1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix

74 41 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Truyền Thống Khoa Bảng Của Họ Cao Ở Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An Từ Thế Kỉ XV Đến Thế Kỉ XIX
Tác giả Hồ Thị Hoài Phương
Người hướng dẫn ThS. Mai Phương Ngọc
Trường học Đại học Vinh
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 74
Dung lượng 1,51 MB

Cấu trúc

  • A. PHẦN MỞ ĐẦU (6)
    • 1. Lí do chọn đề tài (6)
    • 2. Lịch sử vấn đề (8)
    • 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khóa luận (9)
    • 4. Nguồn tài liệu (10)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (11)
    • 6. Những đóng góp của khóa luận (11)
    • 7. Bố cục khóa luận (12)
  • B. PHẦN NỘI DUNG (13)
  • Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ CAO Ở HUYỆN DIỄN CHÂU (13)
    • 1.1. Khái quát về điều kiên tự nhiên - xã hội huyện Diễn Châu (13)
    • 1.2. Lịch sử dòng họ Cao trên đất Diễn Châu (22)
      • 1.2.1. Nguồn gốc họ Cao (22)
      • 1.2.2. Sự phân nhánh của dòng họ Cao ở Diễn Châu (28)
  • Chương 2. THÀNH TỰU VỀ KHOA CỬ CỦA HỌ CAO Ở HUYỆN DIỄN CHÂU TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX (31)
    • 2.1. Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở Diễn Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX (31)
    • 2.2. Kết quả về giáo dục khoa cử của dòng họ Cao ở Diễn Châu từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX (37)
      • 2.2.1. Kết quả (37)
      • 2.2.2. Một vài đặc điểm của các nhà khoa bảng họ Cao ở Diễn Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX (46)
    • 2.3. Chi họ Cao tiêu biểu cho truyền thống khoa bảng (49)
      • 2.3.1. Chi họ Cao Xuân (49)
      • 2.3.2. Chi họ Cao Trọng (51)
    • 3.1. Thám hoa Cao Quýnh (1439 - ?) (53)
    • 3.2. Cao Bá Khối (1699 - 1727) (54)
    • 3.3. Cao Hoàng Quán (1721 - 1783) (55)
    • 3.4. Cao Trọng Sính (1805 - ?) (56)
    • 3.5. Cao Xuân Dục (1842 - 1923) (58)
  • KẾT LUẬN (64)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài

1.1 Dòng họ là một thực thể xã hội mang tính phổ quát của loài người

Họ hàng là một hiện tượng lịch sử - xã hội và là nét đẹp văn hóa Việt Nam đã hình thành qua hàng nghìn năm Người Việt coi dòng họ và gia đình là nền tảng vững chắc, tạo ra sức mạnh cho đất nước vượt qua khó khăn Điều này không chỉ giữ gìn văn hóa dân tộc mà còn khẳng định độc lập và vinh quang của người Việt Nam trên trường quốc tế.

Các dòng họ tại Nghệ An đã kiên cường đối mặt với mọi thế lực để bảo vệ quê hương và đất nước, tạo nên sức mạnh cho dân tộc Theo tài liệu “dân cư và xã hội Nghệ An” năm 1990, Nghệ An có 341 dòng họ, bao gồm cả dòng họ bản địa và những dòng họ từ Bắc Bộ, Nam Bộ, và Trung Quốc Dù đến từ đâu, khi định cư tại Nghệ An, các dòng họ đều trở thành một phần của cộng đồng xứ Nghệ và đóng góp quan trọng vào sự phát triển của vùng đất này, một trong những yết hầu quan trọng của đất nước.

1.2 Một dòng họ thường tập trung chủ yếu ở một địa phương hoặc một số địa phương nhất định, cho nên nghiên cứu về dòng họ là đụng đến vấn đề lịch sử địa phương mà lịch sử địa phương là một bộ phận quan trọng của lịch sử dân tộc Do đó nghiên cứu về dòng họ, về lịch sử địa phương sẽ giúp hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn lịch sử quê hương, lịch sử dân tộc Về truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng của xứ sở ấy, địa phương ấy, góp phần vào việc xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Mỗi dòng họ đều mang trong mình một truyền thống văn hóa độc đáo, được truyền lại qua các thế hệ, xứng đáng để con cháu tự hào và gìn giữ Tại Nghệ An và trên toàn quốc, nhiều dòng họ đã có những đóng góp quan trọng cho lịch sử dân tộc, làm rạng danh cả lịch sử địa phương lẫn quốc gia Tuy nhiên, không phải tất cả các dòng họ đều khẳng định được vị thế của mình trên vũ đài lịch sử theo cách giống nhau Mỗi dòng tộc nổi bật ở những lĩnh vực khác nhau như lòng yêu nước, võ công hay khoa bảng, tùy thuộc vào yêu cầu lịch sử và tiềm năng của từng dòng họ.

1.3 Khoa bảng là bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử Nho học, từ đó phần lớn được tuyển chọn làm quan chức trong triều đại phong kiến Khoa bảng là niềm tự hào của nhiều dòng họ ở nước ta, trong đó có dòng họ Cao ở Diễn Châu Dòng tộc này có nhiều người học giỏi, đỗ đạt và có nhiều cống hiến cho lịch sử dân tộc

Dòng họ Cao là dòng họ lớn và có nguồn gốc tổ tiên là ở Nho Lâm

Dòng họ Cao ở Diễn Châu, Nghệ An, với tổ phụ Cao Lỗ, là biểu tượng của truyền thống khoa cử và văn hóa lâu đời Nghiên cứu về dòng họ này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của họ Cao mà còn về con người Diễn Châu và xứ Nghệ Việc duy trì và phát huy đoàn kết trong dòng họ đóng góp vào sức mạnh tinh thần và vật chất, từ đó xây dựng quê hương phát triển mạnh mẽ, giữ gìn gia phong và phát huy truyền thống tốt đẹp Khai thác văn hóa dòng họ sẽ làm sáng tỏ giá trị văn hóa gia tộc, góp phần vào di sản văn hóa và bản sắc dân tộc, giúp đất nước hội nhập và phát triển bền vững.

Là sinh viên khoa Lịch sử, việc nắm vững kiến thức về lịch sử dân tộc và thế giới là rất quan trọng, nhưng tìm hiểu lịch sử địa phương cũng không kém phần cần thiết Khi tiếp xúc với các nguồn tư liệu, tôi nhận thấy giá trị khoa học và thực tiễn của vấn đề, từ đó tôi đã quyết định chọn đề tài "Truyền thống khoa bảng của họ Cao ở huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An từ thế kỉ".

XV đến thế kỉ XIX” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu lịch sử và văn hóa của dòng họ Cao tại Diễn Châu đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Dòng họ này được xem là một trong những dòng họ lớn, với nhiều tác giả và tài liệu đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nó Một số công trình tiêu biểu đã được thực hiện để khám phá và ghi chép về di sản văn hóa của dòng họ Cao.

Sách “Khoa bảng Nghệ An (1075 - 1919)”của tác giả Đào Tam Tỉnh -

Sở Văn hóa Thông tin Nghệ An (2000) đã tổng hợp và mô tả chi tiết về chế độ giáo dục khoa cử tại Nghệ An từ năm 1075 đến 1919, bao gồm hệ thống trường lớp, quy định thi cử, và danh sách các tiến sĩ, phó bảng, cử nhân của địa phương Bài viết cũng phân tích tình hình giáo dục khoa cử ở Diễn Châu trong bối cảnh chung của tỉnh Nghệ An, đồng thời liệt kê đầy đủ tên tuổi của các nhà khoa bảng trước triều Nguyễn.

“Những ông nghè, ông cống triều Nguyễn”thì họ Cao có 16 vị, 3 vị đại khoa

Danh mục Cử nhân triều Nguyễn bao gồm 14 vị, trong đó tác giả nhấn mạnh những nhân vật tiêu biểu của Diễn Châu như Nguyễn Xuân Ôn và Cao Xuân Dục.

Sách “ Từ Cổ Loa đến Đền Cuông “Nguyễn Nghĩa Nguyên biên soạn -

Nhà xuất bản Nghệ An (1993) có viết về tướng Cao Lỗ (thời Âu Lạc), ông tổ họ Cao là một vị tổ sư nghề rèn ở Nghệ An

“Từ điển lịch sử”- Nguyễn Quốc Thắng - Nguyễn Bá Thế - Nhà xuất bản văn hóa cũng liệt kê 25 vị người họ Cao trong lịch sử

Trong sách “Tác giả Nghệ Tĩnh”thế kỉ XX của tác giả Đặng Thanh

Quế - Đào Tam Tỉnh - Sở văn hóa thông tin tỉnh Nghệ An (1990) cũng có viết về một số nhân vật người họ Cao

Trong cuốn “Diễn Châu địa chí văn hóa và làng xã”, NXB Nghệ An

1995, có đề cập đến giáo dục khoa cử Nho học ở Diễn Châu thời phong kiến và danh sách những người đậu đạt

Gần đây, một số khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam và luận văn Thạc sĩ sử học tại trường Đại học Vinh đã nghiên cứu về giáo dục khoa cử Nho học ở tỉnh Nghệ An, đặc biệt nhấn mạnh đến những nhân vật nổi bật họ Cao tại Diễn Châu.

Giáo dục khoa cử Nho học Nghệ Tĩnh thời Nguyễn (1802 - 1919) của

Hồ Sỹ Hùy, luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử

Giáo dục khoa cử Nho học ở Nghệ An từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, của Nguyễn Thị Lài, khóa luận tốt nghiệp Đại học

Các công trình đã nêu là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài của chúng tôi Qua quá trình tập hợp và tìm kiếm tài liệu, cùng với việc tiếp xúc thực tế, chúng tôi hy vọng sẽ hiểu rõ và chính xác về truyền thống khoa bảng của dòng họ Cao tại Diễn Châu.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ khóa luận

3.1 Đối tượng Đề tài nghiên cứu khái quát về quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Cao trên đất Diễn Châu, phần trọng tâm của đề tài là nghiên cứu truyền thống khoa bảng của dòng họ Cao, cùng với những nhân vật làm rạng danh dòng họ, quê hương

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về dòng họ Cao tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, dựa trên khả năng và nguồn tư liệu hiện có.

Về thời gian: Đề tài trong nghiên cứu tìm hiểu về truyền thống khoa bảng của dòng họ Cao ở Diễn Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX

Ngoài những nội dung dưới hạn trên, các vấn đề khác có liên quan đến đề tài cũng được đề cập tới trong khóa luận

- Tìm hiểu vùng đất Diễn Châu

- Tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển của dòng họ Cao ở huyện Diễn Châu

- Đi sâu tìm hiểu truyền thống khoa bảng của dòng họ Cao ở huyện Diễn Châu

Khám phá những nhân vật khoa mục tiêu biểu trong dòng họ Cao giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về công lao và đóng góp của các danh nhân này đối với dòng tộc cũng như quê hương, đất nước Những thành tựu và di sản mà họ để lại không chỉ góp phần làm rạng danh gia đình mà còn mang lại giá trị cho xã hội và văn hóa dân tộc.

Nguồn tài liệu

Để thực hiện đề tài này chúng tôi tiến hành tham khảo, nghiên cứu các tài liệu sau:

Diễn Châu nổi bật với các bộ chính sử và gia phả của những dòng họ, đặc biệt là dòng họ Cao Nơi đây còn lưu giữ nhiều sắc phong, văn bia, câu đối và hoành phi tại nhà thờ họ Cao cùng các dòng họ liên quan, tạo nên giá trị văn hóa và lịch sử đặc sắc của vùng đất này.

