TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN
- Tên dự án: Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
Phạm vi ranh giới bao gồm toàn bộ diện tích đất liền và các huyện đảo có đông dân cư, đóng vai trò quan trọng về an ninh quốc phòng, như Vân Đồn, Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Phú Quý, Lý Sơn, Phú Quốc và Côn Đảo.
- Thời kỳ quy hoạch: Quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050
- Cơ quan quản lý: Bộ Nông nghiệp và PTNT
- Đơn vị thực hiện: Liên danh Viện Quy hoạch Thủy lợi - Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam
- Thời gian thực hiện: Thời gian thực hiện: 18 tháng, kể từ tháng 10 năm 2020.
CĂN CỨ LẬP QUY HOẠCH
- Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14;
- Luật Thủy lợi số 08/2017/QH14;
- Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013/QH13;
- Luật Đê điều số 79/2006/QH11;
- Nghị định 37/2019/NĐ-CP ngày 7/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quy hoạch;
- Nghị định số 67/2018/NĐ-CP ngày 14/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thủy lợi;
- Nghị định số 160/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai;
- Nghị định số 113/2007/NĐ-CP ngày 28/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đê điều;
- Chiến lược phát triển Thủy lợi Việt nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
- Chiến lược Quốc gia phòng, chống thiên tai quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội toàn quốc, các địa phương;
- Thông tư số 08/2019/TT-BKHĐT ngày 17 tháng 5 năm 2019 hướng dẫn về định mức cho hoạt động quy hoạch;
- Quyết định số 995/QĐ-TTg ngày 9/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao nhiệm vụ cho các Bộ tổ chức lập quy hoạch ngành quốc gia thời kỳ 2021-
- Quyết định số 1869/QĐ-TTg ngày 23/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-
Và các văn bản liên quan.
SỰ CẦN THIẾT LẬP QUY HOẠCH
Quy hoạch Phòng, chống thiên tai và thủy lợi là một phần quan trọng trong quy hoạch ngành kết cấu hạ tầng theo quy định của Luật Quy hoạch Ngày 9/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 995/QĐ-TTg, giao nhiệm vụ cho các Bộ thực hiện quy hoạch ngành quốc gia giai đoạn 2021-2030, với tầm nhìn đến năm 2050 Trong đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch cho lĩnh vực này.
Việt Nam hiện chưa có quy hoạch quốc gia tổng thể về phòng, chống thiên tai và thủy lợi Các quy hoạch thủy lợi, phòng chống lũ và đê điều trước đây chủ yếu được xây dựng và thực hiện theo từng giai đoạn phát triển, tập trung vào các mục tiêu, đối tượng và khu vực cụ thể mà chưa có sự kết nối và đồng bộ ở cấp quốc gia.
Theo Luật Quy hoạch, quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi là một ngành quốc gia cần đồng bộ với các quy hoạch khác Công tác này có mối quan hệ chặt chẽ với việc phát triển kinh tế xã hội và hạ tầng, dựa trên khả năng nguồn nước và năng lực phòng, chống thiên tai Sự phát triển của các ngành khác cũng ảnh hưởng đến yêu cầu và khả năng phục vụ của công tác này Trước đây, mối liên hệ giữa quy hoạch ngành và các quy hoạch chuyên đề, quy hoạch tỉnh còn hạn chế, nhưng hiện nay, quy hoạch ngành quốc gia cần định hướng cho các quy hoạch liên quan.
Các quy hoạch về thủy lợi và phòng, chống thiên tai trước đây chưa đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ cấp nước, thoát nước, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và lượng nước phục vụ cho đời sống và phát triển kinh tế - xã hội Trước những biến động về nguồn nước hiện nay, cần chủ động tạo nguồn nước, tích trữ, điều hòa, phân phối và cấp nước giữa các mùa và vùng theo quy định tại Khoản 3, Điều 3, Luật Thủy lợi Hơn nữa, một số loại hình thiên tai khác theo Luật Phòng, chống thiên tai vẫn chưa được lập quy hoạch.
Biến động về nguồn nước, khí hậu và thiên tai, cùng với nhu cầu phục vụ của các ngành kinh tế xã hội, đang tạo ra nhiều thách thức lớn cho công tác phòng, chống thiên tai và thủy lợi hiện nay.
Nguồn nước tại các lưu vực sông ở Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ từ nhiều yếu tố, bao gồm biến đổi khí hậu, sự phát triển của thủy điện, gia tăng nhu cầu sử dụng nước, và chuyển nước từ thượng nguồn các lưu vực sông quốc tế Những biến động này đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thủy lợi và công tác phòng, chống thiên tai.
Công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng trên toàn quốc đang gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực, như thay đổi dòng chảy tự nhiên, hạ thấp mực nước sông, gia tăng ô nhiễm nước và cản trở khả năng tiêu thoát lũ, dẫn đến tình trạng ngập úng, đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh Nhu cầu nước cho sinh hoạt, công nghiệp, du lịch và dịch vụ ngày càng tăng, trong khi nguồn nước có giới hạn Tình trạng thiếu nước và hạn hán diễn ra thường xuyên tại nhiều vùng sản xuất, như Tây Nguyên và Nam Trung Bộ, tạo áp lực lớn lên hệ thống công trình thủy lợi và công trình phòng, chống thiên tai.
Hệ thống công trình thủy lợi và hạ tầng phòng, chống thiên tai đang phải đối mặt với sự thay đổi trong đối tượng phục vụ tại nhiều địa phương Trong khi phần lớn công trình được xây dựng theo quy hoạch cũ chủ yếu tập trung vào cây lúa, dữ liệu đầu vào chưa được cập nhật kịp thời để phản ánh nhu cầu nước ngày càng đa dạng của các ngành và sự phát triển thượng nguồn.
