1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của đảng tại hội nghị paris về việt nam (1968 1973)

87 263 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghệ Thuật Vừa Đánh Vừa Đàm Trong Đấu Tranh Ngoại Giao Của Đảng Tại Hội Nghị Paris Về Việt Nam (1968 – 1973)
Tác giả Hà Bình Minh
Người hướng dẫn Đại Tá Trương Xuân Dũng
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Giáo Dục Quốc Phòng
Thể loại khóa luận tốt nghiệp đại học
Năm xuất bản 2012
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 1,32 MB

Cấu trúc

  • A- PHẦN MỞ ĐẦU (4)
  • B- NỘI DUNG (9)
  • Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM 6 (9)
    • 1.1 KHÁI NIỆM (9)
    • 1.2 KẾ SÁCH “VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM” TRONG TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VIỆT (11)
    • 1.3 CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM (19)
  • Chương 2: NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM TRONG ĐẤU (25)
    • 2.1 TẠO CỤC DIỆN VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM (5/1968 -11/1968) (26)
      • 2.1.1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC THẾ TRẬN VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM (26)
      • 2.1.2 KÉO MỸ VÀO BÀN ĐÀM PHÁN (33)
    • 2.2 ĐÀM PHÁN VÀ MẶC CẢ( từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1972) (49)
      • 2.2.1 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG (50)
      • 2.2.2 SỰ GIẰNG CO TRÊN BÀN ĐÀM PHÁN (54)
    • 2.3 NGẢ BÀI – KÍ KẾT ( 7-1972 đến 1-1973 ) (64)
      • 2.3.1 ĐI VÀO ĐÀM PHÁN THỰC CHẤT (64)
      • 2.3.2 NGẢ BÀI – KÍ KẾT (0)
    • C. KẾT LUẬN (80)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (85)

Nội dung

PHẦN MỞ ĐẦU

1-LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sau hơn ba mươi năm giải phóng miền Nam, ngoại giao Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng trong ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, góp phần thực hiện chiến lược của Đảng nhằm thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao trở thành một chiến lược lớn của Đảng, đòi hỏi sự nhạy bén, uyển chuyển và sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất trong các điều kiện cụ thể Hội nghị Paris là minh chứng cho nghệ thuật ngoại giao của Việt Nam, thể hiện trình độ cao trong việc kết hợp giữa chiến đấu và đàm phán.

Cuộc đấu tranh ngoại giao trong quá trình đàm phán ở Paris đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược Sự kiên định về nguyên tắc và độc lập trong đàm phán được thể hiện qua sự sáng tạo và khôn khéo trong sách lược Điều này bao gồm việc kết hợp linh hoạt giữa đánh và đàm, cùng với các cuộc họp công khai và bí mật giữa hai bên và bốn bên.

Hội nghị Paris đánh dấu cuộc thương lượng trực tiếp giữa Việt Nam và Mỹ, thể hiện sách lược mềm dẻo của Đảng nhằm kết hợp giữa chiến tranh và đàm phán, buộc Mỹ phải tuân theo kế hoạch của ta Đảng ta chủ trương tiến công toàn diện bằng quân sự và chính trị, sử dụng ba mũi giáp công kết hợp với hoạt động ngoại giao để đạt được thắng lợi quyết định.

Ngày nay, Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, đang thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trong quá trình này, ngoại giao giữ vai trò quan trọng, và những bài học từ cuộc hoà đàm Paris vẫn còn nguyên giá trị Bài học từ Hội nghị Paris và Hiệp định Paris về tổ chức cuộc đấu tranh ngoại giao, tập hợp lực lượng, đấu tranh dư luận và nghệ thuật đàm phán vẫn có giá trị thiết thực trong bối cảnh phức tạp hiện nay, mang lại những kinh nghiệm quý báu cho chúng ta hôm nay và trong tương lai.

Nhìn lại cuộc đấu tranh ngoại giao dẫn đến Hiệp định Paris, chúng ta có cơ hội ôn lại những năm tháng lịch sử vẻ vang và suy ngẫm về chiến lược, sách lược ngoại giao khéo léo đã được áp dụng để đối phó với những âm mưu và hành động tàn bạo của đối phương Qua đó, chúng ta cũng có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân thành công, tầm vóc và ý nghĩa to lớn của thắng lợi ngoại giao lịch sử của dân tộc tại Paris.

Hơn 30 năm qua, thế giới đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn Lịch sử Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hướng tới một tương lai phồn vinh, văn minh và hiện đại Các bài học từ Hội nghị Paris về Việt Nam vẫn giữ giá trị thời sự và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc trong hành trình phát triển.

Nghiên cứu về nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại Hội nghị Paris về Việt Nam là một chủ đề hấp dẫn nhưng chưa được khai thác sâu Trong bối cảnh đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài "Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973)" làm nội dung cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

Vấn đề ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã được nhiều người nghiên cứu, với nhiều khía cạnh khác nhau

Trong bài viết “Mặt trận ngoại giao trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc” của tác giả Phan Doãn Nam, đăng trên Tạp chí cộng sản số 8/4-2005, tác giả đã nêu rõ những chiến lược khéo léo của Việt Nam trên mặt trận ngoại giao trước Hội nghị Paris Ông nhấn mạnh sự linh hoạt và kiên quyết của Đảng ta trong quá trình đàm phán tại Hội nghị, đồng thời phân tích quá trình thực hiện hiệp định Paris cho đến khi giải phóng miền Nam.

Cuốn sách "Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam" của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội (2004) cung cấp cái nhìn sâu sắc về quá trình đàm phán hòa bình tại Hội nghị Paris Tác phẩm này phác họa rõ nét những thách thức và quyết tâm trong cuộc đấu tranh từ đầu đến cuối, đồng thời nêu bật những nỗ lực bảo vệ các thành quả đạt được trong Hiệp định.

Cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ–Kissinger tại Paris” tác giả Lưu Văn Lợi–Nguyễn Anh Vũ của nhà xuất bản Công an nhân dân-

2002, đã đề cập đến các cuộc tiếp xúc Việt Nam-Hoa Kỳ trước Hội nghị Paris, còn phần tiếp theo các cuộc thương lưọng Lê Đức Thọ-Kissinger tại

Paris xoay quanh về việc kết thúc chiến tranh, rút quân Mỹ về nướcvà cuối cùng kí hiệp định

Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam 1945-2000" do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội phát hành năm 2005, đã khắc họa những nét chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong suốt 55 năm, từ năm 1945 đến 2000.

Năm 2000 đánh dấu một giai đoạn đầy biến động tại Việt Nam và trên toàn cầu, với nhiều thay đổi trong đời sống chính trị và kinh tế Trong bối cảnh này, cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quát và hệ thống về các sự kiện ngoại giao của Việt Nam, đồng thời phản ánh sự phát triển của cách mạng nước ta trong mối quan hệ quốc tế.

Cuốn sách “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và hai mươi năm xây dựng đất nước” của tác giả Trần Hữu Đính, đặc biệt là bài viết “Tiến công ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ”, đã nhấn mạnh rằng trong giai đoạn kháng chiến, hoạt động ngoại giao không chỉ đơn thuần là phản ánh lực lượng trên chiến trường, mà còn là một chiến lược tấn công nhằm đạt được thắng lợi và kết thúc chiến tranh.

Cuốn sách “Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973)” của tiến sĩ Lương Viết Sang, xuất bản bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2005, làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc đàm phán nhằm buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và ngăn chặn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dẫn đến việc ký kết hiệp định Paris Cuối sách, tác giả trình bày ý nghĩa của thắng lợi và chia sẻ một số kinh nghiệm của Đảng trong công tác lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris.

Tất cả các tư liệu đã được công bố rộng rãi và trở thành nguồn tài liệu tham khảo cho nhiều người Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại vẫn chỉ dừng lại ở mức khái quát mà chưa đi vào chi tiết Chúng tôi coi đây là những tài liệu tham khảo quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài.

3-ĐỐI TƯỌNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

*Đối tượng nghiên cứu : “Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại Hội nghị Paris về Việt Nam”

Phạm vi không gian: những vấn đề trong khuôn khổ cuộc chiến Việt-Mỹ trên chiến trường và trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris về Việt Nam

Phạm vi thời gian:(từ tháng 05/1968 đến tháng 01/1973)

Cơ sở phương pháp luận: là lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam với công tác nghiên cứu khoa học

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng chủ yếu hai phương pháp là phương pháp lịch sử và phương pháp lô gíc, đồng thời sử dụng các phương pháp hỗ trợ như mô tả và giải thích để đưa ra những nhận xét và kết luận khoa học khách quan.

