1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e

101 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 0,93 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN (11)
    • 1.1. Một vài nét về rượu, lạm dụng rượu và nghiện rượu (11)
    • 1.2. Hội chứng cai rượu (12)
    • 1.3. Hội chứng sảng rượu (15)
      • 1.3.1. Định nghĩa và đặc điểm dịch tễ (15)
      • 1.3.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán (16)
      • 1.3.3. Triệu chứng (18)
    • 1.4. Các yếu tố dự báo sảng rượu (19)
      • 1.4.1. Xã hội học (19)
      • 1.4.2. Đặc điểm về việc sử dụng rượu (20)
      • 1.4.3. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng (20)
    • 1.5. Điều trị (22)
      • 1.5.1. Nguyên tắc điều trị (22)
      • 1.5.2. Thuốc sử dụng để điều trị (23)
  • CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (31)
    • 2.1. Tổng quan hệ thống về điều trị và các yếu tố dự báo sảng rượu (31)
      • 2.1.1. Tổng quan hệ thống về điều trị sảng rượu (31)
      • 2.1.2. Tổng quan hệ thống về các yếu tố dự báo sảng rượu (32)
    • 2.2. Nghiên cứu các yếu tố dự báo sảng rượu (34)
      • 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu (34)
      • 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu (34)
      • 2.2.3. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu (35)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (36)

Nội dung

TỔNG QUAN

Một vài nét về rượu, lạm dụng rượu và nghiện rượu

Rượu là một loại đồ uống có cồn, được tạo ra thông qua quá trình lên men từ nguyên liệu như tinh bột ngũ cốc, dịch đường từ cây, hoa, củ, quả, hoặc từ việc pha chế cồn thực phẩm như cocktail và nước trái cây.

Tình trạng sử dụng rượu bia tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng, với mức tiêu thụ bình quân đầu người đã tăng từ 3,8 lít giai đoạn 2003-2005 lên 8,3 lít trong giai đoạn 2015-2017 Dự báo của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy con số này có thể đạt 11,4 lít vào năm 2025 nếu không có biện pháp can thiệp hiệu quả Đặc biệt, gần một nửa nam giới Việt Nam (44,2%) đã tiêu thụ rượu bia ở mức nguy hại vào năm 2015, tăng gần gấp đôi so với năm 2010 Việt Nam hiện đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á về mức tiêu thụ rượu bia, xếp thứ 10 ở Châu Á và thứ 29 trên thế giới Để đánh giá khối lượng cồn tiêu thụ, nhiều quốc gia đã áp dụng định nghĩa về đơn vị tiêu chuẩn cho đồ uống có cồn, trong đó 10 gam là mức phổ biến nhất cho 1 đơn vị cồn tiêu chuẩn Công thức tính đơn vị cồn trong rượu, bia là: Đơn vị cồn = Dung tích (ml) x Nồng độ (%) x 0,79.

Một chai bia 330ml với nồng độ cồn 5% sẽ chứa khoảng 13g cồn, tương đương với 1,3 đơn vị cồn Điều này có nghĩa là một đơn vị cồn tương đương với 3/4 chai hoặc 3/4 lon bia 330ml (5%), hoặc một chai hoặc một lon nước trái cây.

3 cồn loại 330ml (4,5%); 1 cốc bia hơi 330 ml (4%); 1 ly rượu vang 100 ml (13,5%); hoặc một ly nhỏ hoặc cốc nhỏ rượu mạnh 40 ml (30%) [2].

Tiêu chuẩn xác định lạm dụng rượu, bia của WHO: Đối với phụ nữ: trên

Mỗi tuần, nam giới không nên tiêu thụ quá 21 đơn vị rượu, tương đương 3 đơn vị mỗi ngày, trong khi phụ nữ nên giới hạn ở 14 đơn vị rượu mỗi tuần hoặc 2 đơn vị mỗi ngày Ngoài ra, mức tiêu thụ không nên vượt quá 1 đơn vị cồn mỗi giờ.

Lạm dụng độc chất, bao gồm lạm dụng rượu, là việc sử dụng quá mức các chất tác động tâm thần, gây hại cho sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần Nghiện rượu, hay còn gọi là lệ thuộc rượu, là trạng thái mà người sử dụng rượu có các hành vi, nhận thức và phản ứng sinh lý đặc trưng, dẫn đến việc họ không thể thực hiện các công việc khác trong cuộc sống.

Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu yêu cầu người bệnh phải có ít nhất 3 biểu hiện sau đây diễn ra đồng thời trong vòng ít nhất 1 tháng Nếu các biểu hiện này xuất hiện trong thời gian ngắn hơn 1 tháng, chúng cần phải lặp lại nhiều lần trong khoảng thời gian đó.

(1) Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy buộc phải sử dụng rượu.

(2) Khó khăn trong việc kiểm soát tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắt đầu, kết thúc hoặc mức sử dụng.

(3) Một trạng thái cai sinh lý khi ngừng hay giảm bớt sử dụng rượu.

Có bằng chứng cho thấy hiện tượng tăng dung nạp rượu, thể hiện qua việc người dùng cần tăng liều lượng để giảm bớt cảm giác khó chịu do thiếu rượu gây ra.

(5) Dần xao nhãng các thú vui hoặc những thích thú trước đây.

(6) Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù có bằng chứng rõ ràng về hậu quả và tai hại [3].

Hội chứng cai rượu

Hội chứng cai rượu (HCCR) là hiện tượng xảy ra khi người nghiện rượu ngừng hoặc giảm đột ngột lượng rượu tiêu thụ, với cơ chế bệnh sinh phức tạp chủ yếu liên quan đến sự mất cân bằng giữa chất dẫn truyền thần kinh kích thích (glutamate) và ức chế (GABA) Rượu làm tăng hoạt động của GABA, dẫn đến giảm kích thích thần kinh trung ương, nhưng khi sử dụng lâu dài, số lượng thụ thể GABA giảm, yêu cầu liều rượu cao hơn để đạt hiệu ứng tương tự Đồng thời, rượu cũng có tác động đối kháng với thụ thể NMDA, làm giảm hưng phấn thần kinh trung ương Khi ngừng rượu đột ngột, sự ức chế này giảm, gây ra kích thích thần kinh trung ương và làm tăng hoạt động của các hệ thống Dopaminergic, Noradrenergic, NMDA, dẫn đến tình trạng lo âu, run và tăng kích thích giao cảm Bên cạnh đó, sự giảm kali và magie trong máu cùng với rối loạn hoạt động của trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận cũng góp phần vào các triệu chứng như tăng nhịp tim và hoảng loạn.

- Triệu chứng kinh điển là run, có thể xuất hiện sau 6-8 giờ khi ngừng rượu.

Triệu chứng loạn thần, bao gồm hoang tưởng và ảo giác, thường xuất hiện sau 8-12 giờ khi ngừng sử dụng rượu Trong khi đó, các cơn co giật liên quan đến hội chứng cai rượu (HCCR) có thể xuất hiện trong khoảng thời gian 12-24 giờ, với đặc điểm lặp lại và thường có nhiều hơn một cơn co giật trong vòng 3-6 giờ sau cơn đầu tiên.

Sảng rượu có thể xuất hiện trong vòng 72 giờ đầu sau khi ngừng uống và cần theo dõi sự tiến triển trong tuần đầu cai rượu Đôi khi, hội chứng cai rượu cấp tính (HCCR) không diễn ra theo trình tự thông thường mà có thể chuyển thẳng sang hội chứng cai rượu nặng (HCSR).

- Các triệu chứng cơ thể khác xuất hiện trong vòng 24-48 giờ, bao gồm các triệu chứng như:

+ Trên hệ tiêu hoá: buồn nôn, nôn.

+ Kích thích thần kinh giao cảm: lo lắng, vã mồ hôi, đỏ mặt, đau nhói, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp nhẹ, dễ giật mình [7].

Theo ICD-10, tiêu chuẩn chẩn đoán HCCR (F.10) bao gồm:

Có bằng chứng về việc bệnh nhân mới ngừng hoặc giảm sử dụng rượu sau khi đã sử dụng rượu với liều cao trong thời gian kéo dài.