Nhu cầu vốn đầu tư cho các công trình thủy lợi, đê điều và phòng chống ngập úng rất lớn, nhưng nguồn lực quốc gia còn hạn chế Việc đầu tư dàn trải và chưa đồng bộ theo quy hoạch đã dẫn đến hiệu quả thấp Do đó, cần rà soát và sắp xếp lại thứ tự ưu tiên đầu tư để đảm bảo kết nối đồng bộ giữa hạ tầng thủy lợi và hạ tầng kỹ thuật của các ngành khác, đồng thời huy động nguồn lực quốc gia một cách hài hòa cho phát triển.
Xuất phát từ những vấn đề trên việc lập Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là hết sức cần thiết.
CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN
Cách tiếp cận lập quy hoạch
Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được thực hiện trên cơ sở tiếp cận sau:
Nghiên cứu toàn diện về điều kiện tự nhiên, môi trường và xã hội là rất quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững cho kinh tế, xã hội và môi trường Việc này cần được thực hiện trong khuôn khổ phát triển liên ngành và liên vùng, nhằm tạo ra sự hài hòa và bền vững trong tổng thể phát triển.
Để đảm bảo tính thống nhất với chương trình phát triển kinh tế xã hội của các vùng và cả nước, cần liên kết quy hoạch các ngành liên quan, đặc biệt là quy hoạch thủy lợi, phát triển tài nguyên nước, giao thông, công nghiệp và nông nghiệp – nông thôn Đồng thời, cần chú trọng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, an ninh chính trị – xã hội và an ninh quốc phòng Việc khai thác và sử dụng nước phải tiết kiệm và phù hợp với chiến lược khai thác tổng hợp nguồn nước lưu vực sông.
Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi là một hệ thống quy hoạch liên ngành, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của các lĩnh vực khác Sự phối hợp giữa các ngành là yếu tố then chốt trong quá trình lập quy hoạch, nhằm đảm bảo hiệu quả và đồng bộ trong các hoạt động phát triển.
Tiếp cận trong nghiên cứu, đề xuất giải pháp :
Các giải pháp quy hoạch cần được tiếp cận theo từng vấn đề cụ thể, gắn liền với yêu cầu phục vụ và giải quyết những tồn tại đặc trưng của từng vùng, địa phương Điều này phải tương ứng với các kịch bản phát triển trong từng giai đoạn quy hoạch khác nhau.
Tiếp cận từ đơn vùng đến liên vùng cần ưu tiên giải quyết các vấn đề nội vùng trước, và chỉ xem xét các giải pháp liên vùng khi các nguồn lực nội tại không đáp ứng yêu cầu Trong cấp nước, trước tiên cần cân đối nguồn nước nội tại và áp dụng các giải pháp công trình trong vùng; việc chuyển nước liên vùng chỉ nên thực hiện khi nguồn nước nội tại không đảm bảo.
Tiếp cận tổng hợp và tối ưu là việc đề xuất các giải pháp toàn diện nhằm giải quyết các vấn đề lớn Điều này được thực hiện thông qua việc phân tích và so sánh nhiều phương án khác nhau để tìm ra giải pháp hiệu quả nhất.
- Tiếp cận theo hướng đồng bộ, liên kết chặt chẽ với các hạ tầng khác liên quan như xây dựng, giao thông
Tiếp cận bền vững nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, bao gồm việc xem xét các tiêu chí như tác động đến môi trường, chiếm dụng đất, khả năng và nguồn lực đầu tư Những yếu tố này được nghiên cứu kỹ lưỡng để làm cơ sở lựa chọn và đề xuất các giải pháp phù hợp, từ đó giảm thiểu các tác động không mong muốn.
Các phương pháp lập quy hoạch
4.2.1 Phương pháp thu thập, phân tích thông tin, dữ liệu và thống kê
Phương pháp điều tra và khảo sát bao gồm việc thu thập ý kiến từ cộng đồng và các cơ quan quản lý, vận hành hệ thống thủy lợi Ngoài ra, cần thực hiện khảo sát thủy văn, địa hình và chất lượng nước trong hệ thống để đảm bảo hiệu quả và bền vững của hệ thống thủy lợi.
Phương pháp này giúp thu thập và cập nhật các điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu, bao gồm địa hình, địa mạo, địa chất, thổ nhưỡng, khí tượng, khí hậu, thủy văn và hải văn Đồng thời, nó cũng cung cấp thông tin về diễn biến môi trường và phát triển kinh tế trong khu vực.
Khu vực nghiên cứu bao gồm các yếu tố quan trọng như cơ cấu sử dụng đất, dân số và phát triển không gian đô thị, cùng với các điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế Ngoài ra, các tài liệu về hạ tầng cơ sở như thủy lợi, giao thông và dân cư cũng được xem xét Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm quy hoạch đô thị và các công trình thủy lợi, đóng vai trò quan trọng Các loại bản đồ từ các dự án trước, bản đồ không ảnh, viễn thám và GIS từ nguồn sẵn có cũng được sử dụng để hỗ trợ nghiên cứu.
Phương pháp phân tích thống kê và dự báo sử dụng các chuỗi số liệu khí tượng, thủy văn theo thời gian để đánh giá xác suất ảnh hưởng đến hệ thống thủy lợi và sản xuất Việc tổng hợp tài liệu và dữ liệu kết hợp với các phần mềm máy tính giúp phân tích và đánh giá thông tin theo nhiều định dạng khác nhau, phục vụ cho mục đích của dự án Điều này bao gồm phân tích số liệu thống kê về kinh tế xã hội, các ngành và địa phương để dự báo phát triển, cũng như phân tích dữ liệu về khí tượng, biến đổi khí hậu, thiên tai và nguồn nước nhằm đưa ra các kịch bản phù hợp.
