TỔNG QUAN
Đại cương về kháng sinh
Antibiotics are antibacterial substances produced by various microorganisms, including bacteria, fungi, and Actinomycetes, that inhibit the growth of other microorganisms Today, the term "antibiotics" has expanded to encompass synthetic antibacterial agents such as sulfonamides and quinolones.
-Phân loại theo cấu trúc hóa học [1]:
Bảng 1.1: Phân loại các nhóm kháng sinh theo cấu trúc hóa học
Các fluoroquinolon: Thế hệ 2,3,4 Các nhóm kháng sinh khác
● 5 nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh:
Dùng kháng sinh không đúng làm giảm hiệu quả của thuốc
Kháng sinh không giúp điều trị các bệnh do virus như cúm, cảm lạnh Dùng kháng sinh đúng để đảm bảo hiệu quả của thuốc
Không chia sẻ thuốc kháng sinh với người thân hoặc bạn bè Chỉ dùng kháng sinh khi có đơn của bác sỹ
● Lựa chọn thuốc kháng sinh phụ thuộc hai yếu tố: người bệnh và vi khuẩn gây bệnh.
Khi xem xét điều trị cho người bệnh, cần chú ý đến các yếu tố như lứa tuổi, tiền sử dị ứng thuốc, chức năng gan thận, tình trạng suy giảm miễn dịch, mức độ nặng của bệnh và các bệnh mắc kèm Đặc biệt, đối với phụ nữ, cần cân nhắc lợi ích và nguy cơ khi điều trị cho những người đang mang thai hoặc cho con bú.
Vi khuẩn có nhiều loại khác nhau, và độ nhạy cảm của chúng với kháng sinh là yếu tố quan trọng cần xem xét Việc cập nhật tình hình kháng kháng sinh là cần thiết để lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp Đồng thời, cần áp dụng các biện pháp phối hợp nhằm giảm mật độ vi khuẩn và tăng nồng độ kháng sinh tại ổ nhiễm khuẩn, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị.
Đường tiêm tĩnh mạch là phương pháp thường được ưu tiên vì nó nhanh chóng đạt nồng độ thuốc trong máu và mô tế bào Mặc dù đường tiêm bắp có thể được sử dụng, nhưng tốc độ hấp thu thuốc không đảm bảo và không ổn định Đường uống chỉ nên được áp dụng khi chuẩn bị cho phẫu thuật trực tràng.
4 Đường tại chỗ: Hiệu quả thay đổi theo từng loại phẫu thuật (trong phẫu thuật thay khớp, sử dụng chất xi măng tẩm kháng sinh).
Các trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ và trung bình thường đạt kết quả sau
Thời gian điều trị nhiễm khuẩn thường từ 7 đến 10 ngày, nhưng đối với những trường hợp nặng hoặc nhiễm khuẩn ở các tổ chức khó thâm nhập của kháng sinh như màng tim, màng não, xương khớp, hay bệnh lao, thời gian điều trị có thể kéo dài hơn nhiều Ngược lại, một số bệnh nhiễm khuẩn như nhiễm khuẩn tiết niệu - sinh dục chưa biến chứng chỉ cần điều trị ngắn hạn, khoảng 3 ngày hoặc thậm chí chỉ một liều duy nhất Việc tránh điều trị kéo dài là cần thiết để giảm nguy cơ kháng thuốc, hạn chế tác dụng phụ không mong muốn và tiết kiệm chi phí điều trị.
Để điều trị thành công nhiễm khuẩn, cần xem xét nhiều yếu tố như tình trạng bệnh lý, vị trí nhiễm khuẩn và sức đề kháng của người bệnh Kiến thức về phân loại kháng sinh, sinh khả dụng và đường dùng thuốc là rất quan trọng để lựa chọn kháng sinh và xác định chế độ liều tối ưu cho từng nhóm Điều này đảm bảo việc sử dụng kháng sinh hợp lý, mang lại hiệu quả, an toàn và kinh tế, đồng thời giảm tỷ lệ kháng kháng sinh trong điều trị.
Tình hình sử dụng kháng sinh
Thị trường thuốc kháng sinh hiện nay rất phong phú và đa dạng về chủng loại Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc kháng sinh đang diễn ra một cách tràn lan, bao gồm cả trong các trường hợp bệnh nhẹ và những bệnh không do vi khuẩn gây ra.
Theo thống kê năm 2015, tổng lượng kháng sinh tiêu thụ toàn cầu đã tăng 30% từ năm 2000 đến 2010 Kháng sinh được xem là nhóm thuốc có lợi nhuận cao, nhưng theo báo cáo của WHO năm 2014, thiệt hại do đề kháng kháng sinh có thể lên tới 100.000 tỷ đô la, và nếu không có biện pháp hành động kiên quyết, có thể có tới 10 triệu người chết do tình trạng này Bác sĩ chuyên khoa nội bệnh viện truyền nhiễm A Beucler nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề đề kháng kháng sinh.
Juvissy-Sur.orge, Cộng hòa Pháp, chỉ ra rằng trong lĩnh vực bệnh học cộng đồng, việc xem xét lại bệnh án và thống kê về việc sử dụng kháng sinh cho một số bệnh cho thấy kháng sinh chưa được sử dụng đúng cách Sự xuất hiện của các kháng sinh mới đã khiến bác sĩ có xu hướng kê đơn những loại kháng sinh đắt tiền, thay vì sử dụng những phương pháp an toàn và hợp lý hơn.
Nhiều bệnh nhiễm khuẩn như tả, sốt rét và lao đang tái xuất hiện trên toàn cầu, trong khi thuốc kháng sinh ngày càng mất hiệu lực do sự gia tăng vi khuẩn kháng thuốc Tại Mỹ, vi khuẩn kháng kháng sinh chiếm tới 60% các ca nhiễm khuẩn mắc phải ở bệnh viện, dẫn đến ước tính hàng năm có từ 700.000 đến vài triệu ca tử vong, tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng Mỗi năm, ít nhất 2,8 triệu người Mỹ bị nhiễm vi khuẩn kháng thuốc, trong đó có ít nhất 35.000 trường hợp tử vong Sự xuất hiện của nhiều chủng kháng thuốc trong các bệnh như lao, sốt rét, tả, ỉa chảy và viêm phổi đã gây ra tác động lớn Tuy nhiên, số lượng thuốc mới được phát triển để thay thế những loại thuốc đã hết hiệu lực vẫn còn rất hạn chế Hơn nữa, việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi sản xuất thịt đã làm gia tăng sự lây lan vi khuẩn kháng thuốc từ chuỗi thực phẩm đến người tiêu dùng.
Theo thông báo của WHO, Mỹ là một ví dụ điển hình về việc sử dụng kháng sinh không đúng cách, với 61% đơn thuốc Vancomycin không đúng chỉ định Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng bệnh Mỹ cho biết một nửa trong số 133 triệu liều kháng sinh sử dụng hàng ngày bên ngoài bệnh viện là không cần thiết, thường được dùng cho các nhiễm trùng virus không đáp ứng với kháng sinh Cơ quan Quản Lý Thuốc và Thực Phẩm Mỹ đã khuyến nghị dán nhãn cảnh báo trên các lọ thuốc kháng sinh, nhấn mạnh rằng chỉ nên kê đơn khi thật sự cần thiết Đến cuối thế kỷ 20, chi phí trung bình cho nghiên cứu phát triển một loại thuốc mới lên đến 500 triệu USD, trong khi việc phát triển kháng sinh mới ngày càng tốn kém do tình trạng kháng thuốc gia tăng Các nhà khoa học cảnh báo rằng thế giới đang đối mặt với khủng hoảng sức khỏe cộng đồng do vi khuẩn kháng kháng sinh Tại hội nghị quốc tế ở London vào ngày 16/7/1996, các chuyên gia vi trùng học đã thảo luận về tình hình kháng thuốc, cho thấy nhiều bệnh nhân không còn đáp ứng với kháng sinh và có nguy cơ tử vong do thiếu thuốc hiệu quả.
