KHÁI QUÁT KINH TẾ QUỲNH PHỤ TRƯỚC THỜI KÌ ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1985
Khái quát điều kiện tự nhiện và xã hội
Huyện Quỳnh Phụ, tọa lạc ở phía Đông Bắc tỉnh Thái Bình, có tọa độ địa lý từ 20º 30’ đến 20º 45’ vĩ độ Bắc và từ 106º 25’ kinh độ Đông Huyện giáp với tỉnh Hải Dương ở phía Bắc qua sông Luộc, phía Nam giáp huyện Đông Hưng và huyện Thái Thụy, phía Đông giáp Hải Phòng qua sông Hóa, và phía Tây giáp huyện Hưng Hà.
Quỳnh Phụ nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác tăng trưởng kinh tế
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh Trên địa bàn quốc lộ 10, tỉnh lộ 216, 217,
224, huyện lộ 17… và các sông Luộc, sông Hóa, sông Yên Lộng, sông Diêm
Huyện có vị trí chiến lược với các tuyến giao thông đường bộ và đường thủy quan trọng, kết nối trực tiếp đến các trung tâm đô thị lớn và các cửa khẩu như cảng Diêm Điền và cảng Hải Phòng Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho huyện tiếp cận thị trường rộng lớn, thúc đẩy xuất khẩu, cũng như tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật và thu hút đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.
Huyện có 38 đơn vị hành chính cấp xã, với tổng diện tích 20.957,9 ha, chiếm 13% tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Thái Bình, bao gồm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Huyện Quỳnh Phụ, thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có địa hình chủ yếu bằng phẳng với đồng ruộng thấp và độ dốc nhẹ từ Tây sang Đông, Bắc xuống Nam Địa hình huyện được chia thành các tiểu vùng cao và thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc canh tác nhiều loại cây trồng đặc trưng, từ đó thúc đẩy thâm canh tăng vụ và đa canh các loại cây trồng trong khu vực.
Huyện Quỳnh Phụ có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa Hạ nóng ẩm và mùa Đông lạnh giá Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23-24ºC và lượng mưa trung bình đạt khoảng 1650 mm, tuy nhiên, phân bố không đều trong năm Khí hậu thuận lợi với bức xạ lớn, giàu ánh sáng và độ ẩm cao tạo điều kiện phát triển nông nghiệp, đặc biệt là rau màu vụ Đông Tuy nhiên, thời tiết thất thường là thách thức lớn cho sản xuất nông nghiệp tại đây Do đó, biện pháp thủy lợi là ưu tiên hàng đầu, cùng với việc đảm bảo đúng thời vụ để nâng cao năng suất và sản lượng.
Quỳnh Phụ là huyện có mạng lưới giao thông thuận lợi với nhiều tuyến đường quan trọng như Quốc lộ 10, tỉnh lộ ĐT 3968, ĐT.451, ĐT.455 và 17 tuyến huyện lộ từ ĐH.72 đến ĐH.84 Hệ thống giao thông này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của địa phương.
Quỳnh Phụ sở hữu mạng lưới sông dày đặc, bao gồm hệ thống sông Luộc và sông Hóa dài 36 km, cung cấp nguồn nước tưới tiêu tự chảy hiệu quả Khu vực này còn có nhiều sông và hồ đầm với trữ lượng nước dồi dào Từ tháng 12 đến tháng 4, các sông trong huyện chịu ảnh hưởng của thủy triều, nhưng không gây nhiễm mặn cho nguồn nước tưới trong mùa khô từ tháng 1 đến tháng 4 Thủy văn của Quỳnh Phụ thuận lợi cho nông nghiệp, giúp bồi đắp phù sa và duy trì đất đai màu mỡ Tuy nhiên, huyện vẫn phải đầu tư công sức cho việc đắp đê, tu bổ đê điều và nạo vét kênh mương hàng năm.
Quỳnh Phụ sở hữu nguồn tài nguyên đất phong phú, được phân chia thành hai nhóm chính: đất phù sa và đất phèn Đất phù sa chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của huyện, bao gồm phù sa từ hệ thống sông Thái Bình và sông Luộc, và được chia thành hai loại: đất phù sa được bồi hàng năm và đất phù sa không được bồi hàng năm Trong khi đó, đất phèn chỉ chiếm một diện tích nhỏ, với lớp đất phèn nằm cách mặt đất khoảng 25 cm.
Diện tích 26 km² nếu được trồng lúa nước quanh năm sẽ giúp hạn chế sự bốc lên của phèn từ tầng đất canh tác, từ đó không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất nông nghiệp.
Huyện Quỳnh Phụ, với điều kiện tự nhiên thuận lợi, có vị trí địa lý quan trọng cho kinh tế và an ninh quốc phòng, là trung tâm giao thông huyết mạch của tỉnh Điều này tạo điều kiện cho huyện giao lưu buôn bán với các địa phương khác Khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ là lợi thế cho phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Tuy nhiên, huyện cũng phải đối mặt với những khó khăn do khí hậu, như bão, gió Tây Nam và gió Bắc, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Quỳnh Phụ cần phát huy thế mạnh và khắc phục khó khăn để xây dựng nền kinh tế phát triển tương xứng với tiềm năng Nhờ thực hiện đúng chủ trương của Đảng và chính sách của chính quyền tỉnh, huyện đang ngày càng khởi sắc, góp phần quan trọng vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước.
Kết quả khảo cổ học đã tìm thấy các di chỉ đồ đồng thau ở xã Quỳnh
Xá, bao gồm mũi tên đồng và rìu đông, có niên đại hơn 2.800 năm, cùng với đồ sành, sứ ở Quỳnh Hải, cho thấy người Lạc Việt đã di cư từ miền trung xuống Quỳnh Phụ từ rất sớm Họ sống trên các đống cao, làm nghề lượm lúa nước và đánh bắt thủy sản Do địa hình, người Lạc Việt di cư từng nhóm nhỏ thay vì thành từng đoàn Nhiều địa phương hiện nay vẫn giữ tên các đống cao như đống Tò và đống Trọc Sau khi nhà nước Văn Lang được thành lập, nhiều công chúa và tướng lĩnh đã về Quỳnh Phụ để giúp dân khẩn hoang và tổ chức cuộc sống Cư dân hình thành các kẻ như kẻ Ón, kẻ Ô và hợp tác với nhau thành chạ, dưới sự quản lý của chiềng do quan lang cai quản Sự ra đời của các công xã hương thôn, kẻ, chạ, chiềng đánh dấu bước ngoặt trong đời sống của cư dân từ tự phát sang tổ chức hơn.
