắt Mỗi công dân khi đăng ký sẽ nhận được một ID kỹ thuật số duy nhất và vĩnh viễn gồm 12 chữ số, giúp xác minh danh tính dễ dàng mà không cần tài liệu chứng minh Tuy nhiên, Aadhaar chỉ là bước khởi đầu trong chiến lược xây dựng một hệ sinh thái kỹ thuật số và nền kinh tế phi tiền mặt tại Ấn Độ.
Vào năm 2012, Ấn Độ đã phát triển chương trình India Stack dựa trên nền tảng Aadhaar, trở thành chương trình ứng dụng mở (API) lớn nhất thế giới với bốn lớp công nghệ riêng biệt Lớp Phi hiện diện sử dụng công cụ Aadhaar cho phép cá nhân cung cấp định danh mọi lúc mọi nơi; lớp Phi giấy tờ với eKYC, eSign và Digital Locker hỗ trợ xác minh và lưu trữ thông tin; lớp Phi tiền mặt với UPI cho phép giao dịch chuyển tiền nhanh chóng và an toàn mà không cần nhập thông tin chi tiết; và lớp Đồng ý giúp người dùng kiểm soát việc chia sẻ dữ liệu cá nhân Với cấu trúc này, India Stack đã thay đổi đáng kể cách chính phủ, doanh nghiệp và người dân tương tác, cho phép mở tài khoản ngân hàng ngay lập tức thông qua quy trình xác minh eKYC.
NH Axis là ngân hàng Ấn Độ tiên phong trong việc triển khai quy trình eKYC vào năm 2013, rút ngắn thời gian mở tài khoản từ 7-10 ngày xuống chỉ còn 1 ngày Hiện nay, nhiều ngân hàng truyền thống và ngân hàng thanh toán tại Ấn Độ cũng áp dụng quy trình eKYC cho phép khách hàng mở và sử dụng tài khoản ngay lập tức Quá trình phê duyệt khoản vay có thể thực hiện trực tuyến khi khách hàng đồng ý cho ngân hàng truy cập thông tin qua Lớp đồng ý và công cụ Digital Locker Tương tự, các dịch vụ như bệnh viện, du lịch và khách sạn cũng áp dụng công nghệ này Ngoài ra, các khoản vay, giải ngân, thuế và trợ cấp được chuyển trực tiếp tới người thụ hưởng qua công cụ UPI, mang lại lợi ích đặc biệt cho những người sống ở nông thôn, nơi còn nhiều hạn chế về internet, chữ viết và thiết bị thông minh Điều này sẽ là bài học quý giá cho Việt Nam trong việc phát triển hệ thống dịch vụ công và xây dựng một hệ sinh thái kỹ thuật số hoàn thiện hơn.
Bangladesh sở hữu một mạng lưới cáp quang tốc độ cao kéo dài 1.800 km, bao phủ hầu hết các khu vực quan trọng, và có thể được sử dụng làm mạng trục chính cho hệ thống NHĐT Các nhà khai thác điện thoại di động như Grameen Phone và Ranks ITT đã tận dụng mạng cáp quang này để cung cấp dịch vụ đến cả những vùng nông thôn Đặc biệt, một số ngân hàng tư nhân và nước ngoài đã sử dụng mạng cáp quang để thực hiện giao dịch trực tuyến, dịch vụ ATM và POS, góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghệ tài chính tại Bangladesh.
Dịch vụ Internet đã xuất hiện tại Bangladesh vào năm 1996, đánh dấu sự gia nhập của quốc gia này vào siêu xa lộ thông tin toàn cầu thông qua việc kết nối với hệ thống cáp ngầm quốc tế.
Từ năm 2006 đến 2010, đã có 159 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) kết nối với hệ thống, trong đó 64 tổ chức đang hoạt động tích cực (Baten và Kamil, 2010) Theo quyết định của chính phủ về xây dựng Bangladesh kỹ thuật số, ngành CNTT hiện tại có khả năng sẽ phát triển nhanh chóng, giúp đưa tất cả các dịch vụ lên Internet, từ đó mở rộng phạm vi dịch vụ ngân hàng điện tử trên toàn quốc.