Gia phả họ Cao Đại Tôn ở Diễn Châu, gia phả chi họ Cao Xuân, sắc phong của các triều vua đối với họ Cao ở Diễn Châu

Chúng tôi đã tham khảo nhiều tài liệu nghiên cứu quan trọng, bao gồm "Lịch sử Việt Nam" của Trương Hữu Quýnh và "Cơ sở văn hóa Việt Nam" do Trần Quốc Vượng chủ biên, để đảm bảo nội dung chính xác và đáng tin cậy.

Từ Cổ Loa đến Đền Cuông của Nguyễn Nghĩa Nguyên, Lịch sử văn hóa làng Nho Lâm (luận văn thạc sĩ Trịnh Quốc Tuấn)……

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các tài liệu công cụ để tra cứu, đối chiếu như Thế thứ các triều vua Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần

Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát thực địa tại nhà thờ họ Cao ở Diễn Thịnh, nhà thờ họ Cao Đại tôn ở Diễn Thọ, cùng với các mộ tổ và Đền Cuông Nghệ An để thu thập tài liệu điền dã.

Gặp gỡ trao đổi, phỏng vấn các vị trưởng lão trong dòng họ Cao ở Diễn Thọ và ở Diễn Thịnh.

Phương pháp nghiên cứu

5.1 Sưu tầm tài liệu Để có được nguồn tư liệu cần thiết thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành sưu tầm, tích lũy sao chép tại thư viện tỉnh Nghệ An, thư viện Đại học Vinh, Bảo tàng Xô Viết, Đền Cuông, nghiên cứu thực địa, chụp ảnh các di tích, sử dụng phương pháp phỏng vấn

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã áp dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic để tái hiện quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Cao theo thời gian Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xem xét diện mạo văn hóa truyền thống của họ, đặc biệt là truyền thống khoa bảng Qua việc so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu, chúng tôi đã phân tích và đưa ra những đánh giá tổng hợp về dòng họ Cao.

Những đóng góp của khóa luận

Khám phá dòng họ Cao và vùng đất Diễn Châu một cách toàn diện, bài viết tập trung vào truyền thống khoa bảng của dòng họ này từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX.

Bài viết này khám phá những nhân vật tiêu biểu của dòng họ Cao, những người đã làm rạng danh dòng họ và có ảnh hưởng lớn đến văn hóa truyền thống của cộng đồng xứ Nghệ Những đóng góp của họ không chỉ góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa địa phương mà còn thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm với quê hương đất nước.

Việc nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của các dòng họ và địa phương là cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của lịch sử dân tộc.

Trong bối cảnh đất nước tiếp tục đổi mới và hội nhập quốc tế, nhu cầu trở về với "cội nguồn" và khôi phục truyền thống dòng họ cùng quê hương ngày càng trở nên mạnh mẽ và chính đáng Khóa luận này nhằm góp phần bảo tồn di sản văn hóa dòng họ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, từ đó xây dựng con người Việt Nam mới, gia đình văn hóa, dòng họ văn hóa và làng văn hóa.

Bố cục khóa luận

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục, nội dung chính của khóa luận chia làm 3 chương:

Chương 1: Sự hình thành và phát triển của dòng họ Cao ở huyện

Chương 2: Thành tựu về khoa cử của dòng họ Cao ở huyện Diễn

Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX

Chương 3: Một số nhân vật tiêu biểu của dòng họ Cao ở huyện Diễn

Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX.

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ CAO Ở HUYỆN DIỄN CHÂU

Khái quát về điều kiên tự nhiên - xã hội huyện Diễn Châu

- Điều kiện địa lý tự nhiên:

Diễn Châu, một vùng đất thuộc tỉnh Nghệ An, đã có lịch sử gắn bó với Việt Nam từ thời các vua Hùng Trong quá khứ, dưới triều đại Ngô và Tấn, khu vực này được biết đến với tên gọi Hàm Hoan Đến đầu đời Đường, nơi đây được gọi là Hoan Châu và chính thức mang tên Diễn Châu từ năm 764 Diễn Châu không chỉ là một vùng đất lịch sử mà còn là nơi có nhiều giá trị văn hóa và truyền thống đặc sắc.

Châu, Yên Thành, và Quỳnh Lưu kéo dài đến Qùy Châu hiện nay Huyện Diễn Châu, trong thời kỳ Trần và Hồ (1226 - 1407), từng được gọi là Phù Dung và sau đó là Thổ Thành Khi nhà Minh xâm lược, vùng đất này được gọi là Đông Ngàn thuộc phủ Linh Nguyện Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi năm 1428, triều Lê sơ thành lập và đổi tên thành Đông Thành, tên gọi này tồn tại cho đến triều Nguyễn Đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837), một phần Đông Thành được tách ra thành huyện Yên Thành thuộc phủ Diễn Châu Trong thời kỳ Pháp thuộc, Diễn Châu là một phủ bao gồm ba huyện Yên Thành, Diễn Châu và Quỳnh Lưu, với địa lý hành chính gần giống như hiện tại, gồm các tổng Hoàng Trường, Lý Trai, Cao Xá, Vạn Phần, và Thái Xá Hiện nay, Diễn Châu vẫn giữ những đặc điểm lịch sử và địa lý quan trọng.

38 xã và một thị trấn

Diễn Châu là một huyện ven biển, nằm ở phía bắc tỉnh Nghệ An, từ

Diễn Châu nằm giữa tọa độ 105°0'33" đến 105°0'40" kinh Đông và 18°0'20" đến 19°0'5" vĩ độ Bắc, phía Bắc giáp huyện Quỳnh Lưu, phía Nam giáp huyện Nghi Lộc, và phía Tây cũng như một phần Tây Nam, Tây Bắc giáp huyện Yên Thành, trong khi phía Đông giáp biển Huyện Diễn Châu cách thành phố Vinh 40 km và nằm trên trục đường thiên lý Bắc Nam (quốc lộ 1A) Địa hình của Diễn Châu được chia thành ba vùng chính.

Vùng sườn đồi bao gồm các xã Diễn Lâm, Diễn Lợi, và một phần Diễn Phú, Diễn Thắng, Diễn Đoài, nổi bật với đất đỏ đá vôi có màu nâu đỏ và vàng Chất đất tại đây có những đặc điểm vật lý và hóa học tốt, rất phù hợp cho việc chuyên canh các loại cây như lúa, ngô, đỗ, lạc, cùng với bông, gai và thuốc lá.

Vùng đất phù sa đồng bằng Diễn Châu, mặc dù không có độ màu mỡ cao, vẫn là khu vực quan trọng cho việc trồng lúa truyền thống, góp phần giải quyết vấn đề lương thực cho huyện Các xã trong vùng này, ngoại trừ các xã ven biển, đã từ lâu hình thành nên nền nông nghiệp bền vững.

Vùng đất cát ven biển tại tổng Cao Xá có đất đai kém màu mỡ, chỉ phù hợp cho việc trồng các loại hoa màu như lạc, đỗ, vừng và một số loại rau.

Nhân dân Diễn Châu, với sự cần cù và chịu khó, đã trải qua nhiều thế kỷ khai thác và cải tạo đất đai, biến nơi đây thành một vùng trù phú Câu ca dao cổ "Đông Thành là mẹ là cha, Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành" phản ánh tình yêu và sự gắn bó của người dân với mảnh đất này.

Diễn Châu có địa hình phẳng, được bao quanh bởi các ngọn núi, trong đó nổi bật là núi Mộ Dạ (Mỗi Dạ) nằm ở Diễn Trung, Diễn An, gần quốc lộ 1A Phía nam của núi là đất Nghi Lộc.

Mộ Dạ là một địa điểm nổi bật với cây cối um tùm và sự xuất hiện của nhiều chim công, tạo nên không gian thơ mộng và đầy cảm xúc Nơi đây còn có đền thờ Thục An Dương Vương, hay còn gọi là đền Cuông, một di tích lịch sử quan trọng Đền Cuông đã thu hút nhiều tao nhân mặc khách, thi sĩ và văn hào đến tham quan, ngâm vịnh và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây.

Ngàn Đại Vạc, nằm ở Diễn Phú, là một phần của hệ thống chân dãy Trường Sơn, đóng vai trò là ranh giới tự nhiên giữa các huyện Bên cạnh núi Mộ Dạ, Ngàn Đại Vạc nổi bật với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và đa dạng sinh học phong phú.

Diễn Châu, nằm một phần trong huyện Nghi Lộc và huyện Yên Thành, nổi bật với ngàn Đại Vạc có nhiều nhánh núi nhỏ Trong đó, các địa điểm như Động Thờ, ngọn Tiền Quân, chóp Thần Vũ, động Dong, động Lim, Lưỡi Cày, và Đá Con không chỉ là những thắng cảnh đẹp mà còn có vị trí quân sự quan trọng Ngoài ra, khu vực này còn có mỏ sắt nổi tiếng tại Động Quánh.

Núi Mụa, hay còn gọi là Mạo Sơn và Rú Mụa, nằm ở phía Tây Nam Diễn Châu, còn được biết đến với tên Bảng Tiên Sơn Tên gọi Bảng Sơn xuất phát từ hình dáng núi khi nhìn từ Diễn Châu, giống như một bảng ghi danh những người đỗ đạt khoa cử Các thầy địa lý cho rằng, sự nổi bật của Bảng Sơn đã góp phần vào việc nhiều người ở Diễn Châu đỗ đạt Ngoài ra, phía Tây Bắc còn có núi Nhuệ, cùng với hai ngọn núi nổi bật giữa đồng bằng là Lưỡng Kiên Sơn và Hồ Lĩnh Sơn, thường được người dân gọi là núi Hai Vai.

Lèn Hai Vai là một địa điểm văn hóa đa dạng, nơi nhiều lớp văn hóa chồng chất lên nhau Tại đây, có nhiều truyền thuyết nổi tiếng như câu chuyện ông Đùng gánh núi, truyền thuyết về tướng cụt đầu, cùng với các hang động như Hang Gươm, Hang Tiên Động và Hang Thần Đồng Ngoài ra, lèn còn chứa đựng di tích của con người thời đại đồ đá mới và nhiều câu chuyện lịch sử liên quan đến những năm Lê Mạc phân tranh và cuộc kháng chiến chống Pháp của nghĩa quân Cần Vương.

Dáng núi Hai Vai ở vùng Diễn Minh, Diễn Bình mang nhiều câu chuyện thú vị; nơi đây người dân làm ăn vất vả Khu vực Lý Trai, Đông Tháp nổi bật với nhiều người đỗ đạt, khiến núi Hai Vai giống như một tấm bảng đá Diễn Thái, Diễn Đồng trồng nhiều thóc, tạo hình dáng núi tựa như ông khổng lồ gánh thóc Ở Nho Lâm, nhiều thợ quánh, thợ rèn khiến núi trông như một cái đe Vùng Diễn Thịnh, Diễn Trung có nhiều thầy thuốc bắc, dáng núi giống con dao cầu Diễn Hoa với những người phụ nữ thanh lịch, dáng núi như cô gái có tóc xõa, được gọi là núi Xõa Cuối cùng, Diễn Cát với nhiều quan trong triều, khiến núi Hai Vai nhìn như một cái hia.

