TỔNG QUAN
Tổng quan về bệnh Đái tháo đường type 2
1.1.1 Khái niệm chung Đái tháo đường (ĐTĐ) là tình trạng rối loạn chuyển hóa do nhiều nguyên nhân, bệnh được đặc trưng bởi tình trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn chuyển hóa carbohydrat, lipid và protein do thiếu hụt của tình trạng tiết insulin, tác dụng của insulin hoặc cả hai [1] Trong năm 2015, thế giới ước tính có 415 triệu người mắc bệnh tiểu đường; đến năm 2040 tỷ lệ lưu hành dự kiến sẽ tăng lên 642 triệu, với mức tăng không như nhau ở các nước có mức thu nhập thấp đến trung bình Động lực đằng sau tỷ lệ bệnh ĐTĐ leo thang là
Đái tháo đường type 2, một phần của "đại dịch béo phì" toàn cầu, đặc trưng bởi tình trạng kháng insulin và tăng đường huyết, xảy ra khi tế bào beta đảo tụy không thể sản xuất đủ insulin để đáp ứng nhu cầu chuyển hóa Ban đầu, cơ thể phản ứng bằng cách tăng cường sản xuất insulin, nhưng theo thời gian, sự suy giảm chức năng của tế bào beta dẫn đến thiếu hụt insulin Điều này bao gồm sự mất khả năng phóng thích insulin pha đầu và sự giảm tiết dao động của insulin Tăng đường huyết cũng làm suy giảm chức năng tế bào beta, hiện tượng này được gọi là "ngộ độc glucose" Hơn nữa, nồng độ acid béo tự do cao kéo dài có thể gây giảm tiết insulin và dẫn đến chết tế bào đảo tụy theo chương trình.
Yếu tố di truyền đóng vai trò trong tình trạng kháng insulin, nhưng không phải là nguyên nhân chính Béo phì, đặc biệt là béo bụng, tuổi tác cao và thiếu hoạt động thể chất là những yếu tố quan trọng góp phần vào kháng insulin Thêm vào đó, các cơ chế khác như giảm tiết incretin ở hỗng-hồi tràng, tăng tiết glucagon và tăng tái hấp thu glucose ở ống thận cũng góp phần vào tình trạng này.
Chẩn đoán xác định bệnh theo tiêu chuẩn ADA 2019 (American Diabetic Association – Hiệp hội ĐTĐ Mỹ).[6] Bệnh khởi phát muộn, diễn biến từ từ và
4 thường phát hiện khi bệnh đã gây ra nhiều biến chứng mạn tính ảnh hưởng đến nhiều cơ quan bộ phận khác trong cơ thể
Biến chứng mạch máu nhỏ là một trong những biến chứng mạn tính phổ biến ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, đặc trưng bởi sự dày lên của màng đáy vi mạch, dẫn đến tình trạng dễ vỡ thành mạch và tăng tính thấm mao mạch Khác với ĐTĐ type 1, thời gian xuất hiện biến chứng vi mạch ở ĐTĐ type 2 không thể dự đoán chính xác Biến chứng ở mắt bao gồm bệnh võng mạc ĐTĐ với hai thể chính là bệnh võng mạc không tăng sinh và bệnh võng mạc tăng sinh, cùng với các vấn đề khác như đục thủy tinh thể và glocom Ngoài ra, thận cũng là cơ quan thường gặp biến chứng vi mạch, gây ra bệnh cầu thận ĐTĐ với hai dạng tổn thương là xơ hóa ổ hoặc lan tỏa Tình trạng thận có thể xấu đi do các bệnh phối hợp như nhiễm khuẩn tiết niệu tái phát và viêm thận kẽ, trong khi viêm hoại tử đài bể thận là biến chứng thận hiếm gặp hơn.
Bệnh nhân ĐTĐ type 2 thường gặp biến chứng mạch máu lớn, dẫn đến xơ vữa động mạch sớm và ảnh hưởng đến các mạch máu xa, với nguy cơ mắc bệnh mạch vành cao gấp 2-3 lần so với người không mắc Tăng huyết áp cũng phổ biến trong nhóm bệnh nhân này Ngoài ra, họ có thể gặp các triệu chứng bệnh mạch máu ngoại biên như đau cách hồi, chân lạnh tím và hoại tử Biến chứng thần kinh thường gặp bao gồm viêm đa dây thần kinh ngoại biên và bệnh lý thần kinh tự động Đặc biệt, biến chứng nhiễm khuẩn và tình trạng bàn chân đái tháo đường gây suy giảm chất lượng cuộc sống đáng kể cho bệnh nhân ĐTĐ.