Quá trình phát triển từ những con người đầu tiên đã dẫn đến việc hình thành các cụm dân cư và xóm cổ tại Quỳnh Phụ Nhiều tài liệu cho thấy làng xã ở Quỳnh Phụ đã hình thành sớm cùng với sự sinh sống của người Lạc Việt Hiện nay, Quỳnh Phụ có 36 xã và 2 thị trấn phát triển mạnh mẽ.
Cư dân Quỳnh Phụ đã xây dựng một nền văn hóa phong phú và đa dạng từ sớm, bao gồm các phong tục thờ cúng tổ tiên và các vị thần tứ phương, thủy thần Một trong những phong tục đặc sắc là gói bánh trưng, bánh dày, trong đó có việc gói bánh trưng lớn để tế địa thần thánh tại làng Nghìn (An Bài).
Tò (An Mỹ) là nơi cư dân thể hiện lòng biết ơn tổ tiên và cầu mong cho thời tiết thuận lợi, cuộc sống hạnh phúc Những phong tục tập quán này không chỉ gắn kết mọi người mà còn thúc đẩy sự phát triển toàn diện của quê hương.
KINH TẾ QUỲNH PHỤ TRONG 10 NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1995
Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế
2.1.1 Chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trong giai đoạn 1975-1985, Việt Nam đã bước vào thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, đạt được nhiều thành tựu trong đời sống xã hội nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế từ giữa những năm 1980 Để khắc phục những sai lầm và vượt qua khủng hoảng, Đảng và Nhà nước cần thực hiện đổi mới Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, diễn ra từ 15 đến 18-12-1986 tại Hà Nội, đã đánh dấu bước chuyển quan trọng sang một thời kỳ mới trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI năm 1986 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, với mục tiêu đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị và văn hóa, trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế Đại hội đã nhận thức rõ rằng quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội là một hành trình lịch sử dài và khó khăn, và đã đặt ra nhiệm vụ bao trùm nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đồng thời xây dựng tiền đề cho công nghiệp hóa Để đạt được mục tiêu này, cần tập trung vào ba chương trình kinh tế chính: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu Đảng và nhà nước đã xác định rằng nền kinh tế cần đa dạng hóa ngành nghề và công nghệ, đồng thời xóa bỏ cơ chế bao cấp để hình thành cơ chế thị trường Đường lối đổi mới của Đảng được xem như ánh sáng chỉ đường, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân trong việc thoát khỏi khủng hoảng Từ đó, Đảng bộ tỉnh Thái Bình, huyện Quỳnh Phụ đã xây dựng các chiến lược đổi mới cụ thể, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới của cả nước và đạt được nhiều thành tựu lớn.
2.1.2 Sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thái Bình và huyện Quỳnh Phụ
Trước sự đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã đề ra đường lối đổi mới phù hợp với tình hình địa phương Từ năm 1975 đến 1985, huyện Quỳnh Phụ trải qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải có biện pháp thoát khỏi tình trạng này Theo chủ trương của Trung ương Đảng vào tháng 12 năm 1986, Đảng bộ tỉnh XIII và Nghị quyết của Đảng bộ huyện lần thứ VIII đã xác định phương hướng nhiệm vụ và các mục tiêu chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm tiếp theo.
Từ năm 1986 đến 1990, Việt Nam tập trung phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nhằm tăng nhanh sản lượng lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh việc xóa bỏ quản lý tập trung và bao cấp trong sản xuất, chuyển sang quản lý kinh tế bằng các quy luật kinh tế và đòn bẩy kinh tế Đồng thời, cần mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất, lấy kế hoạch làm trung tâm trong quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa Việc thực hiện hợp đồng kinh tế và tăng cường quản lý tài chính cũng được coi là cần thiết để đảm bảo lợi ích hài hòa và loại bỏ tham ô, lãng phí.
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối xây dựng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Quỳnh Phụ đã rơi vào khủng hoảng kinh tế và xã hội Do đó, yêu cầu đổi mới là cấp bách và cần thiết Việc cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng bộ và chính quyền Quỳnh Phụ nhằm đáp ứng thực tiễn lịch sử.
Sự phát triển kinh tế Quỳnh Phụ từ năm 1986 đến năm 1995
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI (12-1986) và sự chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội Tỉnh ủy, huyện Quỳnh Phụ đã nỗ lực khắc phục khó khăn, phát huy lợi thế để thực hiện công cuộc đổi mới Nhờ đó, huyện đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế.
Nông nghiệp luôn được xem là nhiệm vụ hàng đầu trong các chương trình kinh tế - xã hội của huyện, theo Nghị quyết Đại hội VIII và IX của Đảng bộ huyện Để phát triển nông nghiệp toàn diện, cần khai thác tiềm năng đất đai, lao động và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đồng thời đẩy mạnh sản xuất nhằm đạt được các chỉ tiêu về lương thực, thực phẩm và nông sản Việc thực hiện các biện pháp thâm canh như thủy lợi, cải tạo đất, sử dụng giống và phân bón hợp lý, cùng với phòng trừ sâu bệnh và thiên tai là rất cần thiết để tăng năng suất lúa Đổi mới tư duy về kinh tế và phát triển sản xuất nông nghiệp là yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu này.
Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nhưng gặp nhiều khó khăn Năm 1986, sản xuất nông nghiệp vẫn theo cơ chế khoán 100, nhằm duy trì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Đầu năm 1986, các huyện tổ chức phong trào thi đua chào mừng Đại Đảng, kiểm điểm kết quả thực hiện nhiệm vụ và khắc phục sai lầm để thúc đẩy sản xuất Toàn huyện đã gieo cấy 10.567 ha, vượt 1,6% chỉ tiêu, với giống lúa IR8 chiếm 52% Tuy nhiên, vụ xuân gặp sâu bệnh phát triển mạnh, dẫn đến 881 ha mất trắng và năng suất lúa chỉ đạt 24,29 tạ/ha, giảm 3,92 tạ so với vụ trước Ngày 24-6-1986, Huyện ủy đã kiểm điểm trách nhiệm về năng suất thấp, xác định nguyên nhân do chủ quan trong phòng trừ bệnh và thiếu hụt phân bón Để cải thiện năng suất vụ mùa năm 1986, huyện đã chỉ đạo cung cấp đủ phân bón và dầu máy kéo, huy động máy móc làm đất và tích cực diệt sâu bệnh, nhưng diện tích lúa xuân chỉ đạt 11.332 ha, bằng 98,54% kế hoạch.