Lèn Hai Vai không chỉ là biểu tượng của Diễn Châu mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, lịch sử và tâm hồn của con người nơi đây Nơi này mang trong mình niềm tin, sức sống, và tình yêu quê hương của người Diễn Châu, đồng thời phản ánh cốt cách văn hóa và đạo lý làm người Lèn Hai Vai còn thể hiện những suy tư về cuộc sống và tương lai của người dân trong vùng, tạo nên một không gian đầy ý nghĩa và gắn bó với truyền thống.

Vai là hình ảnh tượng trưng cho khí phách cứng cỏi và ý chí, đạo đức làm làm người của bà con Diễn Châu

Lịch sử dòng họ Cao trên đất Diễn Châu

1.2.1 Nguồn gốc họ Cao Ông cha từ xa xưa cho tới thế hệ ngày nay rất có ý thức về cuội nguồn chính vì thế mà mở đầu một cuốn gia phả thường có ghi gốc tích dòng họ của mình, vốn từ đâu tới, chính từ những ghi chép này mà người ta dễ tìm hiểu để nối gia phả Nối phả là xem xét gốc tích của cụ tổ, ông tổ của dòng họ mình, tìm về gốc tổ, so sánh gia phả kết hợp với sử liệu để phát hiện ra cụ tổ của mình thuộc nhánh họ, chi họ nào, từ một dòng họ có gốc gác lâu đời hơn Nối phả được là nhờ những ghi chép trong gia phả Nối phả để rồi con cháu “vấn tổ tầm tông” [8, 4] Bởi lẽ trong quá trình phát triển của lịch sử, luôn luôn đầy biến động, thăng trầm, phức tạp Có những dòng họ vì một lý do nào đó mà phải đổi thành họ khác Có những thay đổi lớn lao, như khi nhà Lý mất thì con cháu phải đổi thành họ khác để tránh bị trả thù tàn khốc, hay Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra nhà Mạc tồn tại trong 150 năm Khi nhà Mạc đổ, con cháu phải phải đổi sang họ khác hoặc mai danh, ẩn tích tránh bị diệt vong Trong quá trình phát triển của lịch sử có những người của một dòng họ di cư đến một vùng đất khác xa xôi để sinh cư lập nghiệp con cháu ngày càng phát triển, càng đông lên, hình thành một dòng họ đông đúc Người đầu tiên đi mở đất dựng nghiệp trở thành ông Tổ khai cơ của dòng họ trên vùng đất mới Từ nước Văn Lang thủa Hùng Vương buổi đầu ấy, trong quá trình mở nước ông cha ta đã mở dần về phía nam, đến Nghệ An, rồi Hà Tĩnh, tới Đèo Ngang và phát triển dần về phía nam, đó là quá trình “nam tiến”của người

Gốc tích các dòng họ từ Nghệ An đến cực nam nước ta chủ yếu có nguồn gốc từ Bắc Vậy, họ Cao có nguồn gốc từ đâu?

Theo truyền thuyết, họ Cao có nguồn gốc từ thời Thương - Ân (Trung Quốc) và di cư dần xuống phía nam, điểm đến đầu tiên là Diễn Châu, Nghệ An Mặc dù không còn tài liệu xác thực nào, nhưng ông tổ họ Cao, Cao Lỗ, được cho là xuất thân từ Nho Lâm (Diễn Thọ - Diễn Châu - Nghệ An) Các tài liệu lịch sử và gia phả cho thấy Nho Lâm là quê hương của dòng họ Cao, thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ An.

Trên quốc lộ 1, từ Hà Nội hướng vào, sau khi qua ngã ba Diễn Châu và đi khoảng 3 km về phía Vinh, bạn sẽ gặp ngã ba chợ Si Nam Rẽ phải vào đường liên xã và tiếp tục đi 3 km, bạn sẽ đến làng quê Nho Lâm, Diễn Thọ, nơi lưu giữ nhiều truyền thống văn hóa quý báu.

Lâm là một vùng núi hoang vu, rậm rạp với dân cư thưa thớt Từ thuở khai sinh, làng đã mang tên Tùng Thanh, Tùng Lâm, Hoa Lâm, và đến năm 1841, dưới triều đại vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, tên làng được đổi thành Nho Lâm.

Theo truyền thuyết, Cao Lỗ là chàng trai thông minh và khỏe mạnh, sinh ra tại Nho Lâm Anh đã vượt núi, băng rừng sang Trung Quốc để học nghề rèn sắt trong mười năm Từ những công việc đơn giản đến việc học kỹ thuật rèn, sản phẩm của anh không thua kém gì các thợ rèn nổi tiếng Cao Lỗ trở về quê hương với bộ đồ rèn bằng sắt quý giá và kiến thức kỹ thuật, mang theo ý tưởng “Hộ quốc giáo dân” để phát triển nghề rèn tại Nho Lâm, nơi có mỏ sắt lộ thiên.

Nho Lâm và Cao Lỗ đã cùng nhau xây dựng lò rèn, kêu gọi mọi người vào núi khai thác quặng để nấu chảy thành gang, từ đó họ truyền bá kỹ thuật rèn các dụng cụ như lưỡi cày, lưỡi hái, lưỡi mác, dao và kiếm Nghề rèn sắt phát triển mạnh mẽ tại vùng quê Cao Xá, nơi sinh sống của dòng họ Cao Để tri ân công lao của ông, người dân đã lập đền thờ Tù Và (nay thuộc xã Công Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An), nơi ông được tôn vinh là tổ sư nghề rèn, với bài vị ghi: “Tiên sư hoàng sơ thủy Cao Lỗ, hiệu Lư Sơn thiết khí tôn thần”.

Thế hệ nối tiếp nhau, con cháu họ Cao xem Cao Lỗ là tổ sư nghề rèn của người Việt và là tổ tiên xa xưa của dòng họ mình.

Theo tài liệu từ họ Cao ở Diễn Thọ, Diễn Châu, Cao Lỗ không chỉ là tổ phụ của nghề rèn mà còn là một vị tướng xuất sắc dưới triều vua An Dương Vương Thục Phán Sau khi lên ngôi, Thục Phán đã chọn Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội ngày nay) làm kinh đô và xây dựng thành Cổ Loa, một công trình lịch sử kiên cố và nổi tiếng Quân đội được trang bị vũ khí như dao, kiếm, rìu, giáo và lao, thể hiện sự phát triển vượt bậc của nước Âu Lạc, kế thừa từ Văn Lang thời Hùng Vương Thành Cổ Loa và sự cải tiến về nỏ, tên nỏ là những thành tựu quan trọng trong quốc phòng và nghệ thuật quân sự của dân tộc, cho thấy trí tuệ sáng tạo của tổ tiên trong thời kỳ đầu dựng nước Ngành khảo cổ học hiện nay đã phát hiện kho vũ khí mũi tên đồng tại Cổ Loa, cùng với những dấu tích còn lại, minh chứng cho nền văn hóa phong phú trong thời kỳ đầu của dân tộc Việt Nam.

Tướng quân Cao Lỗ, người có công lớn trong việc giúp An Dương Vương xây thành và chế tạo nỏ liễn, đã được dân gian thần thánh hóa với sức mạnh vượt trội của vũ khí này, được gọi là nỏ thần.

Cao Thông, vốn là một tráng sĩ tài năng, được An Dương Vương cử chỉ huy quân đội Âu Lạc

Sau khi bị quân dân Âu Lạc đánh bại, Triệu Đà - vua Nam Việt, đã cử con trai Trọng Thủy sang Âu Lạc với âm mưu làm gián điệp Cao Lỗ phát hiện âm mưu này và khuyên An Dương Vương không nên chấp nhận, nhưng vua lại lạnh nhạt và đuổi Cao Lỗ ra khỏi thành Cổ Loa Trở về quê Nho Lâm, Cao Lỗ trở thành phó lò đúc đồng, sản xuất dụng cụ bằng đồng sắt, truyền nghề cho dân và lập trang trại, khiến Nho Lâm trở thành vùng đất trù phú, nhân dân ấm no hơn trước.

An Dương Vương đã thất bại ở Cổ Loa do bị giặc lừa gạt, trong khi đó, Cao Lỗ cùng em trai Cao Tú đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để ứng cứu Hai anh em Cao Lỗ và Cao Tú quyết tâm bảo vệ đất nước trước nguy cơ xâm lược.

Tướng Cao Lỗ, một nhân vật lịch sử vĩ đại, được thờ tại Đền Đại Thanh ở Gia Lương, Hà Bắc và Đền Nhân Nghĩa ở Hà Nội, là người đã cống hiến hết mình vì dân tộc Ông không chỉ là vị tổ sư của nghề cung nỏ và các công cụ bằng đồng, mà còn là tổ sư nghề rèn sắt tại Nho Lâm, Nghệ An Theo ghi chép tại nhà thờ Đại tôn Nho Lâm, dấu ấn của ông vẫn còn tồn tại sau hơn hai nghìn năm Tại đền thờ Cao Lỗ ở làng Thiên Bản, xã Trung Thành, huyện Vũ Bản, tỉnh Hà Nam, có câu đối thể hiện lòng tôn kính đối với ông.

Cao sơn xuất thế tự Nho Lâm, hộ quốc giáo dân thiên tại cổ

Lò hỏa công ân cư thiên bản, văn chương ngọc phổ, vạn niên tồn

Cao sơn (tức là Cao Lỗ) ra đời ở đất Nho Lâm, giúp nước dạy nghìn xưa vẫn còn đó

Lửa lò công ơn để lại vùng Thiên Bản, văn chương phổ kí muôn năm không mất

Nhiều địa phương miền Bắc có đền thờ ông, trong đó đền Cuông (Nghệ An) thờ vua An Dương Vương và Cao Lỗ tướng quân Con cháu họ Cao coi Cao Lỗ là tổ tiên vĩ đại, là vị tổ phụ đầu tiên của dòng họ, hiện đang sinh sống khắp nơi ở Việt Nam.

Vùng đất Nho Lâm (Diễn Thọ - Diễn Châu - Nghệ An) là nơi phát triển mạnh mẽ của con cháu họ Cao, tạo nên một dòng họ lớn không chỉ ở Nghệ An mà còn trên toàn quốc.

THÀNH TỰU VỀ KHOA CỬ CỦA HỌ CAO Ở HUYỆN DIỄN CHÂU TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX

Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở Diễn Châu từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX

Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc (-207 - 939), nhân dân ta đã dành được quyền tự chủ Nhưng trải qua hơn 1000 năm các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê,

Trong lịch sử Việt Nam, từ triều đại Lý, Trần, Hậu Lê đến Nguyễn, chữ Hán được coi là chữ viết chính thức của nhà nước, sử dụng trong giáo dục, thi cử và các văn bản hành chính Mặc dù đã có chữ Nôm, nhưng để đọc được chữ Nôm, người học vẫn cần phải thông thạo chữ Hán, cho thấy nền giáo dục của Việt Nam chủ yếu dựa vào Hán học Mặc dù mượn chữ từ Trung Quốc, người Việt đã phát triển chữ viết của riêng mình Các triều đại đều đưa ra quy định về giáo dục và khuyến khích việc học tập trong nước, với hệ thống thi cử Nho học tại Diễn Châu từ thế kỷ XV đến XIX là một phần của tiến trình lịch sử dân tộc.