Bệnh nhân cai rượu có thể trải qua ít nhất ba triệu chứng sau: run, đau đầu, mất ngủ, vã mồ hôi, buồn nôn hoặc nôn, mệt mỏi, nhịp tim nhanh hoặc tăng huyết áp, co giật, kích thích tâm thần vận động, và có thể gặp ảo giác như ảo thị, ảo thanh, hoặc ảo giác xúc giác.

Các triệu chứng và dấu hiệu không thể được xác định là do một bệnh lý nội khoa không liên quan đến việc sử dụng rượu, cũng như không thể quy cho bất kỳ rối loạn tâm thần hay hành vi nào khác.

Currently, several scales are used to assess the severity of initial withdrawal symptoms, including CIWA-Ar (Clinical Institute Withdrawal Assessment for Alcohol), MINDS (Minnesota Detoxification Scale), SAS (Sedation Analgesia Scale), RASS (Richmond Assessment-Sedation Scale), WAS (Withdrawal Assessment Scale), and PAWSS (Prediction of Alcohol Withdrawal Severity Scale) Among these, the CIWA-Ar scale is the most widely used and has been translated into over 20 languages Developed by Edward M Sellers, a professor emeritus at the University of Toronto, the CIWA-Ar scale consists of 10 items that correspond to varying levels of withdrawal symptoms, including nausea or vomiting, tremors, sweating, anxiety, agitation, tactile disturbances, auditory disturbances, visual disturbances, headache, disorientation, and perceptual disturbances Detailed scoring criteria for the CIWA-Ar scale can be found in the appendix.

Điểm số từ các mục đánh giá HCCR được phân chia thành ba mức độ: dưới 8 điểm là cai rượu nhẹ, từ 8-15 điểm là cai rượu vừa, và trên 15 điểm là cai rượu nặng, phức tạp.

Hội chứng sảng rượu

1.3.1 Định nghĩa và đặc điểm dịch tễ

Sảng rượu lần đầu tiên được mô tả bởi Pearson S.B vào năm 1813, ông gọi đây là “loạn thần cấp xuất hiện khi cai rượu”, và Sutton T cùng năm đã đặt tên cho hội chứng này là “sảng rượu” Hiện nay, quan niệm về sảng rượu đã thống nhất, được xem là một thể bệnh riêng biệt trong loạn thần do rượu, thường xảy ra ở những người nghiện rượu mạn tính HCSR (hay sảng run, cơn mê sảng trong HCCR) ít gặp hơn nhưng nguy hiểm hơn nhiều, hiện được coi là biến chứng nặng nhất của HCCR và được ICD-10 phân loại vào nhóm Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu.

Rối loạn tâm thần do sử dụng rượu đang gia tăng trên toàn cầu, với nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng đây là một bệnh lý phổ biến Tại Pháp, 22% bệnh nhân nội trú tại bệnh viện tâm thần mắc các rối loạn liên quan đến rượu, trong khi ở Anh con số này là 26% Nghiên cứu của Chiung M.C và cộng sự vào năm 2017, tổng hợp dữ liệu từ năm 2000 đến 2014 tại Mỹ, cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể trong các chẩn đoán liên quan đến rượu.

Năm 2014, loạn thần do rượu chiếm tỷ lệ cao nhất với 49,0% Mặc dù tỷ lệ này còn thấp, nhưng các nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy rối loạn tâm thần do rượu đang gia tăng theo thời gian Theo tác giả Phạm Liên Hương (2001), tại Viện Sức khỏe Tâm thần, tỷ lệ bệnh nhân nội trú được chẩn đoán mắc loạn thần do rượu đang ở mức đáng lưu ý.

1985-1989 là 0,31%, song đến giai đoạn 1995-2001 tỷ lệ này là 9,6%, tăng gấp

Theo nghiên cứu của Ngô Hải Sơn (2011), rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở bệnh nhân sử dụng rượu là trạng thái cai, chiếm 61,8% Tỷ lệ mắc sảng rượu là 14,7%, trong khi tỷ lệ bệnh nhân gặp hoang tưởng và ảo giác lần lượt là 14,7% và 8,8% Đặc biệt, sảng rượu xuất hiện ở 59% người tiêu thụ 200-500ml rượu mỗi ngày và 41% ở những người uống từ 600-1000ml mỗi ngày.

Theo ICD-10, chẩn đoán trạng thái cai rượu với mê sảng (F10.4) mô tả sảng rượu là tình trạng lú lẫn, ngộ độc ngắn hạn nhưng có thể đe dọa tính mạng, đi kèm với nhiều rối loạn cơ thể Đây thường là biến chứng của quá trình cai rượu ở những người nghiện nặng lâu năm Sảng rượu thường khởi đầu sau khi ngừng uống rượu, nhưng cũng có thể xuất hiện ngay trong giai đoạn uống nhiều Các dấu hiệu đầu tiên bao gồm mất ngủ, run tay và cảm giác sợ hãi Co giật có thể xảy ra do hội chứng cai trước khi bệnh khởi phát Tam chứng kinh điển của sảng rượu bao gồm ý thức mờ nhạt và lú lẫn, ảo tưởng và ảo giác sinh động, đặc biệt là ở thị giác, cùng với triệu chứng run nặng Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể trải qua hoang tưởng, kích động, mất ngủ và rối loạn chu kỳ giấc ngủ.

Theo hướng dẫn chẩn đoán của ICD-10, để chẩn đoán trạng thái cai với mê sảng, cần sử dụng mã 5 chữ số nhằm phân biệt rõ ràng hơn.

F10.40: Trạng thái cai với mê sảng không có co giật.

F10.41: Trạng thái cai với mê sảng có co giật [10].

Theo DSM-5, mê sảng do ngộ độc rượu và mê sảng do cai rượu được phân loại chung trong mục 303.0 Tiêu chuẩn chẩn đoán bao gồm rối loạn ý thức với sự giảm chú ý và sự chú ý dao động; rối loạn nhận thức như giảm trí nhớ, rối loạn định hướng, rối loạn ngôn ngữ và khả năng quan sát Các triệu chứng này xuất hiện cấp tính trong khoảng thời gian từ vài giờ đến vài ngày và có xu hướng dao động trong suốt cả ngày Ngoài ra, cần có bằng chứng về hội chứng cai rượu.

Bảng 1.1 So sánh các triệu chứng của HCCR và HCSR trong tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD-10 và DSM-5 [26]

Gần đây, có bằng chứng rõ ràng cho thấy việc ngừng hoặc giảm sử dụng rượu đã diễn ra, đặc biệt sau khi người dùng đã tiêu thụ rượu nhiều lần và thường xuyên với liều lượng cao.

Run lưỡi, mí mắt hoặc cánh tay khi duỗi

Nhịp tim nhanh hoặc tăng huyết áp

Kích thích tâm thần vận động Đau đầu

Khó chịu hoặc suy nhược Ảo giác tạm thời về thị giác, thính giác, xúc giác hoặc ảo tưởng Động kinh cơn lớn (co cứng – co giật)

Mù mờ ý thức là tình trạng suy giảm nhận thức về môi trường xung quanh, dẫn đến khả năng tập trung kém và khó khăn trong việc duy trì sự chú ý Người bị ảnh hưởng dễ bị phân tâm và không thể tập trung vào nhiệm vụ hiện tại.

Rối loạn giấc ngủ hoặc chu kỳ ngủ - thức

Các triệu chứng khởi phát nhanh chóng và biến động trong ngày

Hội chứng sảng rượu là một dạng lâm sàng nghiêm trọng của hội chứng cai rượu, thường xảy ra sau khi ngừng uống rượu hoàn toàn hoặc tương đối Trong một số trường hợp, hội chứng này có thể xuất hiện trong giai đoạn tiêu thụ rượu nhiều HCSR thường liên quan đến các vấn đề về sức khỏe thể chất.

