1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp 2005 và những vấn đề cần hoàn thiện

52 33 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Địa Vị Pháp Lý Của Doanh Nghiệp Tư Nhân Theo Luật Doanh Nghiệp 2005 Và Những Vấn Đề Cần Hoàn Thiện
Tác giả Vũ Thị Thúy
Người hướng dẫn TS. Lê Thị Hoài Ân
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Cử Nhân Luật
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2012
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 52
Dung lượng 595,25 KB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (7)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (7)
    • 2. Tình hình nghiên cứu đề tài (7)
    • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài (8)
    • 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài (8)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài (9)
    • 6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của đề tài (9)
    • 7. Kết cấu của đề tài (9)
  • B. NỘI DUNG (10)
  • Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN (9)
    • 1.1. Sự ra đời và phát triển của Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam (10)
    • 1.2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiêp tư nhân (12)
      • 1.2.1. Khái niệm DNTN (12)
      • 1.2.2. Đặc điểm pháp lý của DNTN (13)
    • 1.3. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của chủ doanh nghiệp tư nhân (17)
      • 1.3.1. Quyền của DNTN (17)
      • 1.3.2. Nghĩa vụ của DNTN (23)
    • 1.4. Mục đích và ý nghĩa các quy định của pháp luật về địa vị pháp của DNTN (27)
  • Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN (9)
    • 2.1. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về DNTN (29)
      • 2.1.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về DNTN (29)
    • 2.2. Nguyên nhân của những tồn tại trên (41)
    • 2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của DNTN (43)
      • 2.3.1. Tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục cho DNTN (43)
      • 2.3.2. Bảm bảo sự phát triển của DNTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (44)
      • 2.3.3. Cần có các biện pháp khuyến khích sự phát triển của DNTN nói riêng cũng như các thành phần kinh tế khác (46)
      • 2.3.4. Cần có sự đồng bộ trong hệ thống pháp Luật Việt nam khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến DNTN (46)
      • 2.3.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động của (48)
    • C. KẾT LUẬN (49)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (51)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

Sự ra đời và phát triển của Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam

Lịch sử doanh nghiệp tư nhân (DNTN) ở Việt Nam bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc, khi đất nước còn trong hoàn cảnh chiến tranh và gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội Mặc dù số lượng doanh nghiệp trước năm 1945 không nhiều, nhưng một lượng thương nhân đáng kể đã xuất hiện và đóng góp vào sự hình thành và phát triển của DNTN hiện nay Sự phát triển này đã đặt nền móng cho sự bùng nổ của DNTN trong những năm đầu của thập kỷ sau đó.

Vào những năm 40 của thế kỷ XX, lực lượng kinh doanh người Việt còn rất nhỏ bé Sau cách mạng Tháng 8/1945, Chính phủ VNDCCH đã xóa bỏ các hạn chế của thực dân Pháp đối với đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam Giai đoạn chia cắt 1954 - 1975 chứng kiến nhiều biến động kinh tế - chính trị - xã hội Tại miền Bắc, Nhà nước thực hiện chính sách xóa bỏ sở hữu tư nhân, khuyến khích doanh nghiệp quốc doanh và tập thể từ năm 1958 Mặc dù gặp khó khăn, doanh nghiệp tư nhân vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn khôi phục kinh tế miền Bắc từ 1955 - 1957.

Sau ngày hòa bình lập lại 30/04/1975, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa trên cả hai miền Nam - Bắc, hạn chế sở hữu tư nhân và quốc hữu hóa 32.000 cơ sở sản xuất kinh doanh Đến tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thông qua đường lối đổi mới kinh tế, tạo ra một nền kinh tế mới năng động hơn với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế, trong đó cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển.

Vào ngày 21/12/1990, Quốc hội Việt Nam đã ban hành hai đạo luật quan trọng nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, gồm Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty Tuy nhiên, việc thực hiện hai luật này không đạt được kết quả như mong đợi trong việc phục hưng kinh tế tư nhân Trong giai đoạn 1990 - 1999, chỉ khoảng 45.000 doanh nghiệp được thành lập trên toàn quốc, con số này thấp hơn nhiều so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác.

Trong giai đoạn 1991 - 1999, số lượng doanh nghiệp tư nhân (DNTN) thành lập không nhiều do các quy định trong Luật công ty 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 còn nhiều bất cập, thủ tục phức tạp Tuy nhiên, vào ngày 12/6/1999, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật doanh nghiệp mới, thay thế cho các luật trước đó, tạo ra khung pháp lý vững chắc cho nhà đầu tư và giúp họ thực hiện quyền tự do kinh doanh Kết quả, năm 2000, cả nước có 14.842 DNTN, và đến tháng 6/2010, con số này đã tăng lên 501.900 doanh nghiệp, góp phần tạo việc làm cho khoảng 500.000 lao động.

Sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã mang lại nhiều tác động tích cực, như huy động vốn hiệu quả, tạo ra việc làm và đáp ứng nhu cầu thị trường Điều này không chỉ kích thích tính năng động sáng tạo mà còn nâng cao ý thức tự vươn lên của các doanh nghiệp, hạn chế sự phụ thuộc vào Nhà nước.

Các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đã đóng góp đáng kể vào việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội và cung cấp nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước.

Đặc điểm pháp lý của doanh nghiêp tư nhân

1.2.1 Khái niệm DNTN Ở Việt Nam, đầu những năm 90 của thế kỷ XX hình thức DNTN đã được pháp luật thừa nhận Tuy nhiên, gần 10 năm sau đó mới có những quy định pháp luật hoàn thiện địa vị pháp lý của DNTN Luật doanh nghiệp 1999 ra đời đã đánh dấu một mốc son trên con đường hoàn thiện khung pháp luật về các loại hình doanh ngiệp ở nước ta nói chung và DNTN nói riêng Đặc biệt tháng

Vào tháng 11 năm 2005, Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Doanh Nghiệp 2005, thay thế Luật Doanh Nghiệp 1999 Luật mới này thể hiện sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp tại Việt Nam, khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác.

Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được pháp luật công nhận, sở hữu tên riêng, tài sản và địa điểm giao dịch cố định Doanh nghiệp được thành lập với mục tiêu thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005.

Khoản 1 Điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa DNTN như sau: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân [6;Tr189]

1.2.2 Đặc điểm pháp lý của DNTN

Dựa trên khái niệm Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) và các quy định của Luật Doanh Nghiệp 2005, có thể xác định những đặc điểm pháp lý cơ bản của loại hình doanh nghiệp này.

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân sở hữu, người này tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là một trong năm loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, sở hữu những đặc điểm chung và điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác.

Theo pháp luật Việt Nam, DNTN được xếp vào nhóm các doanh nghiệp một chủ sở hữu Các doanh nghiệp một chủ bao gồm: công ty Nhà nước,

Công ty TNHH một chủ và Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là hai loại hình doanh nghiệp phổ biến Trong số các doanh nghiệp một chủ, DNTN nổi bật với đặc điểm là do một cá nhân duy nhất sở hữu và quản lý.

Trong doanh nghiệp tư nhân (DNTN), nguồn vốn chủ yếu đến từ tài sản của một cá nhân duy nhất, không có sự góp vốn giống như các công ty nhiều chủ sở hữu Đặc điểm này giúp DNTN có những đặc trưng riêng, phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác.

+ Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp

Nguồn vốn ban đầu của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chủ yếu đến từ tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp Vốn này được chủ DNTN tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh, gọi là vốn đầu tư ban đầu, và phải được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán của doanh nghiệp.

Theo Điều 142, khoản 3 của Luật Doanh Nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân có quyền điều chỉnh vốn đầu tư trong quá trình kinh doanh Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ cần thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh khi giảm vốn đầu tư xuống dưới mức đã đăng ký.

Hầu như không có ranh giới rõ ràng giữa vốn và tài sản kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) với tài sản còn lại thuộc sở hữu của doanh nghiệp Điều này nhấn mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa tài sản của DNTN và tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp, khẳng định rằng hai phần này không thể tách rời.

+ Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được thành lập bởi một chủ đầu tư duy nhất, không có sự góp vốn hay liên kết từ nhiều thành viên khác Chủ đầu tư này không chỉ là người duy nhất cung cấp vốn mà còn nắm quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Theo quy định tại khoản 4 điều 143 Luật Doanh nghiệp 2005, chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là người đại diện theo pháp luật của DNTN Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định về tài sản của DNTN và toàn quyền tổ chức quản lý DNTN một cách hiệu quả nhất.

Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự quản lý hoặc thuê người quản lý, nhưng theo Khoản 2 Điều 143 Luật Doanh Nghiệp 2005, họ vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp, ngay cả khi có người được thuê quản lý Điều này có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba về các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Về phân phối lợi nhuận

Quyền và nghĩa vụ cơ bản của chủ doanh nghiệp tư nhân

Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là những yếu tố cốt lõi hình thành nên địa vị pháp lý của doanh nghiệp Chúng đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp lý, thể hiện khả năng thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của DNTN.

DNTN là loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005, do đó nó được hưởng các quyền chung giống như công ty cổ phần, công ty TNHH và công ty hợp danh Tuy nhiên, mỗi quyền chung này lại có những quy định đặc thù riêng cho từng loại hình doanh nghiệp Đối với DNTN, các quyền chung của doanh nghiệp được áp dụng theo cách riêng biệt, phù hợp với đặc điểm và quy định của loại hình này.