Ngân hàng Trung ương Bangladesh đã khởi động nhiều dự án từ năm 2009 nhằm hiện đại hóa hệ thống thanh toán quốc gia và phát triển mạng lưới trực tuyến giữa các ngân hàng Tất cả các ngân hàng truyền thống phải kết nối với Ngân hàng Trung ương, giúp họ thực hiện giao dịch trực tuyến liên ngân hàng, từ đó thúc đẩy mô hình ngân hàng điện tử tại Bangladesh Gần đây, chính phủ Bangladesh đã chú trọng xây dựng một quốc gia kỹ thuật số, thiết lập các công viên công nghệ thông tin, tăng cường đầu tư vào hạ tầng CNTT, miễn thuế cho thiết bị máy tính và triển khai chương trình tự động hóa ngành ngân hàng do Ngân hàng Bangladesh dẫn dắt Những nỗ lực này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc cải thiện dịch vụ khách hàng, góp phần thúc đẩy triển vọng của dịch vụ ngân hàng điện tử tại Bangladesh.
2.4.2 Về đảm bảo an toàn bảo mật
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Thế hệ mô hình ngân hàng điện tử đầu tiên do Ngân hàng China Merchant giới thiệu vào năm 1997, đã khởi đầu với hệ thống thanh toán qua Internet Từ năm 1999 đến 2001, các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như thanh toán hóa đơn điện tử và quản lý quỹ đã dần được cung cấp cho khách hàng bán lẻ và doanh nghiệp Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn chưa thiết lập được một hệ thống phòng ngừa và kiểm soát rủi ro hiệu quả.
Do tính chất mở và tương tác của công nghệ, an ninh trong dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT) trở thành thách thức lớn, đặc biệt tại Trung Quốc - một quốc gia đang phát triển Việc lạm dụng thông tin cá nhân để thực hiện các hoạt động NHĐT và các vi phạm liên quan đến an ninh mạng đang gia tăng, trở thành vấn đề cấp bách đối với tất cả các ngân hàng Trung Quốc.
Mô hình ngân hàng điện tử thế hệ thứ hai đáp ứng nhu cầu tăng cường bảo mật và chính xác trong quản lý tài sản, đồng thời cung cấp các chức năng bổ sung để thuận lợi hóa các hoạt động đầu tư như mua bán cổ phiếu, tiền tệ và quỹ tương hỗ Các chức năng quản lý tài sản cơ bản như thanh toán hóa đơn và chuyển tiền cũng được cải tiến để nâng cao tính tiện lợi Để đảm bảo an toàn, các biện pháp bảo mật nghiêm ngặt như mã thông báo bảo mật USB, hay còn gọi là “U Shield”, đã được triển khai từ năm 2002 Hiện nay, các ngân hàng Trung Quốc áp dụng các phương pháp nhận diện và xác thực giao dịch như sinh trắc học vân tay, nhận diện khuôn mặt và giọng nói để bảo vệ tính riêng tư và an ninh cho dịch vụ thanh toán số Hơn nữa, vấn đề an ninh mạng được chú trọng với các biện pháp như tường lửa thế hệ mới, phần mềm ngăn chặn mã độc và bảo mật dữ liệu nhằm ngăn chặn thất thoát thông tin và các cuộc tấn công mạng.
Chính phủ Malaysia đã đưa ra yêu cầu nghiêm ngặt nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng điện tử Các tổ chức ngân hàng phải tương tác trực tiếp với khách hàng trước khi mở tài khoản hoặc gia hạn tín dụng, đồng thời thiết lập biện pháp xác định khách hàng tiếp cận các trang web bên thứ ba Quy trình xác minh khách hàng cũng phải nghiêm ngặt như đối với khách hàng trực tiếp Ngoài ra, các ngân hàng cần thực hiện cơ chế giám sát và báo cáo để phát hiện hoạt động rửa tiền tiềm tàng, giúp Ngân hàng Trung ương duy trì tính toàn vẹn của hệ thống tài chính và ngăn chặn lạm dụng từ những kẻ rửa tiền.
Ngân hàng Trung ương Negara Malaysia đã thiết lập quy định và giám sát đối với các rủi ro công nghệ, tập trung vào ba khía cạnh chính Đầu tiên, ngân hàng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu và hợp tác giữa các tổ chức, bao gồm các ngân hàng trung ương khác, nhà cung cấp công nghệ và các tổ chức đa phương như SEACEN và BIS Thứ hai, ngân hàng đã ban hành các hướng dẫn và tiêu chuẩn tối thiểu cho các hoạt động ngân hàng, trong đó có việc quản lý rủi ro công nghệ.