Cai rượu có thể gây ra nhiều triệu chứng nguy hiểm, bao gồm mất ngủ, run rẩy và cảm giác sợ hãi, thậm chí co giật Các triệu chứng sảng rượu thường đạt đỉnh trong khoảng 72-96 giờ sau khi ngừng uống Triệu chứng điển hình của sảng rượu bao gồm ý thức mù mờ, ảo tưởng và ảo giác sinh động, cùng với triệu chứng run nặng Ngoài ra, người bệnh còn có thể trải qua hoang tưởng, kích động, rối loạn giấc ngủ và tăng cường hoạt động thần kinh tự trị.

Giai đoạn khởi phát của sảng rượu có thể diễn ra cấp tính hoặc từ từ, với các triệu chứng chính bao gồm mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ và rối loạn thần kinh thực vật Người bệnh thường trải qua sự thay đổi cảm xúc như hoảng hốt và lo âu Tình trạng bệnh có xu hướng nặng dần, đặc biệt vào buổi tối, và có thể xuất hiện các triệu chứng ảo tưởng và ảo giác.

Giai đoạn toàn phát của tình trạng mê sảng thường biểu hiện qua ý thức mê sảng hoặc lú lẫn, với các ảo tưởng và ảo giác sinh động, cùng triệu chứng run nặng Người bệnh có thể trải qua hoang tưởng, kích động và mất ngủ, trong khi năng lực định hướng thời gian, không gian và xung quanh có thể bị lệch lạc và rối loạn Mức độ mù mờ ý thức thường trở nặng vào buổi tối Các ảo giác như ảo thị, ảo thanh và ảo giác xúc giác xuất hiện, trong đó hoang tưởng ghen tuông và bị chi phối là loại hoang tưởng thường gặp ở bệnh nhân sảng rượu Các triệu chứng này thường kéo dài không quá 1 tuần.

Các yếu tố dự báo sảng rượu

Tuổi tác đóng vai trò quan trọng trong sự phát sinh và phát triển nghiện rượu, với sảng rượu thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính từ 30 tuổi trở lên, trong khi rất ít trường hợp dưới 30 tuổi Nghiện rượu ở phụ nữ đang gia tăng, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển, nhưng tỷ lệ bệnh lý do rượu vẫn chủ yếu ở nam giới, với tỷ lệ nam/nữ dao động từ 4/1 đến 8/1 Tại Việt Nam, phong tục tập quán khiến phụ nữ ít uống rượu, dẫn đến việc hiếm gặp bệnh nhân nữ bị nghiện rượu.

Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nghiện rượu thường có trình độ học vấn thấp, với phần lớn là những người có trình độ trung học phổ thông trở xuống Môi trường sống đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng rượu và phát triển các rối loạn tâm thần liên quan Các yếu tố như dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, khu vực sinh sống và tình trạng hôn nhân có thể dự đoán nguy cơ nghiện rượu Những tác động như tăng cường tương tác xã hội, giảm lo âu, sử dụng rượu để giải quyết stress và tăng hiệu suất tình dục có thể làm gia tăng nguy cơ lạm dụng rượu.

1.4.2 Đặc điểm về việc sử dụng rượu

Thời gian uống rượu đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nghiện rượu và sảng rượu, với hầu hết các tác giả cho rằng thời gian uống rượu trên 10 năm là cần thiết để hình thành nghiện Sảng rượu thường gặp ở những người đã uống rượu trên 20 năm Nghiên cứu của Lý Trần Tình (2006) cho thấy thời gian uống rượu trung bình của 143 bệnh nhân loạn thần do rượu là 12,9 ± 6,8 năm Ngoài ra, lượng rượu tiêu thụ hàng ngày cũng liên quan đến tỷ lệ bệnh, với 91,7% bệnh nhân nghiện rượu sử dụng trên 500 ml/ngày theo nghiên cứu của Phạm Quang Lịch (2003) và 91,9% bệnh nhân loạn thần do rượu uống trên 300 ml/ngày theo Bùi Quang Huy (2005).

1.4.3 Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng

Theo nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2009), triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật ở bệnh nhân sảng rượu bao gồm run, xuất hiện ở 100% bệnh nhân và kéo dài đến 21 ngày Triệu chứng toát mồ hôi cũng gặp ở tất cả bệnh nhân nhưng chỉ tồn tại ngắn, chủ yếu trong 1-2 ngày đầu và hết sau 6 ngày Ngoài ra, bồn chồn và mạch nhanh xuất hiện ở 58,41% bệnh nhân nhưng không kéo dài lâu.

Rối loạn các năng lực định hướng không gian và thời gian thường rất nghiêm trọng, với định hướng xung quanh có thể bị lệch lạc, nhưng bệnh nhân vẫn giữ được định hướng bản thân Nghiên cứu của Nguyễn Manh Hùng (2009) cho thấy, trong những ngày đầu, tỷ lệ rối loạn năng lực định hướng là rất cao: 99,11% đối với định hướng không gian, 95,57% với định hướng thời gian, và 94,67% cho định hướng môi trường Định hướng bản thân có tỷ lệ thấp nhất là 14,06%, và đến ngày thứ 5, không còn bệnh nhân nào bị rối loạn định hướng này.

Triệu chứng loạn thần bao gồm nhiều loại ảo giác như ảo thị, ảo thanh và ảo giác xúc giác kỳ lạ, thường đi kèm với hoang tưởng bị hại Ảo giác thường xuất hiện vào buổi chiều tối, gây cảm giác ghê sợ và hốt hoảng cho người bệnh Ảo thị thường sinh động, kết hợp với ảo giác xúc giác, khiến người bệnh cảm thấy như có côn trùng bò trên cơ thể và cảm giác đau do động vật cắn Nghiên cứu của Hoàng Văn Trọng (2004) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân gặp ảo thị là 60,3%, ảo giác xúc giác 58,9% và ảo thanh 20,5%.

Cảm xúc và hành vi của con người thường bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các ảo tưởng và ảo giác, dẫn đến những phản ứng kích động và nguy hiểm như tự vệ, tấn công hoặc bỏ trốn Ngoài ra, người bệnh cũng có thể gặp phải các triệu chứng thần kinh như run rẩy không đều, nói khó, mất phối hợp vận động, đi lại chệnh choạng và dễ bị ngã.

Một số đặc điểm cận lâm sàng là yếu tố nguy cơ quan trọng dẫn đến HCSR Nghiên cứu trên 159 bệnh nhân tại một bệnh viện đa khoa ở Đức cho thấy sự khác biệt đáng kể về nồng độ điện giải trong máu giữa nhóm bệnh nhân có và không có HCSR Cụ thể, bệnh nhân có HCSR có nồng độ Natri, Kali và Clo thấp hơn so với những trường hợp HCCR mức độ trung bình và nhẹ Rối loạn điện giải cũng được xác định là yếu tố nguy cơ dẫn đến HCSR trong các nghiên cứu khác, như nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2009) và Trịnh Quỳnh.

Bệnh nhân nghiện rượu thường gặp phải tình trạng suy giảm chức năng gan, với nhiều người mắc các bệnh lý như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ hoặc suy gan Sự gia tăng các chỉ số chức năng gan như AST, ALT và Bilirubin là dấu hiệu rõ ràng cho tình trạng này Một số nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về các chỉ số này giữa những bệnh nhân có và không có hội chứng gan rượu (HCSR) Gần đây, số lượng tiểu cầu đã được xác định là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá nguy cơ liên quan đến HCSR; nghiên cứu tại Hàn Quốc cho thấy nhóm bệnh nhân có HCSR có số lượng tiểu cầu thấp hơn đáng kể so với nhóm không có HCSR.

Điều trị

HCSR là biến chứng nghiêm trọng nhất của HCCR, có nguy cơ tử vong cao nếu không được xử trí kịp thời, do đó cần được quản lý như một cấp cứu y tế tại các cơ sở điều trị nội trú hoặc ICU Mục tiêu điều trị là khắc phục các rối loạn cơ bản, giảm triệu chứng, ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng như co giật và mê sảng, đồng thời kiểm soát sự kích động và giảm thiểu nguy cơ thương tích, tử vong, từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân Ngoài ra, cần khuyến khích bệnh nhân duy trì việc kiêng rượu lâu dài và hỗ trợ phòng ngừa tái phát.