Mục đích điều trị bệnh nhân ĐTĐ là giảm triệu chứng lâm sàng, kiểm soát đường huyết, đạt cân nặng lý tưởng, làm chậm xuất hiện biến chứng cấp và mạn tính, và giúp người bệnh có cuộc sống bình thường Theo ADA 2019, mục tiêu kiểm soát đường huyết được xác định rõ ràng.
• HbA1c < 7% được coi là mục tiêu chung cho cả ĐTĐ type 1 và 2
• Đường huyết lúc đói nên duy trì 3,9 – 7,2 mmol/L
• Đường huyết sau ăn 2h < 10 mmol/L ( 300 mg/ngày hoặc > 200 àg/phỳt) được xỏc nhận ít nhất 2 lần cách nhau 3-6 tháng
• Giảm mức lọc cầu thận (GFR) không ngừng
• Huyết áp động mạch tăng cao
Bệnh thận đái tháo đường làm tăng nguy cơ tử vong, đặc biệt do bệnh tim mạch và bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD), là những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở bệnh nhân đái tháo đường Tuy nhiên, biến chứng thận ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 thường khó dự đoán do khởi phát bệnh không được phát hiện kịp thời, dẫn đến việc bệnh nhân thường đến viện khi đã có tổn thương thận.
Ngoài nguyên tắc điều trị chung của bệnh ĐTĐ, ở những bệnh nhân mắc biến chứng thận, việc cần thiết là phải làm chậm sự tiến triển của tổn thương
Việc kiểm soát thận và các biến chứng liên quan đến bệnh tiểu đường là rất quan trọng, trong đó thuốc ức chế men chuyển được xem là phương pháp hiệu quả Cần chú trọng kiểm soát huyết áp và duy trì đường huyết trong giới hạn mục tiêu, đồng thời giảm lượng muối ăn và hạn chế phốt pho, kali Mục tiêu cần đạt được bao gồm kiểm soát đường huyết tốt (HbA1c 0,05 Tỷ lệ rối loạn 2, 3 và 4 thành phần lipid máu giảm dần và phân bố đều ở mỗi nhóm, trong khi rối loạn cả 4 thành phần chỉ xuất hiện ở nhóm không tổn thương thận với 2 bệnh nhân Như vậy, không có sự khác biệt đáng kể về phân bố số bệnh nhân mắc rối loạn các thành phần lipid máu giữa hai nhóm (p>0,05).
Chúng tôi đi sâu và khảo sát từng chỉ số lipid máu ở 135 bệnh nhân theo
2 nhóm nghiên cứu có và không có tổn thương thận, kết quả được thể hiện ở bảng 3.6 dưới đây
Bảng 3.6 Liên quan giữa rối loạn lipid máu và tình trạng tổn thương thận
Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy không có sự khác biệt ở các chỉ số lipid máu giữa 2 nhóm
3.2.1.3 Các chỉ số tổng phân tích nước tiểu
Khảo sát một số chỉ số hóa sinh nước tiểu ở 2 nhóm đối tượng có và không có tổn thương thận thu được kết quả được trình bày ở bảng 3.7
Bảng 3.7 Liên quan giữa bất thường trong xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu với tình trạng tổn thương thận
Nhóm nghiên cứu Chỉ số XN
* Kiểm định Chi square ** Kiểm định T-test
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số 135 bệnh nhân, tỷ lệ protein niệu chiếm 73,07% ở nhóm có tổn thương thận, trong khi chỉ 33,94% ở nhóm không có tổn thương thận Thống kê theo tỷ lệ A/C, tỷ lệ bất thường (≥17,0 mg/mmol) lần lượt là 84,61% và 56,88% ở hai nhóm Sự khác biệt về protein niệu và A/C giữa hai nhóm là đáng kể với p=0,03 và p=0,001.
Theo thống kê, trong số 44 bệnh nhân có A/C niệu mg/mmol tương ứng với albumin niệu vi thể, có đến 28 người (83,6%) có kết quả protein niệu âm tính Điều này cho thấy không thể phát hiện protein niệu trong xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu khi có albumin niệu vi thể.
3.2.2 Chia 4 nhóm theo phân độ bệnh thận mạn
Chúng tôi tiến hành phân tích sâu hơn về các nhóm bệnh nhân có eGFR