4.2.2 Phương pháp kế thừa Đến nay đã lập và thực hiện được nhiều quy hoạch theo vùng, theo LVS theo HTTL liên tỉnh, các quy hoạch về phòng chống lũ cho các tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều, quy hoạch lũ, quy hoạch chống ngập cho các thành phố… Hiện nay các quy hoạch này đã được thực hiện cơ bản, do vậy phương pháp kế thừa là đặc biệt quan trọng, bao gồm kế thừa kết quả quy hoạch và kế thừa hạ tầng liên quan
Tổng hợp và phân tích tất cả thông tin, tài liệu và dữ liệu liên quan đã được thu thập và cập nhật trong phạm vi nghiên cứu.
Kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu liên quan nhằm giảm bớt công sức cũng như các chi phí thực hiện lặp lại
4.2.3 Phương pháp mô hình hóa, GIS và bản đồ
Phương pháp mô hình hóa, phương pháp GIS và phương pháp bản đồ kết hợp với nhau tạo thành công cụ mạnh mẽ để mô tả hiện trạng và diễn biến của xói lở Sự kết hợp này cho phép đánh giá các kịch bản khác nhau thông qua mô hình toán học và thể hiện thông tin trên nền tảng địa lý và bản đồ.
Phương pháp mô hình hóa được áp dụng để tính toán và thống kê, sử dụng các công nghệ tin học hiện có như bộ mô hình MIKE, Hydrogis và VRSAP trong lĩnh vực thủy lực và chất lượng nước Ngoài ra, các phần mềm như MapInfo, ArcView và ArcGIS cũng được sử dụng để xây dựng bản đồ, cùng với Microsoft Office để hỗ trợ quá trình xử lý dữ liệu.
Bộ chương trình MapInfo, ArcView và ArcGIS được sử dụng để đánh giá và xây dựng các bản đồ hiện trạng thủy lợi, cũng như bản đồ xâm nhập mặn và ngập úng trong khu vực dự án.
Phương pháp chuyên gia là việc tận dụng ý kiến từ những chuyên gia có kinh nghiệm trong quản lý và vận hành công trình, nhằm nâng cao quy trình một cách toàn diện Việc thu thập ý kiến này được thực hiện qua các cuộc gặp trực tiếp, trao đổi qua email, điện thoại và tổ chức hội thảo.
Tổ chức hội thảo nhằm thu thập ý kiến đóng góp và sự đồng thuận từ các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý và các bên liên quan về lĩnh vực thủy lợi và phòng chống thiên tai.
Chúng tôi đã thu thập ý kiến từ các chuyên gia hàng đầu về nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm thủy văn, thủy lực và các hiện tượng thời tiết cực đoan bất thường Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xem xét các phương pháp và biện pháp phân tích đánh giá số liệu, xây dựng các kịch bản và đề xuất các biện pháp công trình cũng như phi công trình nhằm ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, NGUỒN LỰC, THỰC TRẠNG PHÂN BỔ VÀ SỬ DỤNG KHÔNG GIAN CỦA HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI VÀ THỦY LỢI 7 1.1 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
Đặc điểm địa lý tự nhiên
Việt Nam, nằm ở Đông Nam Á, có biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, và phía Đông, Nam giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan Lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S, kéo dài từ vĩ tuyến 8°02' đến 23°23' Bắc và kinh tuyến 102°08' đến 109°28' Đông, với bờ biển dài khoảng 3.260 km và biên giới đất liền khoảng 3.730 km Tổng diện tích đất liền là 331.231 km², cùng với vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng tiếp giáp 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, tạo thành diện tích biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam khoảng 1.000.000 km² Các huyện đảo như Vân Đồn, Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Phú Quý, Lý Sơn, Phú Quốc và Côn Đảo có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng và sẽ được xem xét trong quy hoạch.
Điều kiện địa hình
Địa hình Việt Nam chủ yếu là đồi núi, với các vùng trung du nối tiếp giữa miền núi và đồng bằng Bên cạnh đó, các đồng bằng và ô trũng xen kẽ tạo nên sự đa dạng và phức tạp trong cấu trúc địa hình của đất nước.
Địa hình Việt Nam có sự đa dạng và phân bậc rõ rệt, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với hai hướng chính: Tây Bắc - Đông Nam và hướng vòng cung Địa hình này ảnh hưởng lớn đến dòng chảy của các lưu vực sông và tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, đồng thời là yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các vùng miền Đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ, trong đó đồi núi thấp (dưới 1000m) chiếm khoảng 60%, còn đồi núi cao (trên 1000m) chỉ khoảng 1%, chủ yếu tập trung ở vùng núi Tây Bắc với các đỉnh cao như Phanxipang (3.143m) và PusiLung (3.076m).
Đồng bằng chủ yếu tập trung ở châu thổ các con sông, nổi bật nhất là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng Đây là những trung tâm kinh tế, chính trị và là khu vực sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước.
Vùng trung du nằm giữa đồng bằng và miền núi có đặc điểm độ dốc lớn, rất thuận lợi cho việc trồng trọt các loại cây ăn quả, cây công nghiệp và rau màu.
Vùng ven biển miền Trung Việt Nam, với đặc điểm bằng phẳng và tiếp giáp với biển, mang lại nhiều lợi thế cho sự phát triển du lịch, dịch vụ, công nghiệp và hàng hải Gần đây, nhu cầu khai thác các vùng đất cát ven biển tại khu vực này ngày càng tăng, mở ra cơ hội mới cho các hoạt động kinh tế.
Đặc điểm về thổ nhưỡng
- Về thổ nhưỡng và tính chất đất: Đất ở nước ta rất đa dạng với nhiều loại đất khác nhau:
Đất phù sa có sự phân bố đa dạng tại các đồng bằng ở Việt Nam Tại đồng bằng sông Hồng, đất phù sa chủ yếu có thành phần cát pha đến thịt trung bình Trong khi đó, đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt ven sông Tiền và sông Hậu, có đất phù sa với thành phần cơ giới nặng hơn, được bồi đắp trong mùa lũ Đối với các đồng bằng duyên hải miền Trung, đất phù sa hình thành từ sự tác động tổng hợp giữa sông và biển, với thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ, thường có tính chua và nghèo mùn.