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, bao gồm việc lựa chọn ngành nghề, địa bàn hoạt động và hình thức đầu tư DNTN cũng có khả năng mở rộng quy mô và đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, đồng thời chủ động tìm kiếm thị trường và khách hàng, cũng như ký kết hợp đồng một cách linh hoạt.

Quyền kinh doanh của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) xuất phát từ nguyên tắc tự do kinh doanh, cho phép chủ DNTN hoạt động trong lĩnh vực đã đăng ký, miễn là không thuộc danh mục cấm Sự lựa chọn ngành nghề hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí và khả năng của chủ doanh nghiệp, cũng như nhu cầu thị trường Việc thay đổi ngành nghề kinh doanh được pháp luật công nhận và không bị giới hạn thời gian Bên cạnh đó, DNTN còn có quyền góp vốn vào doanh nghiệp khác, nhưng việc này có thể gặp khó khăn do không có tài sản độc lập.

DNTN có quyền tự tìm kiếm khách hàng và ký kết hợp đồng, quyết định đối tác trên thị trường Quyền này giúp DNTN tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh tranh Chủ DNTN cần tìm kiếm các cơ hội đầu tư và đối tác có lợi Nhà nước không can thiệp vào mối quan hệ của DNTN với các đối tác, miễn là các hoạt động này hợp pháp.

+ DNTN có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn

Vốn là yếu tố thiết yếu trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt đối với doanh nghiệp tư nhân (DNTN), nơi nguồn vốn thường chỉ đến từ tài sản của một cá nhân Tình trạng thiếu vốn thường gặp ở DNTN do sự hạn chế này Theo Luật Doanh Nghiệp 2005, DNTN có quyền lựa chọn các hình thức huy động vốn linh hoạt, và quyền này được thực hiện bởi chủ doanh nghiệp.

Khi doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cần tăng vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh, họ có thể lựa chọn đầu tư thêm từ nguồn vốn của chính mình, sử dụng tài sản cá nhân hoặc huy động vốn dưới danh nghĩa cá nhân để hỗ trợ cho doanh nghiệp.

+ DNTN có quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu

Luật Doanh nghiệp 2005 đã công nhận quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu là quyền tự nhiên của tất cả các doanh nghiệp, không chỉ riêng các doanh nghiệp chuyên về xuất nhập khẩu Doanh nghiệp có quyền tự quyết định phương án xuất nhập hàng hóa và dịch vụ mà không cần giấy phép xuất khẩu Điều này cho phép doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cũng có quyền này, tạo cơ hội cho họ sử dụng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu như một công cụ cạnh tranh hiệu quả trên thị trường.

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền tự chủ trong việc tuyển dụng và sử dụng lao động phù hợp với yêu cầu kinh doanh Họ chủ động áp dụng các phương pháp quản lý khoa học hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh Quyền này thể hiện rõ nét quyền tự do kinh doanh và khả năng tự quyết trong các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của DNTN.

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, đây là quyền cơ bản nhất của DNTN Khác với các loại hình công ty khác, DNTN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất, do đó tài sản của doanh nghiệp chính là tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp Điều này dẫn đến việc tài sản của DNTN khó tách bạch với tài sản cá nhân của chủ sở hữu Chủ DNTN có quyền tự quyết định tăng hoặc giảm vốn đầu tư mà không cần thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh, trừ khi giảm xuống dưới mức đã đăng ký Vì vậy, tài sản của DNTN tại một thời điểm phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Tài sản của doanh nghiệp (DNTN) được hiểu là tài sản mà chủ DNTN đưa vào hoạt động kinh doanh Với chế độ trách nhiệm vô hạn, không có ranh giới giữa tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp và tài sản của DNTN Chủ DNTN có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của doanh nghiệp, tuy nhiên, chỉ có chủ DNTN mới có đủ điều kiện và khả năng để thực hiện quyền này.

Luật Doanh nghiệp 2005 đã trao quyền sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân (DNTN), giúp các loại hình doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế thị trường Quy định này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự quyết và linh hoạt trong việc sử dụng vốn.

DNTN có quyền từ chối hoặc tố cáo mọi yêu cầu cung cấp nguồn lực không hợp pháp từ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, ngoại trừ các khoản đóng góp tự nguyện vì mục đích nhân đạo và công ích Đồng thời, DNTN cũng có quyền khiếu nại, tố cáo và tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật, trực tiếp hoặc thông qua người đại diện.