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, thì nội dung chính của luận văn được trình bày trong hai chương sau:

Chương1: Cơ sở lí luận về nghệ thuật vừa đánh vừa đàm

Chương2: Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại Hội nghị Paris về Việt Nam(1968-1973)

NỘI DUNG

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM

Vừa đánh vừa đàm là một nghệ thuật chiến tranh lâu đời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam Nghệ thuật này kết hợp giữa tấn công quân sự và ngoại giao, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đạt được thắng lợi cuối cùng.

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam nổi bật với việc chiến đấu chống lại những kẻ thù có quân số và vũ khí vượt trội Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã khéo léo áp dụng nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh, tận dụng ít người để đối phó với nhiều kẻ thù Nghệ thuật này không chỉ thể hiện trong từng trận đánh hay chiến dịch quân sự, mà còn trong các cuộc kháng chiến, với sự phối hợp giữa tiến công quân sự và ngoại giao, thể hiện phương thức vừa đánh vừa đàm.

Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh gian khổ chống lại các thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc Điều này tạo nên một đặc thù hiếm có trong lịch sử thế giới Đặc biệt, trong sự nghiệp đấu tranh, hoạt động ngoại giao luôn song hành cùng với quân sự, điển hình là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thể hiện rõ nét sự kết hợp này.

Trong bối cảnh Việt Nam, câu châm ngôn “khi tiếng súng ngừng nổ là lúc các nhà ngoại giao lên tiếng” không hoàn toàn chính xác Mối quan hệ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao là biện chứng, trong đó chiến thắng trên chiến trường thường quyết định thành công trong các cuộc đàm phán.

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM 6

KHÁI NIỆM

Vừa đánh vừa đàm là một nghệ thuật chiến tranh lâu đời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam Nghệ thuật này kết hợp giữa tấn công quân sự và ngoại giao, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đạt được thắng lợi cuối cùng.

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam nổi bật với việc chiến đấu chống lại những kẻ thù mạnh hơn về quân số và vũ khí Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã áp dụng nghệ thuật lấy yếu đánh mạnh, sử dụng chiến thuật ít địch nhiều Nghệ thuật này không chỉ thể hiện trong từng trận đánh và chiến dịch quân sự mà còn trong nhiều cuộc kháng chiến, với sự phối hợp giữa tiến công quân sự và ngoại giao, thể hiện phương thức vừa đánh vừa đàm.

Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu gian khổ chống lại các thế lực ngoại xâm để bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc Điều này tạo nên một đặc trưng hiếm thấy trên thế giới Bên cạnh đó, trong quá trình đấu tranh, hoạt động ngoại giao luôn song hành cùng với quân sự, tiêu biểu là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong bối cảnh Việt Nam, câu châm ngôn “khi tiếng súng ngừng nổ là lúc các nhà ngoại giao lên tiếng” không hoàn toàn chính xác Đấu tranh quân sự và ngoại giao có mối quan hệ biện chứng, trong đó chiến thắng trên chiến trường thường quyết định kết quả đàm phán Đấu tranh ngoại giao ở Việt Nam không chỉ mang tính thụ động mà còn hỗ trợ tích cực cho hoạt động quân sự Hai lĩnh vực này gắn liền và bổ trợ cho nhau; những gì đạt được trên chiến trường cần được khẳng định qua nghệ thuật đàm phán Hơn nữa, thành công trong đàm phán mở ra cơ hội cho những thắng lợi lớn hơn trên chiến trường.

Trong chiến tranh, đấu tranh quân sự đóng vai trò then chốt trong việc tiêu diệt lực lượng địch và làm thất bại âm mưu của họ Đảng ta tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự, với mục tiêu mọi hoạt động khác, bao gồm ngoại giao, phải hỗ trợ cho sức mạnh kháng chiến Trong khi lãnh đạo toàn dân quyết tâm chiến đấu đến cùng với quan điểm nhân đạo và hòa bình, Đảng cũng không bỏ lỡ cơ hội đàm phán để kết thúc chiến tranh Dựa trên thắng lợi trên chiến trường và làm giảm hy vọng thắng lợi quân sự của địch, Đảng đã chỉ đạo chiến lược “vừa đánh vừa đàm”, kết hợp giữa thắng lợi quân sự và bàn đàm phán tại Hội nghị Paris để kết thúc kháng chiến.

Hội nghị Paris thể hiện trình độ nghệ thuật đàm phán của Việt Nam, cho thấy khả năng vận dụng mối quan hệ hữu cơ giữa chiến tranh và ngoại giao Sự kiện này chứng tỏ Việt Nam biết mở đàm phán đúng lúc, phù hợp với tình hình chiến trường.

KẾ SÁCH “VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM” TRONG TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VIỆT

Trong suốt lịch sử hàng nghìn năm, nhân dân ta đã kiên cường đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc trước kẻ thù hung bạo bằng vũ lực Mặc dù chưa đạt được mục tiêu độc lập hoàn toàn, tổ tiên ta vẫn quyết tâm cầm vũ khí chiến đấu đến cùng Qua đó, cha ông đã phát triển một nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh hiệu quả, biết khởi xướng, tiến hành và kết thúc chiến tranh, đồng thời bảo vệ vững chắc thắng lợi cho đất nước Nghệ thuật này thể hiện tinh thần kiên cường, bất khuất của một dân tộc nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, chiến thắng các quân đội xâm lược của những nước phong kiến hùng mạnh.

Trong bối cảnh đất nước có diện tích hạn chế và dân số không đông, dân tộc ta đã phát triển một nghệ thuật chiến đấu đặc sắc để đánh bại quân xâm lược của một quốc gia phong kiến hùng mạnh.

Trong chiến lược quân sự, nguyên tắc "lấy ít địch nhiều, lấy yếu trị mạnh, lấy đoản chống trường" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá đúng sức mạnh của đối phương Khi quân xâm lược còn mạnh, ta cần hành động thận trọng; ngược lại, khi địch đã yếu, ta có thể tiến hành các hành động táo bạo hơn.

Tổ tiên ta đã thể hiện sự sáng suốt trong việc đánh giá tình hình, kết hợp nỗ lực chủ quan và trí tuệ để vượt qua khó khăn, tạo nên những chiến công vĩ đại Qua các cuộc kháng chiến lịch sử, họ khéo léo kết hợp đấu tranh vũ trang quyết liệt với ngoại giao linh hoạt, đặc biệt sau khi giành được thắng lợi lớn, nhằm củng cố và mở rộng thành quả đạt được.

Trong các cuộc chiến thắng lợi, tổ tiên ta đã nhận thức và giải quyết vấn đề "đánh" và "đàm" một cách sáng tạo và đúng đắn Luôn sẵn sàng chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn, họ không ngừng chuẩn bị cho các trận đánh mới nếu kẻ thù tiếp tục xâm lược Đây là quan điểm chiến lược nhất quán của dân tộc Đồng thời, tổ tiên cũng thể hiện sự hiểu biết về đối phương, biết kết hợp giữa biện pháp đàm phán cứng rắn về nguyên tắc và linh hoạt trong chiến lược, nhằm củng cố và mở rộng thành quả của cuộc đấu tranh vũ trang.

Trong lịch sử Việt Nam, chiến thắng quân sự luôn đi đôi với hoạt động ngoại giao khôn khéo, như đã thể hiện trong các cuộc kháng chiến Kinh nghiệm của tổ tiên cho thấy, những chiến thắng oanh liệt không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước mà còn tạo cơ hội cho việc đàm phán với kẻ thù Tùy vào từng triều đại và so sánh lực lượng, tổ tiên ta đã áp dụng linh hoạt hai phương thức "vừa đánh vừa đàm" và "đánh thắng rồi đàm." Trong suốt quá trình giữ nước, sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và ngoại giao đã giúp dân tộc ta giành chiến thắng, bất kể là trong chiến tranh giải phóng hay bảo vệ Tổ quốc.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) thời kỳ nhà Lý, sau khi tiêu diệt các căn cứ quân Tống tại Khâm Châu, Ung Châu, Liêm Châu, Lý Thường Kiệt đã rút quân về nước Vào mùa Thu năm 1076, ông đã cho xây dựng một đoạn đê cao như thành đất dọc bờ sông Cầu, dài gần 30 km, từ bến đò sông Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền Để bảo vệ chân đê, ông đã đóng cọc tre thành nhiều lớp, tạo thành một chiến lũy kiên cố nhằm ngăn chặn quân địch không cho chúng vượt sông Cầu tiến vào Thăng Long.