Đất feralit là loại đất phổ biến ở Việt Nam, với hai loại chính: đất feralit nâu đỏ trên đá ba zan, chủ yếu phân bố tại Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, và đất feralit đỏ nâu trên đá vôi, thường gặp ở các vùng núi và cao nguyên đá vôi miền Bắc và Bắc Trung Bộ Ngoài ra, đất feralit trên các loại đá khác cũng chiếm diện tích lớn và phân bố rộng rãi ở miền núi và trung du.
Đất xám là loại đất bạc màu, chủ yếu phân bố trên đá a xít tại khu vực Tây Nguyên và ven biển miền Trung Ngoài ra, đất xám bạc màu trên phù sa cổ tập trung chủ yếu ở Đông Nam Bộ và cũng xuất hiện ở rìa đồng bằng sông Hồng.
Theo số liệu điều tra từ giai đoạn 2013-2016 và cập nhật hàng năm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay cả nước có khoảng 14,61 triệu ha rừng, với tỷ lệ che phủ đạt 41,85% Trong đó, diện tích rừng đặc dụng là 2,16 triệu ha, rừng phòng hộ 4,64 triệu ha, và rừng sản xuất 7,80 triệu ha Tổng diện tích rừng đầu nguồn đạt 6,78 triệu ha, chiếm 46,5% tổng diện tích rừng cả nước, chất lượng rừng ở các mức độ nghèo kiệt.
Quyết định số 1423/QĐ-BNN-TCLN ngày 15/4/2020 của Bộ NN&PTNT đã công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2019, cho thấy rừng ở Việt Nam được phân loại thành ba loại: rừng nghèo, rừng trung bình và rừng giàu (trữ lượng từ 50m³/ha) Theo báo cáo, rừng giàu chiếm 15%, rừng trung bình chiếm 55%, trong khi phần còn lại là rừng nghèo và nghèo kiệt, cho thấy hiệu quả tạo nguồn sinh thủy còn hạn chế Rừng phân bố tại 43/60 tỉnh có rừng trên cả nước.
Đặc điểm về điều kiện khí hậu
Việt Nam, nằm trong khu vực nội chí tuyến của bán cầu Bắc, tiếp giáp với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đã hình thành khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao Khí hậu này được ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chế độ hoàn lưu gió mùa, điều này không chỉ quy định sự biến đổi theo thời gian mà còn ảnh hưởng đến sự phân bố khí hậu ở từng khu vực, tạo nên những đặc trưng riêng biệt cho từng vùng miền.
Việt Nam có bốn miền khí hậu chính: miền Bắc với khí hậu nhiệt đới gió mùa và bốn mùa rõ rệt; miền Nam bao gồm Tây Nguyên và Nam Bộ, có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa khô và mưa; miền Trung và Nam Trung Bộ là vùng chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam; và miền khí hậu biển Đông mang đặc tính hải dương tương đối đồng nhất.
1.1.4.1 Đặc trưng về mưa a) Phân bố mưa trong lãnh thổ
Lượng mưa năm ở Việt Nam phân bố không đều và biến đổi mạnh theo độ cao địa hình Các khu vực có lượng mưa lớn thường nằm ở sườn núi đón gió mùa Tây Nam và Đông Bắc, như Bắc Quang (Hà Giang, 4.562,4mm), Bạch Mã (đèo Hải Vân) và Trà My (Quảng Nam, 4.187,5mm) Ngược lại, các khu vực có lượng mưa thấp thường nằm ở sườn núi khuất gió, địa hình lòng chảo, thung lũng và ven biển như thung lũng hạ lưu sông Kỳ Cùng (Lạng Sơn), thung lũng cao nguyên Sơn La, và khu vực ven biển từ Nam Khánh Hòa đến Bắc Ninh Thuận.
Thuận là vùng khô hạn, ít mưa nhất cả nước với tổng lượng mưa năm dưới 1.000mm (trạm Phan Rang, 814,5mm) b) Phân bố mưa trong năm
Lượng mưa trong năm phân bố không đồng đều, chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, với sự khác biệt rõ rệt về lượng mưa, số ngày mưa và tính chất mưa Tại Bắc Bộ, mùa mưa thường bắt đầu vào cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 và kéo dài đến tháng 9, tháng 10 Một số khu vực như cao nguyên Sơn La - Mộc Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn và Hòa Bình có mùa mưa bắt đầu từ tháng 4.
Bắc Trung Bộ với phần lớn mùa mưa bắt đầu từ tháng V, kết thúc vào tháng
X ở Thanh Hóa, bắc Nghệ An, tháng XI từ nam Nghệ An đến bắc Hà Tĩnh và tháng XII từ nam Hà Tĩnh trở vào
Vùng Nam Trung Bộ có mùa mưa muộn và ngắn nhất cả nước, thường bắt đầu từ tháng Tám ở Đà Nẵng đến bắc Bình Định, và từ tháng Chín ở nam Bình Định đến Khánh Hòa, kết thúc vào tháng Mười Hai.
Mùa mưa ở vùng Tây Nguyên bắt đầu từ tháng 4 tại Kon Tum, Lâm Đồng và Đắk Nông, trong khi các khu vực khác khởi đầu vào tháng 5 Thời gian mưa kéo dài đến tháng 10, và ở một số nơi có thể kéo dài đến tháng 11.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng V và kéo dài cho đến tháng XI
1.1.4.2 Đặc trưng một số yếu tố khí hậu khác
Nhiệt độ không khí trung bình năm tại Việt Nam dao động từ 18-28°C, với xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam và giảm theo độ cao địa hình Tháng 1 thường là tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất, trong khi tháng 7 ghi nhận nhiệt độ cao nhất ở Bắc Bộ và ven biển miền Trung, còn tháng 4 là thời điểm cao nhất tại Tây Nguyên và miền Nam.