Tại Việt Nam, bệnh nhiễm khuẩn là vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng, dẫn đến việc sử dụng kháng sinh trong điều trị là cần thiết Theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng đầu năm 2009, giá trị nhập khẩu thuốc kháng sinh đạt 154 triệu USD, tăng 75% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 25% về lượng và 24% về trị giá trong tổng số thuốc nhập khẩu Bộ Y Tế cho biết chi phí cho kháng sinh chiếm từ 40-50% tổng chi phí thuốc, với khoảng 100 tấn kháng sinh được nhập vào Việt Nam hàng năm Mạng lưới cung ứng thuốc đã phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu điều trị cho người dân, kể cả ở vùng sâu vùng xa Thuốc kháng sinh có tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thuốc nhập khẩu và sản xuất hàng năm, với giai đoạn 2012 – 2014, nhóm thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn chiếm từ 25% đến 28% trong số thuốc nước ngoài được cấp phép Trong số 20 hoạt chất có nhiều đăng ký nhất hàng năm, khoảng 6 đến 9 hoạt chất là kháng sinh.
Mặc dù Bộ Y tế và hệ thống y tế địa phương đã cung cấp hướng dẫn và tuyên truyền về việc sử dụng thuốc, nhưng người dân vẫn chưa thực hiện một cách hợp lý, dẫn đến nhiều sai sót Việt Nam hiện đang có mức sử dụng kháng sinh cao gấp 5 lần so với số liệu từ Hà Lan Theo Luật Dược số 105/2016/QH13, việc bán lẻ thuốc kê đơn mà không có đơn là vi phạm pháp luật.
Nghiên cứu năm 2007 cho thấy 78% kháng sinh được bán không cần đơn tại các nhà thuốc tư nhân Tại các tỉnh, thành phố khác, tỷ lệ bán kháng sinh không kê đơn cho trẻ em cao gấp 4,225 lần so với Hà Nội và TP HCM, và tại quầy thuốc cao hơn 1,873 lần so với nhà thuốc Khảo sát cho thấy chỉ 20% thuốc được mua theo đơn ở một số tỉnh Doanh thu từ thuốc mà các bệnh viện mua chỉ chiếm 1/10 tổng doanh số bán ra của các doanh nghiệp dược, điều này trái ngược với tỷ lệ ở các nước phát triển.
Tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong bệnh viện cho thấy 77,1% bệnh nhân nội trú và 59,9% bệnh nhân ngoại trú sử dụng kháng sinh Đáng chú ý, 41,1% người bệnh tự mua kháng sinh mà không có sự hướng dẫn đầy đủ, dẫn đến việc sử dụng không đúng cách Việc dễ dàng mua kháng sinh hiện nay đã góp phần làm gia tăng tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn, do người bệnh thiếu kiến thức về việc sử dụng kháng sinh đúng loại và đúng thời gian.
Gentamycin được sử dụng đến 70% trong vòng 2 ngày cho cả điều trị ngoại trú và nội trú Tỷ lệ sử dụng kháng sinh trong 1 ngày là 43% với Chloramphenicol, 32% với Gentamycin và 26% với Ampicilin Việc không tuân thủ quy định kê đơn diễn ra phổ biến, mặc dù mọi người đều nhận thức được vi phạm nhưng không có ai xử lý, dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng.
Trong những năm qua, nhiều giải pháp đã được triển khai nhằm hướng dẫn sử dụng kháng sinh hợp lý, với sự hoạt động hiệu quả của các Hội đồng thuốc và điều trị tại các bệnh viện Các nguyên tắc lựa chọn và đánh giá thuốc đã được thiết lập, dẫn đến việc ban hành 119 hướng dẫn điều trị bằng kháng sinh Quy định chỉ cho phép các xí nghiệp đạt tiêu chuẩn GMP sản xuất thuốc kháng sinh nhóm beta-lactam nhằm tránh nhiễm chéo Các trung tâm thông tin thuốc và trung tâm ADR đã tích cực tổ chức tập huấn và phát hành bản tin tới các cơ sở điều trị Mặc dù đã có nỗ lực trong việc giáo dục truyền thông về sử dụng thuốc an toàn và hợp lý, nhưng thành tích đạt được vẫn còn thấp và chưa đạt như mong muốn Nguyên nhân chính của việc sử dụng kháng sinh chưa hợp lý vẫn cần được xem xét.
-Thiếu thông tin về thuốc Hiện nay mạng lưới thông tin về thuốc ở nước ta chưa hoàn chỉnh từ trung ương đến cơ sở.
Cơ chế thị trường ảnh hưởng đến hành vi của người kê đơn, dẫn đến tình trạng bán kháng sinh không cần đơn thuốc trở nên phổ biến ở Việt Nam, mặc dù đã có các quy định và hướng dẫn về việc sử dụng kháng sinh.
Tình hình kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn
Tình trạng kháng thuốc của vi khuẩn đang gia tăng theo thời gian và khu vực, đặc biệt nghiêm trọng tại Việt Nam Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự kháng thuốc là do việc sử dụng kháng sinh không đúng cách, với nhiều loại kháng sinh có thể mua dễ dàng mà không cần đơn thuốc Bệnh nhân thường tự ý sử dụng kháng sinh mà không có sự hướng dẫn từ bác sĩ, dẫn đến sự gia tăng đề kháng của vi khuẩn Theo nghiên cứu ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2001, tỷ lệ kháng của vi khuẩn S pneumoniae rất cao, cho thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề này trong khu vực Đông Nam Á.
S pneumoniae phân lập được từ người bệnh, có 483 (52,4%) chủng không còn nhạy cảm với penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng với penicillin Tỷ lệ kháng erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là 80,6%, Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc là 73,9%.
Theo báo cáo của Chương trình theo dõi kháng kháng sinh (ASTS) năm 2006, các vi khuẩn thường gặp trong bệnh viện tại Việt Nam bao gồm E.coli, trực khuẩn mủ xanh, Klebsiella, A.baumannii và tụ cầu vàng Dữ liệu này được tổng hợp dưới sự lãnh đạo của GS Lê Đăng Hà, Giám đốc Bệnh Viện Y Học Lâm Sàng Các Bệnh Nhiệt Đới, trong vòng 3 năm qua.
Từ năm 1999 đến 2001, có 16 loại vi khuẩn gây bệnh phổ biến, trong đó vi khuẩn Gram âm (Gr (-)) chiếm tỷ lệ cao nhất với 64,9% Đặc biệt, E Coli là loại vi khuẩn Gr (-) chiếm tỷ lệ lớn nhất, đạt 22,4% Mức độ kháng thuốc của E Coli cũng rất cao, với tỷ lệ kháng trên 50% đối với bốn loại kháng sinh: Ampicilin, Tetracyclin, Chloramphenicol và Co-trimoxazol.
Tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh đang gia tăng nhanh chóng, đe dọa hiệu lực của các phương pháp điều trị hiện có Nếu không có thêm vũ khí mới hoặc chiến lược hợp lý để sử dụng hiệu quả các biện pháp hiện tại, con người có thể trở thành kẻ thất bại trong cuộc chiến chống lại vi khuẩn kháng thuốc.