Luật doanh nghiệp 2005 đã cải cách mạnh mẽ, nâng cao tính tự chủ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân (DNTN), giúp họ giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài trong hoạt động kinh doanh DNTN được hưởng đầy đủ các quyền của một doanh nghiệp, đồng thời còn có những quyền đặc thù theo quy định của pháp luật, tạo nên sự khác biệt cho loại hình doanh nghiệp này.

Thứ nhất, Quyền cho thuê DNTN

Cho thuê doanh nghiệp là việc chuyển giao quyền sở hữu và sử dụng toàn bộ doanh nghiệp cho một bên khác trong một khoảng thời gian nhất định, với mục đích thu hồi một khoản tiền gọi là tiền thuê.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về DNTN

2.1.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về DNTN

Luật Doanh Nghiệp 2005 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong hệ thống pháp luật doanh nghiệp tại Việt Nam, với mục tiêu thiết lập một khung pháp lý chung, bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp Đây là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản pháp luật điều chỉnh đồng bộ các loại hình doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân Luật Doanh Nghiệp 2005 tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình đẳng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời đảm bảo yêu cầu về sự công bằng trong đối xử giữa các doanh nghiệp.

Việc áp dụng Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành là rất quan trọng để tạo ra một “luồng gió mới” cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể chế hóa kịp thời đường lối phát triển của Đảng, ghi nhận các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Luật Doanh nghiệp 2005 đã khẳng định nguyên tắc tự do kinh doanh, một yêu cầu thiết yếu trong nền kinh tế thị trường Nguyên tắc này không chỉ được quy định trong Luật Doanh nghiệp mà còn được ghi nhận trong Điều 57 của Hiến pháp 1992, nhấn mạnh rằng "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật".

Nguyên tắc tự do kinh doanh là nền tảng quan trọng xác định vị trí pháp lý của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) và là nguyên tắc chủ đạo trong nền kinh tế thị trường Nguyên tắc này được thể hiện qua nhiều quyền cơ bản, bao gồm quyền thành lập doanh nghiệp, quyền tự do ký kết hợp đồng, quyền lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh.

Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp thông qua các mệnh lệnh hành chính, mà để thị trường đánh giá hiệu quả kinh doanh Nguyên tắc tự do kinh doanh đi đôi với trách nhiệm và tự do giao kết hợp đồng, trong khi pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý Nhà nước Điều này tạo ra khung pháp lý an toàn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân (DNTN).

Luật doanh nghiệp sửa đổi năm 2005 đã thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) bằng cách thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của cá nhân trong các ngành nghề không bị cấm Luật này đã loại bỏ các rào cản hành chính, như việc cấp giấy phép đăng ký doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động thuận lợi hơn Sự áp dụng của Luật doanh nghiệp hứa hẹn mang lại sự lớn mạnh cho các doanh nghiệp thông qua việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ bình đẳng, không phân biệt hình thức sở hữu.

Luật Doanh nghiệp 2005 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã trao cho doanh nghiệp nhiều quyền lợi, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh theo Điều 8 Điều này cho phép cá nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật quy định.

Quy định về quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp đã tạo ra một bước đột phá quan trọng Điều này không chỉ khôi phục quyền tự do kinh doanh cho cá nhân mà còn kích thích tiềm năng kinh doanh của người dân, giúp họ thực hiện những hoạt động mà pháp luật không cấm.

Hai là, Luật doanh nghiệp 2005 đã đáp ứng nguyên tắc mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc bình đẳng trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, thể hiện sự công bằng của Nhà nước đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh từ mọi thành phần kinh tế Bình đẳng ở đây bao gồm cơ hội, điều kiện đầu tư, chính sách thuế, cũng như quyền và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế Nguyên tắc này giúp mỗi thành phần có chỗ đứng thích hợp trong nền kinh tế Điều 22 của Hiến pháp 1992 đã khẳng định rõ ràng nguyên tắc này.

Tất cả các cơ sở sản xuất và kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh tế, đều phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước và bình đẳng trước pháp luật Ngoài ra, vốn và tài sản hợp pháp của họ sẽ được Nhà nước bảo hộ.

Nhà nước công nhận sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp, đảm bảo bình đẳng trước pháp luật và tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh (Điều 4 Luật doanh nghiệp) Sự bình đẳng này giúp các chủ doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp tham gia vào các quan hệ mua bán trên thị trường, không chỉ giữa các doanh nghiệp trong cùng một thành phần kinh tế mà còn giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau Các quan hệ này mang tính cạnh tranh và hợp tác, và sự phát triển lành mạnh của chúng chỉ có thể diễn ra khi các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng trước pháp luật.

Mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật, nghĩa là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia vào các quan hệ pháp luật Sự bình đẳng này thể hiện ngay từ quá trình thành lập doanh nghiệp, khi tất cả đều phải tuân theo các quy định pháp luật Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thiết lập mối quan hệ dựa trên sự tự nguyện và hợp đồng ký kết giữa họ phải tuân theo nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi Không bên nào được ép buộc bên kia thực hiện quyền và nghĩa vụ trái với ý chí và lợi ích của họ Bên cạnh đó, quyền bình đẳng trước pháp luật cũng yêu cầu các doanh nghiệp có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế.

Ba là, Luật doanh nghiệp 2005 đã xác định rõ nguyên tắc công dân Việt

Nam có thể kinh doanh lâu dài dựa trên nhu cầu và khả năng của mình Theo Điều 5 của Luật Doanh Nghiệp 2005, Nhà nước công nhận sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp theo quy định của luật này.

Các nhà kinh doanh rất quan tâm đến sự ổn định của môi trường kinh doanh trước khi quyết định đầu tư, vì điều này giúp họ yên tâm thực hiện các dự án dài hạn Việc pháp luật công nhận sự tồn tại lâu dài của các loại hình doanh nghiệp là một bảo đảm pháp lý quan trọng, cho phép các nhà kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh Điều này cũng thể hiện quyết tâm đổi mới của Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, với sự đa dạng của các thành phần kinh tế Khẳng định nguyên tắc này trong luật pháp đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các nhà kinh doanh, khuyến khích họ đầu tư để mang lại lợi ích cho bản thân và toàn xã hội.

Luật Doanh nghiệp 2005 đã khẳng định nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của doanh nghiệp Điều 5 của luật này nhấn mạnh rằng quyền sở hữu tài sản là rất quan trọng đối với nhà kinh doanh, vì nếu không có sự đảm bảo cho quyền sở hữu, họ sẽ không yên tâm đầu tư Trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nhà nước không khuyến khích sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, gây khó khăn cho hoạt động kinh tế Tuy nhiên, sau năm 1986, quyền sở hữu tư liệu sản xuất đã được Nhà nước thừa nhận, theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, công dân có quyền sở hữu tài sản hợp pháp, bao gồm tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác.

Nguyên nhân của những tồn tại trên

Mặc dù pháp luật đang được hoàn thiện, vẫn tồn tại một số thiếu sót không phản ánh đúng thực tế Các quy định trong văn bản pháp luật chưa được thống nhất và có sự mâu thuẫn giữa các văn bản khác nhau.

Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về tổ chức doanh nghiệp, bao gồm quy trình thành lập, các loại hình doanh nghiệp với đặc thù về cơ cấu quản lý và tài chính, cũng như quy định về tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp Tuy nhiên, luật này đã hạn chế một số quyền tự chủ trong kinh doanh và quản lý, ảnh hưởng đến sự sáng tạo của doanh nghiệp Mặc dù doanh nghiệp có quyền lựa chọn và thay đổi ngành nghề kinh doanh, nhưng lại bị ràng buộc bởi trách nhiệm đăng ký và không được xâm phạm vào các lĩnh vực cấm Điều này dẫn đến việc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị giới hạn trong phạm vi ngành nghề đã đăng ký, và nếu vi phạm, doanh nghiệp sẽ bị coi là trái pháp luật, cho thấy Nhà nước chưa công nhận các hoạt động kinh doanh thực tế của họ.

Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp chỉ được thực hiện những hoạt động mà pháp luật không cấm Tuy nhiên, trong thực tế, khi pháp luật không quy định rõ ràng về một vấn đề nào đó hoặc chưa làm rõ nội dung đã được quy định, doanh nghiệp thường không được phép tiến hành Các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý cũng không cho phép người kinh doanh thực hiện bất kỳ hành vi nào liên quan trong những trường hợp này.

Mặc dù quyền của doanh nghiệp được quy định rõ ràng trong Luật doanh nghiệp, thực tế cho thấy doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước thường không áp dụng trực tiếp các điều khoản này trong việc giải quyết các vụ việc cụ thể Điều này khiến cho các quy định pháp luật trở thành một danh sách tên gọi về quyền và nghĩa vụ mà doanh nghiệp được hưởng, biến chúng thành chuẩn mực cho nhận thức pháp lý hơn là căn cứ pháp lý để xử lý từng trường hợp cụ thể.

Trình độ phát triển kinh tế còn thấp và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thiện, dẫn đến nhận thức về vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế xã hội chưa rõ ràng Điều này tạo ra sự thiếu đồng thuận trong xã hội về vốn và vị thế của doanh nghiệp Hơn nữa, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện không tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khởi sự và yên tâm sản xuất kinh doanh, trong khi nhiều chính sách thiết kế thiếu đồng bộ và chưa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là sự không đồng bộ và thay đổi liên tục của các văn bản pháp quy, cùng với quá trình cải cách hành chính diễn ra chậm Hiện tại, vẫn tồn tại những quy định làm giảm hiệu lực pháp lý của đạo luật này.