Độ ẩm không khí trung bình hàng năm dao động từ 75-90%, không có sự phân hóa rõ rệt theo vùng Tuy nhiên, độ ẩm tương đối thấp xuất hiện ở các thung lũng khuất gió và vùng ven biển Nam Trung Bộ, trong khi các khu vực núi cao có độ ẩm cao hơn do lượng mưa lớn Mùa mưa có độ ẩm không khí cao (85-90%), trong khi mùa khô, độ ẩm thấp nhất ghi nhận ở ven biển Trung Bộ và Nam Bộ (70-80%).
Bão và áp thấp nhiệt đới là hiện tượng thời tiết thường xuyên ảnh hưởng đến Việt Nam, với trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6 cơn bão và 2 - 3 áp thấp nhiệt đới Mùa bão bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài đến giữa tháng 12, với sự tập trung cao nhất vào các tháng 8, 9 và 10 Những cơn bão này thường mang theo mưa lớn, gây ra ngập úng, lũ, lũ quét và sạt lở đất Ví dụ, năm 2020 ghi nhận 13 cơn bão trên biển Đông, trong đó khu vực Trung Bộ bị ảnh hưởng liên tiếp bởi 8 cơn bão từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11.
Từ ngày 06 đến 22/10, hai cơn áp thấp nhiệt đới và hai đợt mưa lũ lịch sử đã gây ra lũ quét và sạt lở đất, dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về người, hạ tầng và tài sản của người dân.
Đặc điểm hình thái mạng lưới sông, điều kiện thủy văn, nguồn nước
Việt Nam sở hữu 3.450 sông và suối dài từ 10 km trở lên, nằm trong 108 lưu vực sông trải dài khắp cả nước với tổng diện tích khoảng 1.168.420 km² Trong đó, 837.430 km² (71,7%) nằm ở nước ngoài, còn 330.990 km² (28,3%) thuộc lãnh thổ Việt Nam Tổng cộng có 33 lưu vực sông lớn, liên tỉnh, với 3.140 sông, chiếm 91% tổng số sông cả nước, và tổng diện tích lưu vực trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 306,44 nghìn km², tương đương 92,6% diện tích đất liền Một số lưu vực sông lớn và quan trọng bao gồm Hồng-Thái Bình, Bằng Giang-Kỳ Cùng, Mã, Cả, Hương, và Vu Gia-Thu Bồn.
Các lưu vực sông Khúc, Kôn-Hà Thanh, Ba, Sê San, Srê Pốk, Đồng Nai và Mê Kông chủ yếu là lưu vực sông liên quốc gia với Trung Quốc, Lào và Campuchia Nhiều sông lớn như sông Hồng, sông Cả và sông Mê Kông bắt nguồn từ nước ngoài và chảy qua Việt Nam ra biển, trong khi sông Mã có một đoạn chảy qua Lào ở trung lưu.
Ngoài các hệ thống sông lớn, tỉnh Quảng Ninh còn có nhiều sông vừa và nhỏ, được gọi là sông độc lập, chảy trực tiếp ra biển Trong số này, có 166 sông có diện tích lưu vực từ 500 đến dưới 10.000 km², góp phần quan trọng vào hệ thống thủy văn của khu vực ven biển Trung.
Về hướng chảy phần lớn các sông suối ở nước ta là hướng Tây Bắc - Đông
Nam ở Bắc Bộ, Nam Bộ có nhiều hướng như Tây Đông, Tây Bắc - Đông Nam, và hướng Bắc - Nam ở ven biển Trung Bộ Ở Tây Nguyên, hướng chủ yếu là Đông Bắc - Tây Nam hoặc Đông - Tây, trong khi Lạng Sơn và Cao Bằng có hướng Tây Nam - Đông Bắc.
Tổng lượng dòng chảy trung bình hàng năm của các sông, suối tại Việt Nam đạt khoảng 836 tỷ m³ Trong đó, lượng nước chảy vào từ nước ngoài là 517 tỷ m³, chiếm 61,8%, còn dòng chảy nội địa chỉ đạt 319 tỷ m³, tương đương 38,2%.
Phân phối dòng chảy năm trong lãnh thổ: tổng lượng dòng chảy năm trung bình nhiều năm phân theo hệ thống sông trên lãnh thổ như sau:
Hệ thống sông ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tổng lượng nước đạt 467 tỷ m³, chiếm 55,9% tổng lượng dòng chảy của tất cả các lưu vực sông Trong đó, lượng nước từ nước ngoài chảy vào là 447 tỷ m³, còn lại 20 tỷ m³ là từ nguồn nước nội địa.
- Hệ thống sông Hồng Thái Bình: 136,4 tỷ m 3 , chiếm 16,3%, trong đó từ nước ngoài chảy vào là 54,2 tỷ m 3 , nội địa là 82,2 tỷ m 3
- Hệ thống sông Đồng Nai: 39,6 tỷ m 3 , chiếm 4,7%, trong đó từ nước ngoài chảy vào là 6,2 tỷ m 3 , nội địa là 33,4 tỷ m 3
Tổng lượng dòng chảy năm trung bình nhiều năm của các lưu vực sông vừa và nhỏ còn lại là 26,4 tỷ m 3 , chiếm khoảng 3,2%
Lưu vực sông Hồng-Thái Bình dẫn đầu cả nước về tỷ lệ nước nội sinh, đạt 25,8% tương đương 82,2 tỷ m³ Theo sau là hệ thống sông Mê Kong, chiếm 14,3% với 45,6 tỷ m³.