Trong năm qua, huyện ghi nhận năng suất lúa mùa đạt 30,52 tạ/ha, vượt chỉ tiêu 1,52 tạ, và năng suất cả năm đạt 54,81 tạ/ha với sản lượng 60.271 tấn Tuy nhiên, sản lượng lúa giảm 14.121 tấn so với năm 1985, và năng suất lúa thấp hơn 1,55 tạ/ha so với tỉnh Sau những trận mưa lớn và lũ lụt, 227 ha lúa phải cấy lại, trong khi cơn bão số 5 đã làm sập đổ 1.456 nhà và gây thiệt hại lớn cho lúa màu Để khắc phục tình trạng sâu bệnh, huyện đã huy động hàng vạn người, trong đó có hơn 10.500 học sinh, tham gia chiến dịch diệt sâu trong 3 ngày, thu gom hơn 1 triệu sâu đục thân và 4,8 triệu sâu cuốn lá Một số hợp tác xã nông nghiệp như Quỳnh Hải và An Quý đạt năng suất dưới 50 tạ/ha.
An Vũ 45 tạ Một số hợp tác xã đạt năng suất khá cao là thị trấn 81,97 tạ, Quỳnh Ngọc 81,72 tạ, Đại Đồng 80,27 tạ/1 ha [19; 69]
Tháng 1-1987, Ban Thường vụ huyện ủy ra Nghị quyết số 06 về sản xuất vụ xuân, phấn đấu đạt năng suất lúa xuân 40 tạ và cả năm 70 là tạ/1 ha, thành lập ban chỉ đạo đôn đốc thực hiện gồm các đồng chí là ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, do đồng chí bí thư làm trưởng ban Các ủy viên trực tiếp đôn đốc thực hiện các khâu: giống, làm đất, nước, phân, bảo vệ thực vật, phân phối sản phẩm, chỉ đạo đưa giống lúa dài ngày VN10-20 thành giống lúa chủ lực thay giống cũ IR8, giảm giống CR23 Qua đó diện tích gieo cấy tăng lên 10.721 ha, đạt 104.08% kế hoạch, tăng hơn vụ xuân trước 154 ha, cơ cấu giống lúa: VN10- 20 chiếm 58,6 %, IR8: 24,5%, CR203: 5,5%, giống 184 và
Trong vụ xuân, thời tiết ấm kéo dài đã khiến 1.243 ha lúa có nguy cơ trổ bông sớm, dẫn đến thất thu Huyện đã chỉ đạo phá bỏ toàn bộ lúa ống và hỗ trợ giống, phân để cấy lại, nhưng chỉ có 35,7 ha được thực hiện Đến giữa tháng 3, sâu bệnh đã phát triển trên 5.354 ha, với một số nơi như An Lễ, Đông Xá, Quỳnh Minh bị cháy rầy Việc cung cấp thuốc diệt rầy nâu không đủ, buộc phải sử dụng hơn 110 tấn dầu diệt rầy bằng phương pháp thủ công Một số xã đã bắt được lượng sâu bướm lớn, như xã An Vinh với 1,9 tấn và Quỳnh Hoàng 5 tạ Giữa tháng tư, 4 đợt rét xảy ra đúng lúc 3.026 ha lúa đang trỗ bông, làm giảm năng suất Bên cạnh đó, phân đạm không đủ và không kịp thời, khiến diện tích bèo dâu chỉ đạt 20,5%, dẫn đến năng suất lúa xuân giảm xuống còn 23,77 tạ/ha, với tổng sản lượng 25.483 tấn.
Trước tình hình hiện tại, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tiến hành kiểm điểm và quyết định tập trung vào mùa bù chiêm với mục tiêu đạt năng suất lúa 40 tạ trên 1 ha.
Xí nghiệp cơ khí nông nghiệp đã huy động 47/52 đầu máy kéo và 13 máy kéo lớn của các hợp tác xã, thực hiện làm đất trên 60% diện tích gieo cấy 11.439 ha, tăng 107 ha so với vụ mùa trước Cơ cấu giống lúa chủ yếu gồm mộc tuyền 50%, CR 203 42%, nếp 455 4% và các giống khác 4%, trong đó có giống lúa mới KV10, 81-1, 84-2 được thử nghiệm tại các hợp tác xã An Hiệp, An Đồng, Quỳnh Khê, An Vinh Tuy nhiên, vào giữa tháng 9, sâu bệnh đã phát triển trên diện tích 5.354 ha, dẫn đến huyện phát động chiến dịch diệt trừ sâu, chuột với sự tham gia của hơn 35.000 người, cung cấp 10 tấn thuốc trừ sâu và thu gom được 74.088 con chuột Mặc dù đã nỗ lực, năng suất lúa mùa chỉ đạt 38,47 tạ/ha, sản lượng 44.005 tấn, không đạt chỉ tiêu, giảm so với năm 1985 Trong năm 1987, năng suất lúa đạt 62,64 tạ/ha với sản lượng 69.491 tấn, trong đó 7 hợp tác xã nông nghiệp vượt chỉ tiêu năng suất, với thị trấn đạt cao nhất 87,76 tạ/ha, trong khi hợp tác xã An Quý có năng suất thấp nhất là 48,56 tạ/ha.
Năng suất và sản lượng lúa 2 năm 1986 và 1987 giảm sút so với năm
Năm 1985, thiên tai và cơ chế khoán sản phẩm theo chỉ thị 100 đã bộc lộ hạn chế, không khuyến khích xã viên sản xuất Đến đầu năm 1988, các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện Nghị quyết khoán gọn, xã viên phấn khởi gieo cấy 10.937 ha, đạt 102,38% kế hoạch, với giống lúa VN10-20 chiếm 87% diện tích Năng suất lúa đạt 43,75 tạ/ha, vượt chỉ tiêu 3,75 tạ Vụ mùa 1988, diện tích gieo cấy đạt 11.759 ha, vượt 2,25% kế hoạch, nhưng lúa mộc tuyền bị sâu bệnh phá hoại nặng, năng suất chỉ đạt 18,43 tạ/ha Qua thực hiện khoán gọn, năng suất lúa toàn năm 1988 tăng lên 75,05 tạ/ha, sản lượng thóc đạt 84.655 tấn, vượt chỉ tiêu kế hoạch Đầu năm 1989, huyện gieo cấy 11.290 ha, đạt 105,4% kế hoạch, với giống lúa dài ngày chiếm 82% diện tích Dù gặp rét đậm, chỉ 3% diện tích lúa 13/2 bị chết rét Cuối tháng 5, chiến dịch diệt trừ sâu bệnh được thực hiện hiệu quả, hạn chế thiệt hại do bão số 8, giúp năng suất lúa toàn huyện đạt kết quả khả quan.