Công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tư nhân (DNTN) hiện nay chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến nhiều doanh nghiệp còn thiếu sót trong nhận thức pháp luật Điều này làm tăng nguy cơ vi phạm các quy định pháp luật trong quá trình hoạt động của họ.

Trong quá trình xây dựng quy định về địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong pháp luật hiện hành, các nhà làm luật chưa xem xét đầy đủ thực tiễn áp dụng các điều luật, dẫn đến một số quy định có tính khả thi thấp Chẳng hạn, quy định về vốn pháp định gây khó khăn cho các nhà quản lý và nhà đầu tư khi thành lập DNTN.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của DNTN

2.3.1 Tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục cho DNTN

Tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của các cơ quan chủ quản mà còn của các cơ quan liên quan Mục tiêu của công tác này là nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật cho DNTN, giúp họ tuân thủ quy định pháp luật và phát triển bền vững.

Việc phổ biến kịp thời và đầy đủ các nội dung pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) giúp doanh nghiệp sử dụng pháp luật như một công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như của Nhà nước XHCN Điều này không chỉ nâng cao ý thức tự giác mà còn khuyến khích DNTN chủ động tìm hiểu và chấp hành pháp luật.

Thứ hai, cần tạo ra những bước chuyển mới trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật nhằm hỗ trợ hiệu quả cho nhu cầu tìm hiểu và nâng cao kiến thức pháp luật cho các doanh nghiệp tư nhân.

Giáo dục pháp luật là hoạt động xã hội kết hợp giữa tính xã hội và khoa học, cần được tăng cường tuyên truyền và phổ biến cho các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) qua nhiều hình thức và nội dung phù hợp với điều kiện cụ thể Mục tiêu là giúp các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có trách nhiệm với khách hàng, người lao động và xã hội Công tác này được thực hiện thông qua các cơ quan pháp luật, đoàn thể xã hội và các kênh thông tin, báo chí.

2.3.2 Bảm bảo sự phát triển của DNTN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại Việt Nam đã trải qua hơn 17 năm phát triển Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định quyền tự do trong việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp, thành lập, tổ chức quản lý, cũng như quy mô, địa bàn và ngành nghề hoạt động, ngoại trừ một số lĩnh vực bị cấm theo quy định của pháp luật.

Việc đổi mới tư duy về vai trò và vị trí của DNTN ở Việt Nam gặp nhiều thách thức do ảnh hưởng của quan niệm truyền thống Điều này dẫn đến khó khăn trong việc thiết kế và thực hiện các biện pháp khuyến khích phát triển DNTN Môi trường kinh doanh không thuận lợi khiến DNTN khó phát huy hết khả năng sáng tạo, từ đó không đạt được kết quả mong muốn và phục vụ tốt cho sự phát triển xã hội Nền kinh tế không thể khai thác tối đa tiềm năng của mình, thậm chí còn tạo điều kiện cho những yếu tố cản trở sự sáng tạo và tư duy Sự phát triển của DNTN vì vậy luôn bị hạn chế và kéo lùi.

Cần thay đổi tư duy và quan điểm về các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, nhận diện rõ những điểm mạnh và yếu của từng loại hình để chúng có thể hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau.

Thực hiện quyền tự do kinh doanh và xã hội hóa trợ giúp phát triển doanh nghiệp bằng cách tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, đồng thời Nhà nước và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh hỗ trợ doanh nghiệp.

Quyền tự do kinh doanh cho phép doanh nghiệp tự quyết định trong hoạt động kinh doanh, bao gồm quyền đầu tư và huy động vốn Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân, sự hỗ trợ từ Nhà nước và các dịch vụ phát triển kinh doanh là rất quan trọng Để đạt hiệu quả, các chuyên viên Nhà nước cần có tính chuyên nghiệp cao Cần thiết phải tạo cơ chế khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội như hiệp hội, trường đại học và viện nghiên cứu, cùng với các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn khởi nghiệp Doanh nghiệp cũng cần được tổ chức hợp lý với địa vị pháp lý rõ ràng, quản lý minh bạch, tuân thủ pháp luật, và tôn trọng các chuẩn mực đạo đức và văn hóa kinh doanh để thu hút sự trợ giúp từ bên ngoài.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, cần xây dựng các chương trình như khởi sự kinh doanh, đào tạo quản lý, xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ chuyển giao công nghệ và phát triển đội ngũ tư vấn về dự án và kế hoạch kinh doanh Các cơ quan Nhà nước nên dần rút lui khỏi việc cung cấp dịch vụ trực tiếp, chuyển sang vai trò thúc đẩy, giám sát và quản lý chất lượng dịch vụ.