Phương pháp điều trị yêu cầu bệnh nhân nhập viện để điều trị nội trú với sự chăm sóc tích cực và toàn diện trong thời gian dài Việc điều trị cần kết hợp hóa dược và tâm lý, đồng thời thực hiện phục hồi chức năng tại cộng đồng Ngoài ra, cần chú ý điều trị các bệnh lý cơ thể đi kèm như bệnh gan, dạ dày và hô hấp.

Chăm sóc hỗ trợ là phương pháp can thiệp không dùng thuốc đầu tiên, bao gồm việc thường xuyên trấn an bệnh nhân và định hướng lại tâm lý của họ, đặc biệt cần sự chăm sóc từ điều dưỡng Môi trường xung quanh ảnh hưởng lớn đến tình trạng của bệnh nhân; do đó, cần tạo ra một không gian yên tĩnh, tốt nhất là phòng đơn với khoảng cách giường hợp lý, loại bỏ đồ vật không cần thiết và giảm tiếng ồn Theo dõi sức khỏe bệnh nhân ít nhất bốn lần mỗi giờ là cần thiết để định hướng lại họ Trong trường hợp bệnh nhân quá kích động hoặc có hành vi gây hấn, có thể áp dụng biện pháp kiềm chế cơ học ngắn hạn dưới sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo an toàn Chăm sóc hỗ trợ cũng cần chú trọng khắc phục tình trạng thiếu nước, hạ đường huyết và rối loạn điện giải, đồng thời bổ sung nước và vitamin cho bệnh nhân.

Sau khi cơn mê sảng giảm bớt, việc truyền đạt thông tin thích hợp và liệu pháp tâm lý hỗ trợ cho bệnh nhân và gia đình là rất quan trọng Cần giải thích nhẹ nhàng về nguyên nhân, sự xuất hiện và rút lui của các hiện tượng mê sảng Liệu pháp này giúp bệnh nhân hiểu rõ các triệu chứng, ngăn ngừa cảm giác xấu hổ và tội lỗi, đồng thời hỗ trợ họ tái hòa nhập với môi trường ban đầu Những hỗ trợ này có thể ảnh hưởng lớn đến động lực bắt đầu điều trị nghiện rượu lâu dài và phức tạp, cũng như tuân thủ điều trị.

1.5.2 Thuốc sử dụng để điều trị

Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, benzodiazepin là nhóm thuốc đầu tay trong điều trị các rối loạn tâm thần, đặc biệt là trong việc xử trí hội chứng cai rượu (HCCR) Các thuốc này có hiệu quả đã được chứng minh trong việc ngăn ngừa sự phát triển của các dạng HCCR phức tạp, giảm tỷ lệ co giật (84%), hội chứng cai rượu (HCSR) và nguy cơ tử vong Benzodiazepin hoạt động bằng cách cung cấp chất chủ vận GABA, giúp điều trị tình trạng quá kích thích thần kinh trung ương do mất tác dụng ức chế GABA Một số benzodiazepin phổ biến bao gồm diazepam, lorazepam, midazolam, oxazepam và clodiazepoxid Đối với diazepam hoặc lorazepam tiêm tĩnh mạch, liều khởi đầu nên là 10 mg hoặc 4 mg, với sự gia tăng liều nhanh chóng.

Diazepam có các chất chuyển hóa hoạt tính như nordiazepam và oxazepam, trong đó nordiazepam kéo dài thời gian tác dụng an thần Bệnh thận có thể làm tăng đáng kể tác dụng của diazepam vì các chất chuyển hóa của nó chủ yếu được thải qua thận Lorazepam không có chất chuyển hóa hoạt tính, dẫn đến độ thanh thải nhanh hơn Ở bệnh nhân có giảm chuyển hóa gan, thuốc tác dụng ngắn như oxazepam và lorazepam là lựa chọn ưu tiên để tránh quá mức an thần và ức chế hô hấp Benzodiazepin có lợi thế với nhiều đường dùng, trong đó tiêm tĩnh mạch nên được ưu tiên cho trường hợp nặng do tác dụng khởi phát nhanh, trong khi đường uống phù hợp cho trường hợp nhẹ Clodiazepoxid và diazepam không nên tiêm bắp vì khả năng hấp thụ không ổn định, lorazepam có thể dùng bằng cả ba đường, oxazepam chỉ dùng đường uống, và midazolam có thể tiêm tĩnh mạch.

Bảng 1.2 So sánh các thuốc benzodiazepin [34]

Chú thích: IV: tiêm tĩnh mạch; IM: tiêm bắp; PO: đường uống

Có ba cách tiếp cận để sử dụng liều benzodiazepin, bao gồm liều cố định, liều tải và liều dựa theo triệu chứng Trong đó, cách tiếp cận liều cố định thường sử dụng diazepam.

Liều dùng được khuyến nghị là 10 mg bốn lần mỗi ngày trong một ngày, tiếp theo là 5 mg bốn lần mỗi ngày trong hai ngày, sau đó giảm dần Một phương pháp khác là sử dụng clodiazepoxid với liều 50–100 mg bốn lần mỗi ngày.

Liều điều trị bắt đầu với 25–50 mg bốn lần mỗi ngày trong 2 ngày, sau đó giảm dần liều 25% mỗi ngày từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 Nếu triệu chứng không được kiểm soát, có thể sử dụng liều bổ sung Phương pháp này hiệu quả cao, đặc biệt cho bệnh nhân có nguy cơ HCCR nặng hoặc tiền sử co giật Tuy nhiên, cần theo dõi nguy cơ dùng thuốc an thần quá mức và ức chế hô hấp Chiến lược liều tải yêu cầu sử dụng benzodiazepin liều trung bình đến cao để an thần, với nồng độ thuốc tự giảm qua quá trình chuyển hóa, giúp giảm nguy cơ ngộ độc benzodiazepin Liều dựa theo triệu chứng, sử dụng diazepam, clodiazepoxid hoặc lorazepam khi điểm CIWA-Ar lớn hơn 8–10, đã được chứng minh là giảm tổng lượng benzodiazepin tiêu thụ và thời gian điều trị Trong môi trường bệnh nhân nội trú có ICU, liều tải là lựa chọn an toàn, trong khi ở nơi không có ICU nhưng có thể theo dõi chặt chẽ, liều dựa theo triệu chứng có thể được ưu tiên để đạt hiệu quả lâm sàng tối ưu với benzodiazepin tối thiểu Điều trị liều cố định được khuyến cáo cho bệnh nhân có nguy cơ HCCR phức tạp hoặc tiền sử động kinh.

Bệnh nhân có thể kháng benzodiazepin khi sử dụng diazepam 50 mg hoặc lorazepam 10 mg trong giờ đầu tiên, hoặc liều > 200 mg diazepam, > 40 mg lorazepam trong ba giờ mà không kiểm soát được triệu chứng Nếu benzodiazepin không hiệu quả, có thể xem xét phenobarbital và propofol Phenobarbital có hoạt tính kép, tăng thời gian mở thụ thể GABA và ức chế thụ thể glutamat, nhưng việc sử dụng barbiturat bị hạn chế do khoảng điều trị hẹp và nhiều nguy cơ Tuy nhiên, ở ICU, khi bệnh nhân cần benzodiazepin liều cao để kiểm soát triệu chứng cai rượu hoặc HCSR, sự kết hợp phenobarbital với benzodiazepin có thể nâng cao hiệu quả điều trị Ở bệnh nhân HCCR nặng cần thở máy, sự kết hợp này giúp giảm nhu cầu thở máy và thời gian nằm viện Phenobarbital có thời gian bắt đầu tác dụng khoảng 5 phút, đạt cực đại sau 20–30 phút và thời gian bán hủy khoảng 3–4 ngày, liều có thể truyền 10–15 mg/kg.

Propofol là một lựa chọn hữu ích cho bệnh nhân bị hội chứng cai rượu nặng (HCCR) không kiểm soát tốt với benzodiazepin liều cao, với liều truyền tĩnh mạch là 65, 130, hoặc 260 mg Thuốc này có tác dụng đối kháng với thụ thể NMDA và kích thích thụ thể GABA, cùng với thời gian tác dụng ngắn, cho phép đánh giá nhanh trạng thái tâm thần của bệnh nhân sau khi ngừng sử dụng Propofol đặc biệt hiệu quả như một tác nhân gây cảm ứng cho những bệnh nhân cần đặt nội khí quản trong quá trình cắt cơn Nếu phenobarbital không khả dụng hoặc không đủ hiệu quả trong việc kiểm soát HCCR, propofol nên được sử dụng để truyền tĩnh mạch Bệnh nhân sử dụng phenobarbital hoặc propofol có thể cần phải đặt nội khí quản.

Hình 1.1 Sơ đồ xử trí HCCR nặng [12]

Mặc dù benzodiazepin có tính gây nghiện cao, một số dược phẩm khác như carbamazepine, natri oxybate, valproate, baclofen, gabapentin và topiramate có thể được sử dụng lâu dài để ngăn ngừa tái nghiện rượu Carbamazepine, thuốc chống co giật, có tác dụng GABAergic và ngăn chặn thụ thể NMDA, đã chứng minh hiệu quả trong điều trị HCCR nhẹ và trung bình, nhưng không phổ biến do tác dụng phụ Oxcarbazepine, một chất chuyển hóa của carbamazepine, có thể là lựa chọn thay thế Natri oxybate, liên kết với thụ thể GABA, cho thấy hiệu quả tương đương với benzodiazepines trong điều trị HCCR, nhưng nên kết hợp với benzodiazepines cho bệnh nhân có co giật Axit valproic, mặc dù có thể cải thiện triệu chứng HCCR, không được khuyến khích trong giai đoạn cấp tính do tác dụng phụ Baclofen, một chất chủ vận thụ thể GABA, có khả năng giảm triệu chứng HCCR, nhưng cần thêm nghiên cứu để đánh giá hiệu quả Gabapentin, thuốc hỗ trợ điều trị động kinh, đã chứng minh an toàn và hiệu quả trong điều trị co giật liên quan đến HCCR Topiramate, một loại thuốc chống co giật, cũng có tác dụng tích cực trong điều trị.

Topiramate hoạt động thông qua việc tăng cường hoạt tính ức chế GABA-A, đối kháng với hoạt động của glutamatergic và điều hòa các kênh ion, từ đó giảm khả năng hưng phấn của hệ thần kinh trung ương Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra hiệu quả của topiramate trong việc điều trị.

Việc sử dụng 50 mg một lần mỗi ngày có thể giúp giảm tỷ lệ co giật và các triệu chứng của HCCR Tuy nhiên, benzodiazepin vẫn là lựa chọn thuốc hiệu quả và dễ quản lý nhất cho điều trị HCCR hiện nay.

Để kiểm soát triệu chứng hoang tưởng, ảo giác và rối loạn hành vi, cần bổ sung thuốc chống loạn thần Nên ưu tiên sử dụng một hoặc hai loại thuốc, và nếu không hiệu quả, có thể xem xét chuyển loại hoặc kết hợp tối đa ba loại thuốc để hạn chế tác dụng phụ không mong muốn.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tổng quan hệ thống về điều trị và các yếu tố dự báo sảng rượu

Nguồn dữ liệu: tiến hành tìm kiếm các bài báo nghiên trên cơ sở dữ liệu PubMed cho đến tháng 5/2021.

2.1.1 Tổng quan hệ thống về điều trị sảng rượu

- Các bài báo nghiên cứu về điều trị HCSR.

- Ngôn ngữ: Tiếng Anh, Việt Nam.

- Các nghiên cứu trên người.

- Các nghiên cứu in vivo, in vitro, ex vivo.

- Các nghiên cứu tổng quan, tổng quan hệ thống, phân tích gộp.

- Các bài báo dạng báo cáo, báo cáo case, chuỗi case, tóm tắt lịch sử.

- Các bài báo dạng bình luận, thư gửi tòa soạn, khảo sát.

- Các bài báo không có nguồn, không có tác giả, không có bản xem đầy đủ, không có trích yếu.

The search strategy involves utilizing keywords such as "Delirium Tremens," "Alcohol Withdrawal Delirium," and "Treatment," along with "Disease Management." Additionally, it is essential to incorporate synonymous terms from the MeSH database for these keywords and to leverage the Advanced search function for optimal results.

Cú pháp tìm kiếm: ((Delirium Tremens[MeSH Terms]) OR (Alcohol Withdrawal Delirium[MeSH Terms])) AND ((Treatment[MeSH Terms]) OR (Disease Management[MeSH Terms])).

Đối tượng nghiên cứu trong bài viết này bao gồm các bệnh nhân với các đặc điểm như tuổi tác và giới tính, đồng thời nêu rõ tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến các đặc điểm liên quan đến việc sử dụng thuốc, bao gồm loại thuốc, liều lượng và phương thức sử dụng.

- Phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu.

- Tổng quan về điều trị HCSR thông qua các nghiên cứu đã được tìm kiếm, lựa chọn và loại trừ.

2.1.2 Tổng quan hệ thống về các yếu tố dự báo sảng rượu

- Các bài báo nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ dẫn đến sảng rượu.

- Ngôn ngữ: Tiếng Anh, Việt Nam.

- Các nghiên cứu trên người.

- Các nghiên cứu in vivo, in vitro, ex vivo.

- Các nghiên cứu tổng quan, tổng quan hệ thống, phân tích gộp.

- Các bài báo dạng báo cáo case, chuỗi case.

- Các bài báo dạng quy trình, thư gửi tòa soạn.

- Các bài báo không có nguồn, không có trích yếu, không có bản xem đầy đủ.

The search strategy involves utilizing the keywords "Delirium Tremens" and "Rick Factor" to identify synonyms in the MeSH database (Table 2.1) Subsequently, the Advanced Search function is employed to combine these synonyms with the OR operator, and to merge the two keyword phrases along with their synonyms using the AND operator.

Cú pháp tìm kiếm: ((Delirium Tremens) OR (Delirium, Alcohol Withdrawal)

OR (Delirium Tremens, Alcohol Withdrawal Induced) OR (Alcohol Withdrawal-Induced Delirium Tremens) OR (Alcohol Withdrawal Induced

Delirium Tremens and Alcohol Withdrawal Hallucinosis are serious conditions associated with autonomic hyperactivity during alcohol withdrawal Understanding the risk factors and health correlates is crucial for identifying populations at risk Effective risk scores can help in assessing the severity of symptoms and determining appropriate interventions for individuals experiencing alcohol withdrawal.

Bảng 2.1 Các từ khóa và từ đồng nghĩa tìm kiếm trong tổng quan hệ thống các yếu tố dự báo sảng rượu

- Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: đặc điểm của bệnh nhân (tuổi, giới tính), tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.

- Phương pháp nghiên cứu: thiết kế nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu.

- Thống kê các yếu tố nguy cơ có liên quan đến HCSR.

Nghiên cứu các yếu tố dự báo sảng rượu

Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân được điều trị nội trú tại chuyên khoa

Nội Gan mật, bệnh viện E từ 10/2020 đến 04/2021.

Bệnh nhân được thu thập theo 2 nhóm:

Nhóm chứng được chẩn đoán có HCCR theo ICD-10 (F10.3) (28)

Nhóm bệnh được chẩn đoán trạng thái cai rượu có mê sảng theo ICD 10 (F10.4) (28)

Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm:

Bệnh nhân có rối loạn tâm thần thực tổn hoặc rối loạn hành vi khác.

Bệnh nhân không có đủ các thông tin cần thiết.

Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu hoặc yêu cầu xuất viện trước khi hoàn thành điều trị.

Sử dụng phương pháp nghiên cứu bệnh – chứng, mô tả cắt ngang.

Quy trình thu thập số liệu:

Nghiên cứu đánh giá được thực hiện trên 61 bệnh nhân nhập viện do tình trạng cai rượu, trong đó có 1 bệnh nhân xuất viện trước khi hoàn tất quá trình điều trị.