Tình trạng kháng thuốc kháng sinh xảy ra khi vi sinh vật phát triển khả năng đề kháng với kháng sinh mà trước đây có thể tiêu diệt chúng Sự đề kháng này phát sinh từ ba nguyên nhân chính: kháng tự nhiên, gen đột biến, hoặc việc một loài vi khuẩn nhận sức đề kháng từ loài khác Vi khuẩn kháng thuốc ngày càng trở nên khó điều trị, yêu cầu sử dụng thuốc thay thế hoặc liều lượng cao hơn, dẫn đến chi phí điều trị tăng và nguy cơ độc hại Những vi khuẩn kháng nhiều loại kháng sinh được gọi là đa kháng (MDR) Tại Hoa Kỳ, CDC đã xác định 18 loại vi trùng và nấm trở thành đa kháng thuốc, đang đe dọa sức khỏe cộng đồng.
Vi khuẩn kháng thuốc không chỉ tồn tại trong các cơ sở y tế mà còn phổ biến trong cộng đồng, đe dọa đến tất cả mọi người, bao gồm cả những đối tượng ít nguy cơ như người khỏe mạnh Sự gia tăng vi khuẩn đa đề kháng đang trở thành mối lo ngại lớn, không chỉ trong môi trường bệnh viện mà còn trong các trường hợp nhiễm khuẩn ngoài cộng đồng.
Việc phòng ngừa đề kháng kháng sinh trở nên cực kỳ quan trọng trong bối cảnh sự phát minh ra kháng sinh mới ngày càng giảm, trong khi mức độ đề kháng kháng sinh lại gia tăng, đặc biệt là ở Việt Nam Sử dụng kháng sinh không hợp lý và không hiệu quả đang gây ra những vấn đề nghiêm trọng trong tất cả các cấp độ chăm sóc y tế, dẫn đến việc gia tăng chi phí khám chữa bệnh Đáng chú ý, chi phí mua kháng sinh chiếm khoảng 50% tổng kinh phí thuốc tại các bệnh viện.
Biện pháp hạn chế gia tăng đề kháng kháng sinh:
- Phải lựa chọn đúng kháng sinh và đường dùng thuốc thích hợp, hiểu được xu hướng đề kháng kháng sinh tạo địa phương mình.
- Phải sử dụng kháng sinh đúng liều lượng, đúng khoảng cách liều và đúng thời gian quy định.
- Phải có sự hiểu biết về thể trạng người bệnh, đặc biệt đối với các phụ nữ có thai, người già, người bị suy gan, suy thận…
Việc nắm vững các nguyên tắc cơ bản trong phối hợp kháng sinh là rất quan trọng Kết hợp kháng sinh một cách bừa bãi hoặc sử dụng quá nhiều loại có thể dẫn đến gia tăng độc tính, tương tác dược lý không mong muốn và làm tăng nguy cơ kháng thuốc.
- Sử dụng kháng sinh dự phòng theo đúng nguyên tắc.
- Có chiến lược quay vòng kháng sinh hợp lý.
Để kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả trong các cơ sở chăm sóc y tế, cần ngăn ngừa lây truyền vi khuẩn kháng thuốc giữa bệnh nhân với bệnh nhân, giữa bệnh nhân và nhân viên y tế, cũng như từ môi trường Việc thực hiện rửa tay đúng cách và áp dụng biện pháp cách ly đối với những người mang vi khuẩn đề kháng mạnh là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Một số nghiên cứu liên quan
1.4.1 Khảo sát sự hiểu biết và thói quen sử dụng kháng sinh của người dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ – Đặng Ngọc Nhi, Đại học Tây Đô, 2017 [2]
- Đề tài được nghiên cứu tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang năm 2017.
-Kiến thức khảo sát: sự hiểu biết và thói quen sử dụng kháng sinh của người dân.
-Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Kiến thức của người dân về thuốc kháng sinh và bệnh tật còn rất hạn chế, với 46,9% dân số xã Vĩnh Trạch và 30,7% thị trấn Phú Hòa chưa biết đến thuốc kháng sinh Nhận thức về bệnh nhiễm trùng cũng rất kém, dẫn đến tỷ lệ người hiểu sai về thuốc kháng sinh cao Sự hiểu lầm này sẽ kéo theo hậu quả nghiêm trọng, là việc sử dụng thuốc kháng sinh không đúng cách.
1.4.2 Khảo sát thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh của người dân tại một số xã, thị trấn trong huyện Tiên Du – tỉnh Bắc Ninh, Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ – Nguyễn Văn Huy, Đại học Dược Hà Nội, năm 2003 [7]
-Đề tài được nghiên cứu tại huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh năm 2003.
-Kiến thức khảo sát: thực trạng sử dụng kháng sinh của người dân.
Tình hình lạm dụng thuốc kháng sinh đang trở nên nghiêm trọng, với chỉ 68,01% người dân thị trấn Lim và 57% xã Phú Lâm sử dụng thuốc kháng sinh đúng cách Đáng chú ý, 31,99% người dân thị trấn Lim và 43% xã Phú Lâm sử dụng thuốc kháng sinh không đúng bệnh, trong đó có tới 18,66% ở thị trấn Lim và 24% ở xã Phú Lâm dùng thuốc kháng sinh cho cảm cúm và sổ mũi Nguyên nhân chính là do sự thiếu hiểu biết của người dân về cách sử dụng thuốc kháng sinh.
Thông tin về thuốc kháng sinh hiện nay còn thiếu hụt và không có hệ thống, khiến người dân khó tiếp cận kiến thức đáng tin cậy Nhiều nguồn thông tin không có độ tin cậy cao và thiếu sự hỗ trợ từ các cơ sở y tế Kết quả là, tỷ lệ nhận thức sai về thuốc kháng sinh vẫn cao, với 11,85% người dân ở thị trấn Lim và 15,38% ở xã Phú Lâm nhầm lẫn Panadol là thuốc kháng sinh, cùng với 14,07% ở thị trấn Lim và 14,10% ở xã Phú Lâm cho rằng Decolgen cũng là thuốc kháng sinh Tình trạng hiểu sai này dẫn đến việc sử dụng thuốc không đúng cách, gây ra nhiều hệ lụy cho sức khỏe cộng đồng.
Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu
1.5.1 Giới thiệu về huyện Quỳnh Phụ
Tỉnh nằm ven biển thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh Phía bắc tiếp giáp với tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng; phía tây và tây nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam; phía đông giáp vịnh Bắc Bộ.
● Đơn vị hành chính: tỉnh có 7 huyện (Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Hưng
Tỉnh Thái Bình bao gồm 5 huyện (Hà, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Thụy, Vũ Thư) và 1 thành phố trực thuộc tỉnh (thành phố Thái Bình), với tổng cộng 284 xã, phường, thị trấn Theo số liệu năm 2005, dân số của Thái Bình đạt 1.860,6 nghìn người.
Quỳnh Phụ là huyện nằm ở vị trí trung tâm phía bắc tỉnh, được thành lập từ sự hợp nhất của hai huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực vào năm 1969 Theo thống kê năm 2009, huyện có dân số 245.188 người, với mật độ dân số đạt 1.170 người/km².
● Đơn vị hành chính: Huyện Quỳnh Phụ có 38 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Quỳnh Côi và An Bài.
Huyện có hệ thống giao thông thuận lợi với quốc lộ 10 chạy qua phần phía đông, kết nối Hải Phòng với huyện Đông Hưng và thành phố Thái Bình theo hướng Đông Bắc - Tây Nam Ngoài ra, huyện còn được bao quanh bởi các tuyến đường thủy quan trọng như sông Luộc, sông Hóa và sông Diêm Hộ.