50,27 tạ 1 ha cao nhất từ trước tới nay, trong đó VN10-20 đạt 50,99 tạ 1 ha, CR203:53,56 tạ, 13/2: 61,11 tạ, V14, V15 đạt từ 52 đến 62 tạ [19; 273]
Vụ xuân năm 1990, diện tích gieo cấy lúa đạt 11.492 ha, tăng 302 ha so với năm 1989 và vượt 106,4% kế hoạch Cơ cấu giống lúa chủ yếu gồm VN 10-20 chiếm 84,6%, tiếp theo là CR203 9,4%, 13/2 1,1%, OM80 1% và nếp 3,9% Mặc dù đạt chỉ tiêu về cơ cấu giống, năng suất lúa chỉ đạt 44,55 tạ/ha.
Sản xuất màu lương thực như khoai tây và khoai lang là mục tiêu chính trong chương trình lương thực Trước năm 1986, diện tích trồng cây màu lương thực vụ đông giảm do cây trồng bị thoái hóa và năng suất thấp Thời tiết vụ đông thường gặp mưa lớn kéo dài, cùng với cơ chế khoán sản phẩm chưa phù hợp đã ảnh hưởng đến sản xuất.
Từ năm 1987, các hợp tác xã nông nghiệp đã ngừng khoán sản phẩm vụ đông và áp dụng nhiều giống mới năng suất cao, dẫn đến diện tích vụ đông tăng lên hơn 35.000 ha trong giai đoạn 1987 - 1990 Bên cạnh cây ngô và khoai, Quỳnh Phụ đã mở rộng trồng nhiều loại cây màu khác, như cây ớt, với diện tích tăng từ 172 ha năm 1986 lên 493 ha năm 1990 nhờ vào việc xóa bỏ cách khoán trồng Cây lạc, được chú trọng do giá trị xuất khẩu, cũng tăng diện tích từ 208 ha năm 1987 lên 258 ha năm 1990, với tổng sản lượng đạt 1.876 tấn trong 5 năm Cây đậu tương giảm diện tích trồng chính vụ nhưng tăng sản lượng từ 130,5 tấn lên 268,7 tấn trong các vụ luân canh, tổng sản lượng đạt 580 tấn, tăng 411,5 tấn so với 5 năm trước Cây mía, trồng chủ yếu tại vùng bãi Quỳnh Lâm và Quỳnh Hoàng, đạt 50 ha vào năm 1989 và là nguyên liệu chính cho sản xuất đường Cây dâu tằm tiếp tục phát triển tại 37 xã trong khu vực.
Từ năm 1986 đến 1988, mỗi năm trồng 26 ha dâu tại các cánh đồng bãi và hàng trăm vạn khóm dâu ở các hộ gia đình Trong hai năm 1989 và 1990, diện tích trồng giảm xuống còn 22 ha mỗi năm Đến năm 1990, sản lượng kén đạt 11,5 tấn, gấp đôi so với năm 1985, cho thấy kén tằm là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao.
Chăn nuôi lợn tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm thực hiện chương trình thực phẩm, tập trung vào việc tăng cường số lượng và trọng lượng đàn lợn Theo Nghị quyết 18 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy vào đầu năm 1986, các hợp tác xã nông nghiệp có chăn nuôi chuồng trại được hỗ trợ 10% quỹ khuyến khích chăn nuôi lợn nái, trong khi các hợp tác xã không tham gia chăn nuôi chỉ nhận dưới 5% quỹ thóc Tính đến năm 1986, toàn huyện có 5 hợp tác xã chăn nuôi lợn chuồng trại, với tổng đàn lợn đạt 55.186 con, tăng 1.596 con so với năm 1985, trong đó lợn lai kinh tế chiếm 33,24%, tăng 4,74% so với năm trước, tổng sản lượng lợn xuất chuồng đạt 3.561 tấn.
Từ năm 1985 đến 1990, tổng đàn lợn trong huyện có sự tăng trưởng đáng kể, với số lượng lợn đạt 58.838 con vào năm 1990 và tỷ lệ lợn lai kinh tế tăng lên 74,2% Sản lượng thịt xuất chuồng cũng gia tăng, từ 3.729 tấn năm 1987 lên 5.076 tấn vào năm 1990, với trọng lượng lợn xuất chuồng bình quân đạt 97kg/con Để giải quyết tình trạng ứ đọng lợn thịt vào cuối năm 1989, huyện đã chỉ đạo xuất thóc quỹ hàng hóa để đổi lấy lợn thịt cho dân Song song với chăn nuôi lợn, nghề nuôi cá cũng được cải tiến, chuyển từ khoán sản phẩm sang giao hẳn cho hộ sử dụng, với tổng diện tích ao hồ thả cá đạt 650 ha năm 1986 và sản lượng cá đạt 275 tấn Tuy nhiên, do nhiều diện tích ao không được sử dụng, tổng diện tích ao nuôi cá giảm xuống 621 ha vào năm 1989, nhưng đã tăng trở lại lên 280 tấn sản lượng cá vào năm 1990 Chăn nuôi gia cầm cũng phát triển, đạt 377.000 con vào năm 1986.
Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế
3.1.1 Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996, đã nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới từ 1986 - 1995), khẳng định những thành tựu to lớn đã đạt được trên các lĩnh vực đời sống xã hội, chỉ rõ đất nước ta ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ nên chủ nghĩa hội đã căn bản được hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Đại hội VIII (tháng 6 -1996) đã nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập kỉ 90, thế kỉ XX Các quan điểm và định hướng nay đến nay về cơ bản vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn
Mục tiêu chính của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là xây dựng Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp với cơ sở vật chất hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, hướng tới một xã hội công bằng, văn minh, với dân giàu, nước mạnh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội vào năm 2020.