Sê San có trữ lượng nước là 13.8 tỷ m³, trong khi SrePok đạt 11.8 tỷ m³ Các sông ở đồng bằng sông Cửu Long cung cấp khoảng 20 tỷ m³ nước Hệ thống sông Đồng Nai chiếm 10.5% tổng trữ lượng với 33.4 tỷ m³, trong khi các hệ thống sông Mã, Cả, Vu Gia-Thu Bồn và các sông ven biển miền Trung chiếm khoảng 6%.
Theo dữ liệu điều tra, tổng trữ lượng tiềm năng nước dưới đất ở Việt Nam khoảng 150.665.612 m³/ngày, tương đương 55 tỷ m³/năm Trong đó, trữ lượng động tự nhiên đạt 100.355.444 m³/ngày (36,6 tỷ m³/năm) và trữ lượng tĩnh tự nhiên là 50.310.168 m³/ngày (18,4 tỷ m³/năm) Vùng Tây Nguyên có trữ lượng nước dưới đất lớn nhất cả nước, với 27.888.289 m³/ngày, chiếm 19% tổng trữ lượng nước dưới đất toàn quốc.
Phân phối dòng chảy trong năm: hàng năm dòng chảy sông suối biến đổi theo mùa, gồm mùa lũ và mùa cạn
Mùa lũ ở Bắc Bộ và phần phía bắc của Bắc Trung Bộ thường bắt đầu từ tháng 5, 6 đến tháng 9, 10 Thời gian bắt đầu mùa lũ thường chậm hơn mùa lũ mưa khoảng một tháng Đặc biệt, mùa lũ xuất hiện sớm từ tháng 5 đến tháng 9 trên hệ thống sông Bằng Giang – Kỳ Cùng và các sông ở Quảng Ninh, trong khi ở hệ thống sông Hồng – Thái Bình, sông Mã và thượng nguồn sông Cả, mùa lũ bắt đầu vào tháng 6.
X, riêng ở trung và hạ lưu Cả lại xuất hiện vào tháng VII-XI Đặc biệt, các sông ven biển từ nam Thanh Hóa đến Nghệ An mùa lũ xuất hiện muộn vào các tháng
VIII-XI Khu vực ven biển từ Nam Nghệ An đến Thừa Thiên Huế, mùa lũ xuất hiện vào các tháng IX-XII Ở vùng Nam Trung Bộ, từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa, mùa lũ xuất hiện muộn và ngắn so với các nơi khác, thường từ tháng X đến tháng XII Các sông vùng Tây Nguyên, mùa lũ đến chậm hơn mùa mưa khoảng 2 tháng, từ tháng VII, VIII đến tháng XI, XII ở bắc Tây Nguyên (sông Sê San và thượng nguồn sông Ba) và nam Tây Nguyên các tháng VIII-XII (sông SrePok).Vùng Đông Nam Bộ (sông Đồng Nai và các sông vùng đồng bằng sông Cửu Long) và các sông ven biển Ninh Thuận-Bình Thuận, mùa lũ thường bắt đầu từ tháng VI- VII và kết thúc vào tháng XI, riêng ở Ninh Thuận là từ tháng VIII, IX đến XII
Mùa cạn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thường bắt đầu từ tháng X, XI đến tháng IV, V năm sau, trong khi miền Nam Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ có mùa cạn từ tháng I đến tháng IX Tây Nguyên trải qua mùa cạn từ tháng XII đến tháng VII, và Đông Nam Bộ cùng đồng bằng sông Cửu Long có mùa cạn từ tháng XII đến tháng VI.
HIỆN TRẠNG NGUỒN LỰC KINH TẾ XÃ HỘI
1.2.1 Đặc điểm xã hội, dân cư
Theo thống kê năm 2018, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố, trong đó có 5 thành phố trực thuộc Trung ương Cơ cấu hành chính bao gồm 49 quận, 50 thị xã, 546 huyện, 1.587 phường, 602 thị trấn và 8.973 xã.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân số Việt Nam đạt 96.208.984 người, trong đó số lượng nam giới chiếm một phần đáng kể.
Dân số Việt Nam hiện đạt 47.881.061 nam, chiếm 49,8%, và 48.327.923 nữ, chiếm 50,2% Sau 10 năm, quy mô dân số tăng thêm 10,4 triệu người, với tỷ lệ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2009 - 2019 là 1,14%, giảm nhẹ so với giai đoạn trước.
1999 - 2009 (1,18%/năm) Mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km 2 , tăng
Tính đến năm 2023, mật độ dân số của Việt Nam đạt 31 người/km², với Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có mật độ cao nhất lần lượt là 1.060 người/km² và 757 người/km² Ngược lại, Trung du và miền núi phía Bắc cùng Tây Nguyên có mật độ dân số thấp nhất, chỉ đạt 132 người/km² và 107 người/km² Dân số thành phố hiện nay là 33.122.548 người, chiếm 34,4% tổng dân số cả nước Việt Nam đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” với khoảng 68% dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi, và gần 88% dân số từ 25-59 tuổi tham gia vào lực lượng lao động.
1 Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, 2020 Thông cáo báo chí Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019
1.2.2 Hiện trạng các ngành kinh tế xã hội
1.2.2.1 Các thành tựu đạt được
Theo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
Giai đoạn 2021 – 2025, theo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2016 - 2019 đạt bình quân 6,8% Mặc dù năm 2020 bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 2016 - 2020 ước đạt khoảng 5,9%, nằm trong nhóm các nước có mức tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới Trong đó, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, đóng góp chính vào mức tăng trưởng chung.
Từ năm 2016 đến 2020, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng khoảng 7,3%, trong khi khu vực dịch vụ đạt khoảng 6,0% Tỉ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ (bao gồm xây dựng) theo giá cơ bản trong GDP đã tăng từ 73% năm 2015 lên khoảng 75,4% vào năm 2020 Quy mô GDP tiếp tục mở rộng, đạt hơn 2020.