Tại kinh đô, Quốc Tử Giám là trường học dành cho con cái các quan lại, trong khi ở các tỉnh có quan Đốc học, ở phủ có quan Giáo thụ, và ở huyện có quan Huấn đạo phụ trách việc giáo dục Huyện Đông Thành sau khi được chia thành hai đơn vị là Phủ Diễn Châu và huyện Yên Thành, quan Giáo thụ phủ Diễn Châu còn kiêm nhiệm việc quản lý giáo dục tại huyện Yên Thành.

Trường Quốc Tử Giám và các trường công như quan đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo ở Diễn Châu rất ít, vì vậy người dân đã tự lập trường Hán học cho con em mình Mỗi thôn xóm đều có trường tư thục, nơi học trò tri ân thầy cô bằng lúa gạo, tiền bạc, vải lụa vào các dịp lễ tết như mùng 5 tháng 5 và Tết Nguyên Đán Nhà nước chỉ kiểm soát qua các kỳ thi hạch để chọn học sinh thi Hương, những người trúng tuyển được gọi là thí sinh hoặc khóa sinh, trong khi người đỗ đầu được gọi là đầu xứ.

Các trường Hán học được chia thành hai loại: trường làng và trường tập Trường làng, do các thầy đồ và thí sinh chưa đỗ dạy, bao gồm hai lớp: lớp khai tâm cho học trò nhỏ mới vào trường và lớp đàn anh cho học sinh đã học các sách như Luận Ngữ, Mạnh Tử Tại trường tập, học trò cần hiểu ngữ nghĩa chữ và câu, cũng như kiến thức về đạo Nho Lớp đàn anh còn dạy cách viết giấy tờ như khế ước và văn cúng, giúp học sinh có đủ kiến thức để trở thành một người chủ gia đình hoặc công dân bình thường, ngay cả khi không tiếp tục học lên.

Phương pháp học duy nhất là học thuộc từng chữ, từng câu từng đoạn kèm theo nghĩa của chữ, câu và đoạn

Sự học chữ Nho trong quá khứ không chỉ đơn thuần là để hiểu văn tự, mà còn nhằm nắm vững cương thường đạo lý Nguyên tắc "Tiên học lễ, hậu học văn" nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ phép trước khi tiếp thu kiến thức văn chương Mỗi chữ, mỗi câu được dạy đều mang theo bài học về đạo nghĩa và cương thường, không phụ thuộc vào tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh.

Trường đào tạo không chỉ chuẩn bị cho học trò tham gia thi cử mà còn hình thành những nhà Nho - những người thấu hiểu đạo lý của thánh hiền, có khả năng dạy bảo và cư xử đúng mực Họ không chỉ mang trong mình tài đức mà còn sẵn sàng cống hiến cho dân cho nước, trở thành hình mẫu lý tưởng để người đời noi theo.

Chọn nhân tài trong xã hội xưa được thực hiện qua các kỳ thi, đặc biệt là Thi Hương, diễn ra trên bãi rộng với thí sinh dựng lều chõng để làm bài Các quan chức như chánh chủ khảo và phó chủ khảo giám sát từ chòi cao, trong khi quân lính bảo vệ trật tự xung quanh Mỗi thí sinh có một ngày để hoàn thành bài thi và sinh hoạt tại chỗ Tại trường thi Hội, cống sĩ làm bài trong gian nhà riêng, không được giao tiếp với ai, với các loại bài thi như Kinh nghĩa, văn sách, thơ phú, chiếu, chế, biểu Để chuẩn bị cho kỳ thi, các sĩ hội tổ chức thi thử tại thôn xã, mời thầy có tiếng chấm bài để rèn luyện cho học trò Ngày nay, nhiều địa điểm như Cồn Tràng ở Diễn Châu vẫn tồn tại như những nơi thi thử ngày xưa, tương tự như phường Trường Thi ở Vinh.

Một thầy Hán học không chỉ là một nhà Nho mà còn phải có đạo đức sáng ngời và kiến thức uyên bác về kinh điển Tên trường học thường gắn liền với tên của thầy dạy, như trường thầy Tú hay trường cụ Nghè Mỗi thầy có những thế mạnh riêng, cho phép học trò có thể học cùng lúc với nhiều thầy khác nhau Trong thời Lê, thầy Ngô Trí Trạch ở Đông Trai nổi tiếng đến mức được vua phong tước Bá và được xem ngang hàng với các đại thần Thời Nguyễn, Diễn Châu cũng có nhiều thầy Hán học nổi bật như Cao Trọng Sính, Đặng Văn Thụy, và Cao Xuân Tiếu.

Các thầy Hán học, những nhà Nho, thường được xã hội tôn kính, với quan niệm rằng lòng tôn kính thầy học phải đặt lên trên cả lòng tôn kính cha mẹ Cha mẹ sinh ra con, nhưng công lao của thầy học mới giúp con nên người Khi học trò thành đạt trở về quê hương, họ luôn thể hiện sự kính trọng đối với thầy cũ bằng cách xuống cáng hay xuống ngựa để lạy thầy, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc.

Học trò sau khi ra trường, dù làm quan hay làm nông, đều thành lập hội đồng môn để chăm lo cho thầy cũ, hỗ trợ thầy trong những lúc khó khăn, tổ chức tang lễ và cúng giỗ cho thầy khi ông qua đời, thậm chí có khi còn dựng từ đường để thờ cúng thầy Người dân Diễn Châu luôn nhắc nhở nhau về truyền thống này.

“Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” Nhà vua khuyến khích việc học thông qua lễ xướng danh, ban yến và khắc bia tiến sĩ Trong cộng đồng, học trò được coi là thí sinh, và những ai thi đỗ sẽ nhận được ruộng học điền để hỗ trợ việc học Khi có người thi đỗ, làng xóm thường tổ chức lễ đón rước Tại Diễn Châu, Đò Cấm và Quán Nẻ là những địa điểm phổ biến để đón tân khoa Những người đỗ Hương cống hay Cử nhân sẽ được rước về phủ đường, trong khi đỗ đại khoa sẽ được rước về tỉnh đường, thể hiện sự tôn vinh và trọng vọng của cộng đồng đối với thành tích học tập.

Thi đỗ là niềm vinh dự lớn lao cho cả dòng họ và cộng đồng, khiến các làng, xã, tổng, huyện đều khao khát có người thành công Gia đình họ Phan ở Thư Phủ đã nỗ lực xây dựng Cồn Bút và đề xuất đổi tên làng từ Cự Trận thành Bút Trận để phát triển văn hóa Hạnh Kiều và nhiều làng khác tại huyện Diễn Châu cũng có Cồn Bút Tổng Thái Xá ở phủ Diễn Châu tổ chức lễ cầu khoa ba năm một lần tại đền Ca Vũ ở thôn Phú Lâm (Diễn Minh) để cầu cho con em thi đỗ.

Người thi đỗ tại Diễn Châu, đặc biệt là ở thôn Xuân Dương và thôn Trung Hậu, luôn được tôn vinh và quý trọng Ông Đoàn Trọng Đạt là người đầu tiên đỗ sinh đồ trong suốt thời kỳ nhà Lê, và sau khi qua đời, ông được dân làng tôn thờ như một phúc thần Tương tự, ông Thái Doãn Nguyên, người đỗ đại khoa và là tổ triệu cơ lập ấp, cũng được vinh danh là Thành Hoàng với sắc phong “Thượng thượng đẳng tôn thần” từ nhà vua Để đạt thành tích cao trong khoa cử, sự động viên và chăm lo từ cộng đồng là rất quan trọng Tại Diễn Châu, sự cổ vũ này đã trở thành một tập tục và cơ chế cụ thể, với nhiều xã có đất dành cho “học điền”, “biếu điền”, cùng các quy định về lao dịch và đón rước người đỗ đạt.

Những người đang theo học được miễn các nghĩa vụ như tạp dịch, theo quy định ở nhiều làng như Lý Trai và Đông Tháp Cụ thể, học sinh chăm chỉ sẽ được miễn sưu sai tạp dịch, và những ai đến trường Khổng Tử sẽ không phải tham gia thôn dịch và tuần phòng Hơn nữa, học sinh không bị gọi bằng những tên gọi tiêu cực như "anh đỏ" hay "anh đen", mà được tôn trọng hơn với danh xưng "anh nho" hay "anh khóa" Khi đến tuổi lao động, họ cũng được ưu tiên ngồi ở vị trí cao hơn trong các buổi họp làng Các làng cũng hỗ trợ tài chính cho thí sinh tham gia kỳ thi, như lệ làng Lý Trai hỗ trợ 2 quan cho thi Hương và 5 quan cho thi Hội.

Người đỗ đạt trong làng được tôn trọng và chào đón nồng nhiệt, với những nghi lễ mừng và hỗ trợ trong bữa ăn khao Chẳng hạn, khi một người đỗ tú tài, làng sẽ mừng 1 quan tiền; nếu đỗ cử nhân, làng sẽ mừng 5 quan tiền, và nếu là thủ khoa, sẽ thêm 3 quan cùng với câu đối đỏ và trầu rượu.

Kết quả về giáo dục khoa cử của dòng họ Cao ở Diễn Châu từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX

Dòng họ Cao là một trong những dòng họ nổi bật với nhiều người đỗ đạt và có tiếng tăm trong lĩnh vực học vấn, góp phần làm rạng rỡ lịch sử khoa cử Nghệ An và Việt Nam dưới chế độ quân chủ Những thành tựu khoa bảng của dòng họ không chỉ thể hiện giá trị lịch sử mà còn làm phong phú thêm văn hóa truyền thống của xứ Nghệ, góp phần vào nguồn lực dồi dào cho quốc gia Bên cạnh tinh thần yêu nước trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, người họ Cao còn nổi bật với truyền thống hiếu học và khổ học, miệt mài nghiên cứu để thành tài Nhiều thế hệ trong dòng họ Cao đã làm rạng rỡ quê hương mình qua con đường học vấn khoa cử.

Chế độ khoa cử Hán học tại Việt Nam được khởi đầu dưới triều vua Lý Nhân Tông vào năm 1075 và kéo dài cho đến khi kết thúc vào năm 1919 dưới triều Khải Định.

Trong suốt 844 năm lịch sử khoa cử, dòng họ Cao đã có 454 năm truyền thống với người khai khoa đầu tiên là ông Cao Quýnh, người thi Hương và đỗ nhất cử giải nguyên vào năm 1465 Gia phả của dòng họ ghi chép lại những thành tựu nổi bật của các thành viên trong dòng họ này cho đến khoa thi cuối cùng năm 1919.

Trong hơn 400 năm qua, họ Cao đã có 7 người đậu đại khoa, chiếm 19,4% tổng số 36 người đậu đại khoa của huyện Diễn Châu Những cá nhân xuất sắc này được ghi danh trên bảng vàng đại khoa.