Trong dự thảo các văn bản trình Đại hộ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra mười trương trình phát triển đó là:
1 Phát triển nông nghiệp là kinh tế nông thôn
3 Phát triển cở sở hạ tầng
4 Phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, sinh thái
5 Phát triển kinh tế dịch vụ
6 Phát triển kinh tế đối ngoại
7 Giải quyết các vấn đề xã hội
8 Phát triển kinh tế các vùng lãnh thổ
9 Phát triển kinh tế - xã hội miền núi
10 Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng được xây dựng dựa trên phân tích khoa học về các điều kiện trong nước và quốc tế, thể hiện sự phù hợp cao Đây chính là ánh sáng dẫn đường cho đất nước tiến vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.1.2 Sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Thái Bình và huyện Quỳnh Phụ
Kế thừa đường lối của Đại hội VI (tháng 12 - 1986), cương lĩnh chính trị tại Đại hội VII và phương hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Đại hội VIII, trong 10 năm đầu đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình, đặc biệt là Quỳnh Phụ, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng Những kết quả này không chỉ giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội mà còn tạo ra những tiền đề vững chắc cho Quỳnh Phụ bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đang được thúc đẩy mạnh mẽ trong bối cảnh thế giới phức tạp, với những thuận lợi và thách thức Cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á và một số nước Tây Nam Á đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt là tại Thái Bình và Quỳnh Phụ Đồng thời, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu Xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa ngày càng mạnh mẽ, cùng với sự gia nhập ASEAN, đã mang lại cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức lớn cho đất nước.
Sau mười năm đổi mới, Quỳnh Phụ vẫn gặp nhiều thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội, với nền kinh tế chủ yếu tự cung tự cấp và chỉ một số sản phẩm lúa gạo, nông sản Dân số tăng nhanh cùng với thiên tai khó lường gây thêm khó khăn cho người dân Bên cạnh đó, đội ngũ lãnh đạo thiếu kinh nghiệm quản lý cũng là một vấn đề lớn cần khắc phục.
Quỳnh Phụ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng sau mười năm đổi mới, giúp huyện thoát khỏi khó khăn về kinh tế và xã hội Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Phụ có truyền thống đoàn kết, năng động và sáng tạo, cùng với kinh nghiệm tích lũy trong quá trình đổi mới Hệ thống hạ tầng ngày càng phát triển, tình hình chính trị - xã hội ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho Quỳnh Phụ bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần có sự lãnh đạo của Đảng, tỉnh ủy và chỉ đạo cụ thể từ Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ.
Quán triệt Nghị quyết của Đại hộ VIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội
XV Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ huyện vào tháng 3 -
Năm 1996, phương hướng nhiệm vụ được đề ra là duy trì ổn định chính trị và tập trung mọi nguồn lực để phát triển nền kinh tế hàng hóa đa thành phần Đồng thời, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, đồng thời tăng cường tích lũy nội bộ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Đại hội cũng đã xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội cho năm 1996.
Năm 2000 đã đưa ra 7 giải pháp quan trọng cho việc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Giải pháp hàng đầu là thúc đẩy phát triển nông nghiệp toàn diện, chuyển đổi mạnh mẽ sang sản xuất hàng hóa, coi công nghiệp hóa nông nghiệp là nhiệm vụ cốt lõi trong chiến lược phát triển kinh tế của huyện.
XI Đảng bộ huyện xác định phương châm lãnh đạo trong việc xây dựng công nghiệp hóa là: "lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn, hộ gia đình là khâu đột phá, tiến bộ khoa học là then chốt, và cán bộ là khâu quyết định."
Nhờ vào việc tiếp thu các chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh và huyện đã lãnh đạo nhân dân trong huyện thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện, theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước từ năm 1996.
2005) đạt được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Sự phát triển kinh tế Quỳnh Phụ từ năm 1996 đến năm 2006
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, Đảng bộ Huyện đã lãnh đạo nhân dân ổn định tình hình và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, từ đó đạt được những kết quả đáng kể.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, Quỳnh Phụ đã bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, mặc dù gặp nhiều khó khăn Tuy nhiên, khu vực nông nghiệp của địa phương đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.
Sản xuất lúa gạo tại Quỳnh Phụ đã cải thiện đáng kể nhờ áp dụng khoa học công nghệ, với việc sử dụng các giống lúa sinh học hiện đại thay thế cho giống truyền thống có năng suất thấp Tuy nhiên, giai đoạn 1996 - 2000, sản xuất lúa gạo gặp khó khăn do thời tiết khắc nghiệt và tình trạng chuột phát sinh Dù vậy, Quỳnh Phụ vẫn đạt được những kết quả tích cực trong sản xuất rau màu, đặc biệt là rau củ quả phục vụ xuất khẩu, góp phần vào chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp Diện tích trồng ngô và khoai sắn đã chuyển từ sản phẩm lương thực sang hàng hóa, với vụ đông năm 1996 đạt 4.462 ha, nhưng sau đó có xu hướng giảm Trong khi đó, diện tích rau màu tăng lên hàng năm, đặc biệt là rau vụ xuân để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Năm 1996, huyện đã quyết định chuyển đổi từ 10% đến 15% diện tích lúa xuân kém hiệu quả sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao Trong vụ xuân, cây ngô được trồng để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Diện tích trồng rau màu tại khu vực này dao động từ 252 đến 336 ha, với các loại rau chủ yếu như ớt, lạc, kê, vừng, dưa chuột và đậu tương Trong vụ xuân 1996, diện tích trồng rau đạt 576 ha, tăng lên 625 ha vào năm 1997, 1.068 ha vào năm 1999 và tiếp tục tăng lên 1.200 ha vào năm 2000.
Các dịch vụ nông nghiệp đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đặc biệt trong lĩnh vực tưới tiêu Đến cuối năm 1996, huyện đã có 140 trạm bơm điện với 215 máy bơm, và đến năm 2000, số lượng này tăng lên 154 trạm với 221 máy bơm, tổng công suất đạt 369.860 m3/giờ Xí nghiệp thủy nông huyện quản lý 44 trạm bơm lớn và các xã quản lý 107 trạm bơm nhỏ Hệ thống thủy lợi bao gồm 6 trục lớn dài 80km, 59 sông dài 150km, và nhiều cống điều tiết nước Bên cạnh đó, dịch vụ làm đất cũng được cơ giới hóa, với nhiều hộ nông dân vay vốn để đầu tư vào máy móc và vật tư nông nghiệp như phân bón vô cơ, phân vi sinh, thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất.