1.5.2 Hệ thống y tế tại huyện Quỳnh Phụ
Hệ thống y tế trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ hiện có:
Bệnh viện Đa khoa Phụ Dực hiện có 4 phòng và 11 khoa, với đội ngũ 135 cán bộ công nhân viên và quy mô 300 giường bệnh Mỗi năm, bệnh viện tiếp nhận khoảng 100.000 lượt bệnh nhân, trong đó có 12.000 lượt điều trị nội trú.
350 ca phẫu thuật mỗi năm và chưa xảy ra tai biến chuyên khoa [19].
-Bệnh viện đa khoa Quỳnh Côi: hiện có 117 cán bộ, công nhân viên với quy mô 150 giường bệnh và trung bình 500 – 600 lượt bệnh nhân mỗi ngày.
-Trung tâm y tế huyện Quỳnh Phụ: sát nhập với Trung tâm Dân số - KHHGĐ ngày 21/9/2018 trực thuộc Sở Y tế Thái Bình, có cơ cấu tổ chức gồm
1 giám đốc và 3 phó giám đốc, 3 phòng, 5 khoa và 38 trạm y tế các xã, thị trấn.
Trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, không ghi nhận ổ dịch lớn nào, cho thấy công tác giám sát và tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là Covid-19, được thực hiện hiệu quả Chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được nâng cao, với chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế được cải thiện Cơ sở vật chất cũng được đầu tư hiện đại, đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Người dân tại 3 xã, thị trấn: An Bài, An Ninh, An Thanh thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
-Địa điểm: Nghiên cứu tiến hành tại 3 xã, thị trấn: An Bài, An Ninh, An Thanh và Trường Đại học Y – Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 6/2020 đến tháng 5/2021.
Thời gian tiến hành khảo sát: từ tháng 9/2020 đến tháng 02/2021.
Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang, để hoàn thành mục tiêu đề ra, nghiên cứu chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 của dự án tập trung vào việc thu thập thông tin và số liệu thông qua khảo sát, nhằm đánh giá thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh cũng như kiến thức của người dân tại huyện Quỳnh Phụ.
Giai đoạn 2 bao gồm việc phân tích thông tin và số liệu để rút ra kết luận về xu hướng và định hướng trong tương lai Trong giai đoạn này, cần áp dụng các kỹ năng như nghiên cứu tài liệu, xử lý số liệu, phân tích thống kê và vẽ biểu đồ để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc truyền đạt thông tin.
Mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu:
Mẫu là người dân sinh sống trên địa bàn 3 xã, thị trấn: An Bài, An Ninh, An Thanh thuộc huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
● Tiêu chuẩn lựa chọn: Người dân đồng ý tham gia khảo sát, tuổi từ 16 tuổi trở lên, có thời gian sinh sống tại địa phương ít nhất 3 tháng.
● Tiêu chuẩn loại trừ: người dân không đạt những tiêu chuẩn trên hoặc người không đủ hành vi năng lực dân sự.
Theo tài liệu của Nguyễn Trương Nam từ Viện nghiên cứu Y – Xã hội học, công thức tính cỡ mẫu được áp dụng cho quần thể không xác định với số mẫu dưới 10,000 Công thức này cho phép xác định các biến rời rạc và tỷ lệ mà không cần so sánh, cụ thể là n = Z² (1- ∝ ) (1− ) 2 ².
●n là cỡ mẫu dùng cho nghiên cứu
●p là tỷ lệ ước tính dựa trên các nghiên cứu trước đó, hoặc là nghiên cứu thử
●d là khoảng sai lệch cho phép giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của quần thể
● Z (1- ∝ 2 ) phụ thuộc hệ số tin cậy (1- ∝) và được tra trong bảng tính sẵn.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn từ Viện nghiên cứu y khoa Garvan, Sydney, Australia, trong "Phương pháp tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu y học", hệ số Z là một hằng số chuẩn được lấy từ phân phối chuẩn và phụ thuộc vào sai số d Trong các nghiên cứu y học thông thường, sai số chấp nhận là từ 1-5%, và với sai số 3%, ta có d = 0,03 và Z = 1,96.
Trong một nghiên cứu tại thị trấn An Bài với 54 mẫu, chỉ khoảng 20% người dùng thuốc kháng sinh tuân thủ đúng nguyên tắc sử dụng.
Thay vào công thức ta được:
Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại ba xã, thị trấn: An Bài, An Ninh và An Thanh, nhờ vị trí địa lý gần nhau, thuận lợi cho việc lấy mẫu Thị trấn An Bài có 5 thôn, xã An Thanh có 4 thôn, và xã An Ninh có 6 thôn, tổng cộng là 15 thôn Mẫu được lấy từ tất cả 15 thôn, với mỗi thôn 55 hộ, tổng cộng 825 mẫu Sau khi phân tích và xử lý dữ liệu, có 750 kết quả khảo sát đạt yêu cầu.
Danh sách các nhóm chỉ tiêu được thu thập qua phiếu khảo sát và được trình bày qua bảng:
Bảng 2.1: Danh sách nhóm chỉ tiêu Tên biến
Kiến thức về kháng sinh
Kiến thức về kháng kháng sinh
Thói quen sử dụng thuốc của người dân
Thực trạng sử dụng thuốc
Thói quen tìm hiểu, trau dồi kiến thức
2.3.2 Phương pháp thu thập số liệu:
Sau khi tổng hợp tài liệu, chúng tôi đã thiết kế bộ câu hỏi khảo sát và tiến hành thử nghiệm tại hai xã An Bài và An Thanh với tổng số 54 mẫu đạt tiêu chuẩn Bộ câu hỏi khảo sát đã được chỉnh sửa và hoàn thiện, tuy nhiên, 54 mẫu thử nghiệm này không được đưa vào kết quả cuối cùng.
Quá trình thử nghiệm cho thấy tỷ lệ người dân từ chối tham gia khảo sát khá cao Sau khi chỉnh sửa nội dung và thuật ngữ, phiếu khảo sát hoàn chỉnh bao gồm 22 câu hỏi chọn đáp án, 10 câu hỏi đúng sai và 8 câu hỏi mở tình huống thực tế Các câu hỏi được phân loại theo mức độ kiến thức từ dễ đến khó, tập trung vào các nội dung chính.
Thông tin chung (tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp, trình độ học vấn ) Kiến thức liên quan đến kháng sinh.
Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh của người dân.
● Đáp án của phần kiến thức được trình bày tại Phụ lục 2.
2.3.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu:
- Sử dụng phần mềm Excel 2010 và SPSS 22 để quản lý, thống kê, phân tích và xử lý số liệu.
- Sử dụng kiểm định Mann - Kendall để phân tích xu hướng tiêu thụ.
- Số liệu được trình bày dưới dạng tỷ lệ %, cỡ mẫu tuân theo phân phối chuẩn hoặc phân phối trung vị.
Hạn chế của đề tài
Phương pháp sử dụng bộ câu hỏi khảo sát cần giới hạn thông tin thu thập trong phạm vi phiếu khảo sát Nhiều người dân từ chối tham gia hoặc có phản ứng chống đối, dẫn đến việc nhiều mẫu kết quả không đạt yêu cầu và không thể đưa vào thống kê nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Tiến hành khảo sát người dân tại ba xã, thị trấn: An Bài, An Ninh, An Thanh thuộc huyện Quỳnh Phụ, với tổng cộng 750 kết quả đạt yêu cầu.