1- Cao Quýnh Ông sinh năm 1439, người xã Cao Xá nay là xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, đậu đệ nhất giáp đệ tam danh Tiến sĩ (Thám hoa), khoa Ất Mùi - Hồng Đức 6 (1475) đời Lê Thánh Tông lúc vừa tròn 36 tuổi

2- Cao Như Nhật Ông sinh năm Đinh Mão (1627) đời Lê Thần Tông Vĩnh - Tộ năm thứ chín Đến khoa Hương Giáp Ngọ (1654) đời Lê Thần Tông Thịnh - Đức thứ hai, đỗ Tứ trường (Hương cống) Khoa Hội Giáp Thìn (1664) đời Huyền Tông Cảnh Tự thứ hai, đỗ xuân thí tam trường (Phó bảng) hiệu Cao - Lão - Tiên sinh

3- Cao Bá Tuyên Ông sinh năm Ất Hợi (1695) đời Lê Chính Hòa đời thứ mười sáu, khoa hương Đinh Dậu (1717) đỗ sinh đồ đồng khoa, đến khoa Quý Mão (1723) đỗ

Tứ trường (Hương cống), Khoa Hội Đinh Mùi (1727) đỗ xuân thí tam trường (Phó bảng) hiệu là Lý tẩu Tiên sinh

4- Cao Đăng Ngoạn Ông quê ở làng Nho Lâm (Diễn Thọ, Diễn Châu), đậu Tiến sĩ khoa Quý Mão (1843) đời vua Thiệu Trị

5- Cao Hữu Chí Ông là người làng Cao Xá (Diễn Thành, Diễn Châu), đậu Tiến sĩ khoa Mậu Thân năm Tự Đức thứ nhất (1848) Được bổ làm giáo thụ Diễn Châu

6- Cao Văn Xiển Ông là người làng Thổ Hậu (Diễn Hạnh, Diễn Châu), đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Tý đời vua Tự Đức năm thứ 5 (1852) làm quan đến chức tri châu

7- Cao Xuân Tiếu Ông sinh năm 1866, người làng Thịnh Mỹ (Diễn Thịnh, Diễn Châu) Ông đậu Cử nhân năm ông 26 tuổi (1891), năm 30 tuổi đậu Phó bảng, khoa Ất Mùi - Thành Thái 7 (1895) Trước khi thi Hội, làm giáo thụ Diễn Châu, hàm trước tác Sau thăng lên đến Thượng thư, sung Biên tu sử quán Ông có hiệu là Bạch Sa, tổ chức biên tập, khắc in bộ sách “Quốc triều Hương khoa lục”

Trong thời gian này, thống kê cho thấy dòng họ Cao ở Diễn Châu có 17 người đạt Hương Cống (Cử Nhân), 115 người đạt Sinh đồ và các học vị tương đương Đặc biệt, dưới triều Nguyễn, có 21 vị thuộc họ Cao đã đậu.

Trong tổng số 80 người đậu Tú tài của huyện, dòng họ Cao chiếm 26,2%, cho thấy sự nổi bật trong thành tích học tập Tại huyện Diễn Châu, dòng họ Ngô có 6 vị đại khoa, 28 vị trung khoa và 66 vị tiểu khoa, khẳng định vị thế khoa bảng Dòng họ Hoàng cũng có nhiều người đỗ đạt với tổng số 76 người, trong khi dòng họ Nguyễn có 62 người và họ Đặng có 24 người.

Dòng họ Cao nổi bật với số lượng vị khoa bảng vượt trội so với các dòng họ khác, cho thấy sự xuất sắc và thành công trong lĩnh vực học vấn của họ.

- 139 là con số ấn tượng, trở thành niềm tự hào và chứng tỏ truyền thống khoa bảng của dòng họ này Điều này được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 1: Danh sách Hương cống, Cử nhân

TT Họ và tên Khoa thi, năm Đời vua

1 Cao Duy Trinh 1654 Lê Thần Tông

2 Cao Khắc Khoan 1654 Lê Thần Tông

3 Cao Bá Khối Canh Tý 1720 Lê Hi Tông

4 Cao Bá Trù Kỷ Dậu 1729 Lê Vĩnh Khánh

5 Cao Trọng Đương Ất Mão 1735 Lê Ý Tông

6 Cao Hoàng Quán Đinh Mão 1747 Lê Hiển Tông

7 Cao Trọng Thứ Kỷ Mão 1754 Lê Hiển Tông

8 Cao Trọng Sính Đinh Mùi 1847 Tự Đức

9 Cao Xuân Dục Bính Tý 1876 Tự Đức

10 Cao Điển Mậu Tý 1888 Đồng Khánh

11 Cao Văn hnPhong Giáp Ngọ 1894 Thiệu Trị

12 Cao Cự Trân Giáp Ngọ 1894 Thiệu Trị

13 Cao Hữu Hưng Kỷ Dậu 1909 Duy Tân

14 Cao Xuân Sang Kỷ Dậu 1909 Duy Tân

15 Cao Xuân Tảo Nhâm Tý 1912 Duy Tân

16 Cao Thúc Tuấn Ất Mão 1915 Duy Tân

17 Cao xuân Thụ Mậu Ngọ 1918 Khải Định

Bảng 2: Danh sách Sinh đồ, Hiệu sinh, Tú tài

TT Họ và tên Khoa thi, năm Đời vua

1 Cao Giản Liêm Lê Chiêu Tông

2 Cao Ngột Lê Trang Tông

3 Cao Thế Lộc Lê Kính Tông

4 Cao Đức Liêu Lê Thần Tông

5 Cao Nho Lê Thần Tông

6 Cao Khắc Sửu Lê Thần Tông

7 Cao Đình Châu Lê Thần Tông

8 Cao Đức Thuần Lê Huyền Tông

9 Cao Như Long Lê Huyền Tông

10 Cao Cương Lê Huyền Tông

11 Cao Như Hoàn Tân dậu 1681 Lê Hy Tông

12 Cao Như Quế Tân Dậu 1681 Lê Hy Tông

13 Cao Khắc Đôn Lê Hy Tông

14 Cao Đức Tế Lê Hy Tông

15 Cao Khắc Tuấn Lê Hy Tông

16 Cao Khắc Đạt Lê Hy Tông

17 Cao Văn Giáo Lê Hy Tông

18 Cao Quốc Trinh Lê Hy Tông

19 Cao Đệ Lê Hy Tông

20 Cao Danh Dự Lê Hy Tông

21 Cao Đăng Tương Lê Hy Tông

22 Cao Tuấn Nhã Mậu Tí 1708 Lê Dụ Tông

23 Cao Sĩ Tuấn Lê Dụ Tông

24 Cao Đăng Khoa Bính Ngọ 1726 Lê Dụ Tông

TT Họ và tên Khoa thi, năm Đời vua

25 Cao Đăng Viên Lê Dụ Tông

26 Cao Đăng Tuế Lê Dụ Tông

27 Cao Cự Phái Lê Duy Phương

28 Cao Cự Hán Lê Duy Phương

29 Cao Nguyễn Viện Lê Duy Phương

30 Cao Sĩ Nghiệm Lê Ý Tông

31 Cao Khắc Thái Lê Ý Tông

32 Cao Khắc Liệu Lê Ý Tông

33 Cao Trọng Phan Lê Ý Tông

34 Cao Phúc Nhương Lê Ý Tông

35 Cao Hoàng Bá Lê Ý Tông

36 Cao Cự Hòa Lê Ý Tông

37 Cao Nguyễn Dao Đinh Mão 1747 Lê Hiển Tông

38 Cao Đăng Chính Đinh Mão 1747 Lê Hiển Tông

39 Cao Đăng Đệ Bính Tí 1756 Lê Hiển Tông

40 Cao Dũng Tân Bính Tí 1756 Lê Hiển Tông

41 Cao Sĩ Cầu Nhâm Ngọ 1762 Lê Hiển Tông

42 Cao Đăng Tiên Ất Dậu 1765 Lê Hiển Tông

43 Cao Bá Tuân Ất Dậu 1765 Lê Hiển Tông

44 Cao Trọng Huỳnh Ất Dậu 1765 Lê Hiển Tông

45 Cao Bá Toản Ất Dậu 1765 Lê Hiển Tông

46 Cao Trọng Phú Tân Mão 1771 Lê Hiển Tông

47 Cao Kim Lan Giáp Ngọ 1771 Lê Hiển Tông

48 Cao Nhã Kính Ất Hợi 1779 Lê Hiển Tông

49 Cao Dũng Chân Canh Tí 1780 Lê Hiển Tông

TT Họ và tên Khoa thi, năm Đời vua

50 Cao Cự Tuấn Lê Hiển Tông

51 Cao Danh Kiêm Lê Hiển Tông

52 Cao Đăng Dung Lê Hiển Tông

53 Cao Khắc Cư Lê Hiển Tông

54 Cao Khắc Thiệu Lê Hiển Tông

55 Cao Đăng Diên Lê Hiển Tông

56 Cao Đăng Tể Lê Hiển Tông

57 Cao Võ Huy Lê Hiển Tông

58 Cao Khắc Quýnh Lê Hiển Tông

59 Cao Đăng Quang Lê Hiển Tông

60 Cao Thời Mận Lê Hiển Tông

61 Cao Phan Lân Lê Hiển Tông

62 Cao Nguyễn Đôn Lê Hiển Tông

63 Cao Trọng Huấn Lê Hiển Tông

64 Cao Bá Huy Lê Hiển Tông

65 Cao Bá Cựu Lê Hiển Tông

66 Cao Nguyễn Chương Lê Hiển Tông

67 Cao Trần Khanh Lê Hiển Tông

68 Cao Cự Du Lê Hiển Tông

69 Cao Cự Thục Lê Hiển Tông

70 Cao Khắc Huân Lê Hiển Tông

71 Cao Lịch Bình Lê Hiển Tông

72 Cao Đăng Viện Lê Hiển Tông

73 Cao Danh Trọng Lê Hiển Tông

74 Cao Danh Ức Lê Hiển Tông

TT Họ và tên Khoa thi, năm Đời vua

75 Cao Danh Thùy Lê Hiển Tông

76 Cao Danh Chấn Lê Hiển Tông

77 Cao Phúc Trạch Lê Hiển Tông

78 Cao Cự Tích Lê Hiển Tông

79 Cao Cự Uyên Lê Hiển Tông

80 Cao Cự Lạng Lê Hiển Tông

81 Cao Đăng Sĩ Lê Hiển Tông

82 Cao Lịch Trứ Lê Hiển Tông

83 Cao Trọng Túc Lê Hiển Tông

84 Cao Đăng Văn Lê Hiển Tông

85 Cao Đình Chính Lê Hiển Tông

86 Cao Thời Cử Lê Hiển Tông

87 Cao Danh Thực Lê Hiển Tông

88 Cao Trọng Kính 1807 Gia Long

89 Cao Hữu Phu 1807 Gia Long

90 Cao Cự Hiệu 1825 Minh Mạng

91 Cao Cự Trọng 1825 Minh Mạng

93 Cao Thức Như 1848,1888 Tự Đức

94 Cao Cự Quang 1868, 1870 Tự Đức

95 Cao Cự San 1868, 1878 Tự Đức

96 Cao Đăng Tuân 1873 Tự Đức

97 Cao Cự Tích 1891 Thành Thái

98 Cao Cự Giáp 1906 Thành Thái

99 Cao Cự Ái 1915 Duy Tân

Bảng 3: Danh sách Sinh đồ không rõ niên kỉ, khoa thứ

Dòng họ Cao được coi là cái nôi khoa bảng của huyện Diễn Châu và vùng Nghệ An, với nhiều gia đình có truyền thống học hành nổi bật Nhiều thế hệ trong dòng họ này đã cùng đỗ đạt trong các kỳ thi, như ông Cao Kim Lan đậu Sinh đồ năm Giáp Ngọ (1771), con trai ông là Cao Đăng Khiêm đậu Sinh đồ năm Ất Hợi (1779), và cháu là Cao Đăng Ngoạn đậu Cử nhân khoa Quý Mão (1843) Truyền thống học hành của dòng họ Cao còn tiếp tục với chắt là Cao Đăng Tuân, người đã đậu Tú tài năm 1873 dưới triều vua Tự Đức.