Trong nghiên cứu, có 3 bệnh nhân thiếu thông tin cần thiết và 1 bệnh nhân mắc rối loạn mạch máu não Sau khi loại bỏ 5 bệnh nhân theo tiêu chuẩn loại trừ, còn lại 56 bệnh nhân Nhóm chứng bao gồm các bệnh nhân có HCCR mà không có HCSR cho đến khi xuất viện, trong khi bệnh nhân có xuất hiện HCSR, bao gồm cả tình trạng sảng xuất hiện ngay khi nhập viện hoặc sau vài ngày nằm viện, được phân loại riêng.

Tiến hành thu thập và trích xuất thông tin hành chính như tên, tuổi, giới tính, nghề nghiệp và trình độ học vấn, cùng với các chỉ số cận lâm sàng quan trọng từ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân Các chỉ số này bao gồm các xét nghiệm sinh hóa máu như điện giải đồ (Natri, Kali, Clo), chỉ số đánh giá chức năng gan (AST, ALT, GGT, Bilirubin toàn phần và trực tiếp) và các chỉ số huyết học, đặc biệt là số lượng tiểu cầu, theo yêu cầu của bệnh án nghiên cứu.

Đặc điểm sử dụng rượu bao gồm thời gian sử dụng, độ tuổi khởi phát nghiện và lượng rượu tiêu thụ hàng ngày Các triệu chứng lâm sàng liên quan đến cai rượu như run rẩy, ra mồ hôi, mất ngủ, đau đầu, mệt mỏi, cùng với tăng nhịp tim và huyết áp Ngoài ra, các triệu chứng sảng cũng được ghi nhận, bao gồm rối loạn ý thức, rối loạn tri giác như ảo giác, và rối loạn tư duy như hoang tưởng Điểm CIWA-Ar được thăm khám, theo dõi và đánh giá thông qua sự phối hợp giữa nhà nghiên cứu, bác sĩ lâm sàng và điều dưỡng tại khoa Nội gan mật.

Xử lý số liệu trong nghiên cứu được thực hiện bằng phần mềm SPSS, sử dụng các thuật toán thống kê Các biến phân loại được kiểm định bằng Chi-square test để xác định mối liên hệ giữa hai biến, trong khi các biến liên tục được kiểm tra bằng t-test để so sánh sự khác biệt giữa các giá trị trung bình Kết quả có ý nghĩa thống kê khi giá trị p < 0.05 Ngoài ra, vấn đề đạo đức trong nghiên cứu cũng cần được xem xét kỹ lưỡng.

Bệnh nhân và người thân tham gia nghiên cứu một cách tự nguyện và cung cấp thông tin cần thiết Tất cả thông tin được cung cấp sẽ được bảo mật tuyệt đối Nghiên cứu đã nhận được sự đồng ý từ các cơ quan có thẩm quyền.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1.1 Tổng quan hệ thống về điều trị sảng rượu

3.1.1.1 Quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu

Quá trình tìm kiếm, lựa chọn và loại trừ các bài báo nghiên cứu về điều trị HCSR được mô tả tóm tắt trong hình 3.1.

Hình 3.1 Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về điều trị

Sau khi nhập cú pháp tìm kiếm vào ô tìm kiếm của cơ sở dữ liệu Pubmed, tổng cộng có 472 bài báo được tìm thấy Sau khi áp dụng các tiêu chí lọc theo giống loài và ngôn ngữ, số lượng bài báo giảm xuống còn 313 Tiếp theo, qua việc rà soát tiêu đề và trích yếu, 298 bài báo đã bị loại trừ, để lại 15 bài nghiên cứu Cuối cùng, qua việc xem xét toàn văn, 3 nghiên cứu nữa đã bị loại vì không có bản xem đầy đủ, không có nguồn hoặc không có tác giả, chỉ còn lại 12 bài nghiên cứu hợp lệ.

Bài viết trình bày 13 nghiên cứu về điều trị HCSR, phù hợp với các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ Đối tượng nghiên cứu là người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên, được chẩn đoán HCCR hoặc HCSR, với độ tuổi trung bình từ 38-55 Cỡ mẫu nghiên cứu dao động từ 15 đến 562, chủ yếu được thực hiện tại Mỹ (9 nghiên cứu), bên cạnh các nghiên cứu ở Đan Mạch, Áo, Trinidad và Tobago, và Ba Lan Trong số đó, có 8 nghiên cứu đơn trung tâm và 4 nghiên cứu đa trung tâm tại 2 hoặc 3 cơ sở y tế Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là hồi cứu và thuần tập, bao gồm cả nghiên cứu quan sát, mô tả, cũng như các nghiên cứu sơ bộ và kiểm soát có đối chứng Thông tin chi tiết về các nghiên cứu, bao gồm tác giả, năm xuất bản, đối tượng và phương pháp, được tóm tắt trong bảng 3.2.

Bảng 3.1 Các tiêu chuẩn chẩn đoán HCCR, HCSR

DSM-5DSM-4DSM-3-RICD-9ICD-10

Bảng 3.2 Đặc điểm bệnh nhân và thiết kế nghiên cứu điều trị HCSR

STT Tác giả, năm xuất bản

STT Tác giả, năm xuất bản

Tuổi được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (SD) hoặc trung bình (khoảng); N là số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu Các thuật ngữ viết tắt bao gồm BZD cho benzodiazepin, PHE cho phenobarbital, BV cho bệnh viện, BN cho bệnh nhân, NC cho nghiên cứu, RCT cho thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, Pre cho nhóm trước khi thực hiện hướng dẫn và Post cho nhóm sau khi thực hiện hướng dẫn.

Trong số 13 nghiên cứu về điều trị HCSR, có 8 nghiên cứu so sánh, trong đó một số so sánh nhóm benzodiazepin với các thuốc an thần khác như phenobarbital và paraldehyde Một số nghiên cứu cũng xem xét chế độ liều của benzodiazepin, trong khi những nghiên cứu khác đánh giá tác dụng của phenobarbital và ketamin khi bổ sung vào điều trị với benzodiazepin Bên cạnh đó, có 3 nghiên cứu chỉ đánh giá tác dụng của thuốc đơn lẻ như propofol, diazepam và flunitrazepam Cuối cùng, 2 nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá và quản lý việc sử dụng thuốc trong điều trị HCCR nặng và HCSR Các thuốc an thần chính được sử dụng để cắt cơn, kiểm soát và duy trì điều trị HCSR cùng với kết quả chính của các nghiên cứu được trình bày trong bảng 3.3.

3.1.1.4 Tổng quan về điều trị HCSR

Nhóm thuốc chính trong điều trị HCSR là benzodiazepin, với diazepam là thuốc được sử dụng nhiều nhất, tiếp theo là lorazepam, midazolam và clodiazepoxid Phenobarbital cũng được sử dụng phổ biến, cho thấy tác dụng tương đương với benzodiazepin nhưng không vượt trội hơn khi dùng đơn lẻ Việc bổ sung thuốc hỗ trợ như ketamin và propofol có tác dụng tích cực trong việc kiểm soát cơn mê sảng, giảm tỷ lệ đặt nội khí quản và thời gian nằm viện Paradehyd kém hiệu quả hơn diazepam và có nhiều tác dụng phụ Đối với bệnh nhân có rối loạn thần kinh, thuốc chống loạn thần như haloperidol và clonidin có thể được sử dụng, nhưng cần cân nhắc kỹ do có thể làm giảm ngưỡng co giật Đối với người nghiện rượu, bổ sung vitamin B1 là cần thiết để ngăn ngừa biến chứng thần kinh Ngoài ra, việc bổ sung nước và điện giải cũng rất quan trọng khi điều trị.