343 tỉ USD, tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015; GDP bình quân đầu người năm
2020 ước đạt khoảng 2.750 USD/người, gấp khoảng 1,3 lần so với năm 2015 2
Cơ cấu lại các ngành kinh tế đang diễn ra thực chất, với sự chuyển dịch tích cực và đúng hướng, đặc biệt là tỉ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao đang gia tăng.
- Nông nghiệp: Giá trị sản xuất toàn ngành năm 2020 tăng 2,75% so với năm
Năm 2019, nông nghiệp tăng trưởng 2,7%, lâm nghiệp 2,4% và thủy sản 3,3%, với GDP toàn ngành tăng 2,65% và tỷ lệ che phủ rừng đạt 42% Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2020 đạt 41,2 tỷ USD, tăng 2,5% so với năm 2019 Ngành nông nghiệp tiếp tục duy trì 9 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đạt giá trị xuất khẩu 1 tỷ USD, trong đó có 5 mặt hàng chủ lực vượt 3 tỷ USD, bao gồm gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, hạt điều và gạo Để nâng cao hiệu quả, ngành nông nghiệp đang chuyển mình sang phát triển công nghệ cao, nông nghiệp sạch và hữu cơ, tập trung vào cây trồng và vật nuôi có năng suất và chất lượng cao Đồng thời, việc cơ cấu lại ngành lâm nghiệp cũng được thực hiện nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của rừng trồng sản xuất, cũng như gia tăng giá trị sản phẩm gỗ thông qua chế biến.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã trình bày Văn kiện Đại hội XIII, trong đó bao gồm báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn 2021 - 2025.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành báo cáo số 8652/BC-BKHĐT vào ngày 25/12/2020, trình bày tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và giai đoạn 5 năm 2016-2020 Báo cáo cũng đề xuất phương hướng và nhiệm vụ cho thời gian tới, nhằm phục vụ Hội nghị trực tuyến giữa Chính phủ và các địa phương trong năm 2020.
Cơ cấu công nghiệp Việt Nam đang chuyển dịch tích cực, giảm tỉ trọng ngành khai khoáng và tăng nhanh tỉ trọng ngành chế biến, chế tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững Nhiều ngành công nghiệp lớn đã hình thành, có khả năng cạnh tranh và vị thế vững chắc trên thị trường Ngành công nghiệp hỗ trợ đang phát triển, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng Tỉ trọng hàng hoá xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu đã tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020, trong khi tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao cũng tăng từ 63,9% năm 2016 lên 77,7% năm 2019.
Ngành dịch vụ đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, với các lĩnh vực tiềm năng như viễn thông, công nghệ thông tin, logistics, tài chính, ngân hàng, du lịch và thương mại điện tử được ưu tiên phát triển Ngành du lịch đã có sự phát triển rõ rệt, trở thành mũi nhọn kinh tế, với số lượng khách quốc tế tăng trung bình 15% mỗi năm từ 2016 đến 2019, đạt 18 triệu lượt vào năm 2019, tăng hơn 10 triệu so với năm 2015 Tuy nhiên, năm 2020, ngành du lịch và nhiều dịch vụ khác như giao thông, hàng không, khách sạn, ăn uống, giải trí đã chịu tác động nghiêm trọng từ dịch bệnh Covid-19.
Ngành xây dựng đang phát triển mạnh mẽ với khả năng thiết kế và thi công xây lắp ngày càng nâng cao Sản xuất vật liệu xây dựng cũng phát triển nhanh chóng theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu về khối lượng, chất lượng và đa dạng chủng loại cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Phát triển kinh tế vùng cần tập trung vào việc tăng cường liên kết và kết nối giữa các vùng và tiểu vùng Tốc độ đô thị hóa đang gia tăng nhanh chóng, đồng thời cần gắn kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nông thôn.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC, PHÂN BỐ VÀ SỬ DỤNG KHÔNG GIAN CỦA HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI VÀ THỦY LỢI
1.3.1 Quá trình lập quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi
1.3.1.1 Quá trình lập QH và các thành tựu nổi bật qua các thời kỳ
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1975, thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển sản xuất nông nghiệp, được xem là biện pháp hàng đầu trong nông nghiệp.
QHTL tập trung vào nghiên cứu quản lý hệ thống sông Hồng, nhằm phòng chống lũ lụt và khai thác hiệu quả các hệ thống thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp Các nghiên cứu tiêu biểu bao gồm quy hoạch bậc thang thủy điện tại miền Bắc, thiết kế hồ chứa Hòa Bình và hồ Thác Bà, cũng như quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng (1962) và quy hoạch thủy nông hoàn chỉnh (1973-1975) Ngoài ra, nhiều quy hoạch khác cũng đã được xây dựng cho các vùng khác nhau.
Hà Trung, Bắc sông Mã, vùng Nam sông Chu (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu, sông Nghèn-Trà Sơn (Nghệ Tĩnh), Bắc Quảng Bình…
Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2010: Sau khi thống nhất đất nước năm
Năm 1975, công tác thủy lợi được ưu tiên lập quy hoạch cho các vùng mới giải phóng, đặc biệt ở phía Bắc, nơi tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống thủy nông và triển khai xây dựng các công trình theo quy hoạch giai đoạn trước Trong thời kỳ này, nhiều dự án quan trọng đã được hoàn thành.