Dòng họ Cao ở xứ Nghệ nổi bật với nhiều thế hệ đỗ đạt, từ Thúc Tuấn đạt Cử nhân khoa Ất Mão (1915) dưới triều vua Duy Tân, đến ông Cao Như Nhật đỗ Phó Bảng khoa Hội Giáp Thìn (1644) Hai con của ông, Cao Như Quế và Cao Như Hoàn, cũng thành công khi cùng đỗ Sinh đồ vào năm Tân Dậu (1681) Sự thành công này không chỉ dừng lại ở một vài cá nhân mà còn lan tỏa trong nhiều gia đình họ Cao khác, thể hiện niềm tự hào của dòng họ qua câu thơ nổi tiếng của người dân xứ Nghệ.

“Sáng khoai, trưa khoai,tối khoai, khoai ba bữa, Ông đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”

Chi họ Cao tiêu biểu cho truyền thống khoa bảng

Chi họ Cao Xuân, cùng với họ Đặng Xuân, là hai vọng tộc lớn tại Diễn Thịnh, Diễn Châu, nổi tiếng không chỉ trong tỉnh Nghệ An mà còn trên toàn quốc Họ Cao Xuân được biết đến với nhiều người đỗ đạt làm quan, do đó được gọi là “vọng tộc” Theo lịch sử, chi họ này bắt nguồn từ thủy tổ Cao Thiện Trí (ông Non) vào thế kỷ XIV, nhưng đã bị gián đoạn do chiến tranh, dẫn đến sự thất truyền của gia phả Từ thế hệ thứ 4 của Cao Văn Uyên (1480), chi họ Cao Văn tại Diễn Thịnh đã mang chữ lót Cao Văn kéo dài đến 17 đời, cho đến khi đời Cao Xuân Dục đổi thành Cao Xuân cho đến ngày nay.

Cao Xuân Dục (1843 - 1923), tự Tử Phát, hiệu cổ Hoan đông Cao, còn có hiệu là Long Cương, An Xuân Tử, là một nhân vật lịch sử quan trọng Ông đã đậu cử nhân vào khoa Bính Tý - Tự Đức 29 (1876) và là người khởi đầu của vọng tộc Cao Xuân, với nhiều con cháu nối nghiệp thành đạt.

Cao Xuân Tiếu (1866 - ?) là con trai trưởng của Cao Xuân Dục, thuộc đời thứ 19 họ Cao Ông đã thi đậu á hương Cử nhân vào khoa Tân Mão năm 1891 và đạt Phó bảng vào năm Thành Thái thứ 7 (1905).

Các em trai của Cao Xuân Tiếu là Cao Xuân Khôi đỗ Tú tài năm

Năm 1905, Cao Xuân Thọ đỗ Cử nhân và sau đó trở thành tri phủ Anh trai của ông, Cao Xuân Thụ, đỗ Cử nhân năm 1918, trong khi Cao Xuân Tiếu, em trai của họ, cũng đã thi đỗ Cử nhân năm 1909 Cháu của Cao Xuân Thụ, Cao Xuân Thơ, đỗ Cử nhân năm 1912 Cùng năm đó, cháu đích tôn của Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tảo, cũng thi đỗ Cử nhân và giữ chức tả lý bộ lễ triều Nguyễn dưới thời vua Duy Tân (1907 - 1916), đồng thời ông còn bí mật ủng hộ phong trào Đông.

Du Như vậy chỉ trong vòng trên dưới 40 năm cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ

Gia đình họ Cao nổi bật với truyền thống hiếu học, khi có tới 20 người trong gia đình đều có tên trên bảng vàng khoa cử quốc gia, thể hiện câu nói “cha đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà” Nhiều thành viên họ Cao không chỉ đạt thành tích cao trong học tập mà còn đóng góp cho xã hội qua việc làm quan, viết sách và dạy học Dù một số con cháu không thi đỗ, họ vẫn được tôn trọng và ngưỡng mộ vì tài năng của mình Đặc biệt, phụ nữ trong gia đình cũng không kém cạnh, như bà Cao Thị Ngọc Anh, con gái của Cao Xuân Dục, đã xuất sắc trong Hán học và trở thành một nhà thơ nổi tiếng, được so sánh với bà Huyện Thanh Quan.

Họ Cao không chỉ nổi bật trong lĩnh vực Hán học mà còn chuyển mình sang tân học và Âu học Một trong những nhân vật tiêu biểu là Cao Xuân Thiệu, con trưởng của Tả lý bộ Lễ Cao Xuân Tảo, người đã đỗ cử nhân luật học và làm quan đến tri phủ Con cháu họ Cao tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của tổ tiên.

Vọng tộc Cao Xuân đã đóng góp quan trọng vào việc khẳng định dòng họ Cao là một trong những dòng họ khoa bảng nổi tiếng, đồng thời góp phần làm cho Diễn Châu trở thành quê hương của nền văn hóa văn vật phong phú.

Chi họ Cao Trọng có tổ tiên là ông Quân lão Cao Trọng Tộ, nổi bật với truyền thống hiếu học và nhiều người đỗ đạt Ông Cao Như Nhật đã đạt Tứ trường trong kỳ thi Giáp Ngọ (1564) và phó bảng trong kỳ thi Hội Giáp Thìn (1664), đồng thời giữ chức tri huyện Thọ Xuân Cháu nội ông, Cao Bá Tuyên (1695 - 1730), đã đỗ Hương Đinh Dậu (1717) và cùng em là Bá Khối đỗ Sinh đồ đồng khoa, sau đó đạt Tứ trường trong kỳ thi Quý Mão (1723) Cao Bá Tuyên cũng là người đầu tiên viết Gia phổ của họ Cao, trong khi con trai ông, Cao Nguyễn Cù, cũng đỗ Sinh đồ Cháu nội thứ hai của Cao Như Nhật, Cao Bá Khối, đã cùng anh đỗ Sinh đồ trong kỳ thi Đinh Dậu và đạt thành tích trong kỳ thi Canh Tý (1720).

Tứ trường (Hương cống) được bổ thụ làm Nội điện văn chức

Cao Khắc Khoan là một người có học thức, từng đỗ Hương cống và là sinh viên Quốc tử giám Con trai ông, Cao Khắc Tuấn, đạt danh hiệu Hiệu sinh với hiệu Thích Bình Tiên Sinh, trong khi con trai khác của ông, Cao Khắc Đạt, cũng đỗ Hiệu sinh và mang hiệu Hạm Đạo Tiên sinh.

Cao Tuấn Nhã (1678 - 1763), thụy Trung - Huệ, đỗ Hiệu sinh vào khoa Mậu Tý (1708) và đạt Tam trường Con trai ông, Cao Trọng Đương, đỗ Tam trường năm 19 tuổi trong khoa Kỷ Dậu (1729) và sau đó đạt Tứ trường năm 25 tuổi trong khoa Ất Mão (1735), được biết đến với tên gọi Thầy Cống Ba, từng giữ chức Thái bộc Tự Thừa Cao Trọng Đương có ba con trai, tất cả đều đỗ Hiệu sinh Con trai thứ hai của Cao Tuấn Nhã, Cao Hoàng Quán (1721 - 1783), đạt Tứ trường trong khoa Hương Đinh Mão (1747) khi 26 tuổi và được bổ nhiệm làm tri huyện Trung Sơn, hàm Cẩn sự.

Tá lang Cao Hoàng Quán có ba người con trai là Cao Bá Tuân, Cao Trọng Huỳnh và Cao Trọng Kính đều đỗ Hiệu sinh

Con cháu chi Cao Trọng tiếp tục nỗ lực học tập, kế thừa truyền thống khoa bảng của tổ tiên, góp phần làm rạng danh dòng họ Cao ở Diễn Châu.

Tiểu kết: Nền giáo dục Việt Nam dưới thời quân chủ là giáo dục theo

Nho giáo đã hình thành truyền thống tôn sư trọng đạo và hiếu học tại Diễn Châu, đặc biệt là trong dòng họ Cao, từ xưa đến nay Dù con cháu họ Cao có di cư đến đâu, họ vẫn giữ gìn và phát huy truyền thống học tập của quê hương Nghệ An Ý thức hiếu học và môi trường giáo dục này đã giúp nhiều sĩ tử họ Cao đạt được thành tích cao trong học hành, thi cử, góp phần làm rạng danh dòng họ và quê hương Điều này không chỉ tạo dựng vị thế cho cá nhân và gia đình mà còn nâng tầm dòng họ, biến họ thành những “thế gia vọng tộc” trong cộng đồng.

Chương 3 MỘT SỐ NHÂN VẬT TIÊU BIỂU CỦA DÒNG HỌ CAO Ở DIỄN CHÂU TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX

Lịch sử phát triển của dòng họ Cao từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XIX gắn liền với các triều đại phong kiến Việt Nam, từ nhà Lê đến nhà Nguyễn Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, dòng họ Cao đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đặc biệt là từ các nhà khoa bảng Dưới đây, chúng ta sẽ cùng khám phá một số nhân vật khoa bảng tiêu biểu qua các thời kỳ.

Thám hoa Cao Quýnh (1439 - ?)

Ông là danh thần đời Lê Thánh Tông, người thôn Phú Trương - xã Cao

Cao Quýnh, tên thật là Lỗ, sinh ra tại xã Diễn Thành, huyện Đông Thành (nay thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ An), nổi tiếng với trí thông minh và thành tích học tập xuất sắc Ông đỗ Giải nguyên trong kỳ thi Hương, Hội nguyên trong kỳ thi Hội và Thám hoa trong kỳ thi Đình năm 1475, triều đại Lê Thánh Tông Kỳ thi này có ba tiến sĩ nổi bật: Trạng nguyên Vũ Duệ Chiếu, Bảng nhãn Nghĩa Đạt và Thám hoa Cao Quýnh Ông đã giữ chức Đông các đại học sĩ và nổi tiếng với sự công minh, chính trực trong công việc Sau khi qua đời, danh tiếng của ông vẫn được ghi nhớ và được phong tặng danh hiệu “Thượng Đẳng Thần” qua các triều đại phong kiến Sắc phong thần cho ông vào thời Thành Thái đã ghi nhận công lao và sự cống hiến của ông cho đất nước.

Nhà thờ họ Cao ở Nho Lâm (nay là xã Diễn Thọ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) còn lưu câu đối:

“Ngọc diệp phi lai quy đại địa Thiết kim khai xứ tiến họ Cao”

“Phả ngọc (phả nhà vua chứng) báo về nơi đất lớn Sắt vàng khai xứ tiến họ Cao” [19, 62]

Cao Quýnh là một nhà văn tài năng, yêu thiên nhiên và có đức tính gương mẫu Ông cống hiến hết mình cho đất nước và luôn giữ vững khí tiết của một nhà Nho Tài năng và đức độ của ông được ca ngợi, và sau khi ông mất, dân làng đã lập đền thờ tại quê hương Diễn Thành Ông không chỉ làm rạng danh dòng họ Cao ở Diễn Châu mà còn góp phần làm rạng danh xứ Nghệ.