Vào những ngày đầu năm 1077, tướng Quách Quỳ dẫn đầu đại quân Tống xâm lược nước ta Sau 10 ngày hành quân vất vả, đến ngày 18-11-1077, quân Tống đã đến bờ Bắc sông Cầu nhưng không thể vượt qua do thiếu thuyền Đối diện với họ là phòng tuyến kiên cố của quân ta ở bờ Nam, nơi có đại quân sẵn sàng bảo vệ đất nước.

Vào giữa đêm, quân Tống đã liều lĩnh bắc cầu phao qua sông để tấn công bờ Nam, nhưng quân ta kiên quyết kháng cự Sau trận đánh, quân Tống bị vây chặt ở bờ Bắc sông Cầu trong 40 ngày, với 10 vạn quân sang Đại Việt, chỉ còn lại 2 vạn sau khi chịu tổn thất nặng nề Hơn 20 vạn dân phu cũng chết một nửa, và trong số 1 vạn ngựa, chỉ còn hơn 3 nghìn Dù Lý Thường Kiệt đã chặn đứng đại quân Tống tại phòng tuyến sông Cầu, tình thế giữa hai bên vẫn chưa phân rõ thắng bại, nhưng quân ta có lợi thế hơn Tuy nhiên, quân Tống vẫn chiếm đóng một số vùng lãnh thổ của ta.

Trong bối cảnh phải đối phó với quân Tống, Lý Thường Kiệt đã đưa ra chiến lược khôn ngoan nhằm kết thúc cuộc chiến một cách hiệu quả Sau những tổn thất nặng nề, tinh thần quân Tống suy yếu, và tướng Quách Quỳ rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan Lý Thường Kiệt đã đề nghị rút quân để tạo cơ hội cho quân Tống thoái lui, nhằm bảo toàn lực lượng và giữ thể diện cho triều đình Ông cử Kiều Văn Ung thương thuyết với Quách Quỳ, đề xuất rút quân để lập tức gửi sứ giả "tạ tội" và "tu cống" Quách Quỳ, đối diện với nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, đã chọn phương án rút lui để bảo toàn sinh mạng và lực lượng Vào tháng 3 năm 1077, quân Tống đã bí mật rút lui, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc chiến.

Quân Tống rút lui, Lý Thường Kiệt nhanh chóng dẫn quân theo sát để thu hồi các châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang Đặc biệt, châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) với nhiều tài nguyên quý giá, đặc biệt là mỏ vàng, đã trở thành mục tiêu chiếm đóng lâu dài của nhà Tống Tuy nhiên, nhờ vào những biện pháp đấu tranh kiên quyết kết hợp giữa chiến tranh du kích và ngoại giao, nhà Lý đã thành công trong việc lấy lại vùng đất này vào năm 1079 Nhà sử học Phan Huy Chú nhận định rằng việc biên giới dưới triều đại nhà Lý đã được khôi phục đáng kể nhờ vào chiến thắng quân sự và sự khéo léo trong ngoại giao, khiến cho nhà Tống phải phục tùng và củng cố sức mạnh của Nam giao.

Lý Thường Kiệt đã lãnh đạo cuộc chiến chống Tống với một chiến lược toàn diện, bao gồm quân sự, ngoại giao và chính trị Ông táo bạo phá vỡ kế hoạch chuẩn bị chiến tranh của quân Tống ngay trên đất Tống, đồng thời giữ chân quân địch tại phòng tuyến Như Nguyệt Qua việc “biện sĩ bàn hòa” với tướng Tống Quách Quỳ, ông đã khéo léo khiến đối phương nhận ra khả năng thương lượng, đồng thời bí mật rút quân về nước mà không chờ lệnh từ Vua Đặc biệt, Lý Thường Kiệt đã lần đầu tiên trong lịch sử nước ta áp dụng chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” để tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc chiến.

Thời kỳ nước ta bị quân Minh đô hộ, trong 10 năm chiến tranh giải phóng (1407-1427) đã có nhiều lần vừa đánh vừa đàm như vậy Lê Lợi và

Nguyễn Trãi đã kết hợp đấu tranh ngoại giao và quân sự để đánh bại giặc, với chủ trương “ta mưu dẹp bằng đánh vào lòng, không chiến trận mà địch phải khuất.” Ông đã sử dụng hai hình thức để đánh vào lòng địch: dụ hàng các tướng lĩnh, binh sĩ và vận động quân địch phản chiến Đồng thời, Nguyễn Trãi kiên trì tiến hành hòa đàm nhằm chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình và giao hảo giữa hai bên Nghĩa quân Lam Sơn đã linh hoạt áp dụng chiến lược vừa đàm phán vừa chiến đấu, duy trì áp lực cho đến khi kẻ thù không còn khả năng chiến đấu và buộc phải chấp nhận đầu hàng.

Từ năm 1418, nghĩa quân Lam Sơn đã bắt đầu cuộc khởi nghĩa, chiến đấu kiên cường và ngày càng mạnh mẽ, mặc dù vẫn gặp khó khăn và chưa đạt được những chiến thắng lớn Đến năm 1423, Nguyễn

Tại Lam Sơn, kế sách đấu tranh và hòa đàm được áp dụng để khởi động một giai đoạn chiến tranh mới, tập trung vào việc tấn công mạnh mẽ vào tâm điểm của kẻ thù Giai đoạn này kết hợp giữa sức mạnh quân sự và phong trào quần chúng nổi dậy nhằm đánh bại hoàn toàn quân địch.

CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM

Trong chỉ đạo cách mạng và chiến tranh, Đảng ta xem chủ nghĩa Mác-Lênin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh là vũ khí quan trọng, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã được áp dụng sáng tạo và hiệu quả trong đường lối cách mạng của Đảng ta, với sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tiễn Dù có nhiều phương pháp cách mạng khác nhau, chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn là cơ sở phương pháp luận quan trọng, giúp Đảng lựa chọn phương pháp đúng đắn nhất để đạt được mục tiêu cách mạng nhanh chóng và hiệu quả.

Lãnh đạo toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng nhận thức rằng nhân dân Việt Nam không thể chỉ dựa vào sức mạnh vật chất để nhanh chóng đánh bại kẻ thù, một đế quốc hùng mạnh Dựa trên tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã tiến hành đánh giá lực lượng ta và địch một cách khoa học, xem xét cả số lượng lẫn chất lượng, điểm mạnh và điểm yếu, đồng thời dự đoán xu hướng phát triển của tình hình Từ đó, Đảng đề ra những mục tiêu phù hợp với khả năng thực tế trong từng giai đoạn Trong chỉ đạo chiến lược, Đảng đã kết hợp một cách hữu cơ các mặt đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao Sức mạnh tổng hợp này là sự hòa quyện của lực và thế, tạo ra thế có lợi để tối đa hóa sức mạnh, từ đó giành thắng lợi lớn hơn và hình thành lực mới Sự kết hợp chặt chẽ giữa lực và thế càng phát huy sức mạnh của ta, khai thác điểm yếu của địch, đẩy chúng vào thế bất lợi, đảm bảo cho chiến thắng cuối cùng.

Ngoại giao cần có thực lực, điều này được khẳng định qua thực tiễn kháng chiến chống Mỹ Thực lực của chúng ta được xây dựng từ đấu tranh quân sự và chính trị, với những chiến thắng trên chiến trường là nền tảng quan trọng C.Mác đã chỉ ra rằng "vũ khí phê phán không thể thay thế vũ khí", cho thấy sự cần thiết của sức mạnh vật chất trong cuộc đấu tranh Qua 21 năm kháng chiến và 5 năm đàm phán tại hội nghị Paris, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có tiến công quân sự, tiêu diệt quân đội Mỹ và chính quyền Sài Gòn mới có thể đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm suy yếu tinh thần đối phương, chia rẽ hàng ngũ địch và tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh chính trị, từ đó mở ra thế mạnh cho ngoại giao.

Việc áp dụng sách lược trong đấu tranh ngoại giao yêu cầu sự nhân nhượng đối phương khi cần thiết để đạt mục tiêu từng giai đoạn và tiến tới mục tiêu cuối cùng của cách mạng Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh rằng sự nhân nhượng, thoả hiệp có nguyên tắc của giai cấp vô sản là cần thiết, vì "dù có thoả hiệp với kẻ thù mà có lợi cho cách mạng vẫn phải làm" (Lênin).

Sau cách mạng tháng 10 năm 1917, nước Nga vẫn tiếp tục chiến tranh với Đức Chính quyền Xô Viết chủ trương đàm phán và ký hòa ước với Đức để chấm dứt chiến tranh và củng cố lực lượng cách mạng Tuy nhiên, B Tờrốtxki, người dẫn đầu đoàn đàm phán, không tuân thủ chỉ thị của V.I Lênin về việc duy trì đàm phán và ký ngay hòa ước nếu nhận tối hậu thư từ Đức Do đó, Nga phải chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của liên quân Đức – Áo Hòa ước Brétlitốp được ký kết sau đó đã đặt nước Nga vào những điều kiện nặng nề, bao gồm việc cắt 1 triệu km² lãnh thổ, bồi thường 6 tỉ mác cho Đức và giải ngũ quân đội.

Mặc dù đã bỏ lỡ cơ hội và phải chấp nhận những điều kiện nặng nề, Nga vẫn quyết định ký kết hiệp ước như một bước lùi tạm thời để bảo vệ thành quả cách mạng V.I Lênin từng nhận định rằng đây là hiệp ước tồi tệ nhất, nhưng trong bối cảnh lúc đó, chính sách này là đúng đắn Ông cũng nhấn mạnh rằng trong lịch sử, nhiều hiệp ước đã đóng vai trò như một cuộc ngừng chiến, giúp tập hợp lực lượng cho những cuộc chiến sau Kinh nghiệm từ cuộc đàm phán với Đức ở Brétlitôp cho thấy việc nắm bắt thời cơ ký hiệp ước là rất quan trọng để tránh tổn thất lớn cho đất nước Diễn biến tại Hội nghị Paris cho thấy mỗi lần Việt Nam có những nhượng bộ chiến lược là một lần phá vỡ bế tắc trong đàm phán.

Chủ nghĩa Mác–Lênin nhấn mạnh rằng nhân nhượng không phải là yếu đuối, mà là chiến lược để tiến công, cho phép ta nhượng bộ những lợi ích trước mắt nhằm xây dựng kế hoạch lâu dài Hội nghị Paris là một ví dụ điển hình cho việc áp dụng nhân nhượng và thỏa hiệp có nguyên tắc trong bối cảnh chính trị.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng đã sáng tạo vận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin, thực hiện chiến lược chiến tranh cách mạng phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam Đảng đã linh hoạt kết hợp các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, góp phần vào thành công của nghệ thuật vừa đánh vừa đàm tại Hội nghị Paris về Việt Nam Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn đèn pha soi sáng cho Đảng trong việc giải quyết mọi vấn đề của cách mạng Việt Nam, định hướng đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập và là tài sản tinh thần quý giá của Đảng và dân tộc Tại Hội nghị Paris, tư tưởng này đóng vai trò là kim chỉ nam cho Đảng trong suốt quá trình đàm phán.

“Không có gì quý hơn độc lập tự do” và “hoà bình thực sự không thể tách rời khỏi độc lập tự do thực sự” là những tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh, tạo nền tảng cho giải pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ Những quan điểm này đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong các cuộc thương lượng của Việt Nam Tại Hội nghị Paris, nghệ thuật đàm phán được thể hiện qua sự kết hợp giữa chính trị và quân sự, với chiến lược “lúc cương lúc nhu” để linh hoạt và mềm dẻo, nhằm buộc đối phương phải chấp nhận phương án đàm phán có lợi cho Việt Nam.

Tìm kiếm lối thoát cho một dân tộc nhỏ yếu trong cuộc chiến tranh xâm lược của cường quốc phương Tây là một nhiệm vụ khó khăn Việc buộc đối phương thừa nhận thất bại qua thương lượng hòa bình càng phức tạp hơn Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng trong giao tiếp cần có sự nhượng bộ đúng lúc và cho rằng việc giành lấy hòa bình là một cuộc đấu tranh dài hơi, đầy gian khổ và phức tạp, với cả những điều kiện thuận lợi lẫn khó khăn.

Tại cuộc họp Bộ Chính trị vào ngày 26-4-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện cho Mỹ rút quân một cách có thể diện, thậm chí trải thảm đỏ để hoan nghênh họ trở về Trong bối cảnh một nước nhỏ chống lại sự xâm lược của một nước lớn, việc tiêu diệt hoàn toàn lực lượng quân sự của đối phương là không khả thi Thay vào đó, mục tiêu là đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ và buộc họ phải rút quân Chủ tịch Hồ Chí Minh từng suy ngẫm rằng Việt Nam có thể chủ động tạo điều kiện cho Mỹ rút lui, với sự phức tạp trong chiến lược: "Một tay đánh, một tay mở cho nó ra, trước cửa cần có rèm chống".

Giáo sư sử học Hunggari Laszlo Salgo nhận định rằng vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình chuyển từ chiến tranh sang đàm phán là vô cùng quan trọng Ông đã khéo léo tận dụng sự mềm dẻo trong các tình huống để tìm kiếm những khả năng cho một giải pháp hòa bình thông qua các thỏa hiệp.

Tư tưởng mặt trận ngoại giao của Hồ Chí Minh, hình thành trong những năm 1960, kế thừa truyền thống đánh-đàm và kinh nghiệm ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh ngoại giao cần sự phối hợp chặt chẽ với các lĩnh vực quân sự, kinh tế và văn hóa; nếu chỉ đơn lẻ, sẽ không đạt được thắng lợi Ông từng nói: “thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng Chiêng có to tiếng mới lớn”, trong đó “chiêng” tượng trưng cho lực lượng nhân dân và quân đội Tiếng súng từ chiến trường làm tăng sức mạnh cho tiếng nói ngoại giao, nhờ đó mà tiếng nói trở nên mạnh mẽ hơn.

NGHỆ THUẬT VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM TRONG ĐẤU

TẠO CỤC DIỆN VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM (5/1968 -11/1968)

2.1.1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC THẾ TRẬN VỪA ĐÁNH VỪA ĐÀM

Trên trường quốc tế, cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra khốc liệt và phức tạp, đồng thời mở ra hướng đi mới trong việc tập hợp lực lượng.

Việc Mỹ chọn Việt Nam làm chiến trường chiến lược ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để thực hiện chiến lược "phản ứng linh hoạt" nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng toàn cầu đã dẫn đến một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở Việt Nam và Đông Dương, tạo ra những thách thức lớn cho thời đại.

Cuộc chiến tranh Việt Nam không chỉ thách thức ý chí của nhân dân Việt Nam về độc lập tự do, mà còn phản ánh cuộc đấu tranh toàn cầu cho độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội Đây trở thành cuộc đụng đầu lịch sử giữa thế lực đế quốc, thực dân mới do Mỹ dẫn đầu và các lực lượng cách mạng, trong đó Việt Nam là biểu tượng tiêu biểu.

Tình hình quốc tế hiện nay đang có những biến động quan trọng, đặc biệt là chiến lược của các nước lớn liên quan đến cuộc chiến tranh Cuộc chiến tranh lạnh đang diễn ra với xu thế vừa đấu tranh vừa hoà hoãn Trong bối cảnh Mỹ gặp khó khăn ở Việt Nam và bị cô lập toàn cầu, Liên Xô muốn tận dụng cơ hội này để thúc đẩy hoà dịu với Mỹ, nhằm kiềm chế sức mạnh của Mỹ và giảm áp lực từ cuộc chạy đua vũ trang Liên Xô lo ngại rằng chiến tranh tại Việt Nam có thể làm căng thẳng quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến quá trình hoà dịu với Mỹ và tạo điều kiện cho Trung Quốc củng cố vị thế Do đó, Liên Xô đã tìm cách tác động vào diễn biến của cuộc chiến nhằm gia tăng khả năng thương lượng với Mỹ, mặc dù vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại các thế lực khác.

Mỹ nhưng Liên Xô lại muốn Việt Nam sớm tìm giải pháp kết thúc chiến tranh thông qua con đường thương lượng hoà bình

Phong trào giải phóng dân tộc vào thời điểm này đã đạt được nhiều thành tựu lớn, dẫn đến sự hình thành của gần 60 quốc gia độc lập ở châu Á, Phi và Mỹ La Tinh vào đầu những năm 60 Trước nguy cơ lệ thuộc vào các cường quốc, nhiều nước đang phát triển tìm kiếm con đường độc lập cho riêng mình Trong bối cảnh đó, các nhà lãnh đạo như G Nêru (Ấn Độ), B Titô (Nam Tư), và Sucácnô (Inđônêxia) đã quyết định thành lập phong trào không liên kết vào tháng 9 năm 1961 với mục tiêu độc lập dân tộc và hòa bình Quyết định này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các nước Á, Phi và Mỹ La Tinh, đồng thời phần lớn các quốc gia này đã thể hiện sự đồng tình với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, trong khi lực lượng trung gian ủng hộ Mỹ ngày càng suy yếu.

Cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong dư luận quốc tế, phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai bên Dù Mỹ huy động tối đa bộ máy tuyên truyền và sử dụng nhiều thủ đoạn lừa bịp, làn sóng phản đối chính sách chiến tranh của họ vẫn lan rộng Chính giới nhiều nước, kể cả các đồng minh của Mỹ, cũng bị phân hóa, làm suy yếu chủ trương leo thang chiến tranh của Mỹ Nhiều chính phủ đã điều chỉnh chính sách đối với Mỹ và Việt Nam theo hướng bất lợi cho Mỹ.

*Thực tế chiến trường Việt Nam

Diễn biến chiến trường và tình hình quốc tế không diễn ra theo ý muốn của Mỹ Mặc dù quân đội Mỹ và các phương tiện quân sự hiện đại được triển khai ồ ạt vào miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, tấn công Lào và Campuchia, nhưng điều này không tạo ra bước ngoặt có lợi cho họ Ngược lại, chúng ta đã kiên trì giữ vững và phát triển thế tiến công của cách mạng miền Nam, đồng thời đánh bại bước đầu cuộc chiến tranh leo thang của Mỹ ở miền Bắc Tại miền Nam, chúng ta đã thành công trong việc bẻ gãy các cuộc phản công chiến lược quy mô lớn của đối phương và làm thất bại nhiều cuộc hành quân.

Trong giai đoạn 1965–1967, chiến dịch "tìm diệt" và "bình định" của Mỹ và quân Ngụy đã diễn ra, trong khi ta chủ động triển khai các cuộc tấn công trực diện vào quân Mỹ và quân Ngụy trên nhiều chiến trường Khu vực giải phóng được củng cố và mở rộng từng bước, đồng thời lực lượng ta có sự phát triển đáng kể.

Thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ 11, 12 và 13, quân và dân Việt Nam đã kiên cường đối mặt với quân đội và bộ máy chiến tranh hiện đại của Mỹ, dù cho Mỹ đã điều động hơn 500.000 quân vào miền Nam Việt Nam.

Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965–1966, ta đã đánh bại lực lượng 750.000 quân Mỹ–Ngụy, mặc dù họ được huy động với mục tiêu "tìm diệt" quân chủ lực của ta Đây là lần đầu tiên Mỹ-Ngụy phải chịu tổn thất lớn về binh lực và thất bại trong chiến lược phản công, từ đó ta giành được thế chủ động Vào tháng 5–1966, đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã thừa nhận rằng "Mỹ không tiêu diệt được một đơn vị chính quy nào của ta."

Việt Cộng đã phát triển mạnh mẽ trong khi lực lượng Mỹ không thể khắc phục tình hình ngày càng xấu đi, khiến quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng và vẫn ở thế bị động Tại miền Bắc, Mỹ đã chuẩn bị âm mưu từ trước và gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, vu cáo Việt Nam tấn công tàu Maddox của Mỹ ngoài khơi hải phận quốc tế để biện minh cho hành động trả đũa, ném bom miền Bắc Ngày 7-8-1964, Quốc hội Mỹ thông qua “nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”, đồng ý cho hành động trả đũa đối với Bắc Việt Nam Từ năm 1965, Mỹ đã mở các chiến dịch không quân mang tên “Sấm rền” (Rolling Thunder), tiến hành ném bom liên tục vào Bắc Việt Nam.

Trái với dự đoán của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, các cuộc ném bom miền Bắc của Mỹ đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ từ quân và dân miền Bắc, không chỉ làm thất bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mà còn củng cố hậu phương vững chắc, hỗ trợ hiệu quả cho cuộc chiến đấu của miền Nam Trong ba năm đầu của "chiến lược chiến tranh cục bộ", lực lượng trên chiến trường dần chuyển sang có lợi cho ta, trong khi Mỹ–Ngụy rơi vào thế bị động về chiến lược, phải đối phó với nhiều vấn đề quân sự, chính trị và dư luận Thất bại nặng nề trong hai cuộc phản công mùa khô đã khiến Mỹ lâm vào tình trạng bế tắc, cùng với sự chia rẽ gia tăng trong nội bộ nước Mỹ khi bước vào năm bầu cử tổng thống.

Trên nền tảng của sự phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, cách mạng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển và đạt được nhiều thắng lợi mới Trung ương Đảng đã thảo luận về vấn đề này trong Hội nghị Bộ Chính trị lần thứ 12.

1967 và Hội nghị toàn thể lần thứ 14 (01-1968) đã đi đến quyết định lịch sử

Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới là giai đoạn quyết định để giành thắng lợi Đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên một bước phát triển cao nhất thông qua phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa sẽ giúp đạt được thành công quyết định.

Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành tổng công kích trên toàn miền Nam, tập trung vào các đô thị để tiêu diệt quân viễn chinh Mỹ, đánh sập ngụy quân và ngụy quyền, giành lại chính quyền cho nhân dân, buộc Mỹ phải đàm phán rút quân về nước.

ĐÀM PHÁN VÀ MẶC CẢ( từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1972)

Việc buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom được coi là một bước đột phá quan trọng Bây giờ, cần phải tập trung vào các khía cạnh quân sự và chính trị để đấu tranh nhằm đạt được giải pháp tối ưu cho cách mạng.

Mỹ có thể chấp nhận

Từ đầu năm 1969 đến giữa năm 1972, cuộc chiến tranh diễn ra căng thẳng và mối quan hệ phức tạp giữa các cường quốc ảnh hưởng mạnh mẽ đến các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ tại Paris Đây là giai đoạn quyết liệt không chỉ trên chiến trường mà còn trong các cuộc thương thuyết.

Cuộc đàm phán tạm thời bị trì hoãn do chưa thống nhất về chỗ ngồi và mẫu bàn đàm phán Chính quyền Sài Gòn không đồng ý ngồi chung bàn với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong khi Mỹ lo ngại rằng việc này sẽ đồng nghĩa với việc công nhận Mặt trận Cuối cùng, hai bên đã thống nhất ngồi theo bàn tròn với khoảng cách giữa hai bên, và cuộc đàm phán chính thức bốn bên được khai mạc vào ngày 25-1-1969.

Hội nghị Paris bốn bên bắt đầu họp trong bối cảnh khá phức tạp Ở Mỹ, chính quyền R.Níchxơn của Đảng cộng hoà đã thay thế Đảng dân chủ (20-1-

Năm 1969, Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” nhằm rút quân nhưng vẫn duy trì nguỵ quyền, dẫn đến việc chưa vội đi đến thoả hiệp Sau tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, lực lượng ta chịu tổn thất nặng nề, mất chỗ đứng và phong trào cách mạng bị suy yếu Tại Hội nghị Paris, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, như duy trì sự ủng hộ quốc tế cho cuộc kháng chiến và nâng cao vị trí của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Trong bối cảnh khó khăn trên chiến trường, việc thực hiện vừa đánh vừa đàm hiệu quả để buộc Mỹ rút quân nhanh chóng trở thành nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi sự sáng tạo của Đảng và lòng dũng cảm của các chiến sĩ.

Ngày 6-11-1968, R.Níchxơn, ứng cử viên Đảng Cộng hoà, đã trúng cử tổng thống nước Mỹ Ngày 20-1-1969, R.Níchxơn lên cầm quyền và đưa ra kế hoạch chiến tranh mới “Việt Nam hoá chiến tranh” Một chương mới trong lịch sử chiến tranh xâm lược Việt Nam của nước Mỹ bắt đầu Để thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” Mỹ–ngụy dùng các biện pháp đẩy mạnh bình định nông thôn, tiêu diệt cơ sở cách mạng; tổ chức các cuộc hành quân càn quét hỗ trợ cho bình định, đánh vào các tuyến hậu cần tại chỗ và hành lang tiếp cận chiến lược của Việt Nam, đẩy quân chủ lực của Việt Nam ra ngoài biên giới mở rộng chiến tranh sang Cămpuchia và Lào; dùng viện trợ Mỹ tăng cường và hiện đại hoá nguỵ quân; củng cố thế và lực cho ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở; phục hồi và phát triển kinh tế Nam Việt Nam nhằm giảm gánh nặng chi phí chiến tranh cho Mỹ Đồng thời, chính quyền Mỹ xúc tiến các hoạt động ngoại giao, tìm cách thoả hiệp với cả Liên Xô và Trung Quốc, tiến công vào hậu phương quốc tế của Việt Nam

Trước những âm mưu chiến tranh của Mỹ và các thế lực thù địch, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi hành động của kẻ thù bằng đường lối độc lập, tự chủ.

Tháng 11-1968, trong chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam, Bộ chính trị vạch rõ:

Vào năm 1969, phương hướng chiến lược được xác định là “công kích và khởi nghĩa mùa Xuân, mùa Hè” Theo chỉ thị của Bộ chính trị, ngày 23-2-1969, quân và dân ta đồng loạt tiến công mùa Xuân, nhằm đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và hỗ trợ cho các hoạt động ngoại giao Ngày 27-2-1969, trung ương cục miền Nam đã ra thông tri nhằm tăng cường mọi mặt công tác để phối hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao Trung ương cục nhận định rằng thái độ ngoan cố và âm mưu của Mỹ–ngụy sẽ khiến Hội nghị Paris kéo dài, do đó cần phải đánh cho Mỹ–ngụy thua nặng trên chiến trường để làm nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh ngoại giao Ngày 11-5-1969, ta tiếp tục mở cuộc tiến công mùa Hè trên toàn miền Nam.

Cuộc tiến công Xuân–Hè năm 1969 của Việt Nam đã gây thiệt hại cho Mỹ–ngụy, nhưng chưa tạo ra chuyển biến lớn trên chiến trường, khi địch tăng cường bình định nông thôn với quy mô và thủ đoạn tàn khốc Một số đơn vị chủ lực của Việt Nam phải tạm trú ở biên giới Campuchia, dẫn đến tình thế giằng co giữa ta và địch Trước những thách thức nghiêm trọng, bộ chính trị đã chỉ đạo chuyển hướng hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch Hội nghị trung ương cục miền Nam tháng 7-1969 đã quyết định đẩy mạnh tiến công quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang, xác định nhiệm vụ quan trọng nhất là giành dân, giành đất để phát triển thế và lực Trung ương cục, Bộ chỉ huy miền và các Khu uỷ, Quân khu đã giữ vững sự lãnh đạo trên toàn miền Nam, khắc phục khó khăn để từng bước giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời, đánh dấu một tổn thất lớn lao cho dân tộc Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến gian khó Trước nỗi đau thương này, nhân dân miền Nam và toàn quốc đã quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng, thực hiện Di chúc của Người với mục tiêu đánh thắng giặc Mỹ và thống nhất đất nước.

Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 ban chấp hành trung ương khoá III đề ra nhiệm vụ trước mắt là “Đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây dựng lực lượng, giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”

Thực hiện tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ 18 Ban chấp hành trung ương khoá III, quân và dân đã nỗ lực khắc phục các khuyết điểm và đạt được nhiều thắng lợi quan trọng.

Sau cuộc đảo chính lật đổ chính phủ Xi-ha-núc vào ngày 30-4-1970, Mỹ đã huy động 100.000 quân tiến công xâm lược Campuchia, mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đông Dương Từ 30-4 đến 30-6, Mỹ đã thực hiện 23 cuộc hành quân tại 6 tỉnh biên giới Việt Nam-Campuchia Ngay khi quân Mỹ vượt biên giới, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ thị cho toàn Trung ương Cục và Quân ủy Miền chuẩn bị lực lượng và kế hoạch để cùng các đồng chí bạn đánh chiếm và mở rộng vùng giải phóng 7 tỉnh biên giới, từ biên giới Việt Nam đến bờ sông Mê.

Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với quân dân Campuchia để đánh bại cuộc hành quân xâm lược của Mỹ và ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 quân địch, phá hủy hơn 1.500 xe quân sự và bắn rơi 20 máy bay.

Sau chiến thắng tại Cămpuchia, lực lượng vũ trang cách mạng Lào-Việt đã liên tiếp tấn công địch, giáng đòn nặng nề vào Vàng Pao và quân đánh thuê Thái Lan, đánh bại các cuộc hành quân xâm lấn và tiến công thành công vào A-tô-pơ và Xa-Ra-Van Vùng giải phóng Lào đã được mở rộng, bao gồm 3/4 diện tích từ Bắc Lào đến Hạ Lào, kết hợp với vùng giải phóng Cămpuchia và Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ Trước những thất bại nặng nề trong năm 1970, Mỹ và đồng minh nhận thấy tình hình sa lầy, nhưng vẫn quyết tâm không chịu thất bại Từ tháng 2-1971, Mỹ mở cuộc hành quân chiến lược “Lam Sơn 719” nhằm phá vỡ hành lang chiến lược của ta, thử thách quân nguỵ Nam Việt Nam và tạo ra một tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương, nhằm củng cố sức mạnh tại miền Nam và uy hiếp miền Bắc.

Chúng ta đã dự đoán chính xác kế hoạch hành quân của địch và chuẩn bị một chiến lược tác chiến chu đáo Ngay từ đầu, địch đã bị chặn đứng bởi những trận phản công mạnh mẽ và liên tục, khiến chúng gặp khó khăn ở mọi nơi Lực lượng tại chỗ của ta, kết hợp với các đơn vị cơ động và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang PaThét Lào, đã thực hiện những cuộc tấn công dũng mãnh và tài giỏi.

NGẢ BÀI – KÍ KẾT ( 7-1972 đến 1-1973 )

2.3.1 ĐI VÀO ĐÀM PHÁN THỰC CHẤT

Thắng lợi của chiến tranh cách mạng tại ba nước Đông Dương trong giai đoạn 1970-1971 đã tạo ra một tình thế thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta Điều này mở ra cơ hội mới để kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, từ đó phát huy quyền chủ động tiến công nhằm giành thắng lợi chiến lược lớn hơn trong năm 1972.

Vào tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp để đánh giá tình hình và xác định thời cơ chiến lược, nhấn mạnh nhiệm vụ cấp bách của quân và dân ta là nắm bắt thời cơ lớn Dựa trên phương châm chiến lược đánh lâu dài, cần tiến hành các cuộc tấn công quân sự, chính trị và ngoại giao mạnh mẽ, phát triển thế chiến lược tấn công mới trên toàn miền Nam và Đông Dương, nhằm giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh thông qua thương lượng trên thế thua.

Hội nghị Quân uỷ trung ương tháng 6-1971 đã cụ thể hóa chủ trương của Bộ chính trị, xác định nhiệm vụ tiến công chiến lược cho năm 1972 với ba hướng chiến lược chính: Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam.

Vào đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 Ban chấp hành trung ương khoá III đã xác định nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân là kiên trì kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn Điều này yêu cầu sự động viên toàn lực, nỗ lực vượt bậc và tinh thần anh dũng để đẩy mạnh cuộc kháng chiến Đồng thời, cần tăng cường đoàn kết và phối hợp chặt chẽ với quân và dân Lào, quân và dân Campuchia nhằm đánh bại chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh”.

Mỹ, đánh bại học thuyết Níchxơn, giành thắng lợi to lớn hơn nữa cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ ,cứu nước”

Vào ngày 11-3-1972, thường vụ Quân uỷ trung ương đã ra nghị quyết tiến hành cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, tập trung chủ yếu vào chiến trường Trị - Thiên Mục tiêu là tiêu diệt quân địch và mở rộng vùng giải phóng, từ đó thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, cũng như cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, nâng cao cuộc kháng chiến lên một bước mới Song song với chiến trường chính, các khu vực Tây Nguyên, khu V và Nam Bộ cũng tổ chức các chiến dịch quy mô vừa và lớn, hình thành một cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

Vào trưa ngày 30-3-1972, thực hiện chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, cuộc tổng tiến công chiến lược tại Trị-Thiên đã diễn ra Quân đội ta đã tiến thẳng vào tuyến phòng ngự kiên cố của địch, tiêu diệt nhiều căn cứ trung đoàn, bức hàng một trung đoàn và gây thiệt hại nặng nề cho các trung đoàn khác Kết quả, ta đã phá vỡ tuyến phòng thủ đường 9, giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh và Cam Lộ Chiến thắng này giúp ta chiếm lĩnh bàn đạp phía bắc và tây Quảng Trị, uy hiếp khu vực Đông Hà-Ái Tử-Quảng Trị-La Vang và gia tăng sức ép ở phía tây Huế.

Vào ngày 5-4, lực lượng ta đã phá vỡ tuyến phòng ngự biên giới của địch tại miền Đông Nam Bộ, tiêu diệt 3 chiến đoàn bộ binh C và 2 trung đoàn thiết giáp, giải phóng 3 huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Thiện Ngôn, từ đó chiếm lĩnh bàn đạp chiến lược tại biên giới, cắt đứt đường 13 và bao vây thị xã Lộc An Tại Tây Nguyên, ta tiến công vào tuyến phòng thủ tây sông PôCô, gây thiệt hại cho lữ dù 2 và uy hiếp mạnh mẽ vùng bắc Công Tum Ở đồng bằng khu 5, ta cũng đã mở ra một số bàn đạp tại các khu vực như bắc Quảng Nam, bắc Bình Định (khu 5), Đồng Tháp Mười (khu 8) và U Minh Thượng (khu 9) để tạo thế đứng chân cho lực lượng chủ lực.

Mặc dù Mỹ và ngụy đã biết trước về khả năng Việt Nam sẽ tiến công, nhưng họ vẫn bị bất ngờ bởi thời điểm, phương hướng, quy mô và cường độ của cuộc tấn công Đặc biệt, cuộc tấn công quân sự của Việt Nam diễn ra chỉ một tháng sau chuyến đi Trung Quốc và ba tuần trước chuyến đi Liên Xô của Tổng thống R Níchxơn, điều này cho thấy sự khéo léo trong chiến lược của Việt Nam nhằm đáp trả những nỗ lực của Mỹ nhằm tấn công vào hậu phương quốc tế của họ Để đáp trả cuộc tiến công chiến lược này, Mỹ đã thực hiện các hành động quân sự vào ngày 6 tháng 4 năm 1972.

Mỹ đã khởi động chiến dịch không quân Lainơbếchcơi, tiến hành ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam Ngày sau khi các cuộc ném bom diễn ra, Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư cảm ơn Tổng thống R Níchxơn, bày tỏ sự lo lắng và kêu gọi Mỹ tăng cường hỗ trợ một cách nhanh chóng Ông nhấn mạnh rằng sự giúp đỡ đầy đủ và kịp thời từ Mỹ là điều quan trọng nhất đối với chính quyền ngụy Điều này cho thấy Mỹ cũng nhận thức được tầm quan trọng của cuộc tấn công này trong bối cảnh đàm phán ở Paris, đồng thời phản ánh nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Vào ngày 27-4, ta mở đợt tiến công thứ hai vào khu vực phòng ngữ Đông Hà-Ái Tử-La Vang, kết hợp với các hoạt động tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, cùng với lực lượng chủ lực trên đường 12-tây Huế Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt cụm Đông Hà-Ái Tử, giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị và khu vực Động Tranh, tạo ra mối đe dọa trực tiếp đối với Thừa Thiên Huế.

Vào ngày 24-4, trên mặt trận Tây Nguyên, ta đã tiến công tiêu diệt địch tại Đắc Tô-Tân Cảnh, giải phóng phía Bắc tỉnh Kon Tum và uy hiếp trực tiếp tỉnh này Tại Đông Nam Bộ, quân giải phóng đã tấn công mạnh mẽ trên các tuyến đường số 13 và 22, phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở phía bắc và tây bắc Sài Gòn Ở đồng bằng khu 5, ta đã tấn công nhiều căn cứ và chi khu quân sự của địch, giải phóng các quận lỵ Hoài Nhơn, Bồng Sơn, Hiệp Đức và thị trấn Tam Quan Trong tháng 5 và 6-1972, ta tiếp tục tổ chức các đợt tiến công vào tuyến Nam sông Mỹ Chánh và tây sông Hương (Trị – Thiên), cũng như các khu vực ven và trong thị xã Kon Tum (Tây Nguyên) và thị xã An Lộc (Đông Nam Bộ).

Đến tháng 6-1972, sau gần ba tháng tiến công, ta đã tiêu diệt khoảng 250.000 địch, làm tan rã 2.200 đồn bốt trong tổng số 9.000 đồn bốt, giải phóng hơn 1 triệu dân và hoàn toàn giải phóng tỉnh Quảng Trị, cùng với phần lớn tỉnh Kon Tum và một khu vực lớn ở Đông Nam Bộ Khối chủ lực của ta đã phá vỡ các khu vực phòng ngự mạnh của địch, chiếm giữ các địa bàn quan trọng và tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta Điều này mở ra tình thế cách mạng thuận lợi, với cục diện vừa đánh vừa đàm nhịp nhàng tại Hội nghị Paris và phong trào chống Mỹ xâm lược diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới.

Thắng lợi Xuân Hè đã mở ra cơ hội kết thúc chiến tranh, khi Hoa Kỳ đối mặt với nhiều khó khăn cả trong nước lẫn quốc tế Việt Nam, với lực lượng và thế trận được cải thiện, có khả năng ép Mỹ chấp nhận giải pháp đáp ứng yêu cầu của mình trong bối cảnh quốc tế đang có xu hướng hòa hoãn.

Trước sự chuyển biến của tình hình đó, trong những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7-1972, Bộ chính trị đã đưa ra quyết định có tính chất chiến lược

“Đánh cho Mỹ cút” đánh dấu sự chuyển hướng chiến lược quan trọng, từ chiến tranh sang hòa bình, với mục tiêu chính là đấu tranh chính trị Đây là giai đoạn mới trong cuộc cách mạng, nơi đàm phán trở nên thực chất hơn, bắt đầu từ tháng 7 cho đến tháng 9.

Paris, Lê Đức Thọ và Kítsinhgiơ có một loạt cuộc gặp riêng bàn vấn đề một cách thực chất

Vào đầu tháng 10 năm 1972, cuộc thương lượng hòa bình về Việt Nam kéo dài suốt 4 năm nhưng không có tiến triển do sự ngoan cố của Mỹ Để đẩy nhanh quá trình đàm phán, vào ngày 8-10-1972, trong cuộc gặp riêng với cố vấn Kissinger, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã chủ động giao cho phía Mỹ một số đề xuất nhằm thúc đẩy việc đạt được kết quả.

KẾT LUẬN

Chỉ đạo cách mạng và chiến tranh là sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật, trong đó việc ký Hiệp định Paris thể hiện thành công của nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong chỉ đạo của Đảng Đây là bài học quý giá về ngoại giao và đàm phán, góp phần mang lại những thắng lợi lớn cho cách mạng Việt Nam.

Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam là một thắng lợi vĩ đại, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao của cách mạng Việt Nam Đây cũng là thành công to lớn trong việc phối hợp giữa cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường với các nỗ lực đàm phán quốc tế Tất cả những điều này càng làm tỏa sáng tinh thần chiến tranh nhân dân Việt Nam, tạo nên một trang sử vàng huyền thoại của thế kỷ XX.

Nghiên cứu về "Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại Hội nghị Paris về Việt Nam" đã cho thấy nhiều kết luận quan trọng Hội nghị Paris không chỉ là nơi diễn ra các cuộc đàm phán, mà còn là một chiến trường ngoại giao, nơi Đảng đã khéo léo kết hợp giữa sức mạnh quân sự và ngoại giao Sự linh hoạt trong chiến lược đấu tranh đã giúp Đảng đạt được những thành công nhất định trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia Qua đó, nghệ thuật vừa đánh vừa đàm đã trở thành một bài học quý giá cho các cuộc đấu tranh ngoại giao sau này.

1 Đảng ta lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng này một cách khoa học không phải vì nắm trong tay một số lớn phương tiện chiến tranh, hay vì sử dụng một số vũ khí hiện đại, là có thể tiến hành chiến tranh một cách khoa học, mà là vì nhận thức và hành động của Đảng ta đề ra trong cuộc kháng chiến vĩ đại này không những mang tính cách mạng triệt để, mà còn mang tính khoa học cao độ Vì phương pháp cách mạng mà Đảng ta vận dụng trong cuộc chiến đấu lâu dài này không những là khoa học mà còn đạt tới một trình độ nghệ thuật Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩ Mác-Lênin đã được vận dụng một cách sáng tạo, kết hợp một cách chặt chẽ và phát huy một cách đầy đủ nhất trong đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta

Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng, dẫn dắt cách mạng và nâng cao trí tuệ, năng lực tư duy sáng tạo của nhân dân Việt Nam Nhờ vào đó, Đảng và dân tộc ta có khả năng giải quyết hiệu quả những vấn đề trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực xâm lược Do đó, có thể khẳng định rằng, trong mọi hoàn cảnh, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là cơ sở cho nghệ thuật vừa đánh vừa đàm.

2 Trong thương lượng cả Việt Nam và Mỹ đều biết rằng chỉ có thể giành được trên bàn Hội nghị những cái có thể giành được trên chiến trường Nhận thức được điều đó, Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã biết vận dụng và nắm vững nghệ thuật “vừa đánh vừa đàm” trong lịch sử ngoại giao truyền thống “lấy ít địch nhiều, lấy yếu trị mạnh” và nhất là rút kinh nghiệm từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp; Đảng ta đã biết kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao để tiến công địch toàn diện Lấy thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên chiến trường trong nước để tạo thế cho đấu tranh ngoại giao Thắng lợi của đấu tranh ngoại giao lại tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự và chính trị thắng lớn hơn Nhờ nắm vững và biết kết hợp “đánh-đàm” một cách chủ động, sáng tạo, cho nên tại Hội nghị Paris chúng ta đã thu được những thắng lợi to lớn, Mỹ đã phải

“cút” để rồi tiến tới chúng ta “đánh cho ngụy nhào” vào mùa Xuân 1975

Việc ký Hiệp định Paris đánh dấu một thắng lợi tổng hợp trong cuộc đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam Hiệp định này làm suy yếu chính quyền Ngụy và tạo ra cơ sở pháp lý ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ trong tương lai Thắng lợi này đã thay đổi cục diện lực lượng có lợi cho ta tại miền Nam, mở ra cơ hội lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam vào mùa Xuân 1975, kết quả của nghệ thuật vừa đánh vừa đàm của Đảng ta trong bốn năm tại Hội nghị Paris.

4 Khi nghiên cứu về “ Nghệ thuật vừa đánh vừa đàm trong đấu tranh ngoại giao của Đảng tại Hội nghị Paris về Việt Nam” còn để lại cho chúng ta một số bài học quan trọng sau :

Thứ nhất: Xác định thật rõ, thật đúng mục tiêu cần đạt được Mùa thu

Năm 1968, mặc dù chiến trường đã tạm lắng, nhưng Việt Nam đã tận dụng những khó khăn nội bộ của Mỹ để buộc nước này chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc Điều này đã mở ra cơ hội cho các cuộc đàm phán tiến tới giải quyết vấn đề miền Nam, trong đó có sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Cuối năm 1972, trong bối cảnh đàm phán khó khăn, Bộ Chính trị đã xác định lại mục tiêu, yêu cầu Mỹ rút hết quân và chấm dứt can thiệp quân sự, đồng thời duy trì lực lượng chính trị và vũ trang của ta Cuộc họp tháng 6-1972 khẳng định thực tế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội và hai vùng kiểm soát, đòi hỏi giải quyết song song vấn đề quân sự và chính trị Tuy nhiên, sau ba tháng đàm phán không tiến triển, vào đầu tháng 10-1972, Bộ Chính trị đã điều chỉnh mục tiêu để tranh thủ giải pháp trước bầu cử Mỹ, tạm gác một số vấn đề chính trị nội bộ miền Nam để tập trung vào các vấn đề quân sự như ngừng bắn, rút quân và thả tù binh Việc xác định mục tiêu này đã có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy đàm phán đạt được thỏa thuận vào ngày 20-10-1972.

Xác định đúng thời cơ là yếu tố quan trọng trong nghệ thuật đàm phán Trong trường hợp buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc vào tháng 10-1968, sức ép từ chiến trường tuy đã giảm nhưng vẫn có tác động, bên cạnh đó là sức ép quốc tế yêu cầu Mỹ đáp ứng các đòi hỏi của Việt Nam Tuy nhiên, yếu tố quyết định lớn nhất chính là những khó khăn nội bộ tại Mỹ, đặc biệt là áp lực từ cuộc bầu cử.

Cuối năm 1972, Việt Nam đã tận dụng thời cơ trong bối cảnh chiến trường thuận lợi, khi nội bộ Mỹ gặp khó khăn do sự gia tăng của phe chống chiến tranh và áp lực bầu cử Trong bối cảnh quốc tế có xu hướng hòa hoãn, nhân dân Việt Nam cũng cần thời gian nghỉ ngơi và phục hồi sau một thời gian dài chiến tranh Thời cơ này là sự tổng hợp từ lực lượng trên chiến trường, tình hình nội bộ của đối phương và của ta, cùng với bối cảnh quốc tế, trong đó yếu tố chiến trường đóng vai trò quan trọng nhất.

Thứ ba, việc nắm vững và khéo léo vận dụng sách lược là yếu tố quyết định trong nghệ thuật đàm phán để đạt được thành công Đàm phán không chỉ đơn thuần là thỏa hiệp mà còn yêu cầu sử dụng các chiến lược phù hợp Chẳng hạn, trong hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, chúng ta đã tạm gác yêu cầu độc lập để công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, đồng thời chấp nhận sự hiện diện của quân Pháp tại miền Bắc Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc vận dụng sách lược một cách linh hoạt trong các cuộc đàm phán.

Năm 1954, Việt Nam chấp nhận chia cắt tạm thời thành hai miền Bắc và Nam, một quyết định khó khăn do tình hình yếu kém Đến năm 1968, Việt Nam đã buộc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom miền Bắc mà không phải trả giá lớn Sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã dẫn đến việc chính quyền Sài Gòn được tham gia vào các cuộc đàm phán sau này Vào tháng 10 năm 1972, trong bối cảnh đàm phán bế tắc, Bộ Chính trị đã có quyết định táo bạo, tập trung vào việc yêu cầu Mỹ rút quân và chấm dứt sự can thiệp quân sự, tạm gác lại một số vấn đề chính trị nội bộ miền Nam để hai bên tự giải quyết sau.

Cuộc đàm phán Paris của Việt Nam đã thể hiện nhiều sách lược, trong đó việc tạm gác một số vấn đề chính trị nội bộ miền Nam để đạt được Hiệp định rút quân Mỹ là quyết định quan trọng nhất Sách lược này không chỉ giúp chấm dứt sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam, mà còn góp phần quyết định vào thắng lợi của toàn bộ cuộc đàm phán.

Ngày đăng: 16/09/2021, 16:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] – Nguyễn Lương Bích(2000). Lược sử ngoại giao Việt Nam các thờ trước. Nhà xuất bản, Quân đội nhân dân – Hà Nội Khác
[2] – Lưu Văn Lợi (2004). Ngoại giao Việt Nam (1945- 1995). Nhà xuất bản, Công an nhân dân Khác
[3] – Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ chính trị(1995). Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi và bài học. Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[4] – Bộ ngoại giao(2004). Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[5] – Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ(2002). Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – KissinGer tại Paris. Nhà xuất bản, Công an nhân dân Khác
[6] – Nguyễn Đình Bin(2005). Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[7] – Nhiều tác giả (2004). Bác Hồ trong trái tim các nhà Ngoại giao. Nhà xuất bản Thanh Niên Khác
[8] – Hoàng Minh Thảo (1977). Tìm hiểu về tổ tiên ta đánh giặc. Nhà xuất bản Quân đội Hà Nội Khác
[9] - Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 28 (1967). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[10] – Lương Viết Sang. Cục diện vừa đánh vừa đàm lần thứ hai trong kháng chiến chống Pháp. Nghiên cứu lịch sử số 9(340)/2004. Viện khoa học xã hội Việt Nam. Viện sử học Khác
[11] – Phan Doãn Nam. Mặt trận ngoại giao trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tạp chí cộng sản số 8/4 – 2005. Cơ quan lý luận và chính trị của trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khác
[12] – Lương Viết Sang(2005). Quá trình Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968-1973). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[13] – Nguyễn Dy Niên(2002). Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[14] – Nguyễn Duy Trinh (1979). Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1965-1975. Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội Khác
[15] – (1985). Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta. Nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội Khác
[16] – Vũ Dương Huân (2005). Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Nhà xuất bản Thanh Niên Khác
[17] – Trần Nhâm(1995). Nghệ thuật biết thắng từng bước. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác
[18] – Nguyễn Phúc Luân(2005). Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch sử. Nhà xuất bản, Công an nhân dân Khác
[19] – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện sử học (1995). Thắng lợi kháng chiến chống Mỹ và hai mươi năm xây dựng đất nước sau chiến tranh. Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội Khác
[20] – Bộ Quốc phòng viện lịch sử quân sự Việt Nam (2001). Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1954-1975). Tập V : Tổng tiến công và nổi dậy 1968. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w