Chương trình phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu tại huyện khuyến khích nuôi lợn gia trại, lợn thịt và lợn nái lấy sữa, với hỗ trợ vay vốn xây dựng chuồng trại theo mô hình công nghiệp Tổng đàn lợn đã tăng từ 63.202 con năm 1996 lên 97.294 con vào năm 2000, trong khi đàn trâu bò cũng tăng từ 8.145 con lên 10.113 con trong cùng thời gian, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa Gia cầm phát triển thành gia trại quy mô nhỏ với tổng đàn đạt 756.000 con vào năm 2000, nhờ vào việc thay thế giống cũ bằng giống mới năng suất cao Chăn nuôi cá cũng phát triển, với sản lượng tăng từ 649 tấn năm 1996 lên trên 1.100 tấn, giá trị thủy sản tăng từ 5.973 tỷ đồng lên 17.600 tỷ đồng vào năm 2000.
Ngành chăn nuôi đang phát triển mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, với giá trị chăn nuôi năm 1996 đạt 158.734 tỷ đồng, chiếm 26,33% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp Đến năm 2000, giá trị này đã tăng lên 199.932 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 28,92% và 29,84% Giai đoạn 2001 - 2005, theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đã đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp bền vững, tập trung vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa Các giải pháp bao gồm chuyển đổi cơ cấu cây trồng và chăn nuôi, ưu tiên cây lúa chất lượng cao và các sản phẩm chăn nuôi như lợn, gia cầm, cá theo hướng gia trại với năng suất và chất lượng cao Đến năm 2005, mục tiêu đề ra là nông nghiệp tăng trưởng 4% và tổng sản lượng lương thực đạt từ 160.000 đến 170.000 tấn.
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là chủ yếu Toàn Đảng và nhân dân huyện tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp tục thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Huyện quyết tâm đoàn kết, nắm bắt cơ hội để vượt qua thách thức, từ đó thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội XII Đảng bộ huyện đề ra, đặc biệt là những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp toàn diện với tốc độ tăng trưởng bình quân 4% mỗi năm, theo hướng bền vững và công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tập trung vào sản xuất hàng hóa thị trường là mục tiêu chính được chỉ đạo thực hiện.
Trong sản xuất nông nghiệp, huyện tiếp tục duy trì vai trò chủ đạo của lúa gạo, với chủ trương chuyển đổi 10% diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng cây hoặc nuôi trồng thủy sản có giá trị cao, đồng thời bố trí 75-80% diện tích để cấy lúa năng suất cao Huyện đã chỉ đạo việc cơ cấu giống lúa, loại bỏ dần các giống lúa dài ngày năng suất thấp như VN10, XI23 và tăng cường giống lúa ngắn ngày chất lượng cao Đặc biệt, từ năm 2003, huyện Quỳnh Phụ đã xây dựng cánh đồng 50 triệu, tạo nên đặc điểm nổi bật trong sản xuất lúa của huyện Diện tích rau màu cũng tăng trưởng đáng kể, từ 3.172 ha năm 2001 lên 4.341 ha năm 2004 nhờ nhu cầu thị trường Cây khoai tây, chủ yếu là giống Hà Lan, Pháp, Đức, đạt tổng sản lượng 52.356 tấn trong giai đoạn 2001-2005, tăng so với giai đoạn trước Cây đậu tương, được xem là cây có thế mạnh, cũng tăng diện tích từ 471 ha năm 2001 lên 901 ha năm 2005 nhờ sự hỗ trợ giống và kỹ thuật trồng.
Ngoài cây lúa và cây màu lương thực, các cây nông sản như đay và cói cũng được khuyến khích phát triển vì cung cấp nguyên liệu cho ngành tiểu thủ công nghiệp Hơn nữa, người dân đang cải tạo 732.500 ha vườn tạp và chuyển đổi diện tích lúa ven làng kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao.
Qua 5 năm (2001 - 2005) phát triển trồng trọt theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, chuyển đổi cây trồng, sản xuất hàng hóa thị trường, tổng diện tích gieo trồng bình quân đạt 30.382 ha/năm, tăng 186 ha so với mức bình quân 5 năm trước, trong đó diện tích lúa chiếm 80,21%, diện tích rau màu và cây nông sản chiếm 19,79% tăng 0,65% [19; 563]
Ngành chăn nuôi đang phát triển mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, áp dụng các giống mới có năng suất và chất lượng cao Việc sử dụng thức ăn tổng hợp và đẩy mạnh chăn nuôi gia trại, trang trại, cũng như kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm với nuôi trồng thủy sản, đã giúp tăng nhanh tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp Điều này đã đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, cung cấp sản phẩm hàng hóa cho thị trường.
Huyện đã thực hiện chương trình phát triển chăn nuôi, tập trung vào chăn nuôi lợn, với việc hỗ trợ các gia trại vay vốn ngân hàng từ 20 đến 50 triệu đồng, kèm theo lãi suất hỗ trợ trong 1 năm Tổng sản lượng lợn xuất chuồng trong giai đoạn 2001 - 2005 đạt 45.857 tấn, với trọng lượng trung bình tăng từ 96 kg vào năm 2001 lên 100 kg vào năm 2005 Đàn trâu bò cũng gia tăng từ 7.337 con năm 2001 lên 10.000 con vào năm 2005, trong đó 90% là bò lai sin Huyện có khoảng 5.000 hộ nuôi trâu bò, chủ yếu tập trung tại ven đê sông Luộc và sông Hóa để phát triển nuôi bò thương phẩm Trong 5 năm này, gần 17.000 tấn thịt trâu bò đã được tiêu thụ trên thị trường Đàn gia cầm hàng năm dao động từ 1,0 triệu đến 1,2 triệu con, chủ yếu là gà công nghiệp và một số giống mới như gà sắc sô, phượng hoa.
KẾT LUẬN
1 Ở Thái Bình có tất cả 7 huyện một trong những huyện đã đạt được những thành tựu to lớn nhất trong công cuộc đổi mới của đất nước từ 1986 -
2005 và cả trong những giai đoạn hiện nay phải kể đến là huyện Quỳnh Phụ
Huyện Quỳnh Phụ đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế ấn tượng nhờ vào điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi, cùng với việc thực hiện sáng tạo các chủ trương của Đảng Cộng sản và Tỉnh ủy Thái Bình Trong thời kỳ đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Phụ đã giúp huyện thoát khỏi khủng hoảng, với tốc độ phát triển kinh tế ngày càng tăng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại - dịch vụ Cơ cấu ngành nghề đang chuyển dịch, giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ Sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa, với tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng lên Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp duy trì được đà phát triển, vượt chỉ tiêu đề ra, và hạ tầng được xây dựng rộng khắp Quỳnh Phụ cũng tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mang lại giá trị kinh tế cao, trong khi khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương.