Cao Bá Khối (1699 - 1727)

Ông sinh năm Kỷ Mão (1699), nổi bật với tính cách cứng cỏi, thẳng thắn và nghiêm nghị, được làng xóm kính nể nhờ vào tấm lòng giúp đỡ người khác Ông có kiến thức sâu rộng về văn chương, đỗ Sinh đồ năm 18 tuổi và Hương cống năm 22 tuổi, đồng thời đảm nhiệm chức vụ Nội điện văn chức tại Quốc tử Giám Ông có công lớn trong việc khuyến khích tinh thần hiếu học và phát triển giáo dục Nho học Là một đại thần, ông thường xuyên hỗ trợ học trò nghèo xứ Nghệ, cho họ mượn sách với điều kiện phải trả lời được vế đối mà ông đưa ra, vừa để thử tài, vừa để dạy dỗ một cách tế nhị.

Cao Bá Khối là một nhà nho uyên thâm, nổi bật với thơ văn “rắn chắc như một thỏi sắt Nho Lâm” Ông sáng tác nhiều câu đối và đại tự, được nhân dân xin về khắc gỗ treo ở nhà, nhà thờ tổ, đình đền và miếu mạo, nhưng chưa ai tập hợp lại Các tác phẩm của ông thường mang tính chất tức thời, thể hiện sự tài tình, thông minh, dí dỏm nhưng cũng rất sâu sắc, với việc sử dụng phép chơi chữ, lái lại và chiết tự, tạo ra những câu có nhiều tầng nghĩa.

Chúa Trịnh rất kính trọng tài năng và phẩm hạnh của Cao Bá Khối, đến mức ngỏ ý gả con gái cho ông Tuy nhiên, với tính cách thẳng thắn, ông đã từ chối lời đề nghị này Năm Đinh Mùi (1727), Cao Bá Khối qua đời ở tuổi 29 mà chưa lập gia đình.

Cao Hoàng Quán (1721 - 1783)

Ông sinh năm Tân Sửu 1721, là con trai của Hiệu sinh Cao Tuấn Nhã và bà Nguyễn Thị Vi Từ nhỏ, ông đã bộc lộ trí thông minh và lòng hiếu học, chỉ mới 7 tuổi đã đọc được thơ và thường xuyên quấn quýt bên bố để học hỏi Ông cũng nổi tiếng với khả năng viết chữ đẹp Đến năm 26 tuổi, ông đã thi Hương và đạt kết quả xuất sắc.

Tứ trường khoa thi Đinh Mão (1747) đời Lê Bảo Thái năm thứ hai

Sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Trung Sơn và trở thành một quan thanh liêm, được nhân dân kính trọng Ông làm việc cẩn trọng, thẳng thắn, không tham danh vọng và chỉ giữ chức Tri huyện suốt đời, nhưng cuộc sống của ông rất phong phú Khi rảnh rỗi, ông thường ngâm vịnh và làm thơ Ông là người thương dân, chăm lo tu sửa đê điều và thủy lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp Trong những mùa màng thất bát, ông gửi đơn xin giảm tô thuế cho dân và đi đầu trong việc cứu đói, khuyến khích sản xuất và vận động quyên góp lương thực cho người nghèo Ông được gọi là “vị thánh sống” và coi trọng giáo dục, với quan niệm học để làm người Ông nghiêm khắc giáo dục con cái, hai con trai đều đỗ Hiệu sinh, và đặc biệt quý trọng những học trò nghèo có chí học hành Tại huyện ông cai quản, ông triển khai nhiều chính sách khuyến khích học tập như miễn phu phen tạp dịch, hỗ trợ tiền cho thí sinh và cấp ruộng cho học trò.

Ông được biết đến như một thầy thuốc giỏi, đam mê nghiên cứu y thuật và thảo dược Ông thường tổ chức khám và bốc thuốc miễn phí cho người nghèo trong vùng Ngày 9 tháng 6 năm Quý Mão (1783), ông qua đời ở tuổi 62 và được nhân dân lập đền thờ để tưởng nhớ.

Cao Trọng Sính (1805 - ?)

Cao Trọng Sính, một danh thần thời Thiệu Trị và nghĩa sĩ Cần Vương, sinh năm 1805 (Ất Sửu), nổi bật với trí tuệ thông minh, tính cần cù và niềm đam mê học hỏi.

Cụ đã tú tài ba lần vào các năm Giáp Ngọ (1834), Canh Tí (1840) và Tân Sửu (1841), nhưng đến năm Đinh Mùi (1847), khi đã 42 tuổi, mới đỗ Cử nhân Trải qua nhiều chức vụ từ Huấn đạo, Giáo thụ, Tri huyện đến Đốc học Quảng Bình, cụ được bổ nhiệm làm Tư nghiệp vào năm Tự Đức thứ 17 (1864) và sau đó là Lang trung bộ Binh Tuy nhiên, do việc đào sông ở huyện Hoằng Hóa không đúng cách, cụ bị yêu cầu bồi thường 4000 quan tiền Mặc dù gặp khó khăn, cụ vẫn được nhân dân và học trò quyên góp để nộp bồi thường Nhận thấy cụ là một vị quan thanh liêm, được lòng dân, triều đình đã thăng chức cho cụ làm Thị giảng học sĩ và lãnh chức án sát tỉnh Bình Thuận.

Cao Trọng Sính là một thầy đồ nổi tiếng, nghiêm khắc nhưng tài năng và hiểu biết rộng, được học trò kính nể Sau khi về hưu, ông dạy học tại quê nhà, nhiều học trò thành đạt, trong đó có những người giữ chức quan đầu tỉnh như Cao Xuân Dục và Đặng Văn Thụy Ông được gọi là “nho sĩ uyên thâm” vì có khả năng làm thơ và câu đối, đặc biệt là ở đình chùa Trong thời gian dạy học ở Nho Lâm, ông có học trò Cao Văn Phong, người có anh trai Cao Cự Đàm đã tự tử vì không thi đậu Năm 1894, Cao Văn Phong và cháu Cao Cự Trân đều đỗ Cử nhân, nổi tiếng trong vùng nhưng cả hai đều mất sớm, khiến cụ Cao phải viếng họ bằng một câu đối.

“Tiên bá trọng bạch lạp cùng kinh, hữu châu liên tập, hữu hoa ngạc biên, dung nhị cánh huyền giang thương oán

Kim thúc diệt thanh vân đắc lộ, như ngọn thụ sinh, như chi loan nguyệt, trúc lâm hợp tác đào nam du” [8, 25]

Trước đây, bác chú đã đốt hết sách đèn để học tập, nhưng lại gặp phải nỗi oan ức khi bảng treo lên, dù có những cuốn sách quý và quyển vở đẹp.

Nay chú cháu mây xanh cùng đường, như cây ngọc sinh ra, như tài chất tốt đẹp, rừng trúc họp lại, cùng dạo chơi con đường phương nam

Câu đối được mọi người trong vùng đánh giá cao vì nó tóm gọn tất cả các sự kiện và thành tích học tập của gia đình, thể hiện tình cảm vừa yêu thương vừa ngưỡng mộ dành cho anh em chú cháu.

Khi nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, các cha cố lợi dụng tình hình để ép buộc dân chúng phải trích công điền bồi thường cho Giáo hội, với âm mưu chiếm đoạt ruộng đất khiến dân không còn đất canh tác và phải theo đạo Chúng đã tìm cách mua chuộc cường hào và dự định cắt hết công điền xã để bồi thường Trước tình hình này, cụ Cao Trọng Sính cùng dân làng đã gửi đơn lên tỉnh, buộc Tổng đốc An Tĩnh phải nhượng bộ, quyết định không trích công điền, chỉ yêu cầu những nhà có con em theo đạo phải lấy tư điền để trả.

Cống hiến to lớn của khoa mục Cao Trọng Sính đối với dân tộc không chỉ thể hiện qua thời gian ông còn tại chức, mà còn tiếp tục được ghi nhận qua những hoạt động và đóng góp của ông cho quê hương trong những năm tháng cuối đời.

Cao Xuân Dục (1842 - 1923)

Ông được biết đến với trí thông minh vượt trội từ thời học sinh, được thầy cô yêu quý đến mức gả con gái cho Tuy nhiên, con đường thi cử của ông gặp nhiều khó khăn, phải đến năm 34 tuổi ông mới đạt được thành công.

Cao Xuân Dục, cử nhân năm 1876, đã đỗ đồng khoa với Phan Đình Phùng tại Hà Tĩnh Mặc dù ông đã tham gia thi Hội nhưng không có tên trong bảng vàng, và năm sau đó ông tiếp tục thi nhưng không thành công, bắt đầu nhận chức Hậu bổ tại Quảng Ngãi Được các quan chức địa phương chú ý và tiến cử, ông nhanh chóng thăng tiến thành tri huyện Bình Sơn và Mộ Đức Năm 1881, ông được điều về Huế làm việc tại bộ Hình và nha Thương Bạc dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Văn Tường Năm 1882, ông tham gia phái bộ Trần Đình Túc ra Hà Nội để thương thuyết với quân Pháp Sau đó, ông đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như biện lý bộ Hình, án sát, Bố chánh tỉnh Hà Nội và Hải Phòng sứ ở Hải Dương Từ năm 1889, ông phụ trách tán lý quân vự dưới quyền Hoàng Cao Khải và thăng chức tuần phủ Hưng Yên Đến năm 1890, ông giữ chức Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc và được phong làm Thự hiệp biên đại học sĩ, đảm nhiệm tổng đốc Nam Định, Ninh.

Năm 1898, ông Bình được điều về Huế làm tổng tài Quốc sử quán và được giao quyền quản Quốc Tử Giám vào năm 1901 Đến tháng 11 năm 1907, ông được thăng Thượng thư bộ học sung Phụ chính đại thần, phong hàm Thái Tử Thiếu Bảo vào năm 1908 và nhận tước An Xuân Tử vào năm 1909 Năm 1913, ông xin về hưu với hàm Đông Các đại học sĩ và nghỉ hưu được 10 năm trước khi qua đời.

Cao Xuân Dục đối với phong trào yêu nước Hiệp ước Patenotre năm

Năm 1884, triều Nguyễn, đại diện cho nhà nước phong kiến, đã giao quyền kiểm soát Việt Nam cho thực dân Pháp, dẫn đến sự phân hóa trong lực lượng sĩ phu.

Khi vua Hàm Nghi phát động chiếu Cần Vương vào năm 1885, phong trào chống Pháp đã thu hút sự tham gia mạnh mẽ của nhiều sĩ phu yêu nước, trong đó có Phan Đình Phùng với cuộc khởi nghĩa Hương Khê Tuy nhiên, một số sĩ phu như Hoàng Cao Khải lại hợp tác với Pháp để đàn áp phong trào này Cao Xuân Dục, trong bối cảnh đó, đã chọn một con đường riêng, tiếp tục làm quan nhưng sử dụng vị trí của mình để gắn bó với thời cuộc Ông được thuyên chuyển vào bộ Binh và mặc dù không muốn, ông đã phải phối hợp với quân Pháp để bình định Bắc Kỳ Dù vậy, Cao Xuân Dục không chủ động tiêu diệt phong trào Cần Vương mà tìm cách tự bảo vệ mình, đồng thời duy trì mối liên hệ và ủng hộ các nhà yêu nước tiêu biểu như Nguyễn Xuân Ôn, Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu.

Cao Xuân Dục tán thành chí hướng cứu nước của Nguyễn Tất Thành, nhấn mạnh rằng duy tân là con đường duy nhất để cứu nước, và việc học văn minh phương Tây là điều cần thiết Mặc dù ông gắn bó với nền văn hóa cũ, nhưng vẫn chào đón ánh sáng từ văn minh phương Tây như một giá trị quý báu Do đó, ông ủng hộ Nguyễn Tất Thành trong việc học chữ Tây để tiếp cận văn minh mới, thể hiện những nghĩa cử cao đẹp của mình đối với lãnh tụ phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX.