Các nghiên cứu cho thấy trước đây, bác sĩ thường chỉ định thuốc dựa trên kinh nghiệm lâm sàng, nhưng hiện tại có ba chế độ liều benzodiazepin: liều tải, liều cố định và liều dựa theo triệu chứng Liều tải để cắt cơn mê sảng là 10-20 mg diazepam tiêm tĩnh mạch mỗi 1-2 giờ Chế độ liều cố định được áp dụng trong nhiều nghiên cứu với các thuốc khác nhau như lorazepam (13mg ngày đầu tiên, giảm xuống 9mg vào ngày thứ ba), diazepam (15 đến 215 mg tiêm tĩnh mạch), midazolam (1-20 mg mỗi 1-2 giờ) và flunitrazepam (tổng liều trung bình 83,9 ± 45,4 mg) Chế độ liều dựa theo triệu chứng chỉ định liều thuốc dựa trên mức độ nghiêm trọng của hội chứng cai rượu (HCCR), với xu hướng sử dụng ngày càng tăng do hiệu quả cao Các thang điểm như CIWA được sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của HCCR.

In four studies, the AR (Assessment of Withdrawal) was utilized, while the Withdrawal Assessment Scale (WAS) was employed in two studies Additionally, three other scales were used across three different studies: the Sedation Analgesia Scale (SAS), the Minnesota Detoxification Scale (MINDS), and the Richmond Assessment-Sedation Scale (RASS).

Bảng 3.3 Thuốc an thần chính được sử dụng và kết quả chính nghiên cứu

Các thuốc an thần chính xuất bản

BZD: diazepam hoặc lorazepam liều cố định (lorazepam: liều trung bình ngày thứ nhất là

Mladen 13mg, từ ngày thứ 3 trờ đi là 9mg).

1 Nisavic, 2019 PHE: tiêm bắp 6-15 mg/kg 3 liều tải mỗi 3 giờ,

[41] sau đó đổi sang dạng uống, giảm 50% liều mỗi

48 h cho tới khi triệu chứng ngừng hẳn tại ngày thứ 7.

Nhóm 1 dùng PHE cùng với BZD Nhóm 2 chỉ

Shannon M dùng BZD mà không dùng phenobarbital.

2 Sullivan, Quy đổi BZD: 5 mg diazepam = 2 mg

Vào năm 2019, liều lượng thuốc được quy định là midazolam 10 mg, clodiazepoxid 1 mg và lorazepam Việc điều trị được thực hiện dựa trên triệu chứng, chủ yếu sử dụng diazepam Nhóm nghiên cứu của Anthony F đã hướng dẫn chỉ điều trị bằng diazepam.

3 Pizon, 2018 thực hành hướng dẫn, truyền thêm ketamin tĩnh

[43] mạch với liều trung bình 0.15-0.3 mg/kg/h liên

Jeffrey A Nhóm theo phác đồ cũ: Diazepam là lựa chọn đầu tay, liều theo mức độ triệu chứng: khởi đầu

4 Gold, 2007 ở mức 200 mg diazepam trong 4 giờ hoặc > 40

[29] mg IV Không có hướng dẫn cho nâng liều.

Các thuốc an thần chính xuất bản

Nhóm theo phác đồ nâng liều mới: Khởi đầu với diazepam 10 mg tiêm tĩnh mạch, nâng lên liều

100 – 150 mg/lần nếu có kích động đáng kể trong vòng 1 giờ.

Truyền tĩnh mạch propofol trong 48 giờ với liều

5 Lorentzen, trung bình là 4,22 mg / kg / giờ.

Adrian Wong, 16 loại thuốc và 74 sự kết hợp của các loại thuốc

I N Hosein, Tiêm bắp lorazepam một mũi duy nhất 5mg sau

7 đó chuyển sang đường uống với liều trung bình

1978 [27] hàng ngày là 7 mg. Để cắt cơn mê sảng: diazepam (15 đến 215 mg) tiêm tĩnh mạch, 5 mg mỗi 5 phút hoặc

W Leigh paraldehyde (10-175) đặt trực tràng, 10 ml sau

8 Thompson, mỗi 30 phút Sau khi bình tĩnh, BN nhận liều

1975 [52] trung bình 155 mg diazepam hoặc 67 ml đến khi HCSR được giải quyết hoàn toàn.

Các thuốc an thần chính xuất bản

9 Newman, Được trình bày cụ thể trong bảng 3.4.

10 Roger Pycha, Flunitrazepam: tổng liều trung bình là 83,9 ±

Douglas D Nhóm trước đây không dùng phác đồ mà dùng

11 DeCarolis, thuốc theo chỉ định của từng bác sĩ Nhóm sau

2007 [20] đó sử dụng phác đồ liều theo triệu chứng.

Thomas M Nhóm trước khi thực hiện hướng dẫn được điều trị với BZD theo kinh nghiệm của bác sĩ tức là

12 Jaeger, 2001 liều cố định rồi giảm dần hoặc là liều cần thiết

Các thuốc an thần chính được thống nhất trong các chỉ định điều trị Nhóm nghiên cứu đã thực hiện hướng dẫn điều trị bằng BZD, trong đó liều lượng được xác định dựa trên điểm CIWA-Ar và phản ứng của bệnh nhân với liều trước đó.

Nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp liều tải với tổng lượng diazepam dao động từ 40 đến 210 mg, trung bình là 86,9 ± 47,2 mg Hai bệnh nhân nghi ngờ mắc viêm gan nhiễm độc đã được điều trị bằng oxazepam.

300 và 400 mg (tương đương 50 và 67 mg diazepam)

Trong nhóm chứng: các BN được điều trị bằng một trong số các thuốc sau:

- Diazepam chia làm nhiều lần, với tổng lượng

Dariusz thay đổi từ 60 đến 9840 mg (trung bình: 1784 ±

13 Wasilewski, 1800 mg mỗi lần điều trị);

1996 [53] - Haloperidol chia làm nhiều lần, 5-30 mg (trung bình 12,1 ± 5,7 mg);

- Promethazin 25-150 mg (trung bình: 103,1 ± 52,2 mg);

- Hydroxyzin 100-300 mg (trung bình: 157,1 ± 72,8 mg);

- Clomethiazol 600-900 mg (trung bình: 700,0 ± 141,4 mg);

- Perazin 150 mg hoặc clopromazin 50 mg hoặc oxazepam 180 mg.

Chú thích: kết quả được trình bày dưới dạng trung bình ± SD và hoặc (khoảng); BZD: benzodiazepin; PHE: phenobarbital;

Bảng 3.4 Hướng dẫn dùng thuốc điều trị Thuốc

Chú thích: IV: tiêm tĩnh mạch; IM: tiêm bắp; PO: đường uống; BZD: benzodiazepin

Bảng 3.5 Liệt kê các thuốc điều trị chính trong điều trị HCSR

DiazepamLorazepamMidazolamClodiazepoxidFlunitrazepamAlprazolamClonazepamOxazepamClorazepateFlurazepamHalazepamPrazepamTemazepamTriazolam

2 1 3 2 3.1.2 Tổng quan hệ thống về các yếu tố dự báo sảng rượu

3.1.2.1 Quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu

Quá trình tìm kiếm, lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu liên quan đến yếu tố nguy cơ gây ra HCSR được tóm tắt trong hình 3.2.

Hình 3.2 Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về yếu tố dự báo sảng rượu

Sau khi nhập cú pháp tìm kiếm vào cơ sở dữ liệu Pubmed, 232 bài báo đã được thu thập Sau khi áp dụng các tiêu chí lọc về giống loài và ngôn ngữ, còn lại 179 bài báo Tiến hành rà soát tiêu đề và tóm tắt đã loại bỏ 156 bài báo không phù hợp, để lại 22 nghiên cứu Cuối cùng, qua việc xem xét toàn văn, 3 nghiên cứu nữa bị loại do không có bản đầy đủ hoặc không cung cấp kết quả về các yếu tố nguy cơ dẫn đến HCSR, cuối cùng còn lại 19 nghiên cứu đáp ứng các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ liên quan đến điều trị HCSR.