Bảng 3.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ tham gia khảo sát chủ yếu là nữ, chiếm 87,6%, trong khi nam chỉ chiếm 12,4%, cho thấy sự chênh lệch giới tính đáng kể, có thể ảnh hưởng đến kết quả khảo sát Đối tượng tham gia chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 25 đến 50, chiếm 66,6%, với độ tuổi nhỏ nhất là 17 và lớn nhất là 69.
Trong khảo sát, 92,3% người tham gia là những cá nhân không có chuyên môn về y - dược, trong khi chỉ có 7,7% là nhân viên làm việc trong ngành y tế.
Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh của người dân
Tiến hành khảo sát ý kiến người dân thông qua bộ câu hỏi gồm 8 câu trả lời ngắn, nhằm thu thập dữ liệu về tình trạng bệnh tật và việc sử dụng thuốc trong cộng đồng.
Biểu đồ 3.1 Biểu đồ bệnh của người dân Biểu đồ bệnh của người dân
Theo khảo sát, trong năm qua, người dân chủ yếu gặp phải các bệnh hô hấp như viêm họng, viêm amidan và viêm phế quản, chiếm tới 61,8% tổng số ca bệnh Ngoài ra, các bệnh khác cũng được ghi nhận với tỷ lệ như viêm lợi và đau răng (8,8%), viêm tai giữa (2,9%), cùng với các vấn đề về đường tiêu hóa Những bệnh này thường cần điều trị bằng thuốc kháng sinh kết hợp với các loại thuốc khác.
Biểu đồ 3.2 Biểu đồ mức độ bệnh của người dân
Mức độ bệnh người dân
Biểu đồ 3.1 cho thấy rằng 86,4% người dân đánh giá mức độ bệnh của mình không nghiêm trọng, trong khi chỉ có 13,6% cho rằng bệnh của họ ở mức độ nghiêm trọng Nguyên nhân của sự đánh giá này có thể là do nhiều người đã mắc và khỏi bệnh dễ dàng, nhờ vào việc sử dụng thuốc có sẵn với giá thành thấp và thời gian điều trị ngắn.
Biểu đồ 3.3 Biểu đồ sự cần thiết của việc khám/chữa bệnh Ý kiến của người dân về sự cần thiết của việc khám/chữa bệnh tại cơ sở y tế
Kết quả khảo sát cho thấy chỉ có 26,5% người tham gia cảm thấy cần thiết phải đến các cơ sở khám chữa bệnh để được khám và kê đơn thuốc, trong khi 73,5% còn lại cho rằng việc này không cần thiết Nguyên nhân chính là do 86,4% người dân tin rằng tình trạng sức khỏe của họ không nghiêm trọng, dẫn đến việc họ không cảm thấy cần phải khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
Biểu đổ 3.4 Biểu đồ thực trạng sử dụng thuốc của người dân
Thực trạng sử dụng thuốc của người dân
Theo bảng câu hỏi phỏng vấn về thực trạng sử dụng thuốc, 80,9% người dân tự ý dùng thuốc, trong khi chỉ 19,1% không tự ý Việc không tự ý sử dụng thuốc bao gồm mua thuốc theo đơn của bác sĩ và theo sự tư vấn của dược sĩ, đảm bảo đúng thuốc, đúng thời gian và liều lượng Ngược lại, 80,9% người dân tự ý dùng thuốc, bao gồm cả thuốc không kê đơn và thuốc kê đơn, với tỷ lệ này tương đương ở cả ba xã Trong số 607 người được khảo sát, nhiều người đã thừa nhận việc tự ý dùng thuốc.
Trong một cuộc khảo sát, có 312 người (chiếm 51,4%) đã tự ý sử dụng thuốc kê đơn, chủ yếu là kháng sinh Nguyên nhân chính là do các loại thuốc này dễ dàng mua và sử dụng tại các nhà thuốc, quầy thuốc gần nhà Qua việc hỏi về các bệnh thường gặp, chúng tôi đã thu thập được danh sách những loại kháng sinh mà người dân thường sử dụng.
-Viêm họng, viêm amidan: cephalexin 500mg, amoxicillin 125mg, amoxicillin 625mg, augmentin, cefuroxim 500mg, cefuroxim 200mg.
-Viêm tai giữa: levofloxacin, augclamox, droxikid (dùng cho trẻ em).
-Viêm loét dạ dày: amoxicillin, ospamox 500mg, clarithromycin 500mg.
-Viêm da: doxycillin, tetracyclin, cefixim.
-Viêm lợi, đau răng: cephalexim, zidocin, napacogyl, rodogyl.
Thuốc kháng sinh mà người dân sử dụng đều là thuốc kê đơn, chỉ được phép dùng khi có chỉ định từ bác sĩ hoặc chuyên gia có thẩm quyền Theo khảo sát, 85,6% (267/312 người) biết rằng họ đang dùng kháng sinh và thuốc đó phù hợp với bệnh của mình Tuy nhiên, vẫn có một số người sử dụng kháng sinh mà không nhận thức được, do thói quen sai lầm hoặc lời giới thiệu từ bạn bè, người thân Nhiều người chỉ dùng kháng sinh trong 3-5 ngày, hoặc thậm chí 1-2 ngày khi thấy triệu chứng giảm, tự ý tăng liều, hoặc yêu cầu thuốc đắt hơn khi không thấy cải thiện.
Trong số các loại thuốc điều trị được người tham gia khảo sát sử dụng, có nhiều thuốc không kê đơn như paracetamol (giảm đau, hạ sốt), acyclovir (dùng ngoài với hàm lượng < 5%), nystatin (dùng ngoài), omeprazol (hàm lượng < 20mg và thời gian sử dụng < 14 ngày), và cimetidin (hàm lượng < 200mg/đơn vị) Mặc dù các thuốc này có thể được sử dụng theo nguyên tắc, nhưng cần phải hiểu rõ về trường hợp sử dụng, cách phối hợp, thời gian và liều lượng để đảm bảo hiệu quả và an toàn.
Biểu đồ 3.5 Biểu đồ các yếu tố ảnh hưởng
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng sử dụng thuốc của người dân
Tỉ lệ người dân tự ý dùng thuốc cao, chủ yếu do ảnh hưởng từ bạn bè, đồng nghiệp và hàng xóm (4,7%), điều kiện kinh tế (57,1%) và kiến thức tự tìm hiểu qua mạng, báo chí (38,2%) Tại vùng nông thôn, việc truyền miệng vẫn phổ biến, dẫn đến tình trạng một người sử dụng sai thuốc có thể ảnh hưởng đến nhiều người khác Mặc dù người dân đã có ý thức tìm hiểu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng họ thường không xác định đúng bệnh và mức độ bệnh của mình, từ đó mua và sử dụng thuốc không đúng cách.
Kiến thức của người dân về kháng sinh và kháng kháng sinh
3.3.1 Kiến thức của người dân về kháng sinh
Khảo sát kiến thức của người dân về kháng sinh đã được thực hiện thông qua bộ câu hỏi 32 câu, tập trung vào các nội dung chính như tổng quan về kháng sinh, nguyên tắc sử dụng đúng, nhóm đối tượng cần lưu ý đặc biệt khi dùng kháng sinh, cùng với một số loại kháng sinh phổ biến và tác dụng phụ có thể gặp phải khi sử dụng.