XX đã thể hiện nhân cách của một vị quan trọng nghĩa, trọng tài, yêu nước và thương dân Trong lĩnh vực sử học, triều đình nhà Nguyễn đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt so với các triều đại phong kiến trước, với nhiều tác phẩm lịch sử được biên soạn trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Chính quyền đã chính thức đặt vấn đề nghiên cứu sử học và giao nhiệm vụ này cho Quốc sử quán Tổng tài Quốc sử quán, Cao Xuân Dục, đã có những đóng góp to lớn trong việc duy trì truyền thống quốc gia thông qua việc biên soạn các tác phẩm lịch sử với sự nghiêm túc và thận trọng.

Cao Xuân Dục là một tác giả nổi bật, đã độc lập hoặc hợp tác với những người khác để soạn thảo nhiều tác phẩm quan trọng, trong đó có "Đại Nam thực lục" với phần đệ ngũ kỷ (1883 - 1885) và đệ lục kỷ (1886 - 1888) Ông cũng là tác giả của "Quốc triều sử toát yếu," ghi chép từ triều đại Nguyễn Kim cho đến năm 1886.

"Đại Nam nhất thống chí" là tác phẩm địa chí các tỉnh Trung Bộ được soạn lại vào thời Duy Tân năm 1910, trong khi "Đại Nam dư địa chí ước biên" cũng tập trung vào các tỉnh Trung Bộ.

Bộ, Bắc Bộ; “Quốc triều luật lệ toát yếu”: chủ yếu là luật lệ dưới thời Duy

Tân (1907-1916) cùng với một số cộng sự, trong đó có con rể Đặng Văn Thụy, đã biên soạn các tác phẩm như “Quốc triều khoa bảng lục” ghi chép về những người đỗ đại khoa và “Quốc triều hương khoa lục” cho những người đỗ cử nhân Cao Xuân Dục, một nho sĩ tinh tế và uyên thâm, có những đóng góp đáng kể cho văn học, mặc dù ông không sáng tác nhiều Ông thường giao lưu với các nhà nho nổi tiếng, làm thơ và câu đối, và được yêu cầu sáng tác mỗi khi ông đến Nam Kỳ Ngoài văn học, Cao Xuân Dục còn có những đóng góp quan trọng cho địa lý qua bộ “Dư địa chí”, nơi ông nghiên cứu về địa lý, núi sông, đường sá, và các tài nguyên thiên nhiên có lợi cho dân sinh Tác phẩm này không chỉ phân tích các yếu tố địa lý và kinh tế mà còn cung cấp tư liệu phong phú về phong tục, di tích lịch sử và nhân vật nổi tiếng Ý thức gìn giữ và phát huy truyền thống dân tộc của ông cũng thể hiện rõ trong “Đại Nam nhất thống chí”, góp phần bảo tồn di sản văn hóa của đất nước.

"Đại Nam nhất thống chí," được xuất bản vào năm 1910 trong thời kỳ Duy Tân, là một tác phẩm quan trọng do một ban biên soạn do Tổng tài và quan Phụ chính đại thần đứng đầu, với sự tham gia của Thái tử thiếu bảo và Hiệp biện đại học sĩ Cao Xuân Dục Tên sách phản ánh ước nguyện của các sử thần nhằm nhắc nhở mọi người về thời kỳ thống nhất của nước Đại Nam Đây là bộ tổng tập địa chí đầy đủ nhất về các tỉnh trong cả nước thời bấy giờ, được biên soạn bởi các tác giả nổi tiếng và vô danh tại triều đình, theo phương pháp thống nhất chặt chẽ, tạo thành một kho tư liệu lịch sử quý giá của Việt Nam.

Cao Xuân Dục, với tình yêu sâu sắc đối với nền văn hóa cổ, đã kiên trì viết và bảo tồn những tác phẩm quý giá cho thế hệ sau Ông có ý thức sưu tầm sách cổ và đã thu thập một kho tàng sách phong phú, đặc biệt là sách cổ Việt Nam, bao gồm cả những tác phẩm chưa được xuất bản của các nhà khoa bảng Thư viện của ông, mang tên “Long Cương tàng thư”, được bảo vệ cẩn thận với việc sao chép mỗi bộ thành năm bản để mỗi con cháu có thể giữ một bản Trong gia đình, luôn có các thầy giáo giảng dạy và chép sách quý, giúp cho thư viện của Cao Xuân Dục phát triển mạnh mẽ Đến đầu thế kỷ XX, ông sở hữu một thư viện lớn với khoảng 10.000 đầu sách bằng chữ Hán - Nôm, thể hiện sự cống hiến của ông cho việc gìn giữ văn hóa dân tộc.

Khác với lĩnh vực chính trị, Cao Xuân Dục nổi bật trong văn hóa với vai trò là một sử gia dân tộc thực thụ Ông không ngừng nỗ lực viết sử đất nước ngay cả khi đang đối mặt với kẻ xâm lược phương Tây Với niềm đam mê, ông đã tập hợp tài liệu và viết sử không chỉ để thực hiện nhiệm vụ của một sử quan, mà còn để ghi nhận lịch sử và mong muốn khôi phục thời kỳ “nhất thống” của Đại Nam Vì vậy, Cao Xuân Dục xứng đáng được công nhận là một nhà văn hóa lớn của dân tộc.

Trong suốt 5 thế kỷ từ thế kỷ XV đến XIX, nền giáo dục khoa cử Nho học dưới chế độ quân chủ đã hình thành những nhân vật khoa mục họ Cao không chỉ sống cho bản thân và gia đình mà còn quan tâm đến gia tộc, luôn bảo vệ danh dự của tổ tiên Dù trải qua nhiều khó khăn, họ vẫn nỗ lực hoàn thành trách nhiệm với đất nước và làm rạng danh dòng tộc họ Cao.

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:50

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương (1995), Những ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn. NXB Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những ông Nghè, ông Cống triều Nguyễn
Tác giả: Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 1995
2. Nguyễn Tiến Cường (1998), Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến. NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến
Tác giả: Nguyễn Tiến Cường
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1998
3. Cao Xuân Dục (2001), Tuyển tập Cao Xuân Dục (tập 2), Quốc triều khoa bảng lục. NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều khoa bảng lục
Tác giả: Cao Xuân Dục
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2001
4. Cao Xuân Dục (2002), Tuyển tập Cao Xuân Dục (tập 3), Quốc triều sử toát yếu. NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc triều sử toát yếu
Tác giả: Cao Xuân Dục
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2002
5. Cao Xuân Dục (2005), Tuyển tập Cao Xuân Dục (tập 4), Đại Nam dư địa chí ước biên. NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam dư địa chí ước biên
Tác giả: Cao Xuân Dục
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2005
6. Cao Xuân Dục (2006), Tuyển tập Cao Xuân Dục (tập 5), Đại Nam nhất thống chí. NXB Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam nhất thống chí
Tác giả: Cao Xuân Dục
Nhà XB: NXB Văn học
Năm: 2006
7. Trần Hồng Đức (1999), Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam
Tác giả: Trần Hồng Đức
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 1999
8. Gia phả dòng họ Cao Đại Tôn ở Nho Lâm 9. Gia phả dòng họ Cao Xuân ở Diễn Thịnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia phả dòng họ Cao Đại Tôn ở Nho Lâm "9
10. Lê văn Giang (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm giáo dục Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử giản lược hơn 1000 năm giáo dục Việt Nam
Tác giả: Lê văn Giang
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 2003
11. Ninh Viết Giao, Trần Hữu Thung (chủ biên) (1995), Diễn Châu địa chí văn hóa và làng xã. NXB Nghệ An, Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn Châu địa chí văn hóa và làng xã
Tác giả: Ninh Viết Giao, Trần Hữu Thung (chủ biên)
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 1995
12. Ninh Viết Giao (2000), Kho tàng vè xứ Nghệ tập V, VII, VIII. NXB Nghệ An, Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kho tàng vè xứ Nghệ tập V, VII, VIII
Tác giả: Ninh Viết Giao
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 2000
13. Ninh Viết Giao (2004), Văn bia Nghệ An. NXB Nghệ An, Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn bia Nghệ An
Tác giả: Ninh Viết Giao
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 2004
14. Ninh Viết Giao (2007), Diễn Châu 1380 năm lịch sử - văn hóa - nhân vật. NXB Nghệ An, Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn Châu 1380 năm lịch sử - văn hóa - nhân vật
Tác giả: Ninh Viết Giao
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 2007
15. Bùi Huy Giáp, Nghệ An Chí. Tài liệu địa chí - thư viện tỉnh Nghệ An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ An Chí
16. Thạch Hiển (2007), Nho Lâm phong thổ kí. Bản viết tay lưu tại Đảng ủy, UBND xã Diễn Thọ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nho Lâm phong thổ kí
Tác giả: Thạch Hiển
Năm: 2007
17. Hồ sơ di tích Lịch sử - văn hóa nhà thờ Cao Lỗ ở xã Diễn Thọ (1997) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồ sơ di tích Lịch sử - văn hóa nhà thờ Cao Lỗ ở xã Diễn Thọ
18. Hội đồng gia tộc họ Cao đại tôn Diễn Thọ, Lịch sử hình thành và phát triển dòng họ Cao. Tài liệu lưu hành nội bộ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử hình thành và phát triển dòng họ Cao
19. Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện Diễn Châu (2007), Diễn Châu - kể chuyện 1380 năm. NXB Nghệ An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diễn Châu - kể chuyện 1380 năm
Tác giả: Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân huyện Diễn Châu
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 2007
20. Đinh Văn Hưng (2008), Danh nhân Diễn Châu (Nghệ An) nửa sau thế kỷ XIX. Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, trường Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Danh nhân Diễn Châu (Nghệ An) nửa sau thế kỷ XIX
Tác giả: Đinh Văn Hưng
Năm: 2008
21. Nguyễn Thị Lài (2010), Giáo dục khoa cử Nho học ở Nghệ An từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII. Khóa luận tốt nghiệp Đại học, trường Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục khoa cử Nho học ở Nghệ An từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII
Tác giả: Nguyễn Thị Lài
Năm: 2010

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Truyền thống khoa bảng của họ Cao ở huyện Diễn Châu, tỉnh nghệ an  - Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix
ruy ền thống khoa bảng của họ Cao ở huyện Diễn Châu, tỉnh nghệ an (Trang 1)
Truyền thống khoa bảng của họ Cao ở huyện Diễn Châu, tỉnh nghệ an  - Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix
ruy ền thống khoa bảng của họ Cao ở huyện Diễn Châu, tỉnh nghệ an (Trang 2)
Bảng 1: Danh sỏch Hương cống, Cử nhõn - Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix
Bảng 1 Danh sỏch Hương cống, Cử nhõn (Trang 40)
Bảng 2: Danh sỏch Sinh đồ, Hiệu sinh, Tỳ tài - Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix
Bảng 2 Danh sỏch Sinh đồ, Hiệu sinh, Tỳ tài (Trang 41)
Bảng 3: Danh sỏch Sinh đồ khụng rừ niờn kỉ, khoa thứ - Truyền thống khoa bảng của họ cao ở huyện diễn châu, tỉnh nghệ an từ thế kỷ xv đến thế kỷ xix
Bảng 3 Danh sỏch Sinh đồ khụng rừ niờn kỉ, khoa thứ (Trang 45)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w