Để đảm bảo sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cần xây dựng khung pháp luật chung cho các thành phần kinh tế, bao gồm Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật chống độc quyền, hướng dẫn cụ thể về luật phá sản và Luật cạnh tranh Cần giảm quy trình cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giảm gánh nặng tuân thủ các quy định kế toán, đồng thời nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính Nhà nước cũng nên tăng cường hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho cả chủ doanh nghiệp và người lao động Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật và loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường và hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp.

2.3.3 Cần có các biện pháp khuyến khích sự phát triển của DNTN nói riêng cũng như các thành phần kinh tế khác

Khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế và đảm bảo vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp là yêu cầu quan trọng trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam Để đạt được điều này, cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, ví dụ như mở rộng ngành điện và phân phối điện cho các doanh nghiệp tư nhân và công ty đấu thầu Việc ban hành luật chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh là cần thiết để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự do tham gia vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế thị trường.

Để doanh nghiệp hoạt động linh hoạt và tận dụng cơ hội kinh doanh, cần thiết phải thiết lập các tiêu chuẩn rõ ràng, dễ hiểu và khả thi Việc này giúp nhà đầu tư tự quyết định và nhanh chóng thực hiện các ý tưởng kinh doanh mà không gặp khó khăn khi đăng ký Luật Doanh Nghiệp 2005 đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý an toàn cho các nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

2.3.4 Cần có sự đồng bộ trong hệ thống pháp Luật Việt nam khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến DNTN

Trong những năm qua, khung pháp lý về doanh nghiệp đã được hoàn thiện và phát triển, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp 2005, được sửa đổi từ Luật Doanh nghiệp 1999, nhằm thu hẹp sự khác biệt và tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp Tuy nhiên, việc thực thi luật vẫn gặp khó khăn do sự không tương thích với một số luật khác, dẫn đến sự không nhất quán trong việc giải thích và thi hành, hạn chế hiệu lực của các quy định pháp luật Để xây dựng một khung pháp luật đồng bộ và thống nhất, cần thiết tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò của các thành phần kinh tế, nhằm ban hành chính sách quản lý phù hợp, nhưng sự phân biệt này cũng dẫn đến những "sân chơi" không công bằng cho các doanh nghiệp Để khuyến khích đầu tư và phát triển kinh doanh, cần có sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, theo định hướng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

2.3.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động của DNTN

Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Do đó, các cơ quan chủ quản và cơ quan liên quan cần đặc biệt chú trọng đến công tác này Việc kiểm tra, thanh tra cần được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhằm khẳng định những thành quả đạt được và phát hiện kịp thời những thiếu sót trong việc tuân thủ pháp luật Từ đó, cần đề xuất các biện pháp và chế tài phù hợp để xử lý nghiêm các vi phạm của doanh nghiệp.

KẾT LUẬN

Luật Doanh nghiệp 2005 đã có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và nền kinh tế chung, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa Sự gia tăng các doanh nghiệp tư nhân không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển lực lượng sản xuất mà còn đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nước, tạo ra nhiều sản phẩm xã hội và giải quyết vấn đề lao động, góp phần tạo ra việc làm cho người lao động Sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên năng động và linh hoạt hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội Luật Doanh nghiệp 2005 đã khắc phục những thiếu sót của pháp luật cũ và đáp ứng các yêu cầu pháp lý mới trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.

Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ một số khuyết điểm và hạn chế trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của kinh tế và xã hội hiện nay, cần được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu phát triển của các quan hệ pháp luật kinh tế Việc cải thiện Luật doanh nghiệp sẽ tăng cường khả năng tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh và sức năng động sản xuất trong nước Đồng thời, luật mới sẽ tạo ra tiền đề pháp lý vững chắc, giúp mọi thành phần kinh tế và công dân yên tâm, chủ động phát huy tiềm năng sáng tạo và tiềm lực kinh tế, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho quyền tự do kinh doanh.

Để tối ưu hóa tiềm năng của các loại hình doanh nghiệp và hướng chúng theo quỹ đạo mà Nhà nước mong muốn, Luật Doanh nghiệp 2005 cần có những định hướng chính xác hơn Việc mở rộng và linh hoạt hóa phạm vi điều chỉnh sẽ phù hợp với yêu cầu đa dạng hóa hình thức kinh doanh, từ đó thúc đẩy nội lực phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.