Thắng lợi lớn của Quỳnh Phụ là nhờ sự đoàn kết và nhất trí giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Ban chấp hành Đảng bộ huyện cùng các Đảng bộ cơ sở đã linh hoạt áp dụng đường lối đổi mới, tiếp thu chủ trương phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa từ trung ương và Tỉnh ủy Những chủ trương này đã thực sự đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả cao trong công cuộc đổi mới quê hương.
Mặc dù Quỳnh Phụ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng từ năm 1986 đến 2006, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế trong quá trình đổi mới kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng tổng giá trị sản phẩm còn thấp và không đồng đều giữa các lĩnh vực Sản xuất nông nghiệp chưa phát triển toàn diện, chưa khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của vùng, trong khi sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xuất khẩu vẫn gặp khó khăn Những thách thức này cần được khắc phục để phát huy tối đa lợi thế của Quỳnh Phụ.
2 Những thắng lợi to lớn trên lĩnh vực kinh tế mà Quỳnh Phụ đã đạt được trong công cuộc đổi mới có tác động to lớn đến tình hình chính trị - xã hội - văn hóa của huyện đó là:
Mỗi năm, xã Quỳnh Phụ tăng gần 1000 lao động, chủ yếu tập trung ở nông nghiệp nông thôn Mặc dù nguồn lao động dồi dào, nhưng trình độ tay nghề còn thấp, trong khi nhu cầu việc làm ngày càng cao Để khắc phục tình trạng này, Quỳnh Phụ đã triển khai chương trình lao động và việc làm, tập trung vào việc giải quyết việc làm tại chỗ thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, mở rộng làng nghề, xã nghề, cũng như kết hợp xuất khẩu lao động ra tỉnh ngoài và nước ngoài Nhờ đó, vấn đề lao động và việc làm đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn này.
Từ năm 1996 đến 2005, gần 30.000 lao động đã được tạo việc làm mới, với sự chuyển biến tích cực trong giai đoạn 2001 - 2005, mỗi năm tạo ra khoảng 37.000 chỗ việc làm mới Nhờ đó, tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực đô thị đã giảm từ 8,4% vào năm 1995 xuống còn 4,4% vào năm 2005.
Lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp đã giảm từ 84,9% vào năm 1995 xuống còn 64,7% vào năm 2005, cho thấy sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu kinh tế Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ cũng góp phần vào xu hướng này.
Kinh tế huyện đã có sự phát triển mạnh mẽ, với thu nhập và mức sống của người dân tăng cao Sản xuất nông nghiệp đạt mùa vụ liên tục, đảm bảo an ninh lương thực, không còn hộ đói Tính đến nay, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 7,9% năm 2000 xuống còn 6,3% năm 2004, trong khi số hộ khá và giàu tăng từ 24,1% lên 28,6% Số hộ có đời sống trung bình chiếm 67,8%, cho thấy sự cải thiện rõ rệt trong điều kiện sống của người dân.
Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người đạt 5,5 triệu đồng, tăng 0,5 triệu đồng so với chỉ tiêu Đại hội Nhu cầu về ăn uống, chỗ ở, đi lại, học hành và khám chữa bệnh của người dân ngày càng được đáp ứng, góp phần làm đổi mới bộ mặt nông thôn Đặc biệt, 99,8% hộ gia đình đã sử dụng điện thoại cho sinh hoạt và sản xuất Huyện cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao và lễ hội truyền thống, nhằm phát huy phong tục tập quán tốt đẹp và văn hóa dân gian, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và nâng cao đời sống tinh thần cho người dân.
* Văn hóa - Giáo dục - Y tế
Sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho huyện trong việc nâng cao văn hóa, giáo dục và y tế, từ đó cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, góp phần ổn định chính trị Về giáo dục, huyện đã hoàn thành phổ cập đúng độ tuổi và trung học cơ sở, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và đào tạo đội ngũ giáo viên Huyện cũng đã xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học và huy động sự quan tâm của toàn xã hội để phát triển giáo dục Trong năm học 1999 - 2000, tỷ lệ trẻ em vào mẫu giáo đạt 82%, với 24.800 học sinh tiểu học và 22.488 học sinh trung học cơ sở Đến năm 2005, toàn huyện đã có 34 trường đạt chuẩn Quốc gia, với tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tăng nhanh, trong đó 61,5% giáo viên mầm non, 93,7% giáo viên tiểu học và 88,5% giáo viên trung học cơ sở.
Công tác văn hóa thể thao và truyền thông đã có nhiều nỗ lực đổi mới, phù hợp với nhu cầu văn hóa của nhân dân và tuyên truyền chính sách Đài phát thanh huyện dẫn đầu tỉnh trong ba năm liên tiếp và được tặng cờ đơn vị xuất sắc Phong trào xây dựng làng, xã, cơ quan, gia đình văn hóa phát triển mạnh, với 100% xã và cơ quan đăng ký, trong đó 60,3% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa Từ năm 1999, đã có 22 làng, 40 cơ quan và 24.000 hộ được công nhận văn hóa, đến năm 2005, con số này tăng lên 45 làng, 52 cơ quan và 53.220 hộ đạt tiêu chuẩn theo Quyết định số 2080 của ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, với các hoạt động văn hóa, thể thao diễn ra sôi nổi từ huyện đến cơ sở.
Công tác y tế và kế hoạch hóa gia đình đã có những chuyển biến tích cực, với hệ thống y tế ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Đến năm 2000, Việt Nam đã có 2.8 bác sĩ trên 10.000 dân và 20 trạm y tế có bác sĩ Cơ sở vật chất cho khám chữa bệnh và vệ sinh môi trường ngày càng được chú trọng Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 41% năm 1995 xuống 31,1% năm 1999 và chỉ còn 16% vào năm 2005 Đến năm 2005, 100% trạm y tế đã có nhà xây mái bằng với đủ 4 phòng kỹ thuật, trong đó 16 trạm đạt chuẩn quốc gia Trung tâm Y tế và phân viện Tư Môi được nâng cấp và trang bị máy móc hiện đại phục vụ khám chữa bệnh Các chương trình y tế quốc gia, công tác vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em được lãnh đạo quan tâm và thực hiện hiệu quả.
Quỳnh Phụ luôn chú trọng hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Dù tình hình phức tạp, các cấp, ngành và cơ sở đã nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội Huyện đã áp dụng cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành và quân sự tham mưu, xây dựng phương án phòng thủ tại chỗ, tổ chức khám tuyển giao quân hàng năm với chất lượng ngày càng cao Đồng thời, huyện cũng phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tăng cường công tác bảo vệ nội bộ và đấu tranh chống tội phạm Nhờ đó, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút và mại dâm đã giảm, góp phần nâng cao trật tự xã hội.