Bảng 3.2: Kiến thức của người dân về tổng quan kháng sinh
Thông tin được lấy từ các câu hỏi trong phiếu khảo sát:
-Câu 3, 6, 28, 31: Nhận biết kháng sinh
-Câu 2: Nguồn gốc của kháng sinh
-Câu 1: Vai trò của kháng sinh
-Câu 4: Tác dụng của kháng sinh
Trong một khảo sát, chỉ có 327 người, tương đương 43,6%, trả lời đúng về nguồn gốc kháng sinh Nhiều người nhầm lẫn kháng sinh với corticoid, dẫn đến 365 người, chiếm 48,7%, nhận biết sai Khi điều trị các bệnh nhiễm khuẩn thông thường, các quầy thuốc thường kê đơn thuốc giảm đau, chống viêm cùng với kháng sinh, gây khó khăn cho người dân trong việc phân biệt thuốc Đặc biệt, chỉ có 33,6% người tham gia khảo sát trả lời đúng về kháng sinh điều trị đau răng, một bệnh phổ biến và ít nguy hiểm.
Khảo sát cho thấy 61,8% người tham gia hiểu rõ vai trò của kháng sinh, với 464 người trả lời đúng Họ nhận thức được tác dụng của kháng sinh đối với cơ thể, các trường hợp sử dụng và tầm quan trọng của chúng trong việc chống lại bệnh tật Tuy nhiên, chỉ có 23,6% (177 người) trả lời đúng về cơ chế và đích tác dụng của kháng sinh.
Bảng 3.3: Kiến thức của người dân về nguyên tắc sử dụng kháng sinh Nội dung
Thông tin được lấy từ các câu hỏi trong phiếu khảo sát:
-Câu 12, 23: Thời gian sử dụng
-Câu 5, 26: Liều lượng sử dụng
-Câu 8, 11: Nguyên tắc sử dụng
-Câu 10, 15, 29: Cách phối hợp kháng simh
-Câu 14, 32: Phác đồ điều trị
Thời gian sử dụng kháng sinh là kiến thức quan trọng mà người dân cần nắm rõ để sử dụng hiệu quả và đủ liều Tuy nhiên, chỉ có 20,4% người hiểu đúng về thời gian dùng kháng sinh, với đa số cho rằng thời gian đủ là từ 5-7 ngày Điều này cần được chú ý vì thời gian điều trị kháng sinh phụ thuộc vào từng loại bệnh Các bệnh nhiễm khuẩn nhẹ có thể khỏi sau 3 ngày hoặc thậm chí chỉ cần 1 liều, trong khi bệnh nhiễm khuẩn nặng có thể cần 7-10 ngày hoặc lâu hơn để điều trị hiệu quả.
Trong một khảo sát, có 355 người trả lời câu hỏi về liều lượng và 267 người về nguyên tắc, tương ứng với tỉ lệ đúng là 47,4% và 35,6% Đặc biệt, chỉ khoảng 30% người tham gia có câu trả lời chính xác cho câu hỏi liên quan đến nguyên tắc phối hợp thuốc và phác đồ điều trị.
Bảng 3.4: Kiến thức của người dân về một số lưu ý khi dùng kháng sinh
Nội dung Đối tượng đặc biệt
Tác dụng không mong muốn
Thông tin được lấy từ các câu hỏi trong phiếu khảo sát:
-Câu 13, 16, 17, 24: Đối tượng đặc biệt
-Câu 7, 25, 27: Tác dụng không mong muốn
Kháng sinh có thể gây ra nhiều tác dụng không mong muốn, và 79,3% người tham gia khảo sát nhận thức được điều này, đặc biệt là những ảnh hưởng đến gan, thận và dạ dày Nhiều người biết rằng Tetracyclin có thể gây vàng men răng Đối với các nhóm đặc biệt như trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú, cũng như những người có bệnh lý gan thận, 66,1% người trả lời đúng về việc sử dụng kháng sinh an toàn Tuy nhiên, chỉ có 45,2% người hiểu rõ sự khác biệt giữa đối tượng đặc biệt và các trường hợp chống chỉ định khi sử dụng kháng sinh.
3.3.2 Kiến thức của người dân về kháng kháng sinh
Bảng 3.5: Kiến thức của người dân về kháng kháng sinh
Thông tin được lấy từ các câu hỏi trong phiếu khảo sát:
-Câu 18: Cách lây lan của vi khuẩn kháng thuốc
-Câu 19, 30: Nguyên nhân kháng thuốc
-Câu 20, 22: Hậu quả và tác hại của kháng kháng sinh
-Câu 21: Biện pháp phòng tránh kháng thuốc
Về kháng kháng sinh, có 287 người (khoảng 38,3%) trả lời đúng về sự lây lan của vi khuẩn kháng thuốc, trong khi 231 người (khoảng 30,8%) hiểu đúng nguyên nhân dẫn đến kháng kháng sinh.
Hầu hết mọi người đều có kiến thức cơ bản về hậu quả và tác hại của kháng thuốc vi khuẩn, với 374 người trả lời đúng về hậu quả, 384 người biết tác hại, và 402 người nắm rõ các biện pháp phòng ngừa kháng thuốc.
Mặc dù mọi người đã nhận thức được tác hại của kháng kháng sinh do sử dụng thuốc không đúng cách, nhưng thói quen sử dụng thuốc của họ vẫn chưa phù hợp với kiến thức đã có Điều này cho thấy rằng người dân cần nâng cao ý thức và áp dụng các giải pháp thực tiễn để ngăn chặn tình trạng kháng kháng sinh trong cộng đồng.
3.3.3 Kiến thức của người dân về kháng sinh theo một số đặc điểm
Trong SPSS, thang đo thứ bậc (Ordinal scale) được sử dụng để đo lường các đặc điểm thuộc tính với các thành quả được sắp xếp theo trật tự tăng hoặc giảm dần Kết quả khảo sát kiến thức của người dân về kháng sinh được phân tích và sắp xếp theo thang đo 4 bậc, thể hiện sự kết nối thứ bậc giữa các đặc điểm.
-Tốt: Kết quả phiếu khảo sát có số đáp án đúng từ 25 câu trở lên.
-Khá: Kết quả phiếu khảo sát có số đáp án đúng từ 18 – 24 câu.
-Trung bình: Kết quả phiếu khảo sát có số đáp án đúng từ 10 – 17 câu.
Kết quả khảo sát cho thấy 7,3% người dân có kiến thức kém với số đáp án đúng dưới 10 câu Đa số người tham gia có kiến thức ở mức độ trung bình (43,1%), tiếp theo là khá (28,0%) và tốt (21,6%) Những con số này phản ánh mức độ khó dễ của các câu hỏi trong phiếu khảo sát và trình độ kiến thức chung của người dân.
Biểu đồ 3.6: Phân loại kiến thức chung của người dân
Biểu đồ 3.7: Phân loại kiến thức theo giới tính
Kiến thức của người dân phân loại theo giới tính
Nhận xét: Ở cả 2 giới tính, mức độ kiến thức mức độ khá và trung bình là chủ yếu: giới tính nam 77/93 người (82,8%) và giới tính nữ 456/657 người
Giới tính nam, số người có kiến thức ở mức độ tốt là 10/93 người (10,7%) và mức độ kém là 6/93 người (6,5%).
Giới tính nữ, số người có kiến thức ở mức độ tốt là 152/657 người (23,1%) và mức độ kém là 49/657 người (7,5%).
Biểu đồ 3.8: Phân loại kiến thức theo nhóm tuổi
Kiến thức của người dân phân loại theo nhóm tuổi
Khảo sát theo độ tuổi cho thấy sự khác biệt về kiến thức giữa các lứa tuổi, nhưng đa số vẫn chỉ đạt mức trung bình đến khá Sự khác biệt này không đủ rõ rệt để có thể so sánh một cách chính xác.
Biểu đồ 3.9: Phân loại kiến thức theo chuyên môn
Kết quả khảo sát cho thấy, người làm trong ngành y tế có kiến thức vượt trội, với 94,8% đạt mức độ tốt Chỉ 5,2% có kiến thức ở mức khá, không có ai rơi vào mức trung bình hoặc kém.