Trong bài khóa luận tốt nghiệp, tôi đã trình bày cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và những vấn đề cần hoàn thiện Tôi cũng đã nghiên cứu sâu về quyền và nghĩa vụ của DNTN, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm cải thiện địa vị pháp lý, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và củng cố niềm tin của doanh nghiệp vào Đảng và Nhà nước Khóa luận này góp phần nhỏ bé vào trách nhiệm chung của xã hội, và tôi mong muốn sẽ có nhiều nghiên cứu và đóng góp thiết thực hơn nữa để hướng tới một nền pháp luật Việt Nam phát triển đồng bộ, hoàn thiện và hiện đại.

Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và trình độ hạn chế, bài khóa luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế Rất mong quý thầy cô và bạn đọc đóng góp ý kiến để giúp hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn !

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992,sđ 200), NXB Chính trị

2 Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật thương mại, NXB Công

An nhân dân, Hà Nội

3 Đại học Kinh tế quốc dân (2008), Giáo trình Luật kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội

4 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Kinh tế,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội

5 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008),Giáo trình Luật Doanh nghiệp, NXB Công an nhân dân, Hà Nội

6 Luật doanh nghiệp 2005 (sđ, bs 2009), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội

7 Luật thương mại 2005, NXB Tư pháp, Hà Nội

8 Luật doanh nghiệp 1999, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

9 Luật phá sản 2004, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

10 Luật đầu tư 2005, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

11 Bộ Luật dân sự 2005, NXB tư pháp

12 Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/ NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp 2005

13 Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/ NĐ-CP ngày 15/4 /2010 của

14 Thông tư số 14/2010 /TT-BKH hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại nghị định số

43/2010/NĐ-CP của CP về ĐKKD

15 Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết về thi hành một số điều trong Luật đầu tư.

Ngày đăng: 16/09/2021, 17:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992,sđ 200), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992,sđ 200)
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
2. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật thương mại, NXB Công An nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật thương mại
Tác giả: Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: NXB Công An nhân dân
Năm: 2009
3. Đại học Kinh tế quốc dân (2008), Giáo trình Luật kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Giáo trình Luật kinh tế
Tác giả: Đại học Kinh tế quốc dân
Nhà XB: NXB Đại học Kinh tế quốc dân
Năm: 2008
4. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Kinh tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Kinh tế
Tác giả: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2008
5. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008),Giáo trình Luật Doanh nghiệp, NXB Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Doanh nghiệp
Tác giả: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: NXB Công an nhân dân
Năm: 2008
6. Luật doanh nghiệp 2005 (sđ, bs 2009), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật doanh nghiệp 2005 (sđ, bs 2009
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
8. Luật doanh nghiệp 1999, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật doanh nghiệp 1999
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
9. Luật phá sản 2004, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật phá sản 2004
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
10. Luật đầu tư 2005, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11 Bộ Luật dân sự 2005, NXB tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật đầu tư 2005", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 11 "Bộ Luật dân sự
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
12. Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/ NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: (2010), Nghị định số 102/2010/ NĐ-CP
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2010
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/ NĐ-CP ngày 15/4 /2010 của Chính phủ về ĐKKD Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 43/2010/ NĐ-CP
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2010
14. Thông tư số 14/2010 /TT-BKH hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại nghị định số 43/2010/NĐ-CP của CP về ĐKKD Sách, tạp chí
Tiêu đề: TT-BKH hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp
15. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết về thi hành một số điều trong Luật đầu tư Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 108/2006/NĐ-CP
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2006
16. Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Luật học
Tác giả: Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý
Nhà XB: NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp
Năm: 2005
17. PGS. TS. Nguyễn Viết Tý (2002), phương hướng hoàn thiện pháp lý Luật kinh tế trong điều kiện có Bộ luật dân sự, Luận án Tiến sĩ Sách, tạp chí
Tiêu đề: phương hướng hoàn thiện pháp lý Luật kinh tế trong điều kiện có Bộ luật dân sự
Tác giả: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý
Năm: 2002
18. Th.S. Đồng Ngọc Ba (2005), Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Luật học. Tr 12; Số 06/ 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
Tác giả: Th.S. Đồng Ngọc Ba
Năm: 2005
19. Th.S. Nguyễn thị Yên (2008), Những “Hạt sạn” trong Luật doanh nghiệp, Tạp chí Luật học. Tr 36; số 08/ 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Những “Hạt sạn” trong Luật doanh nghiệp
Tác giả: Th.S. Nguyễn thị Yên
Năm: 2008
20. Trần Thị Hương (2006), Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, Tạp chí Kinh tế, Tr22; số 02/ 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số biện pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Tác giả: Trần Thị Hương
Năm: 2006
22. Nguyễn Ngọc Sơn (2007), Quyền và nghĩa vụ của Luật doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tr 19; Số 07/ 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền và nghĩa vụ của Luật doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005
Tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn
Năm: 2007
25. Trang web: www.luattructuyen.net 26. Trang web: http://vi.wikipedia.org 27. Trang web: www.google.com.vn Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w