3 Từ thực tiễn 20 năm đổi mới kinh tế huyện Quỳnh Phụ, cho phép chúng tôi rút ra một vài bài học kinh nghiệm sau:
Tập trung vào phát triển kinh tế thông qua việc xây dựng các mô hình sản xuất hiệu quả và cơ chế chính sách hợp lý, nhằm khuyến khích đầu tư nguồn nhân lực Cần phát huy nội lực, khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên Những nỗ lực này sẽ góp phần tăng nguồn thu ngân sách địa phương, từ đó giải quyết tốt các vấn đề xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Chấp Hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (1986), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX, Tài liệu lưu trữ tại
[2] Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện Quỳnh Phụ (1991), Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ X, Tài liệu lưu trữ tại
[3] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (1996), Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XI, Tài liệu lưu trữ tại
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã trình bày báo cáo tình hình năm 1996 và phương hướng nhiệm vụ năm 1997 Tài liệu này được lưu trữ tại Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ.
Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ năm 1997 đã nêu rõ tình hình phát triển của huyện và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm 1998 Tài liệu này được lưu trữ tại Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cung cấp cái nhìn tổng quan về các chính sách và kế hoạch phát triển của địa phương trong giai đoạn này.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã có báo cáo về tình hình năm 1998 và phương hướng nhiệm vụ cho năm 1999 Tài liệu này được lưu trữ tại Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã có báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng đầu năm, đồng thời xác định các nhiệm vụ cho 6 tháng cuối năm Tài liệu này được lưu trữ tại Ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã ban hành Nghị quyết về phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2000, tài liệu này được lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ.
[9] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2000), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XII, Tài liệu lưu trữ tại Huyện ủy
[10] Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ (2000), Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1930-
1975), Trung tâm giáo dục chính trị tỉnh Thái Bình
[11] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2002), Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện về phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm
2002, Tài liệu lưu trữ tại huyện ủy Quỳnh Phụ
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2002 và đề ra phương hướng nhiệm vụ cho năm 2003 Tài liệu này được lưu trữ tại Huyện ủy Quỳnh Phụ.
[13] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2004, Tài liệu lưu trữ tại huyện ủy Quỳnh Phụ
[14] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2004), Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (1927 - 1954), NXB chính trị quốc gia
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã trình bày báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIII, tài liệu được lưu trữ tại huyện ủy huyện Quỳnh Phụ vào năm 2005.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ đã hoàn thành báo cáo tổng kết công tác nông nghiệp năm 2006 và triển khai kế hoạch nhiệm vụ cho năm 2007 Tài liệu này được lưu trữ tại huyện ủy huyện Quỳnh Phụ.
[17] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2006), Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (1954 - 1975), NXB chính trị quốc gia
Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Quỳnh Phụ đến năm 2020 được Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ thực hiện vào năm 2007, hiện đang được lưu trữ tại huyện ủy huyện Quỳnh Phụ.
[19] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2009), Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (1975 - 2005), NXB chính trị Quốc gia
[20] Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ (2011), Báo cáo thuyết minh tổng hợp quy hoạch sử dụng đất huyện Quỳnh Phụ đến năm
2020 Tài liệu lưu trữ tại huyện uỷ huyện Quỳnh Phụ
[21] Mai Ngọc Cường (2001), Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội
[22] Phạm Văn Chiến (2003), Lịch sử kinh tế Việt Nam, NXB Chính trị
[23] Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội
[24] Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội
[25] Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
[26] Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
[27] Trần Bá Đệ (1998), Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay - những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội
[28] Địa chí Thái Bình tập 1 (2006), Thư viện huyện Quỳnh Phụ
[29] Địa chí Thái Bình tập 2 (2007), Thư viện huyện Quỳnh Phụ
[30] Nguyễn Thế Đạt (chủ biên) ( 2006), Tiến trình đổi mới nền kinh tế quốc dân của Việt Nam, NXB Hà Nội
[31] Phạm Minh Đức (2010), Đất và người Thái Bình, NXB Thanh niên, Hà Nội
[32] Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III,
NXB Giáo dục, Hà Nội
[33] Nguyễn Đình Kháng (chủ biên) (1993), Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
[34] Trần Trọng Kim (1996), Kinh tế Việt Nam chặng đường 1945-1995 và triển vọng, NXB Hà Nội
[35] Nguyễn Viết Thông (chủ biên) (2010), Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- 2005 Đơn vị: Tỷ đồng, giá 1994
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2005 Tốc độ tăng trưởng
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Bảng 2: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đơn vị: %
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Bảng 3: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế của huyện Quỳnh Phụ với tỉnh Thái Bình năm 2005
Chỉ tiêu Đơn vị Quỳnh
3 Mật độ dân số Người/Km² 1179 1199 98,3
4 GTSX (giá cố định) Tỷ đồng 1170 11550 10,13
5 GTSX (giá hh) Tỷ đồng 1896 19389 9,78
8 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 0,2 101,79 0,02
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Bảng 4: Cơ cấu giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp Đơn vị: %
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Bảng 5: Một số chỉ tiêu phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản so với mục tiêu đại hội đảng bộ huyện lần thứ xii
Chỉ tiêu Đơn vị Mục tiêu Đại hội
Thực hiện % so với ĐH
GTSX (giá cố định) ngành nông, lâm, thuỷ sản bình quân/năm
GTSX trồng trọt (giá thực tế) /1 ha canh tác
Sản lượng lương thực năm 2005
Tỷ lệ diện tích cây trồng vụ đông so với diện tích đất canh tác
Tổng đàn gia cầm Triệu đồng 1,000 1,008 100,8
Sản lượng thuỷ sản Tấn 1.200 2.215 184,6
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Bảng 6:Một số chỉ tiêu tăng trưởng công nghiệp 1995-2005 Đơn vị: Triệu đồng
I Giá trị sản xuất CN chia theo thành phần KT
II Chia theo ngành sản xuất
- Ngành sản xuất vật liệu xây dựng
- Ngành chế biến lâm sản 15.200 20.971 72.138 6,65 28,03
- Ngành chế biến LTTP 19.500 19.804 52.480 0,31 21,52 Ngành dệt, may, thêu 1.568 3.912 37.700 20,06 57,32
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Quỳnh Phụ)
Hình 1: Bản đồ khu vực huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình
Hình 2: Cánh đồng lúa huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình