1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ so sánh với tiếng việt

154 70 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hành Vi Chê Trách Trong Tiếng Anh Mỹ (So Sánh Với Tiếng Việt)
Tác giả Huỳnh Thị Diệu Trang
Người hướng dẫn TS. Trần Thủy Vĩnh
Trường học Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Ngôn Ngữ Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Ngữ Văn
Năm xuất bản 2007
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 154
Dung lượng 806,06 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu (7)
  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (8)
  • 3. Lịch sử nghiên cứu (9)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (13)
  • 5. Đóng góp của luận văn (14)
  • 6. Bố cục luận văn (15)
    • 1.1.1. Hành vi ngôn ngữ (18)
      • 1.1.1.1. Những điều kiện cho một hành vi ngôn ngữ (19)
      • 1.1.1.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ (20)
      • 1.1.1.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và gián tiếp (22)
    • 1.1.2. Lịch sự và vai giao tiếp (23)
      • 1.1.2.1. Khái niệm về lịch sự (23)
      • 1.1.2.2. Vai giao tieáp (24)
    • 1.1.3. Chiến lược lịch sự và thể diện (26)
      • 1.1.3.1. Theồ dieọn (26)
      • 1.1.3.2. Chiến lược lịch sự (27)
    • 1.2. Hành vi chê trách (29)
      • 1.2.1. Chê trách-Một hành vi giao tiếp tại lời (29)
        • 1.2.1.1. Hành vi tại lời (29)
        • 1.2.1.2. Chê trách-Một hành vi tại lời (29)
      • 1.2.2. Hành vi chê trách - một hành vi đe dọa thể diện âm tính (30)
      • 1.2.3. Các (loại) chiến lược cơ bản thể hiện hành vi ngôn ngữ chê trách (0)
      • 1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược chê trách (32)
      • 1.2.5. Các mức độ của hành vi chê trách (36)
    • 1.3. Tieồu keỏt (36)
      • 2.1.1. Các động từ biểu thị hành vi chê trách (38)
      • 2.1.2. Giới hạn nghiên cứu hành vi ngôn ngữ chê trách (39)
    • 2.2. Chiến lược chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt (39)
      • 2.2.1. Một số cơ sở hình thành các chiến lược chê trách (39)
      • 2.2.2. Các chiến lược (cách thức) chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tieỏng Vieọt (40)
        • 2.2.2.1. Chê trách theo lối nói dí dỏm, khôi hài (41)
        • 2.2.2.2. Chê trách kèm lời khen (44)
        • 2.2.2.3. Chê trách kèm khuyên nhủ (46)
        • 2.2.2.4. Chê trách bằng cách tỏ thái độ không hài lòng về bản thaân (50)
        • 2.2.2.5. Chê trách bằng lối nói chân tình, thẳng thắn (55)
        • 2.2.2.6. Chê trách bằng lối nói xúc phạm thể diện đối tác giao tieáp (58)
        • 2.2.2.7. Chê trách bằng lối nói hạ bệ đối phương (62)
        • 2.2.2.8. Chê trách gián tiếp bằng cách sử dụng hàm ý (66)
      • 2.2.3. Phối hợp các chiến lược chê trách (74)
    • 2.3. Lối nói trực tiếp, lối nói gián tiếp của hành vi chê trách (81)
    • 2.4. Tieồu keỏt (85)
    • 3.2. Phương pháp nghiên cứu (87)
      • 3.2.1. Các đối tượng (87)
      • 3.2.2. Nội dung câu hỏi (89)
    • 3.3. Cách tiến hành thu thập dữ liệu (90)
    • 3.4. Kết quả và phân tích (91)
      • 3.4.1. Kết quả (91)
        • 3.4.1.1. Chiến lược chê trách của người Mỹ và Việt (91)
        • 3.4.1.2. Chuyển di trong việc sử dụng các chiến lược chê trách (95)
        • 3.4.1.3. Ảnh hưởng của địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đến việc chọn lựa các CLCT (98)
      • 3.4.2. Phaân tích (112)
        • 3.4.2.1. Mối quan hệ giữa địa vị xã hội với việc sử dụng các chiến lược chê trách (114)
        • 3.4.2.2. Mối quan hệ giữa tuổi tác với việc sử dụng các chiến lược chê trách (0)
        • 3.4.2.3. Mối quan hệ giữa giới tính với việc sử dụng các chiến lược chê trách (0)
    • 3.5. Tieồu keỏt (119)
  • KẾT LUẬN (121)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (127)

Nội dung

Lịch sử nghiên cứu

Hành vi ngôn ngữ đã thu hút sự chú ý của các nhà ngôn ngữ học, đặc biệt trong nghiên cứu về ứng xử lịch sự Các công trình nghiên cứu về phép lịch sự và hành vi ngôn ngữ không chỉ có tính thực tiễn mà còn có giá trị cao, vì chúng khám phá nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau và cung cấp thông tin về việc chuyển giao cách nói giữa các nhóm này.

J Austin và J.R Searle là những người tiên phong trong việc phát triển khái niệm hành vi ngôn ngữ, dẫn đến sự hình thành lý thuyết hành vi ngôn ngữ Lý thuyết này đã có những điều chỉnh sâu sắc và cơ bản đối với quan niệm của F de Saussure về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói.

Trong tác phẩm "How to Do Things with Words" (Nói tức là làm), triết gia J Austin đã giới thiệu khái niệm "hành vi ngôn ngữ", nhấn mạnh rằng khi giao tiếp, con người sử dụng ngôn ngữ để thực hiện các hành động cụ thể Austin phân loại hành vi ngôn ngữ thành ba loại: hành vi tạo lời, hành vi tại lời và hành vi mượn lời.

Trong công trình "Speech Acts" (1969), Searle đã khẳng định vị trí quan trọng của mình trong sự phát triển lý thuyết hành vi ngôn ngữ, với luận điểm rằng hành vi nói năng là đơn vị cơ bản của giao tiếp Ông đã phân loại các hành vi ngôn ngữ thành nhiều nhóm dựa trên bốn tiêu chí chính: đích tại lời, hướng khớp ghép lời-hiện thực, trạng thái tâm lý và nội dung mệnh đề Từ đó, Searle đã chia thành năm phạm trù hành vi tại lời lớn, mỗi phạm trù lại được phân thành các tiểu phạm trù.

Brown và Levinson (1978 & 1987) là hai tác giả nổi tiếng trong lĩnh vực "lịch sự", tiếp cận khái niệm này như một hành vi giữ gìn thể diện Họ xây dựng lý thuyết lịch sự dựa trên khái niệm thể diện của Goffman (1967), cho rằng mỗi cộng đồng cần tạo dựng quy ước và chuẩn mực riêng để ngôn ngữ không làm tổn thương đến thể diện âm tính và dương tính Theo họ, lịch sự là chiến lược nhằm giảm thiểu "mất thể diện" trong giao tiếp Hai tác giả đã đề xuất các chiến lược và tiểu chiến lược lịch sự, bao gồm ba chiến lược cơ bản: lịch sự tích cực, lịch sự tiêu cực và gián tiếp.

George Yule (1996) trong tác phẩm "Pragmatics" đã thảo luận về khái niệm lịch sự và tương tác Ông coi lịch sự là một yếu tố quan trọng trong "hành vi xã hội lịch sự" và nghi thức giao tiếp trong văn hóa Theo Yule, lịch sự trong tương tác không chỉ là hành động mà còn là cách thể hiện sự tôn trọng đối với thể diện của người khác.

Mohammad Ali Salmani - Nodoushan đã thực hiện công trình nghiên cứu “Những chiến lược than phiền trong hội thoại bằng tiếng Farsi” nhằm phân tích ảnh hưởng của tuổi tác, giới tính và giai tầng xã hội đến cách thức than phiền Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn hành vi than phiền, bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp Tại Việt Nam, nhiều nhà ngôn ngữ học đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngành ngữ dụng học.

Nguyễn Đức Dân (1998) trong tác phẩm “Ngữ dụng học- Tập I” đã trình bày nguyên lý lịch sự và các hành vi ngôn ngữ, nhấn mạnh vấn đề thể diện theo Brown và Levinson, cùng với lý thuyết hành vi ngôn ngữ của J Austin và J R Searle Tác giả cũng đề cập đến các điều kiện sử dụng của các hành vi ngôn ngữ và phân loại các hành vi này trong lời nói.

• Đỗ Hữu Châu (2001) với “Đại cương ngôn ngữ học, Tập II,

Ngữ dụng học đã trình bày một cách đầy đủ và chi tiết các quan điểm nổi bật trong nghiên cứu phép lịch sự của R Lakoff, G N Leech, cũng như Brown và Levinson, được coi là những lý thuyết tương đối hoàn chỉnh trong lĩnh vực này.

Vũ Thị Thanh Hương đã có nhiều bài viết nghiên cứu về lịch sự được đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ, trong đó tập trung vào tính lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt Tác giả phân tích mối quan hệ giữa hình thức biểu đạt gián tiếp và lịch sự, nhấn mạnh nguyên tắc phổ niệm đồng nhất trong giao tiếp.

* Đăng trên tập san The International Journal of Language, Society and

Culture, soá 18-2006) sự với gián tiếp của các lý thuyết lịch sự phổ niệm về cơ bản là không phù hợp với tiếng Việt

Nguyễn Văn Lập đã có những đóng góp quan trọng qua luận án “Nghi thức lời nói tiếng Việt trên cơ sở lý thuyết hành vi ngôn ngữ (so sánh với tiếng Anh)”, giúp làm rõ mối liên hệ giữa nghi thức lời nói tiếng Việt và các vấn đề tương tác xã hội Luận án cũng nghiên cứu vai trò của lời nói trong giao tiếp và các lĩnh vực xã hội khác nhau.

Nguyễn Phương Chi đã trình bày luận án “Một số đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với tiếng Anh)”, cung cấp tư liệu và kinh nghiệm quý báu cho nghiên cứu về các chiến lược liên quan đến hành vi chê trách.

Luận văn đã kế thừa các thành tựu từ những công trình trước đó để xác định hành vi chê trách và các vấn đề liên quan, đồng thời phác thảo một số hướng tiếp cận chính Cách hình dung này được xây dựng dựa trên lý thuyết đại cương và các quan sát từ ngữ liệu tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt.

Mặc dù còn nhiều yếu tố khác cần xem xét, nhưng chúng tôi cho rằng đây là những bước cơ bản cần thực hiện khi nghiên cứu hành vi chê trách trong bối cảnh của một nền văn hóa cụ thể.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi áp dụng phương pháp so sánh đối chiếu để làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt trong hành vi chê trách giữa tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt Phương pháp này giúp chúng tôi nêu bật sự tương phản trong các chiến lược chê trách của người bản ngữ.

Luận văn nghiên cứu sự ảnh hưởng của yếu tố xã hội, tuổi tác và giới tính đến việc lựa chọn chiến lược chê trách giữa người bản ngữ tiếng Việt và người Việt học tiếng Anh Mỹ Chức năng của hành vi chê trách được phân tích từ góc độ ngữ dụng học, sử dụng các thủ pháp ngữ dụng để xem xét vai trò, ngữ cảnh và hiệu quả của các chiến lược này Nghiên cứu cũng lý giải các hành vi chê trách dưới tác động của môi trường văn hóa cụ thể Phương pháp phân tích cục bộ được áp dụng để làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa-ngữ dụng của phát ngôn chê trách.

Luận văn áp dụng phương pháp điều tra xã hội học để thu thập, xử lý và phân tích thông tin Chúng tôi đã thực hiện 150 phiếu hỏi đối với người Mỹ và người Việt, sau đó thống kê và phân loại thông tin theo các tiêu chí cụ thể, cùng với việc lập bảng biểu so sánh Cuối cùng, chúng tôi tiến hành phân tích và đưa ra những kết luận rõ ràng.

Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành so sánh hành vi chê trách giữa ngôn ngữ Anh Mỹ và tiếng Việt bằng phương pháp so sánh-đối chiếu Phương pháp này cho phép chúng tôi phân tích hành vi chê trách trong hai ngôn ngữ để xác định các điểm tương đồng và khác biệt trong các chiến lược chê trách.

Đóng góp của luận văn

• Cái mới của luận văn

- Đề xuất một số nội dung nghiên cứu cụ thể cần thiết về hành vi chê trách

- Tìm ra những tương đồng, khác biệt về hành vi chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt

- Cung cấp thêm tư liệu, kinh nghiệm để nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ khác

• Giá trị thực tiễn và lý thuyết của luận văn :

Luận văn này trình bày kiến thức sâu sắc về hành vi chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ Nghiên cứu này hỗ trợ quá trình giao tiếp hàng ngày và giao tiếp xuyên văn hóa, đồng thời giúp xây dựng các chiến lược dạy và học tiếng hiệu quả hơn Kết quả nghiên cứu có thể áp dụng vào thực tiễn, từ đó điều chỉnh cách diễn đạt của người bản ngữ, người Việt học tiếng Anh Mỹ và người Mỹ học tiếng Việt.

Luận văn này kiểm nghiệm khung lý thuyết hành vi ngôn ngữ, giúp giải quyết các vấn đề cụ thể và là tài liệu tham khảo quý giá cho sinh viên và học viên cao học chuyên ngành ngôn ngữ học Kết quả nghiên cứu còn đóng góp vào việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa-dân tộc thông qua ngôn ngữ và giao tiếp của người Mỹ và người Việt.

Bố cục luận văn

Hành vi ngôn ngữ

John L Austin là người tiên phong trong lý thuyết hành vi ngôn ngữ với tác phẩm "How to Do Things with Words" (Nói tức là làm), được xuất bản hai năm sau khi ông qua đời Trong công trình này, Austin đã làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, điều chỉnh quan niệm của Saussure, khiến ranh giới giữa ngôn ngữ và lời nói trở nên mờ nhạt hơn.

In his book "Speech Acts" (1969), J Searle asserts that language is integral to a theory of action, with speech acts encompassing verbal actions such as promising, threatening, and requesting performed during communication He emphasizes the importance of establishing clear and interconnected principles for categorizing these speech acts.

Austin là người tiên phong trong việc phân loại các hành vi ngôn ngữ, cho rằng khi phát biểu một câu, người nói thực hiện ba hành vi đồng thời.

1) Hành vi tạo lời (locutionary act)

2) Hành vi tại lời (illocutionary act)

3) Hành vi mượn lời (perlocutionary act) Austin cho rằng mỗi hành vi tạo lời tạo ra nội dung mệnh đề và do đó, có một ý nghĩa xác định (87: 119) Trong giao tiếp có nhiều hành vi tại lời khác nhau Thường gặp là những hành vi ra lệnh, yêu cầu, răn đe, dọa nạt, phán xét, phê bình, chê trách… Do vậy cần tiến hành phân loại các hành vi tại lời Các hành vi tại lời được chi phối bởi những quy tắc đã được xã hội ước chế, vì vậy có những điều kiện nhất định cho mỗi loại hành vi tại lời Khi thực hiện một hành vi tại lời chúng ta có hai hiệu quả khác nhau, đó là giá trị tự thân của hành vi tại lời và hiệu quả mà người nói có chủ đích gây ra đối với người nghe Trong một tình huống cụ thể, qua cung cách nói năng khi thực hiện một hành vi tại lời, người nói có thể nhằm một chủ đích, một mục tiêu nào đó cần đạt được Loại hiệu quả này của một hành vi tại lời được Austin gọi là hành vi mượn lời

1.1.1.1 Những điều kiện cho một hành vi ngôn ngữ

Austin cho rằng mỗi hành vi ngôn ngữ cần những điều kiện thuận lợi (felicity conditions) để được thực hiện John Searle đã phát triển ý tưởng này thành ba loại chính: Điều kiện ban đầu liên quan đến mối quan hệ giữa người nói và người nghe, bao gồm ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe, là điều kiện cần thiết cho hành vi ngôn ngữ Điều kiện chân thực yêu cầu người nói phải thành thật trong phát ngôn và tin vào điều mình nói Cuối cùng, điều kiện thiết yếu đề cập đến trách nhiệm của người nói đối với tính chân thực của lời nói sau khi hành vi đã được thực hiện.

Ngoài ra, để giao tiếp hiệu quả, cần có các điều kiện như "xuất phát và tới đích" cho các hành vi giao tiếp Cả người nói và người nghe đều phải thông thạo ngôn ngữ, không bị cản trở bởi các yếu tố sinh lý, và không tham gia vào các tình huống như diễn kịch hay đùa giỡn.

1.1.1.2 Phân loại hành vi ngôn ngữ

Trong nghiên cứu của mình, Austin (1962) đã chia các loại hành vi ngôn ngữ thành năm lớp lớn, nhưng sự phân loại này còn tồn tại những hạn chế như sự chồng chéo và mơ hồ Searle nhận thấy rằng cần có những nguyên lý rõ ràng và liên kết để phân loại các hành vi ngôn ngữ Ông đề xuất ba tiêu chí cơ bản là đích tại lời, hướng của sự ăn khớp, và trạng thái tâm lý được biểu hiện, cùng với tám tiêu chí về nội dung như hiệu lực, cương vị xã hội của người nói và người nghe, sự quan tâm, chức năng liên kết ngôn từ, nội dung, sự hiện diện của động từ ngữ vi, thể chế xã hội và hành vi ngôn ngữ Dựa trên những tiêu chí này, Searle đã phân loại các hành vi tại lời thành năm lớp lớn, trong đó có lớp biểu hiện (Representatives).

Searle gọi lớp hành vi này là lớp khẳng định, bao gồm các hành vi như khẳng định, tường thuật, miêu tả, thông tin và giải thích Các hành vi khẳng định được hiểu theo nghĩa cổ điển của Frege, có giá trị đúng hay sai, với mục tiêu phản ánh chính xác thế giới Bên cạnh đó, lớp chi phối (Directives) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng hành vi.

Lớp hành vi tại lời bao gồm mệnh lệnh, thách thức và yêu cầu, nhằm thúc đẩy người nghe thực hiện một hành động cụ thể Những cố gắng này có thể mang tính chất nhẹ nhàng hoặc mạnh mẽ, thể hiện ý chí, mong muốn và nguyện vọng của người nói Lớp cam kết (Commissives) cũng là một phần quan trọng trong việc thể hiện những nỗ lực này.

Lớp biểu cảm (Expressives) bao gồm các hành vi ngôn ngữ như cam đoan, thề, hứa hẹn, cho và tặng Mục đích của những hành vi này là gán trách nhiệm cho người nói trong việc thực hiện một hành động hoặc theo đuổi một tuyến hành vi cụ thể Trạng thái tâm lý thể hiện qua lớp này chính là ý định của người nói.

Trạng thái tâm lý được thể hiện qua hành vi tại lời, bao gồm các hành động như xin lỗi, chúc mừng, tán thưởng và cảm ơn Những hành vi này phản ánh cảm xúc và tâm trạng của người nói, và trạng thái tâm lý này phụ thuộc vào mục đích của hành vi tại lời.

Hành vi chê trách thuộc lớp biểu cảm e) Lớp tuyên bố (Declarations)

Lớp hành vi tại lời bao gồm các hành động như tuyên bố, kết tội và từ chức, với mục đích tạo ra sự thay đổi cụ thể Những lời tuyên bố và kết tội này không chỉ đơn thuần là ngôn ngữ mà còn mang lại giá trị thực tiễn nhờ vào các yếu tố thể chế Trạng thái tâm lý của người nói không có đặc trưng khái quát nhưng có thể được hiểu qua bối cảnh và ảnh hưởng từ môi trường xung quanh.

Trong quá trình phân tích, Searle chỉ ra rằng hành động chi phối và cam kết có hướng khớp ghép tương tự, nhưng không thể đưa vào cùng một phạm trù Cụ thể, cam kết đặt trách nhiệm thực hiện hành động lên người nói, trong khi hành động chi phối nhằm buộc người nghe thực hiện một hành động nào đó.

1.1.1.3 Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và gián tiếp

Lý thuyết hành vi ngôn ngữ đã thu hút sự chú ý lớn về các vấn đề lý thuyết chung trong việc sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt qua công trình "Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp" của J Searl (1975) Ông cho rằng, thông qua các hành vi ngôn ngữ gián tiếp, người nói có thể truyền đạt nhiều hơn những gì họ thực sự nói Nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ không chỉ tập trung vào hiệu lực tại lời mà còn mở rộng ra hành vi gián tiếp, liên quan đến sự phức tạp trong cách sử dụng ngôn ngữ và những dấu ấn văn hóa của cộng đồng, bao gồm niềm tin, thói quen và tập quán khác nhau.

Lịch sự và vai giao tiếp

1.1.2.1 Khái niệm về lịch sự

Lịch sự đóng vai trò thiết yếu trong giao tiếp xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến cả quá trình và hiệu quả của việc trao đổi thông tin.

Nhiều tác giả đã nghiên cứu khái niệm lịch sự từ các góc độ khác nhau, bao gồm G N Leech (1983), R Lakoff (1977), và P Brown – S Levinson (1978) Theo P Brown và S Levinson, lịch sự được hiểu là bất kỳ phương thức nào mà người nói và người nghe sử dụng để thể hiện sự quan tâm đến cảm xúc và thể diện của nhau trong cuộc hội thoại, bất chấp khoảng cách xã hội giữa họ.

Trong cuốn “Ngữ dụng học-Tập I”, Nguyễn Đức Dân trình bày quan điểm về lịch sự của G Leech (1983), cho rằng phép lịch sự dựa trên khái niệm tổn thất và lợi ích Mục tiêu của phép lịch sự là tối thiểu hóa những lối nói bất lịch sự (lịch sự tiêu cực) và tối đa hóa những vấn đề lịch sự (lịch sự tích cực) Leech đề xuất các phương châm giao tiếp lịch sự như khéo léo, hào hiệp, tán đồng, khiêm tốn và thiện cảm Ví dụ, giảm bớt lời chê bai và tăng cường lời khen ngợi (phương châm tán đồng) để giữ hòa khí, cũng như sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để tăng phần tổn thất cho mình (phương châm hào hiệp).

E Goffman (1981) đã chỉ ra rằng, trong giao tiếp, mỗi người cần thực hiện các vai tham thoại sao cho các hành vi của mình giữ được thể diện của mọi người, kể cả chính mình Xét cho cùng, bản chất của điều này chính là khả năng ứng xử vai giao tiếp của các tham thoại

Vai giao tiếp là thuật ngữ thể hiện vị thế xã hội của các nhân vật trong cuộc thoại, không chỉ đơn thuần là người nói hay người nghe mà là các thành viên trong hệ thống giao tiếp xã hội cụ thể Vị thế xã hội liên quan đến tuổi tác, giới tính và cương vị xã hội của những người tham gia, tạo nên cơ sở để họ tổ chức và biểu hiện vị thế của mình Để giao tiếp hiệu quả, cần chú ý đến khoảng cách xã hội và mức gắn bó giữa các bên tham gia.

Trong quan hệ vai, mỗi tham thoại thể hiện những diễn đạt cá nhân phù hợp với vai trò của mình Ví dụ, một người có thể nói khác khi là thủ trưởng tại cơ quan, khác khi là vợ trong gia đình, và lại khác khi giao tiếp với con cái Khi cá nhân chuyển từ vai này sang vai khác, họ cũng thay đổi mã giao tiếp, tức là áp dụng một biến đổi ngôn ngữ mới thích hợp với mối quan hệ hiện tại Vai giao tiếp và vị thế của cả người phát ngôn lẫn người thụ ngôn đều ảnh hưởng và để lại dấu ấn trong quá trình giao tiếp.

Các vai giao tiếp thường được chia thành hai nhóm: vai thường xuyên và vai lâm thời

Dựa vào mối quan hệ phụ thuộc giữa các thành viên trong cặp vai, quan hệ vai có thể được phân chia thành hai nhóm: Thứ nhất, khi người nói và người nghe có vị trí ngang hàng (SP1=SP2); thứ hai, khi vai trò của người nói không ngang hàng với người nghe.

Khi vai trò của người nói thấp hơn vai trò của người nghe (SP1< SP2) hoặc cao hơn (SP1> SP2), có nhiều quan sát cho thấy rằng khi SP1 và SP2 có vai trò ngang nhau (SP1=SP2), nếu họ đã quen biết và thân thiết, ngôn ngữ giao tiếp của họ thường ngắn gọn và ít tính chuẩn mực.

Trong cùng một nghi thức giao tiếp và bối cảnh, phép lịch sự chịu ảnh hưởng lớn từ mối quan hệ giữa các bên tham gia Để phát ngôn phù hợp, người giao tiếp cần nhận thức rõ về bản thân trong mối quan hệ với người đối thoại, bao gồm động cơ, mục đích, nhân cách, địa vị xã hội, học vấn, lối sống và cá tính, cũng như hoàn cảnh giao tiếp diễn ra.

Việc xác định vai trò và vị thế trong giao tiếp, cùng với ảnh hưởng của tình huống giao tiếp, đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp phù hợp.

Trong giao tiếp, hiệu quả của cuộc trò chuyện phụ thuộc nhiều vào khả năng ứng xử phù hợp với vai trò xã hội trong các tình huống giao tiếp đa dạng, cũng như các mục đích và nhiệm vụ giao tiếp khác nhau.

Quan hệ trong vai giao tiếp ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc lựa chọn các chiến lược giao tiếp, ví dụ như cách chê trách bạn bè khác với chê trách đồng nghiệp hay con cái.

Trong giao tiếp, việc xử lý vai trò và thể diện là một thách thức phức tạp Để nói năng một cách khéo léo mà không làm tổn thương thể diện của người khác, đồng thời vẫn giữ được thể diện cho bản thân, là điều không hề đơn giản trong mọi tình huống.

Chiến lược lịch sự và thể diện

Nguyên lý lịch sự trong giao tiếp thường gắn liền với khái niệm “thể diện” (face) và “giữ thể diện” E Goffman (1972) là người đầu tiên đề cập đến vấn đề này, nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân cần thực hiện những hành động nhằm bảo vệ thể diện của bản thân và người khác Những hành động này được gọi là “giữ thể diện”.

Khái niệm thể diện mà Goffman đề cập là một yếu tố quan trọng trong lý thuyết lịch sự, được P Brown và S Levinson (1978) định nghĩa như sự tổng hòa của hai loại mong muốn: thể diện dương tính (positive face wants) và thể diện âm tính (negative face wants) Theo họ, giao tiếp của con người mang tính lý trí và có mục đích, trong đó "thể diện" được xem như sự kết hợp của hai nhu cầu này Thể diện dương tính phản ánh nhu cầu được chấp nhận và yêu thích, cũng như mong muốn được chia sẻ những nhu cầu cá nhân, trong khi thể diện âm tính thể hiện mong muốn được tôn trọng quyền riêng tư, tự chủ và quyền từ chối của mỗi cá nhân.

Trong giao tiếp, hành vi ngôn ngữ có thể ảnh hưởng đến thể diện của cả người nói và người nghe, được gọi là hành vi đe dọa thể diện (face threatening acts) theo P Brown và S Levinson Đặc biệt, hành vi chê trách thường mang tính đe dọa cao, có thể dẫn đến sự khó chịu và không hài lòng cho người nhận Những lời chê trách, châm chọc hay phê phán không chỉ làm tổn hại đến thể diện mà còn hạ thấp giá trị của người khác Do đó, việc áp dụng các chiến lược chê trách một cách khéo léo nhằm giảm thiểu đe dọa thể diện và duy trì cuộc hội thoại là rất quan trọng.

Trong xã hội, việc xác lập "thể diện" không thể thực hiện một cách độc lập mà cần sự công nhận từ cộng đồng Thể diện là sự đánh giá của xã hội, và lịch sự không chỉ là việc giữ thể diện cho người khác mà còn cho chính bản thân Đánh giá về sự lịch sự là quyền năng của xã hội đối với từng cá nhân, vì mọi người đều là thành viên của xã hội Khi thể diện hay sự lịch sự của một người được công nhận, họ thường phải hành động theo những quy tắc và chuẩn mực mà xã hội đặt ra, dẫn đến việc con người có xu hướng hành động theo số đông và những quy ước ngầm, bất kể điều đó có được thể hiện ra hay không.

Chiến lược lịch sự, theo P Brown và S Levinson, là một phần quan trọng trong giao tiếp, chịu ảnh hưởng bởi ba yếu tố xã hội: tương quan quyền lực, khoảng cách xã hội giữa người nói và người nghe, và mức độ áp đặt của các hành vi đe dọa thể diện Việc đánh giá đúng mức độ đe dọa thể diện giúp người nói chọn chiến lược lịch sự phù hợp với mối quan hệ cá nhân và mục đích cuộc thoại Brown và Levinson phân loại chiến lược lịch sự thành ba loại chính: lịch sự dương tính, lịch sự âm tính và gián tiếp Lịch sự dương tính tập trung vào việc đề cao người khác, trong khi lịch sự âm tính nhằm tránh làm tổn hại đến thể diện của người khác, và nếu không thể tránh, sẽ giảm nhẹ mức độ tổn hại đó.

Hành vi chê trách

1.2.1 Chê trách-Một hành vi giao ti ế p t ạ i l ờ i

Theo R Hurford & B Heasley (1983), "Hành vi tại lời" là những phát ngôn được thực hiện trong bối cảnh xã hội, nơi mà các hành động này được xác định bởi các quy ước xã hội Người nói sử dụng hành vi tại lời để giao tiếp, thương thảo và tương tác với những người khác Tóm lại, các cuộc gặp gỡ giao tiếp xã hội chính là sự trao đổi của các hành vi tại lời.

1.2.1.2 Chê trách-Một hành vi t ạ i l ờ i

Theo Từ điển tiếng Việt (1994) do Hoàng Phê biên soạn, "chê" có nghĩa là thể hiện sự không thích hoặc không hài lòng vì cho rằng điều gì đó là kém hoặc xấu Trong khi đó, "trách" là việc bày tỏ sự không bằng lòng đối với một người có mối quan hệ gần gũi, vì cho rằng họ đã có hành vi hoặc thái độ không đúng đắn Do đó, "chê trách" là hành động vừa chê bai vừa thể hiện sự trách móc do không hài lòng với một điều gì đó.

Hành vi chê trách không nằm trong các cặp thoại được ưa thích như hỏi-trả lời hay đề nghị-chấp nhận, mà thuộc về các cặp thoại không được ưa thích như đề nghị-khước từ và đánh giá-không đồng ý Đây là loại “phản ứng” tiêu cực, dễ gây phản cảm cho đối tác giao tiếp và cũng tạo khó khăn cho người thực hiện hành vi chê trách Theo Yule (1977), các bên tham gia giao tiếp thường cố gắng tránh tạo ra những tình huống có cặp thoại không được ưa thích Do đó, cần cẩn trọng khi sử dụng hành vi chê trách, phê phán hay chỉ trích, và các chiến lược cụ thể sẽ được trình bày trong chương sau.

1.2.2 Hành vi chê trách - một hành vi đe dọa thể diện âm tính

Chê bai thường được coi là một hành động âm tính, nhưng nếu biết cách lựa chọn từ ngữ phù hợp, chúng ta vẫn có thể diễn đạt sự chê bai một cách lịch sự Mọi hành vi ngôn ngữ có thể dẫn đến tình huống đối mặt đều được xem là hành vi đe dọa thể diện (FTA) Theo Brown và Verschueren, bất kỳ hành động nào làm tổn hại đến thể diện của người khác đều cần được xử lý một cách tinh tế để giảm thiểu tác động tiêu cực.

Theo Levinson (1978), hành vi được gọi là đe dọa thể diện khi nó ảnh hưởng đến danh dự của người nói hoặc người nghe Brown và Levinson cũng chỉ ra rằng phép lịch sự âm tính và dương tính là hai khái niệm loại trừ lẫn nhau Một ví dụ điển hình là khi một đứa trẻ phải xin lỗi bạn vì đã đánh bạn ấy, nhưng lại nói: “Mình xin lỗi Nhưng bạn xứng đáng bị đánh lắm.” Câu xin lỗi này thể hiện sự mâu thuẫn giữa thể diện tiêu cực và tích cực.

1.2.3 Các (loại) chiến lược thể hiện hành vi ngôn ngữ chê trách

Hành vi chê trách trong ngôn ngữ có tính đe dọa thể diện cao, dễ gây ra sự không hài lòng cho người tiếp nhận Có hai loại chiến lược chê trách: chê trách trực tiếp (CTTT) và chê trách gián tiếp (CTGT) CTTT thể hiện rõ ràng ý kiến của người nói, trong khi CTGT ẩn chứa ý nghĩa chê trách mà không bộc lộ trực tiếp Mặc dù nội dung bề mặt của CTGT không phải là chê trách, người tiếp nhận vẫn có thể hiểu được hàm ý qua sự suy luận Việc sử dụng CTGT trong giao tiếp giúp giảm thiểu nguy cơ đe dọa thể diện và làm cho người tiếp nhận cảm thấy ít khó chịu hơn khi bị chỉ trích Các chiến lược cụ thể sẽ được trình bày trong chương tiếp theo.

Mô hình của Brown và Levinson cho rằng hành vi đe dọa thể diện ảnh hưởng đến người khác, dẫn đến việc sử dụng lời nói trực tiếp ít hơn Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều này không phải lúc nào cũng đúng.

Khảo sát về ngôn ngữ cho thấy rằng sự trực tiếp không luôn ít lịch sự hơn sự gián tiếp, đặc biệt là trong các ngôn ngữ ngoài Tây Âu Tannen chỉ ra rằng người Mỹ thường nói trực tiếp hơn người Hy Lạp, nhưng điều này không có nghĩa là họ kém lịch sự hơn Tương tự, Blum-Kulka cũng nhấn mạnh rằng đối với người Israel, sự gián tiếp không nhất thiết phải được hiểu là thể hiện sự lịch sự.

1.2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược chê trách

Theo Ellis (1994), các nhân tố xã hội như địa vị, tuổi tác và giới tính ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ Cohen (1996) nhấn mạnh rằng khả năng văn hóa xã hội tác động đến việc lựa chọn chiến lược hành vi ngôn ngữ, giúp người nói ứng xử phù hợp với văn hóa, độ tuổi và giới tính của họ Ông cũng chỉ ra rằng tầng lớp xã hội, nghề nghiệp và vai trò xã hội tương tác lẫn nhau trong quá trình này Cohen mô tả việc chọn lựa chiến lược hành vi ngôn ngữ phù hợp là một quá trình phức tạp, bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội, văn hóa, tình huống và cá nhân Do đó, địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn chiến lược ngôn ngữ.

Từ cuối thế kỷ XVIII, nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu Sapir (1921) khẳng định rằng ngôn ngữ và văn hóa có mối liên hệ chặt chẽ, đến mức không thể hiểu rõ cái này mà không có kiến thức về cái kia Hơn nữa, Whorf cho rằng ngôn ngữ không chỉ tương tác với văn hóa mà còn ảnh hưởng đến khuôn mẫu tư duy của cộng đồng người sử dụng.

Peccei (1999: 114) nhấn mạnh rằng tuổi tác là một yếu tố văn hóa quan trọng, ảnh hưởng đến sự biến đổi ngôn ngữ trong cộng đồng Ông cho rằng cách chúng ta nói về trẻ em và người lớn phản ánh vị thế xã hội của họ, được xác định bởi quyền lực kinh tế và xã hội mà họ nắm giữ Haslett (1986) chỉ ra ba ảnh hưởng của tuổi tác đối với giao tiếp: đầu tiên, sự khác biệt trong cách nói giữa các thế hệ; thứ hai, tuổi tác tác động đến kỹ năng hội thoại, bao gồm quyền và nghĩa vụ trong giao tiếp, chủ đề thảo luận, tính mạch lạc và chức năng giao tiếp; cuối cùng, tuổi tác ảnh hưởng đến cách sử dụng ngôn ngữ và hành vi giao tiếp giữa những người từ các nền văn hóa khác nhau.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng giới tính có ảnh hưởng đến việc sử dụng ngôn ngữ Theo Bonvillain (1993: 212), nữ giới và nam giới có những cách ứng xử khác nhau trong các lĩnh vực giao tiếp Cụ thể, phụ nữ thường có xu hướng sử dụng các đặc điểm âm vị học được coi là tiêu chuẩn hoặc đúng đắn.

Theo Đăng, T.H (1992), việc lựa chọn từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp trong giao tiếp thể hiện sự tôn trọng người khác, đặc biệt ở phụ nữ, những người thường tôn trọng quyền của người nói Nghiên cứu của T.K Gamble và M Gamble (1999) chỉ ra rằng giới tính ảnh hưởng đến cả ý nghĩa và cấu trúc lời nói Cụ thể, phụ nữ có xu hướng sử dụng các từ ngữ không dứt khoát và các cụm từ như “Tôi đoán”, “Tôi nghĩ” và “Tôi tự hỏi” nhiều hơn nam giới Hơn nữa, phụ nữ thường chuyển câu khẳng định thành câu hỏi, điều này cho thấy sự khác biệt trong phong cách giao tiếp giữa hai giới.

Trong bài viết “Do Women and Men Talk Differently?” của Wareing (1999: 75), tác giả chỉ ra rằng cuộc hội thoại giữa nam giới và nữ giới có sự khác biệt rõ rệt về chủ đề Phụ nữ thường chọn những đề tài riêng tư như gia đình, tình cảm và quan hệ bạn bè, trong khi đàn ông lại thích những chủ đề ít mang tính cá nhân hơn, như kỹ thuật hoặc sự kiện thể thao, xe cộ, và sửa chữa nhà cửa Những cuộc trò chuyện này thường nhấn mạnh việc trao đổi thông tin hơn là sự thân mật Ngược lại, hội thoại của phụ nữ tập trung vào việc phát triển và duy trì mối quan hệ thông qua sự chân thành, lắng nghe và hỗ trợ lẫn nhau.

Khoảng cách xã hội phản ánh mức độ thân mật giữa người nói và người nghe, thường do mối quan hệ trong cùng nhóm hoặc sự giao tiếp thường xuyên Càng có nhiều cơ hội trao đổi "thể diện dương tính", người ta càng gần gũi nhau hơn Khoảng cách xã hội cũng liên quan đến địa vị, quyền lực và giai cấp, ảnh hưởng đến phong cách giao tiếp Theo T.K Gamble và M Gambe, ngôn ngữ sử dụng phản ánh quyền lực của người nói; những người có quyền lực thường phát ngôn rõ ràng và quyết đoán, trong khi người không có quyền lực lại dùng lối nói gián tiếp Bonvillain cho rằng sự khác biệt về địa vị xã hội không chỉ thể hiện qua từ ngữ mà còn ở quyền quyết định chủ đề giao tiếp Những người có địa vị cao thường có xu hướng ngắt lời hoặc không chú ý đến ý kiến của người có địa vị thấp hơn Cuối cùng, Bonvillain nhấn mạnh rằng địa vị và quyền lực là do con người tạo ra và định lượng, yêu cầu sự rèn luyện để được công nhận.

Tieồu keỏt

Trong chương này, luận văn trình bày cơ sở lý thuyết nghiên cứu hành vi chê trách, tập trung vào lý thuyết hành vi ngôn ngữ và mối quan hệ với phép lịch sự, chiến lược lịch sự và thể diện Ngoài ra, chương cũng nêu rõ các yếu tố chính ảnh hưởng đến chiến thuật chê trách, bao gồm khoảng cách xã hội, tuổi tác và giới tính.

Để nghiên cứu hành vi chê trách, cần áp dụng hiệu quả các khái niệm trong ngôn ngữ như tính lịch sự, thể diện và chuyển di Việc hiểu rõ ngữ dụng của "chuyển di" sẽ hỗ trợ trong việc phân tích hành vi ngôn ngữ liên quan.

CÁC CÁCH THỨC CHÊ TRÁCH TRONG TIẾNG ANH MỸ VÀ TIẾNG VIỆT

2.1 Các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời của hành vi chê trách

2.1.1 Các động từ biểu thị hành vi chê trách

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên, các động từ thể hiện hành vi chê trách được định nghĩa rõ ràng và có ý nghĩa cụ thể, là trọng tâm mà luận văn này nghiên cứu.

“Chê trách” là chê và tỏ ý trách vì không được hài lòng

“Chê bai” là tỏ lời chê (nói khái quát)

“Quở trách” là nhận xét trực tiếp một cách nghiêm khắc lỗi của người bề dưới

“Trách cứ” là tỏ lời không bằng lòng về người nào đó, cho là phải chịu trách nhiệm về điều không hay, không tốt đã xảy ra

"Trách móc" là cách thể hiện sự không hài lòng với những hành động không đúng, không tốt của người có mối quan hệ gần gũi, liên quan đến bản thân.

"Khiển trách" là hình thức kỷ luật nghiêm khắc, nhằm chỉ ra khuyết điểm và trách nhiệm của cấp dưới, nhẹ hơn so với cảnh cáo nhưng nặng hơn so với phê bình.

“Trách mắng” là trách người dưới bằng những lời nói nặng

Phân tích ngữ nghĩa giúp xác định phạm vi hoạt động của các động từ, đặc biệt là những động từ có vai trò như phương tiện chỉ dẫn hiệu lực trong lời nói, chẳng hạn như “chê trách” Việc hiểu rõ ý nghĩa và chức năng của những động từ này là cần thiết để nâng cao khả năng giao tiếp và diễn đạt trong ngôn ngữ.

Trong bài viết, thuật ngữ "chê bai", "quở trách", và "trách cứ" được phân tích, trong đó "chê trách" được hiểu với hai ý nghĩa chính: chê trách một đối tượng cụ thể và chê trách hành động nào đó Điều này cho thấy "chê trách" là cách diễn đạt phù hợp nhất để thể hiện nội dung phê phán, như đã nêu trong phần 1.2.1.2.

2.1.2 Giới hạn nghiên cứu hành vi ngôn ngữ chê trách

Hành vi chê trách là một hiện tượng phức tạp có thể được phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung vào các chiến lược chê trách, lối nói và sự kết hợp giữa các chiến lược này, cũng như ảnh hưởng của địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đến việc lựa chọn chiến lược chê trách Luận văn chỉ nghiên cứu hành vi chê trách thuộc về lời nói, do đó các chiến lược chê trách không lời như im lặng, không hành động hay thực hiện bằng hành động sẽ không được đề cập Bên cạnh đó, các đặc điểm về tình thái cũng không nằm trong phạm vi nghiên cứu, vì đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, yêu cầu nhiều thời gian để khám phá.

Chiến lược chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt

2.2.1 Một số cơ sở hình thành các chiến lược chê trách Để có thể nhận diện một cách chính xác các chiến lược chê trách, cần phải làm sáng tỏ những cơ sở đã hình thành nên chúng Sau đây là một số cơ sở quy ước (topos) phổ biến để tạo lập luận chê trách

• Tính hữu ích : Điều đã làm, thực hiện,… được đánh giá theo quan điểm ích lợi, nếu điều này vô ích, có hại… thì sẽ bị chê trách

Tính hợp tình hợp lý là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá hành động và quyết định Nếu một hành động không phù hợp với tình huống thực tế hoặc không có lý do chính đáng, nó sẽ dễ dàng bị chỉ trích Do đó, việc xem xét cả khía cạnh tình cảm và lý trí trong các quyết định là rất cần thiết để đảm bảo sự chấp nhận và thành công.

• Thể diện : Điều đã làm, thực hiện,… được đánh giá theo quan điểm giữ thể diện, nếu điều này phương hại đến thể diện thì bị chê trách

2.2.2 Các chiến lược (cách thức) chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Vieọt

Ngôn từ có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mức độ trang trọng hay thân thiện của giao tiếp Các thành viên trong tình huống giao tiếp cần ý thức về cách sử dụng phát ngôn phù hợp với mức độ trang trọng và mối quan hệ giữa họ, từ đó lựa chọn hành vi ngôn ngữ thích hợp Tình huống giao tiếp yêu cầu người nói phải tạo ra và chọn lựa phát ngôn phù hợp với môi trường Đặc biệt, trong các phát ngôn mang tính chê trách, cần cân nhắc kỹ lưỡng vì chúng có thể đe dọa thể diện của người khác.

Trong giao tiếp, khi chê trách, người nói cần lựa chọn ngôn từ một cách khéo léo và tế nhị để phát ngôn trở nên dễ chấp nhận hơn Việc linh hoạt trong cách diễn đạt và phù hợp với ngữ cảnh, bao gồm tình huống, địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính của người tham gia, sẽ giúp tạo ra một môi trường giao tiếp thoải mái Điều này không chỉ giảm thiểu những hiểu lầm mà còn giúp người nghe dễ dàng chấp nhận lời chê trách.

Việc xây dựng chiến lược chê trách trong tiếng Anh Mỹ tương tự như trong tiếng Việt, dựa trên các yếu tố như tính hữu ích, tính hợp lý và thể diện Dưới đây là một số phương pháp cụ thể để thực hiện điều này.

2.2.2.1 Chê trách theo lối nói dí dỏm, khôi hài

Trong giao tiếp không trang trọng, việc sử dụng phát ngôn hài hước và dí dỏm giúp giảm bớt tính nghiêm trọng của lời chê trách, đồng thời giữ thể diện cho người nghe Hình thức chê trách này thường xuất hiện trong giao tiếp hàng ngày, tạo nên sự thân thiện và gần gũi.

Vớ duù 1: The angry look on her friend’s face vanished, and she gave a grin “Your hair is a mess Should be glad they weren’t there with it looking like that.”

Nụ cười rạng rỡ của người bạn đã xóa tan đi vẻ giận dữ trước đó Cô ấy châm chọc rằng tóc của tôi rối bù và khuyên tôi nên cảm thấy may mắn vì không có ai chứng kiến tình trạng tóc tệ hại của mình.

Gabrielle cảm thấy khó chịu khi Kailin trở về nhà sớm hơn dự định, nhưng sau khi nghe lời giải thích rằng Kailin đã trễ hẹn, cô không còn giận nữa và chỉ chê trách bạn với nụ cười toe toét Kailin không thể giận dỗi Gabrielle vì cô biết bạn mình nói thật lòng, và nụ cười của Gabrielle thể hiện sự dí dỏm, chân tình Thêm vào đó, mái tóc của Kailin hơi gợn sóng, dễ bị rối trước làn gió nhẹ.

Vớ duù 2: “Come on,” insisted Katuishann.“What's your weakness?”

“I can't refuse an overpaid job,” laughed Sovershend

“You mercantile swine!”, laughed Katuishann “Or should that be mercenary?”

“Nào”, Katuishann cố hỏi “Thế điểm yếu của anh là gì?”

“Tôi không thể nào từ chối công việc được trả lương cao”, Sovershend cười

“Anh là một con buôn đáng ghét!” Katuishann cười “Hay là một kẻ hám lợi nhỉ?”

(Night Flower by Philip Turner)

Khi Katuishann gặng hỏi Sovershend, anh đã cười và trả lời một cách hài hước rằng “Tôi không thể từ chối một công việc được trả lương cao.” Điều này cho thấy rằng mỗi người đều có điểm yếu, nhưng vấn đề mà Sovershend đề cập lại rất nhạy cảm với hầu hết mọi người Thực tế cho thấy, “công việc được trả lương cao” thường đi kèm với nhiều điều kiện mà chúng ta phải đáp ứng nếu muốn chọn lựa nó Chính vì vậy, Katuishann đã trêu chọc Sovershend về điều này.

Katuishann đã châm biếm Sovershend bằng cách gọi anh là "con buôn đáng ghét" và "kẻ hám lợi", nhưng sự hài hước trong lời nói của Katuishann đã khiến Sovershend không cảm thấy bị xúc phạm Tính chất khôi hài của câu chuyện làm giảm bớt sự nghiêm trọng của lời chỉ trích.

Ví dụ 3: Lan đứng khuất một chỗ khúc khích cười Rồi, như con chim non, nhảy nhót chạy ra nắm lấy tay tôi mắng:

- Hôm nay cậu về muộn quá! Cơm nước nguội cả rồi!

Câu trách cợt đùa, nàng cố lấy giọng đứng đắn để giống như lời người vợ trách chồng Tôi buồn cười, nhưng cau mày không đáp

Lan nhìn tôi như đứa trẻ dò ý người lớn:

- Gớm, làm gì mà lầm lầm cái mặt thế? Thôi, tôi xin cậu đi

Nàng bưng miệng cười, mở lồng bàn, rình sự bằng lòng của tôi trước những món ăn khéo làm mà nàng biết là tôi vẫn thích

Bình ở trọ nhà Lan, con gái ông Cả, và từ khi Lan có tình cảm với Bình, cô trở nên cởi mở hơn, thường xuyên cười nói Tuy nhiên, những cử chỉ yêu thương vụng về của Lan khiến Bình cảm thấy khó chịu và ngượng ngùng Áp lực từ bạn học khiến Bình xa lánh Lan, nhưng cô không từ bỏ, cố gắng làm Bình vui lòng bằng những lời trách móc nhẹ nhàng như “Hôm nay cậu về muộn quá! Cơm nước nguội cả rồi!” để thể hiện sự quan tâm và tạo cảm giác dễ chịu cho Bình Khi Bình không đáp lại, Lan tiếp tục khéo léo giảm nhẹ lời chê trách, nhằm thay đổi thái độ của Bình đối với mình.

Ví dụ 4: Một ông bạn cầm chén, hướng vào tôi:

Nhận con đi, mày ơi! Thằng này bạc bẽo, ngủ với người khác rồi quên Mày đã nghe mẹ mày chửi ba mày vì cái tội không chung thủy chưa? Thật đáng đời! Mời các ông, các bà, và cả mày nữa, cùng nâng chén tái hồi Kim Trọng nào!

Sau vài lần đến sàn nhảy, anh đã quen với cô gái nhảy, và nước mắt của cô làm anh nhớ nhung khi xa cách Mỗi lần gặp tình huống tương tự, anh lại cảm thấy có điều gì đó đọng lại trong tâm trí Anh cũng quen một cậu bé đạp xích lô từ Quảng Ngãi vào Sài Gòn Khi vào quán nhậu thịt chó, anh thấy chiếc xích lô đỗ dưới gốc me, và cậu bé chào anh Dáng vẻ bên ngoài của anh khiến bạn nhậu cười đùa và chê trách, nhưng câu nói đó không làm anh giận, mà chỉ khiến anh cảm thấy như mình đã sai Anh liên tưởng đến câu nói của cô gái mà anh đã hôn hôm nào.

“Đời em gian truân lắm” và anh tưởng quả thật là anh có ăn nằm với người ta

2.2.2.2 Chê trách kèm lời khen

Giao tiếp đa dạng giúp làm phong phú quá trình sử dụng ngôn ngữ và đảm bảo phát ngôn phù hợp với từng tình huống cụ thể Điều này tạo ra ứng xử tâm lý hợp lý cho những người tham gia cuộc thoại Khi chê trách, người phát ngôn cần lựa chọn hình thức chê trách sao cho người thụ ngôn dễ chấp nhận, có thể thông qua việc bày tỏ sự cảm thông hoặc kèm theo lời khen để đạt được hiệu quả tốt nhất.

You were likely a nice person in the past, which is why Dolph chose to be your friend It’s clear that you have the potential to be that person again You've shown resilience in healing from your past wounds, and you present yourself well—you're attractive, fit, and have great hair.

If you weren't so mean, I bet women would ”

His angry roar shook the tent walls as Vierig launched himself at the bed Candy had no chance to move, to get out of his way…

Lối nói trực tiếp, lối nói gián tiếp của hành vi chê trách

Lối nói gián tiếp và lối nói trực tiếp là hai phương thức diễn đạt cơ bản, phổ quát cho mọi ngôn ngữ Theo lý thuyết hành vi ngôn ngữ, các hành vi này được phân chia thành hành vi trực tiếp và hành vi gián tiếp Trong cuốn "Ngữ dụng học - Tập 1", Nguyễn Đức Dân đã trình bày một số cách tiếp cận về hành vi gián tiếp của các nhà nghiên cứu như Searle, D Gordon, Lakoff (1975), J Morgan (1978) và R Zuber.

Theo Récatani (1981), có những khuôn mẫu ngôn ngữ trở thành quy ước để thể hiện tính tế nhị và lịch sự khi đưa ra đề nghị một cách gián tiếp Tính tế nhị và lịch sự không phải là nguyên nhân duy nhất tạo nên sự gián tiếp trong ngôn ngữ, mà chính ý nghĩa gắn liền với cách sử dụng ngôn ngữ và các câu hỏi là bằng chứng cho tính lịch sự đó Ý nghĩa này phản ánh lối sống và cách dùng ngôn ngữ mà chúng ta học hỏi trong quá trình trưởng thành Mỗi cá nhân, khi sử dụng ngôn ngữ, không chỉ là một thực thể riêng lẻ mà còn là một phần của cộng đồng ngôn ngữ rộng lớn, nơi mà cách dùng ngôn ngữ phải phù hợp để người khác có thể hiểu Họ luôn sử dụng ngôn ngữ như một thành viên của cộng đồng, phản ánh những điều kiện chung nhất trong xã hội.

Tính lịch sự trong hành động ngôn từ phản ánh mức độ đầu tư của người nói vào biểu hiện của hành động trong bối cảnh giao tiếp cụ thể Việc đánh giá mức độ lịch sự của phát ngôn là một thách thức do ảnh hưởng của cái nhìn chủ quan từ nhà nghiên cứu Sự khác biệt giữa lối nói trực tiếp và gián tiếp là một biểu hiện văn hóa quan trọng Hành vi gián tiếp được coi là một tập hợp đa dạng và phong phú, mở ra nhiều cơ hội cho các chiến lược ngôn ngữ khác nhau.

Nghiên cứu cho thấy lời chê trách có thể được phân loại thành hai dạng: trực tiếp và gián tiếp Lời chê trách trực tiếp thể hiện rõ ràng qua việc nói thẳng ý kiến của người chê, có thể kèm theo sự đùa cợt hoặc lời khen, trong khi lời chê trách gián tiếp không được diễn đạt một cách rõ ràng mà phải suy ra từ các cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa khác Kết quả nghiên cứu so sánh giữa tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt dựa trên 150 câu trả lời từ mỗi ngôn ngữ cho thấy sự khác biệt trong cách thức thể hiện hành vi chê trách Nghiên cứu này được thực hiện với sự tham gia của 50 người Mỹ và 50 người Việt, thông qua bảng câu hỏi về các tình huống giao tiếp cụ thể.

Lối nói trực tiếp trong chê trách bao gồm các chiến lược như chê trách dí dỏm (CL1), chê trách kèm lời khen (CL2), chê trách kèm khuyên nhủ (CL3), và chê trách chân thành, thẳng thắn (CL4), cùng với những phương pháp xúc phạm danh dự (CL5) và hạ bệ đối phương (CL6) Ngược lại, lối nói gián tiếp bao gồm chê trách qua câu hỏi (CL7), mỉa mai (CL8) và bóng gió (CL9) Qua đó, hành vi chê trách có xu hướng thể hiện tính trực tiếp hơn là gián tiếp Đặc biệt, chiến lược chê trách bằng cách thể hiện sự không hài lòng về bản thân không được xem xét, vì nó chỉ áp dụng khi người nói tự chê trách chính mình, không phải đối tượng giao tiếp, do đó không nằm trong phạm vi phân tích hành vi chê trách giữa tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt.

Theo thống kê, chiến lược chê trách trong tiếng Anh Mỹ chủ yếu sử dụng lối nói trực tiếp với tỷ lệ 83.9%, trong khi lối nói gián tiếp chỉ chiếm 16.1% Kết quả này cho thấy người Mỹ có xu hướng ưa chuộng cách diễn đạt trực tiếp khi thực hiện việc chê trách, điều này nổi bật như một đặc điểm đáng chú ý trong ngôn ngữ chê trách của họ.

Bảng 2 cho thấy rằng việc sử dụng lối nói gián tiếp trong tiếng Việt vẫn ở mức thấp, mặc dù cao hơn so với người Mỹ Sự khác biệt này có thể được giải thích qua mối quan hệ giữa cách diễn đạt gián tiếp và sự lịch sự trong lời chê trách trong văn hóa Việt Nam.

Dựa vào giả thuyết về tính đồng biến giữa chê trách gián tiếp và lịch sự, có thể thấy rằng người Việt thường sử dụng các kiểu chê trách trực tiếp nhiều hơn trong các bối cảnh giao tiếp thân mật và khi tương tác với người có thứ bậc thấp hơn Điều này cho thấy rằng hoàn cảnh giao tiếp và mối quan hệ xã hội ảnh hưởng đến lựa chọn cách thức chê trách Để đánh giá tính lịch sự của các kiểu chê trách, cần xem xét mức độ giữ thể diện cho người khác mà chúng thể hiện.

Bảng 2 Tỷ lệ sử dụng các chiến lược chê trách (CLCT) của người Mỹ và người Việt theo lối nói trực tiếp và gián tiếp

Chiến lược chê trách (CLCT)

1 Chê trách theo lối nói dí dỏm, khôi hài (CL1) 8 (1.9%) 5 (1.1%)

2 Chê trách kèm lời khen (CL2) 92 (22.1%) 49 (11.2%)

3 Chê trách kèm khuyên nhủ (CL3) 121 (29.1%) 151 (34.4%)

4 Chê trách bằng lối nói chân tình, thẳng thắn

5 Chê trách bằng lối nói xúc phạm thể diện người nghe (CL5) 45 (10.8%) 52 (11.8%)

6 Chê trách bằng lối nói hạ bệ đối phương (CL6) 1 (0.2%) 1 (0.2%)

7 Chê trách bằng cách đặt câu hỏi (CL7) 38 (9.1%) 32 (7.3%)

8 Chê trách bằng lối nói mỉa mai (CL8) 3 (0.7%) 4 (0.9%)

9 Chê trách bằng lối nói bóng gió (CL9) 26 (6.3%) 56 (12.8%)

Kết quả nghiên cứu cho thấy cả người Mỹ và người Việt đều ưa chuộng lối nói trực tiếp khi chê trách, nhưng người Mỹ có xu hướng này mạnh mẽ hơn Cụ thể, người Mỹ thường kết hợp chê trách với lời khuyên (29.1%) và khen ngợi (22.1%), trong khi người Việt lại có xu hướng chê trách kèm theo lời khuyên (34.4%) và thể hiện thái độ chân tình (20.3%) Điều này cho thấy người Mỹ thích thẳng thắn và thường kèm theo lời khuyên để duy trì mối quan hệ, trong khi người Việt có thể cảm thấy hành vi chê trách có thể gây tổn thương đến thể diện, do đó họ thường thể hiện sự thân thiện trong giao tiếp để giảm thiểu tác động tiêu cực.

Tieồu keỏt

Chương hai trình bày các ví dụ cụ thể về chiến lược chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, được trích dẫn từ các tác phẩm văn học, tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch Cả người Mỹ và người Việt đều thường xuyên áp dụng các chiến lược này để truyền tải ý nghĩa đến người nghe Chương cũng phân tích cách nói trực tiếp và gián tiếp của hai nền văn hóa dựa trên dữ liệu từ bảng hỏi điều tra, cho thấy xu hướng chung là người Mỹ và người Việt thường sử dụng lối nói trực tiếp hơn khi chê trách.

CHệễNG BA ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT CỦA HÀNH VI CHÊ TRÁCH

GIỮA TIẾNG ANH MỸ VÀ TIẾNG VIỆT

Trong bối cảnh đa dạng ngôn ngữ và văn hóa, việc sử dụng hành vi ngôn ngữ có thể xuất hiện những khác biệt rõ rệt Nghiên cứu trong lĩnh vực này rất phong phú, bao gồm các yếu tố như lối nói, đối tượng và đề tài Hơn nữa, những nội dung này cũng có thể được phân tích liên quan đến các vấn đề tâm sinh lý xã hội như giới tính, độ tuổi và vị thế xã hội.

Luận văn này tập trung vào việc đối chiếu và so sánh các chiến lược chê trách trong bối cảnh ảnh hưởng của địa vị xã hội, giới tính và tuổi tác Nghiên cứu sẽ phân tích cách những yếu tố này tác động đến sự lựa chọn chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt, nhằm làm rõ những khác biệt và điểm tương đồng trong cách thức thể hiện sự chê trách.

Luận văn này nghiên cứu sự tương đồng và khác biệt trong việc sử dụng các chiến lược chê trách giữa người Mỹ và người Việt khi giao tiếp Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của địa vị xã hội, giới tính, tuổi tác và chuyển di ngữ dụng đến sự lựa chọn các chiến lược chê trách Các câu hỏi điều tra đã được xác định và có giá trị khác nhau, được trình bày trong bảng hỏi ở phần phụ lục A và B Mục tiêu chính của luận văn là phân tích các vấn đề liên quan đến chiến lược chê trách trong giao tiếp.

- Các chiến lược (phổ biến) mà người Mỹ và người Việt lựa chọn khi chê trách

- Sự tương đồng và dị biệt của các chiến lược chê trách

- Chuyển di ngữ dụng từ tiếng Việt sang tiếng Anh Mỹ khi người Việt học tiếng Anh Mỹ chê trách bằng tiếng Anh Mỹ

- Những ảnh hưởng của địa vị xã hội, giới tính, tuổi tác đến việc chọn lựa các chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt.

Phương pháp nghiên cứu

3.2.1.1 Chọn lựa các đối tượng

Bảng điều tra bao gồm 150 đối tượng thuộc hai nhóm ngôn ngữ khác nhau: Tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt Những đối tượng này chia làm ba nhóm:

Nhóm 1 bao gồm người Mỹ đang làm việc hoặc sinh sống tại Việt Nam, với 28 giáo viên, 10 sinh viên đại học, 7 nhà quản lý và 5 người nội trợ.

Nhóm đối tượng thứ hai bao gồm 50 người Việt, trong đó có 42 giáo viên tiểu học và trung học, cùng 8 người làm việc tại các trung tâm huấn luyện thể dục thể thao Tất cả họ đều đang theo học tại Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao, nơi tôi giảng dạy.

- Đối tượng thuộc nhóm 3 gồm 50 người Việt đang theo học tiếng Anh Mỹ trung tâm ngoại ngữ Viễn Đông Các học viên này đang học tiếng

Anh Mỹ ở trình độ trung cấp, vì thế họ đủ tự tin để hoàn thành bảng câu hỏi bằng tiếng Anh Mỹ

Nhóm 1 gồm 50 người Mỹ, nhóm 2 gồm 50 người Việt, nhóm 3 gồm

50 người Việt học tiếng Anh Mỹ Tất cả đều có độ tuổi từ 22 đến 60 Số lượng theo giới tính của các nhóm bằng nhau (mỗi nhóm gồm 25 nam và

Nhóm 1 và nhóm 3 được yêu cầu ghi lại bằng tiếng Anh Mỹ những gì họ có thể nói khi chỉ trích theo tình huống trong bảng hỏi, trong khi nhóm 2 viết bằng tiếng Việt Thông tin chi tiết được trình bày trong bảng 3.1.

Bảng 3.1 Tỷ lệ các đối tượng nghiên cứu theo độ tuổi và giới tính

1 Nhóm các đối tượng người Mỹ Độ tuổi

2 Nhóm các đối tượng người Việt Độ tuổi

3 Nhóm các đối tượng người Việt học tiếng Anh Mỹ Độ tuổi

Toồng soỏ 14 (28%) 11 (22%) Toồng soỏ 14 (28%) 11 (22%) Giới tính Độ tuổi Tổng số Giới tính Độ tuổi Tổng số

Trong quá trình khảo cứu, chúng tôi chọn phương pháp điều tra theo bảng hỏi vì những lý do sau:

- Thời gian thực hiện điều tra cũng như kinh phí có giới hạn

- Việc trao đổi, tiếp xúc trực tiếp với nhóm người Mỹ (nhóm 1) rất khó khăn

Khi thảo luận về vấn đề chê trách, cảm giác bối rối và ngượng ngùng giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn có thể được loại trừ Điều này giúp nâng cao chất lượng câu trả lời, tạo ra một cuộc trò chuyện cởi mở và hiệu quả hơn.

Nếu có điều kiện, chúng tôi sẽ tiến hành phỏng vấn sâu hơn với một số đối tượng nghiên cứu và tăng cường số lượng bảng hỏi để đảm bảo kết quả chính xác và hoàn thiện hơn.

Bảng câu hỏi trong luận văn này (xem phụ lục A và B) bao gồm năm câu hỏi tương ứng với năm tình huống khác nhau, được thiết kế để giúp đối tượng nghiên cứu dễ dàng trả lời.

Bài viết này phân tích ba tình huống chê trách khác nhau giữa người Mỹ và người Việt, nhằm làm rõ các chiến lược giao tiếp dựa trên mức độ quan hệ giữa người nói và người nghe Tình huống 1 đề cập đến việc chê trách một giáo viên trong mối quan hệ không thân thiết, trong khi tình huống 2 xoay quanh việc chê trách giữa những người bạn thân Cuối cùng, tình huống 3 là chê trách trong mối quan hệ bạn bè bình thường Mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu sự chuyển di ngữ dụng trong hành vi chê trách của người Việt khi học tiếng Anh Mỹ.

Tình huống 4 và 5 nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đến việc lựa chọn chiến lược chê trách của các đối tác giao tiếp Trong tình huống 4, sáu câu hỏi được thiết kế để tìm hiểu các câu chê trách của những người ở các độ tuổi khác nhau Tương tự, tình huống 5 cũng gồm sáu câu hỏi nhằm khám phá các câu chê trách từ những người có địa vị xã hội khác nhau Thêm vào đó, cả hai tình huống đều có 12 câu hỏi để điều tra ảnh hưởng của giới tính đối với việc lựa chọn chiến lược chê trách.

Cách tiến hành thu thập dữ liệu

Bảng câu hỏi điều tra đã được phát trực tiếp cho các đối tượng nghiên cứu người Mỹ và người Việt Việc phân phát bảng hỏi cho nhóm giáo viên và sinh viên tại trường và trung tâm ngoại ngữ nơi tôi dạy diễn ra thuận lợi, nhờ sự sẵn lòng giúp đỡ của họ Đối với nhóm người Mỹ, bên cạnh số phiếu tôi phát cho giáo viên, một người bạn cũng đã hỗ trợ phát bảng hỏi cho những người học tiếng Việt Tổng cộng, 150 bảng câu hỏi đã được hoàn tất bởi cả ba nhóm đối tượng.

Kết quả và phân tích

Chương này phân tích kết quả sử dụng chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt dựa trên bảng hỏi, đồng thời xem xét ảnh hưởng của tuổi tác, giới tính và địa vị xã hội của người tham gia nghiên cứu Ngoài ra, chương cũng đề cập đến sự chuyển di ngữ dụng trong các phát ngôn chê trách của nhóm người Việt học tiếng Anh Mỹ.

3.4.1.1 Chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt

Các đối tượng người Mỹ và Việt thuộc nhóm 1 và 2 cung cấp tổng số

Trong nghiên cứu, đã thu thập được tổng cộng 855 phát ngôn chê trách, bao gồm 416 phát ngôn từ người Mỹ và 439 từ người Việt, dựa trên 100 phiếu trả lời cho ba tình huống trong bảng câu hỏi Phân tích dữ liệu cho thấy có chín chiến lược chê trách được nhận diện từ hai nhóm người này Những chiến lược này thường không được sử dụng riêng lẻ mà thường kết hợp với nhau, và tỷ lệ sử dụng các chiến lược chê trách được trình bày chi tiết trong bảng 3.2.

3.4.1.1.1 Chiến lược chê trách của người Mỹ

Bảng 3.2 chỉ ra rằng người Mỹ đã sử dụng tổng cộng 416 phát ngôn chê trách, trong đó có 9 chiến lược chê trách được xác định Ba chiến lược phổ biến nhất là CL3 (29.1%), CL2 (22.1%) và CL4 (19.7%), chiếm hơn 19% tổng số phát ngôn Ngược lại, các chiến lược ít được sử dụng bao gồm CL6 (0.2%), CL8 (0.7%) và CL1 (1.9%), với tỷ lệ thấp hơn 11%.

Bảng 3.2 Tỷ lệ sử dụng các phát ngôn và các chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt

Toồng Chiến lược chê trách (CLCT)

1 Chê trách theo lối nói dí dỏm, khôi hài (CL1) 8 1.9 5 1.1 13 1.5

2 Chê trách kèm lời khen (CL2) 92 22.1 49 11.2 141 16.5

3 Chê trách kèm khuyên nhủ

4 Chê trách bằng lối nói chân tình, thaúng thaén (CL4) 82 19.7 89 20.3 171 20.0

5 Chê trách bằng lối nói xúc phạm thể diện người nghe (CL5) 45 10.8 52 11.8 97 11.3

6 Chê trách bằng lối nói hạ bệ đối phửụng (CL6) 1 0.2 1 0.2 2 0.2

7 Chê trách bằng cách đặt câu hỏi

8 Chê trách bằng lối nói mỉa mai

9 Chê trách bằng lối nói bóng gió

SL: số lượng các phát ngôn chê trách; TL (%): tỷ lệ phần trăm

Theo bảng 3.2, chiến lược CL3 được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ 29.1%, cho thấy rằng phần lớn các lời chê trách được đưa ra một cách trực tiếp kèm theo lời khuyên Trong số 121 câu trả lời thuộc chiến lược CL3, chỉ có 14 trường hợp (11.5%) sử dụng chiến lược này độc lập mà không kết hợp với các chiến lược khác Các chiến lược như CL4, CL2 cũng thường được kết hợp khi chê trách đối tác giao tiếp Trong 150 câu trả lời của nhóm người Mỹ, khoảng 80 câu (53.3%) có sự phối hợp với các chiến lược chê trách khác, tùy thuộc vào cá nhân và tình huống Sự kết hợp thường gặp bao gồm: CL4-CL3, CL4-CL2, CL2-CL4-CL3, CL7-CL3, và CL7-CL9.

3.4.1.1.2 Các chiến lược chê trách của người Việt

Trong bảng 3.2, người Việt đã cung cấp 439 câu trả lời liên quan đến hành vi chê trách, cho thấy sự chênh lệch rõ rệt giữa các chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt Trong số các chiến lược, CL3 (34.4%) và CL4 (20.3%) là những chiến lược được sử dụng nhiều nhất, trong khi CL1 (1.1%), CL6 (0.2%) và CL8 (0.9%) là những chiến lược ít được áp dụng CL2 và CL9 cũng có tỷ lệ sử dụng đáng kể với 11.2% và 12.8%, trong đó CL9 mặc dù không phổ biến như các chiến lược khác nhưng vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ.

Người Việt, giống như người Mỹ, thường kết hợp nhiều chiến lược khi chỉ trích đối tác giao tiếp Trong số 150 câu trả lời từ nhóm người Việt, có khoảng 90 câu (chiếm 60%) thể hiện sự phối hợp các chiến lược khi chê trách Sự phối hợp này có thể thay đổi tùy thuộc vào từng cá nhân và hoàn cảnh cụ thể.

3.4.1.1.3 Đối chiếu đặc điểm sử dụng các chiến lược chê trách giữa tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt

Dựa vào bảng 3.2, người Mỹ và người Việt có sự tương đồng trong việc sử dụng các chiến lược CL3 và CL4 Sự khác biệt trong việc phối hợp các chiến lược chê trách (CLCT) giữa hai nhóm là không đáng kể, cho thấy cả hai đều áp dụng các CLCT tương tự để tối ưu hóa hiệu quả cuộc thoại và giảm thiểu nguy cơ phá vỡ giao tiếp Đặc biệt, các chiến lược CL4, CL3 và CL2 được sử dụng nhiều nhất để phối hợp với các chiến lược khác.

Cả người Mỹ và người Việt đều có sự khác biệt trong việc áp dụng các chiến lược CL3, CL2 và CL9 Cụ thể, người Mỹ sử dụng chiến lược CL3 với tỷ lệ cao hơn người Việt hơn 5%, với 22.1% cho CL2 ở người Mỹ so với 11.2% ở người Việt Ngược lại, chiến lược CL9 được người Việt sử dụng nhiều hơn, với tỷ lệ 12.8% so với 6.3% của người Mỹ Tóm lại, người Việt có xu hướng sử dụng CL3 và CL9 nhiều hơn, trong khi người Mỹ lại ưu tiên sử dụng CL2.

Dữ liệu từ bảng 3.2 chỉ ra rằng có nhiều điểm tương đồng hơn là khác biệt trong việc sử dụng các chiến lược ngôn ngữ của người Mỹ và người Việt Cụ thể, các chiến lược CL4, CL5 và CL7 được sử dụng phổ biến ở cả hai nhóm Ngược lại, các chiến lược CL1, CL6 và CL8 lại ít được áp dụng bởi cả người Mỹ và người Việt.

Người Việt sử dụng CL3 và CL9 nhiều hơn so với người Mỹ, trong khi người Mỹ lại ưa chuộng CL2 hơn Sự khác biệt này phản ánh văn hóa của hai dân tộc: người Việt trọng tình cảm và thường an ủi, động viên nhau trong những lúc khó khăn, trong khi người Mỹ thích nói thẳng vào vấn đề hoặc tránh đưa ra ý kiến nếu không liên quan Để duy trì sự hòa hợp trong giao tiếp, người Mỹ thường kết hợp lời chê trách nhẹ nhàng với lời khen để tránh làm tổn thương đến người khác.

3.4.1.2 Chuyển di trong việc sử dụng các chiến lược chê trách

Chuyển di, theo định nghĩa của Ellis (1994: 28), là quá trình người học kết hợp các đặc điểm của ngôn ngữ mẹ đẻ vào hệ thống kiến thức của ngôn ngữ thứ hai Điều này xảy ra khi người nói sử dụng thói quen ngôn ngữ đầu tiên để giao tiếp bằng ngôn ngữ thứ hai Ellis (72: 29) phân loại chuyển di thành hai loại: chuyển di tích cực xảy ra khi các khuôn mẫu ngôn ngữ giống nhau, có thể hỗ trợ hoặc cản trở việc học ngôn ngữ thứ hai Bài viết này xem xét dấu hiệu chuyển di ngôn ngữ trong các chiến lược chê trách của người Việt khi sử dụng tiếng Anh Mỹ, đặc biệt là tần suất và sự ưa thích phối hợp các chiến lược này, như thể hiện qua bảng 3.3.

Bảng 3.3 Tỷ lệ sử dụng các CLCT (của người Mỹ, người Việt và người Việt học tiếng Anh Mỹ)

Việt học tieáng Anh Myõ (VAM)

Người Myừ (M) Toồng Chiến lược chê trách (CLCT)

1 Chê trách theo lối nói dí dỏm, khôi hài (CL1) 5 1.1 6 1.4 8 1.9 19 1.5

2 Chê trách kèm lời khen

3 Chê trách kèm khuyên nhủ

4 Chê trách bằng lối nói chaân tình, thaúng thaén (CL4) 89 20.3 87 20.5 82 19.7 258 20.2

5 Chê trách bằng lối nói xúc phạm thể diện người nghe

6 Chê trách bằng lối nói hạ bệ đối phương (CL6) 1 0.2 0 0.0 1 0.2 2 0.2

7 Chê trách bằng cách đặt câu hỏi (CL7) 32 7.3 34 8.0 38 9.1 104 8.1

8 Chê trách bằng lối nói mỉa mai (CL8) 4 0.9 3 0.7 3 0.7 10 0.8

9 Chê trách bằng lối nói bóng gió (CL9) 56 12.8 41 9.7 26 6.3 123 9.6

SL: số lượng các phát ngôn chê trách; TL (%): tỷ lệ phần trăm

Dữ liệu từ bảng 3.3 chỉ ra rằng tỷ lệ sử dụng các chiến lược CL4 và CL5 của người Việt và người VAM là tương đương Điều này cho thấy không có sự khác biệt đáng kể trong việc áp dụng các chiến lược giữa ba nhóm người Ngoài ra, các chiến lược CL1, CL6 và CL8 cũng được người Mỹ và người Việt sử dụng với tần suất thấp tương tự Sự tương đồng trong cách sử dụng các chiến lược giữa người Mỹ và người Việt cho thấy người VMA cũng có xu hướng tương tự.

Sự khác biệt rõ rệt giữa người Mỹ và người VAM trong việc sử dụng các chiến lược CL2 và CL3 được thể hiện qua tỷ lệ chênh lệch đáng kể, với người Mỹ sử dụng CL2 đạt 22.1% so với 13.4% của người VAM và 11.2% của người Việt Đối với chiến lược CL3, người Mỹ chỉ chiếm 29.1%, trong khi người VAM lại sử dụng nhiều hơn với 34.4% Điều này cho thấy người Mỹ ít dùng CL3 hơn người VAM, nhưng lại thường xuyên áp dụng CL2 hơn Việc người VAM sử dụng CL3 thường xuyên và CL2 ít hơn cho thấy họ có xu hướng chuyển di thói quen từ ngôn ngữ mẹ đẻ sang tiếng Anh khi chê trách Do đó, có thể kết luận rằng có sự chuyển di ngữ dụng khi người Việt chê trách bằng tiếng Anh Mỹ như một ngôn ngữ thứ hai.

Bằng chứng chuyển di trong việc sử dụng CL7 và CL9 giữa người Mỹ và người Việt nói tiếng Anh Mỹ cho thấy tỷ lệ sử dụng CL7 của người Mỹ là 9.1%, người VAM là 8% và người Việt là 7.3% Đối với CL9, tỷ lệ sử dụng của người Mỹ là 6.3%, trong khi người VAM tăng nhẹ lên 9.7% và người Việt đạt 12.8%.

Sự khác biệt trong việc sử dụng các cách diễn đạt của người VAM, người Mỹ và người Việt cho thấy có sự chuyển đổi từ tiếng Việt sang tiếng Anh Mỹ, đặc biệt khi người VAM chê trách đối tác giao tiếp Nguyên nhân của sự chuyển đổi này có thể được lý giải bởi sự khác biệt trong thói quen ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa.

3.4.1.3 Ảnh hưởng của địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đến việc chọn lựa các CLCT

Tieồu keỏt

Chương này phân tích kết quả điều tra về hành vi chê trách trong tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, cho thấy có 9 chiến lược chê trách (CLCT) được sử dụng Trong đó, các chiến lược CL3, CL4, và CL5 là phổ biến nhất ở cả hai ngôn ngữ Bên cạnh đó, người Mỹ và người Việt cũng có sự phối hợp trong việc sử dụng các chiến lược khi chê trách đối tượng giao tiếp Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có nhiều điểm tương đồng hơn là khác biệt về tần số phân bố các CLCT giữa người Mỹ và người Việt Tuy nhiên, sự khác biệt rõ rệt được phát hiện trong cách sử dụng các chiến lược CL2 và CL9.

Chuyển di ngôn ngữ được xác định thông qua các chiến lược CL2, CL3, CL7 và CL9 Sự khác biệt trong thói quen ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Mỹ và Việt đã dẫn đến hiện tượng chuyển di này.

Trong nghiên cứu về tác động của địa vị xã hội, tuổi tác và giới tính đối với các lựa chọn cá nhân, chúng tôi phát hiện rằng những yếu tố này có ảnh hưởng rõ rệt đến quyết định chọn lựa Phân tích cho thấy sự liên quan giữa các yếu tố này và các lựa chọn cá nhân là đáng kể.

Đối với người Mỹ, địa vị xã hội không có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn các chiến lược giao tiếp Ngược lại, người Việt thường áp dụng nhiều chiến lược hơn khi ở vị trí xã hội thấp và ít sử dụng chiến lược khi ở vị trí cao.

Người Mỹ thường áp dụng nhiều chiến lược khi chỉ trích những người cùng tuổi, trong khi lại sử dụng ít chiến lược hơn khi chỉ trích người lớn tuổi Ngược lại, người Việt có xu hướng sử dụng nhiều chiến lược hơn khi phê phán người lớn tuổi và ít chiến lược hơn khi chỉ trích người nhỏ tuổi hơn.

Nữ người Việt sử dụng nhiều CLCT hơn so với nam người Việt, nam người Mỹ và nữ người Mỹ Điều này cho thấy rằng giới tính ảnh hưởng đến sự lựa chọn các CLCT thông qua việc áp dụng các chiến lược CL2, CL4 và CL9.

Những kết quả và nhận định này sẽ hỗ trợ việc giảng dạy và học tập tiếng Anh Mỹ cho người Việt, cũng như tiếng Việt cho người Mỹ, mà chúng tôi sẽ trình bày trong phần kết luận tiếp theo.

Ngày đăng: 16/09/2021, 09:34

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Anh Mỹ ở trình độ trung cấp, vì thế họ đủ tự tin để hoàn thành bảng câu hỏi bằng tiếng Anh Mỹ - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
nh Mỹ ở trình độ trung cấp, vì thế họ đủ tự tin để hoàn thành bảng câu hỏi bằng tiếng Anh Mỹ (Trang 88)
Bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu trong luận văn này (xem phụ lụ cA và B) bao gồm năm câu hỏi cho năm tình huống khác nhau - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng c âu hỏi để thu thập dữ liệu trong luận văn này (xem phụ lụ cA và B) bao gồm năm câu hỏi cho năm tình huống khác nhau (Trang 89)
Bảng 3.2. Tỷ lệ sử dụng các phát ngôn và các chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt  - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.2. Tỷ lệ sử dụng các phát ngôn và các chiến lược chê trách của người Mỹ và người Việt (Trang 92)
Bảng 3.3. Tỷ lệ sử dụng các CLCT - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.3. Tỷ lệ sử dụng các CLCT (Trang 96)
Dữ liệ uở bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ sử dụng các chiến lược của người Việt và người VAM tương đương nhau ở chiến lược CL4 và CL5 - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
li ệ uở bảng 3.3 cho thấy tỷ lệ sử dụng các chiến lược của người Việt và người VAM tương đương nhau ở chiến lược CL4 và CL5 (Trang 97)
Bảng 3.4. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo địa vị xã hội  - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.4. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo địa vị xã hội (Trang 99)
Dữ liệ uở bảng 3.4 cho thấy chiến lược CL4 (chê trách bằng lối nói chân tình thẳng thắn) có tần số sử dụng khá cao, với một tỷ lệ tương ứng  với mọi cấp độ về địa vị xã hội - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
li ệ uở bảng 3.4 cho thấy chiến lược CL4 (chê trách bằng lối nói chân tình thẳng thắn) có tần số sử dụng khá cao, với một tỷ lệ tương ứng với mọi cấp độ về địa vị xã hội (Trang 100)
Bảng 3.5. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo độ tuổi - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.5. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo độ tuổi (Trang 103)
Bảng 3.5 cho thấy cả hai nhóm người Mỹ và người Việt ít sử dụng các chiến lược CL6, CL8 (có tỷ lệ sử dụng dưới 1.5% và xấp xỉ nhau ở cả  ba cấp độ tuổi) - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.5 cho thấy cả hai nhóm người Mỹ và người Việt ít sử dụng các chiến lược CL6, CL8 (có tỷ lệ sử dụng dưới 1.5% và xấp xỉ nhau ở cả ba cấp độ tuổi) (Trang 104)
Bảng 3.6. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo giới tính  - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.6. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của người Mỹ và người Việt theo giới tính (Trang 105)
Bảng này cho thấy có nhiều điểm tương đồng trong việc phân bố tần số sử dụng các CLCT giữa nam nữ người Mỹ và nam nữ người Việt - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng n ày cho thấy có nhiều điểm tương đồng trong việc phân bố tần số sử dụng các CLCT giữa nam nữ người Mỹ và nam nữ người Việt (Trang 106)
Bảng 3.7. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của nam và nữ người Mỹ - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.7. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của nam và nữ người Mỹ (Trang 108)
1. Chê trách theo lối nói dí dỏm, - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
1. Chê trách theo lối nói dí dỏm, (Trang 109)
Bảng 3.8. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của nam và nữ người Việt - Hành vi chê trách trong tiếng anh mỹ    so sánh với tiếng việt
Bảng 3.8. Tỷ lệ sử dụng các CLCT của nam và nữ người Việt (Trang 109)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w