3.1.2.2 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Cỡ mẫu nghiên cứu dao động từ 60 đến 28,101, với đa phần nằm trong khoảng 100-300 Tất cả bệnh nhân tham gia đều là người trưởng thành, đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán lạm dụng rượu, nghiện rượu, HCCR, HCSR, hoặc có triệu chứng như co giật, chấn thương, với độ tuổi từ 18 đến 87 và tuổi trung bình từ 31 đến 52 Nghiên cứu chủ yếu thuộc loại thuần tập (10 nghiên cứu) và hồi cứu (18 nghiên cứu), với 16 nghiên cứu đơn trung tâm Địa điểm nghiên cứu rất đa dạng, chủ yếu tại Mỹ (7 nghiên cứu), Châu Âu (8 nghiên cứu từ các quốc gia như Đan Mạch, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức, Pháp, Ba Lan) và Châu Á (4 nghiên cứu tại Hàn Quốc, Thái Lan, và Úc) Thông tin về các yếu tố nguy cơ liên quan đến HCSR được thống kê trong bảng 3.6 từ 19 nghiên cứu.

Benzodiazepin là nhóm thuốc chính được sử dụng để kiểm soát và quản lý triệu chứng cai, đồng thời duy trì điều trị Các loại thuốc tiêu biểu bao gồm diazepam, lorazepam, oxazepam và clodiazepoxid, với liều lượng được chỉ định dựa trên mức độ nghiêm trọng của triệu chứng Mức độ triệu chứng được đánh giá qua các thang điểm khác nhau cho đến khi đạt được một mức ổn định.

Bảng 3.6 Đặc điểm bệnh nhân, thiết kế nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu

Kết quả được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (SD) và/hoặc khoảng; N là số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu; BV đại diện cho bệnh viện; BN là bệnh nhân; NC là nghiên cứu; AWS là điểm số cai rượu; và NI có nghĩa là không có thông tin.

Ngày đăng: 17/09/2021, 10:10

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh (2017), Giải pháp điều trị hội chứng cai rượu tai khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp điều trị hộichứng cai rượu tai khoa Nội tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh
Tác giả: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh
Năm: 2017
4. Bùi Đức Trình Trịnh Quỳnh Giang, Trương Tú Anh (2011), "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân sảng rượu điều trị tại khoa Tâm thần bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên", Tạp chí KHOAHỌC &amp; CÔNG NGHỆ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiêncứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân sảng rượu điều trị tạikhoa Tâm thần bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Tác giả: Bùi Đức Trình Trịnh Quỳnh Giang, Trương Tú Anh
Năm: 2011
6. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và biên đổi một số chỉ số cận lâm sàng ở bệnh nhân sảng rượu, Luận án tiến sĩ Y học, Học viện Quân y, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng vàbiên đổi một số chỉ số cận lâm sàng ở bệnh nhân sảng rượu
Tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng
Năm: 2009
7. Nguyễn Thị Phương Mai, chủ biên (2018), Đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thàn và hành vi do sử dụng rượu, Bộ môn tâm thần, Trường Đại học Y HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm lâm sàng rốiloạn tâm thàn và hành vi do sử dụng rượu
Tác giả: Nguyễn Thị Phương Mai, chủ biên
Năm: 2018
8. Hoàng Mai Phương (2018), Cơ cấu rối loạn tâm thần do sử dụng rượu ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần-Bệnh viện Bạch Mai năm 2014-2016, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Tâm thần Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ cấu rối loạn tâm thần do sử dụngrượu ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần-Bệnh việnBạch Mai năm 2014-2016
Tác giả: Hoàng Mai Phương
Năm: 2018
10. Tổ chức Y tế Thế giới (1993), Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động tâm thần, Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu, Tổ chức Y tế Thế giới, Geneva, 77–78 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các rối loạn tâm thần và hành vido sử dụng các chất tác động tâm thần
Tác giả: Tổ chức Y tế Thế giới
Năm: 1993
11. Hoàng Văn Trọng (2004), Đặc điểm các hình thái lâm sàng loạn thần do rượu tại Viện sức khoẻ tâm thần, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Y Hà Nội, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm các hình thái lâm sàng loạnthần do rượu tại Viện sức khoẻ tâm thần
Tác giả: Hoàng Văn Trọng
Năm: 2004
12. Trương Xuân Trường (2015), "Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng lạm dụng bia rượu hiện nay từ góc nhìn xã hội học", Xã hội học số 4.Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đầu tìm hiểu nguyên nhâncủa tình trạng lạm dụng bia rượu hiện nay từ góc nhìn xã hội học
Tác giả: Trương Xuân Trường
Năm: 2015
13. Adrian Wong, Neal J Benedict và Sandra L Kane-Gill (2015),"Multicenter evaluation of pharmacologic management and outcomes associated with severe resistant alcohol withdrawal", J Journal of critical care, 30(2), tr. 405-409 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Multicenter evaluation of pharmacologic management and outcomesassociated with severe resistant alcohol withdrawal
Tác giả: Adrian Wong, Neal J Benedict và Sandra L Kane-Gill
Năm: 2015
14. American Psychiatric Association (2013), Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM-5), Washington DC Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM-5)
Tác giả: American Psychiatric Association
Năm: 2013
15. F Attilia, R Perciballi, C Rotondo và các cộng sự. (2018),"Alcohol withdrawal syndrome: diagnostic and therapeutic methods", Rivista di Psichiatria, 53(3), tr. 118-122 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Alcohol withdrawal syndrome: diagnostic and therapeutic methods
Tác giả: F Attilia, R Perciballi, C Rotondo và các cộng sự
Năm: 2018
16. Max Bayard, Jonah Mcintyre, Keith Hill và các cộng sự. (2004), "Alcohol withdrawal syndrome", American family physician, 69(6), tr.1443-1450 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Alcohol withdrawal syndrome
Tác giả: Max Bayard, Jonah Mcintyre, Keith Hill và các cộng sự
Năm: 2004
2. Bộ Y tế (2020), Hướng dẫn sàng lọc và can thiệp giảm tác hại cho người có nguy cơ sức khỏe do uống rượu, bia tại cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu và tại cộng đồng, chủ biên, Bộ Y tế, tr. 1 Khác
3. Bộ Y tế (2020), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số rối loạn tâm thần thường gặp, chủ biên, PGS.TS. Nguyễn Trường Sơn, tr. 43-44, 46-48 Khác
9. Tổ chức Y tế Thế giới (2019), Hỏi đáp về phòng chống hại của rượu bia, chủ biên, WHO Regional Office for the Western Pacific, Manila, Philippines Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1. Sơ đồ xử trí HCCR nặng [12] - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Hình 1.1. Sơ đồ xử trí HCCR nặng [12] (Trang 28)
Hình 3.1. Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về điều trị HCSR - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Hình 3.1. Tóm tắt quy trình lựa chọn và loại trừ các nghiên cứu về điều trị HCSR (Trang 36)
Bảng 3.2. Đặc điểm bệnh nhân và thiết kế nghiên cứu điều trị HCSR - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.2. Đặc điểm bệnh nhân và thiết kế nghiên cứu điều trị HCSR (Trang 38)
Bảng 3.3. Thuốc an thần chính được sử dụng và kết quả chính nghiên cứu - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.3. Thuốc an thần chính được sử dụng và kết quả chính nghiên cứu (Trang 44)
9 Newman, Được trình bày cụ thể trong bảng 3.4. - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
9 Newman, Được trình bày cụ thể trong bảng 3.4 (Trang 48)
2007 [20] đó sử dụng phác đồ liều theo triệu chứng. - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
2007 [20] đó sử dụng phác đồ liều theo triệu chứng (Trang 48)
Bảng 3.4. Hướng dẫn dùng thuốc điều trị Thuốc - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.4. Hướng dẫn dùng thuốc điều trị Thuốc (Trang 51)
Bảng 3.6. Đặc điểm bệnh nhân, thiết kế nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.6. Đặc điểm bệnh nhân, thiết kế nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu (Trang 55)
Bảng 3.7. Can thiệp điều trị trong các nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.7. Can thiệp điều trị trong các nghiên cứu yếu tố dự báo sảng rượu (Trang 61)
Bảng 3.8. Thống kê các yếu tố nguy cơ có liên quan đến HCSR Yếu tố - Tổng quan về hội chứng sảng rượu và tìm hiểu các yếu tố dự báo sảng rượu tại bệnh viện e
Bảng 3.8. Thống kê các yếu tố nguy cơ có liên quan đến HCSR Yếu tố (Trang 65)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w