Trong nhóm người không làm trong ngành y tế, tỷ lệ có kiến thức tốt chỉ đạt 15,5%, trong khi đó, phần lớn vẫn chỉ dừng lại ở mức kiến thức khá (29,9%) và trung bình (46,7%) Đáng chú ý, vẫn còn 55 người có kiến thức ở mức độ kém, chiếm 7,9%.
BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Thị trấn An Bài và hai xã An Ninh, An Thanh, nằm gần quốc lộ số 10, có giao thông thuận lợi và kinh tế phát triển hơn các xã khác trong huyện Quỳnh Phụ Tuy nhiên, kiến thức và thói quen sử dụng thuốc kháng sinh của người dân tại ba địa điểm này vẫn còn hạn chế.
Bảng 3.1 cho thấy 87,6% mẫu nghiên cứu là phụ nữ, phản ánh thói quen chăm sóc sức khỏe của gia đình Việt Nam Độ tuổi trung bình là 38,9, với phần lớn là những người đã có gia đình và từng nuôi con nhỏ, giúp thuận lợi cho việc phỏng vấn về hành vi mua thuốc Tuy nhiên, kiến thức về kháng sinh còn hạn chế và có nhiều hành vi không đúng, điều này phần nào do tư tưởng bảo thủ và khả năng tiếp cận thông tin chưa tốt.
Trong nghiên cứu, một phần nhỏ (7,7%) mẫu tham gia là cán bộ, công nhân viên ngành y tế như bác sĩ, dược sĩ và y tá, những người này có kiến thức vững về kháng sinh và thói quen hành vi đúng nhờ vào đào tạo chuyên môn và kinh nghiệm làm việc Ngược lại, tỷ lệ lớn (92,3%) còn lại là những người không làm trong ngành y tế, đại diện cho vùng nông thôn huyện Quỳnh Phụ.
Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh của người dân
Biểu đồ 3.5 cho thấy 80,9% người tham gia khảo sát tự ý dùng thuốc để giải quyết vấn đề sức khỏe cho bản thân và gia đình, trong đó có việc sử dụng kháng sinh không cần thiết Nhiều người không nhận thức được rằng thuốc họ dùng là kháng sinh, vì họ tin rằng kháng sinh có thể điều trị bệnh dễ dàng chỉ trong 3 – 5 ngày và ngừng sử dụng khi triệu chứng giảm Tuy nhiên, thói quen này là không nên, nhất là khi không phải lúc nào cũng có thể đến bệnh viện để được khám và kê đơn Do đó, nhà thuốc/quầy thuốc gần nhà trở thành lựa chọn hàng đầu của người dân khi cần tư vấn, làm nổi bật vai trò quan trọng của dược sĩ trong việc quản lý và hạn chế tình trạng kháng kháng sinh trong cộng đồng.
Chỉ có 8,1% người dân tham gia khảo sát cho biết họ thường xuyên yêu cầu người bán thuốc cung cấp đầy đủ liệu trình, trong khi 53,7% chưa bao giờ thực hiện điều này Điều này cho thấy phần lớn người dân phụ thuộc vào người bán thuốc tại địa phương, điều này có thể dẫn đến việc sử dụng kháng sinh không an toàn và hợp lý.
Thực trạng sử dụng thuốc của người dân hiện nay bị ảnh hưởng bởi lối sống, phong tục địa phương (4,7%), điều kiện kinh tế (57,1%) và thói quen tự tìm hiểu (38,2%) Nhiều người tự ý mua và sử dụng kháng sinh như Amoxicillin, Tetracyclin mà không có sự tư vấn y tế, dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng Thói quen này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe cá nhân mà còn làm gia tăng tình trạng kháng thuốc trong cộng đồng, giảm hiệu quả điều trị và tăng chi phí y tế.
Cuộc sống ngày càng phát triển, đặc biệt là đời sống người dân nông thôn huyện Quỳnh Phụ Sự nâng cao nhận thức của cộng đồng nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng và mạng xã hội, cùng với chuyên môn của dược sĩ tại các nhà thuốc, đã góp phần quan trọng trong việc hình thành thói quen sử dụng kháng sinh đúng cách cho người dân.
Xu hướng người dân hiện nay đang chuyển từ việc tự ý mua và sử dụng thuốc không đúng cách sang việc tìm kiếm sự tư vấn từ bác sĩ và dược sĩ khi gặp vấn đề về sức khỏe Họ ngày càng có ý thức hơn trong việc sử dụng thuốc đúng liều lượng và thời gian Đồng thời, mọi người cũng chú trọng hơn đến sức khỏe cá nhân, chủ động tìm kiếm kiến thức với thái độ học hỏi và cầu tiến Mặc dù việc thay đổi thói quen sai lầm đã ăn sâu vào ý thức của người dân qua nhiều năm, nhưng sự chuyển biến này vẫn là tín hiệu tích cực, cho thấy cộng đồng đang từng bước trở nên hiểu biết hơn và sử dụng thuốc một cách an toàn, hiệu quả.
Kiến thức của người dân về kháng sinh và kháng kháng sinh
4.3.1 Kiến thức của người dân về kháng sinh Đa số người dân tham gia khảo sát đều có kiến thức cơ bản về kháng sinh ở mức độ trung bình - khá, vẫn còn hiểu nhầm nguồn gốc tuy đã nắm được vai trò quan trọng của kháng sinh Nguồn gốc kháng sinh được phân lập từ đâu, câu hỏi này trong quá trình lấy số liệu, nghiên cứu thấy rằng hầu như người dân chỉ quan tâm tác dụng chứ không nắm được nguồn gốc Hầu hết các câu hỏi đều có số người trả lời đúng trong khoảng 30-40% Những câu hỏi khó hơn so với kiến thức thông thường như cơ chế tác dụng, phần lớn người dân không trả lời được. Ở câu hỏi phân biệt kháng sinh với các nhóm thuốc khác, người dân không phân biệt được những nhóm kháng sinh cơ bản với corticoid, thậm chí có những người trả lời rằng kháng sinh dùng cho trường hợp suy dinh dưỡng.
Mặc dù nhiều người vẫn mơ hồ về nguyên tắc sử dụng và phối hợp kháng sinh, nhưng phần lớn đều nhận thức được những đối tượng cần lưu ý khi dùng thuốc, như phụ nữ có thai, người cho con bú, người già và trẻ em Tuy nhiên, nhiều người vẫn tin rằng phụ nữ có thai tuyệt đối không được sử dụng kháng sinh, dẫn đến việc không nhận biết được những loại kháng sinh an toàn cho nhóm đối tượng này Kiến thức của người dân về việc sử dụng kháng sinh cho trẻ em cũng đã cải thiện, khi họ hiểu rằng trẻ em cần được chỉ định liều lượng riêng thay vì chia nhỏ liều của người lớn Đặc biệt, người dân cũng có nhận thức tốt về tác dụng không mong muốn của kháng sinh, như việc gây vàng men răng ở trẻ dưới 7 tuổi và sự giảm hiệu quả khi sử dụng cùng sữa hay nước ép Thống kê cho thấy 78,3% người tham gia khảo sát nhận biết đúng về tác dụng phụ của kháng sinh trên gan và thận.
Kết quả nghiên cứu này tương đồng với các nghiên cứu trước đây tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vào năm 2017 và huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh vào năm 2003.
Tỉ lệ người dùng thuốc không đơn
Tỉ lệ người dùng thuốc kháng sinh không đơn
Nghiên cứu tại ba địa phương Thái Bình, Bắc Ninh và An Giang vào các năm 2003, 2017 và 2020 cho thấy tỷ lệ sử dụng thuốc kháng sinh chủ yếu nằm trong độ tuổi lao động, đặc biệt là phụ nữ, những người có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe gia đình Tỷ lệ người tự ý sử dụng thuốc cao ở cả ba nghiên cứu, do thói quen mua thuốc dễ dàng, ảnh hưởng từ người thân và tự tìm hiểu thông tin Đặc biệt, Thái Bình ghi nhận tỷ lệ mua kháng sinh tự ý cao nhất với 51,4%, trong khi Bắc Ninh và An Giang lần lượt là 39,2% và 37,6% Những con số này cảnh báo tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh, dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc phức tạp và khó điều trị.
4.3.2 Kiến thức của người dân về kháng kháng sinh
Kết quả khảo sát cho thấy người dân đã có kiến thức cơ bản về kháng kháng sinh và nhận thức được hậu quả nguy hiểm của tình trạng này Tuy nhiên, họ vẫn chưa hiểu rõ nguyên nhân và cách lây lan, chủ yếu do thiếu kiến thức và hướng dẫn sử dụng đúng Mặc dù phần lớn đã biết một số phương pháp hạn chế kháng kháng sinh, việc thực hiện vẫn gặp nhiều khó khăn và cần thời gian.
4.3.3 Kiến thức của người dân phân loại theo một số đặc điểm
Kết quả khảo sát cho thấy kiến thức của người dân còn hạn chế, với phần lớn đạt mức trung bình và khá, trong khi 7,3% người tham gia có kiến thức kém Khi phân loại kiến thức theo giới tính, nhóm tuổi và ngành nghề, có sự khác biệt rõ rệt giữa những người có chuyên môn và những người không, trong khi sự phân loại theo giới tính và nhóm tuổi không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa.
Tóm lại, kiến thức là tài sản cá nhân của mỗi người Đối với nhóm người lớn tuổi, việc tìm hiểu và học hỏi để nâng cao hiểu biết là rất quan trọng Tuy nhiên, ở độ tuổi này, họ thường cần sự chăm sóc và tư vấn từ người thân, do đó, việc sử dụng thuốc của họ phụ thuộc vào cả bản thân và gia đình.
Đối với những người từ 25 đến 50 tuổi, việc tự nâng cao kiến thức qua tự học, kinh nghiệm cá nhân, các phương tiện truyền thông và tham gia các buổi nói chuyện với chuyên gia là rất quan trọng Họ cần cập nhật kiến thức hàng ngày để phát triển bản thân và thích ứng với sự thay đổi của xã hội.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Nghiên cứu tiến hành tại 3 xã An Bài, An Ninh, An Thanh thuộc huyện Quỳnh Phụ với 750 người tham gia khảo sát, kết quả nghiên cứu được như sau:
1 Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu bao gồm những người từ 17 đến 69 tuổi, trong đó nhóm tuổi từ 25 đến 50 chiếm tỷ lệ cao nhất với 66,6%, cho thấy đây là nhóm lao động có khả năng tài chính độc lập và ảnh hưởng đến quyết định mua sắm và sử dụng kháng sinh Đáng chú ý, tỷ lệ giới tính trong khảo sát có sự chênh lệch lớn, với nữ giới chiếm 87,6% tổng số người tham gia.
Phần lớn người dân tham gia khảo sát không làm trong ngành y tế (92,3%), chủ yếu là nông dân và người buôn bán Nghề nghiệp của họ có ảnh hưởng đáng kể đến kiến thức và thói quen sử dụng kháng sinh.
2 Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh của người dân
Nghiên cứu thu được kết quả về thói quen sử dụng thuốc của người dân:
-Có 80,9% người dân tự ý dùng thuốc cho mình và người thân, trong đó 51,4% tự ý dùng kháng sinh.
-Có 13,6% cho rằng bệnh mình gặp phải là nghiêm trọng, số còn lại (chiếm 86,4%) cho rằng bệnh không nghiêm trọng.
-Có 26,5% cho rằng việc đến khám/chữa bệnh tại các cơ sở y tế là cần thiết.
Liều lượng và thời gian sử dụng kháng sinh thường bị người dân tự điều chỉnh tùy theo mức độ bệnh, từ nặng đến nhẹ Điều này một phần do người bán thuốc vì lợi nhuận mà bất chấp quy định kê đơn, dẫn đến việc bán kháng sinh không theo đơn Thực trạng này gây ra nhiều nguy cơ và cần được cảnh báo.
3 Kiến thức của người dân về kháng sinh và kháng kháng sinh
Kiến thức của đa số người dân đạt mức trung bình và khá.
-Xếp theo giới tính, số người nam có kiến thức trung bình và khá chiếm 82,8%, trong đó tỉ lệ người nữ là 69,4%.
-Theo nhóm tuổi, nhóm người từ 25 – 50 tuổi có kết quả trung bình và khá chiếm 78,3% (391/499 người).
Trong ngành y tế, 100% người làm việc đạt kết quả tốt, trong khi chỉ có 15,5% người thuộc nhóm khác có kết quả tương tự Phần lớn, 76,6% đạt kết quả trung bình và khá, trong khi 7,9% còn lại có kết quả kém.
Trong một cuộc khảo sát với 22 câu hỏi trắc nghiệm và 10 câu hỏi nhận định đúng - sai, người dân trung bình trả lời đúng 17/32 câu hỏi Người có chuyên môn trong ngành y tế đạt điểm cao nhất với 32/32 câu đúng, trong khi người có kiến thức kém chỉ trả lời đúng 7/32 câu.
Trong tổng số 750 người tham gia khảo sát, số người có kiến thức xếp loại theo mức độ Tốt - Khá - Trung bình - Kém lần lượt là 162 người (21,6%),
210 người (28,0%), 323 người (43,1%) và 55 người (7,3%). ĐỀ XUẤT
Sau khi thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một số ý kiến dưới đây:
Các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng đối tượng khảo sát sang các xã và huyện khác trong tỉnh, đồng thời cân bằng về giới tính và độ tuổi để đảm bảo đánh giá được khách quan và toàn diện hơn.
-Tăng cường các biện pháp tuyên truyền giáo dục nâng cao kiến thức, thay đổi thói quen không tốt cho người dân.
[1] Bộ Y Tế (2015), Quyết định số 708/QĐ-BYT về việc ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn sử dụng kháng sinh”, ban hành ngày
Nghiên cứu của Đặng Ngọc Nhi (2017) về sự hiểu biết và thói quen sử dụng kháng sinh của người dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, đã được thực hiện trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp dược sĩ tại Đại học Tây Đô Kết quả khảo sát này cung cấp cái nhìn sâu sắc về nhận thức và hành vi của cộng đồng đối với việc sử dụng kháng sinh, góp phần nâng cao ý thức phòng chống kháng kháng sinh trong xã hội.
[3] GARP Việt Nam (2009), “Báo cáo sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh tại 15 bệnh viện Việt Nam 2008 – 2009”.
[4] GARP Việt Nam (2010), “Phân tích thực trạng: Sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh ở Việt Nam”.
[5] Hoàng Tích Huyền (2014), Hướng dẫn sử dụng kháng sinh, Nhà xuất bản y học, Tr 21- 30.
[6] Nguyễn Thị Hương (2015), “Phân tích cơ cấu thuốc nước ngoài đã được cấp số đăng kí lưu hành tại Việt Nam trong giai đoạn 2012 – 2014”,
Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ Đại học Dược Hà Nội năm 2015.