QHTL 14 lưu vực sông chính trên toàn quốc Tại Bắc Bộ tiếp tục triển khai quy hoạch hệ thống bậc thang các hồ chứa trên các dòng chính, đề xuất đầu tư xây dựng hồ chứa thủy điện (Tuyên Quang, Sơn La); tập trung vào hoàn chỉnh thủy nông, giải quyết tưới, tiêu cho các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp Tại miền Trung đã lập Định hướng quy hoạch lũ toàn vùng, quy hoạch thủy lợi và quy hoạch phòng chống lũ cho hầu hết các lưu vực sông, các tỉnh trong vùng, bước đầu quy hoạch các bậc thang thủy điện (sông Ba) Tại vùng Tây Nguyên, triển khai các QHTL phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng diện tích tưới từ hệ thống công trình thủy lợi, trong đó có các quy hoạch tỉnh, lưu vực sông, vùng Vùng Đông Nam bộ đã lập Quy hoạch bậc thang trên lưu vực sông Đồng Nai khai thác tổng hợp nguồn nước và xây dựng các hồ chứa lớn như Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ… Vùng ĐBSCL đã triển khai lập nhiều quy hoạch, kế hoạch phát triển thủy lợi cấp nước, phòng chống xâm nhập mặn, quản lý lũ…
Từ năm 2010 đến nay, nghiên cứu quy hoạch các lưu vực sông đã được chú trọng nhằm đáp ứng đa mục tiêu, giảm thiểu thiên tai và ứng phó với thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu và nước biển dâng Các nhiệm vụ chính bao gồm cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản, tái cấu trúc ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế ven biển và đô thị hóa, cũng như chống ngập úng cho các thành phố lớn và đảm bảo an ninh quốc phòng Quy hoạch tổng thể thủy lợi trong bối cảnh biến đổi khí hậu đã được thực hiện tại nhiều vùng kinh tế lớn như đồng bằng sông Hồng, miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long Hàng chục quy hoạch thủy lợi lưu vực sông và các quy hoạch liên quan đã được lập và phê duyệt, bao gồm cả các huyện đảo đông dân cư như Vĩnh Trung, Vĩnh Thực, Vân Đồn, Cô Tô, Bạch Long Vỹ, Cát Hải, Lý Sơn, Phú Quý và Phú Quốc.
1.3.1.2 Cách tiếp cận, định hướng phục vụ và các tồn tại, hạn chế của việc lập các quy hoạch qua các thời kỳ
Quy hoạch dự án thường được thực hiện dựa trên yêu cầu của đơn vị chủ quản để triển khai chủ trương của Đảng và định hướng phát triển kinh tế - xã hội Các đơn vị tư vấn lập đề cương dự án dựa trên tình hình thực tế của từng vùng, và sau khi được phê duyệt, tiến hành thực hiện Mặc dù có tổ chức xin ý kiến đóng góp từ các địa phương, nhưng ý kiến thường tập trung vào danh mục công trình đầu tư, dẫn đến các vấn đề vi mô chưa được giải quyết triệt để Hơn nữa, quy hoạch hiện nay thiếu tính linh động và khó điều chỉnh, cùng với những hạn chế trong công tác dự báo và phối hợp, gây khó khăn trong việc triển khai.
Sự phối hợp liên ngành trong công tác thủy lợi và phòng, chống thiên tai hiện nay đang gặp nhiều thách thức do sự chồng chéo và không thống nhất giữa các loại hình quy hoạch như quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch thủy lợi và quy hoạch phòng chống lũ Thiếu sự liên kết và đồng bộ với các quy hoạch ngành khác đã dẫn đến những bất cập trong quản lý và khai thác tài nguyên Trong những thập niên gần đây, khái niệm về thủy lợi đã chuyển từ “dẫn thủy nhập điền” sang “quản lý tổng hợp”, mở rộng phục vụ cho nhiều mục tiêu và đối tượng khác nhau Do đó, để thực hiện hiệu quả công tác thủy lợi và quy hoạch thủy lợi, sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan là điều cần thiết.
Vấn đề dự báo và xây dựng kịch bản phát triển kinh tế trong lĩnh vực thủy lợi đang gặp khó khăn do nhu cầu phát triển chưa được dự báo đầy đủ Điều này dẫn đến việc quy hoạch thường không kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất, gây ra tình trạng một số quy hoạch và công trình không phát huy được hiệu quả như mong đợi.
1.3.2 Thực trạng phân bố và sử dụng không gian của hệ thống kết cầu hạ tầng phòng, chống thiên tai và thủy lợi Đến thời điểm hiện tại, trên toàn quốc đã xây dựng được khoảng trên 900 hệ thống thuỷ lợi có quy mô diện tích phục vụ từ 200 ha trở lên; trong đó, có 122 hệ thống thủy lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ trên 2.000 ha Cả nước hiện có 86.202 công trình thủy lợi, gồm: 7.342 đập, hồ chứa thủy lợi (6.750 hồ chứa và
Việt Nam hiện có 592 đập dâng, 19.416 trạm bơm, 27.754 cống, 16.057 đập tạm và 291.013 km kênh mương, trong đó 82.744 km đã được kiên cố hóa Hệ thống thủy lợi lớn như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải, Núi Cốc, và nhiều công trình khác đã góp phần chuyển đổi các vùng đất từ ngập lụt, chua, phèn, và nhiễm mặn thành những khu vực trù phú, thuận lợi cho nông nghiệp, từ đó giúp xoá đói và giảm nghèo cho người dân.
Hệ thống công trình thủy lợi đã được xây dựng, cung cấp nước cho khoảng 4,28 triệu ha trong tổng số 6,25 triệu ha đất nông nghiệp cần tưới, đạt 68,48% Hằng năm, hệ thống này tưới cho khoảng 7,26 triệu ha lúa, tương đương 95% diện tích gieo trồng, và diện tích tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng cạn đạt gần 0,29 triệu ha Ngoài ra, hệ thống cũng cấp nước cho 686.600 ha nuôi trồng thủy sản và khoảng 6,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp, đồng thời đảm bảo phòng, chống lũ và ngập cho các đô thị và khu dân cư, bảo vệ sản xuất Hệ thống cũng kiểm soát mặn cho khoảng 1 triệu ha đất nông nghiệp và kết hợp phát điện với tổng công suất 2.100 MW, trong đó có 800 MW từ thủy điện và 1.500 MW từ điện mặt trời.
Đến cuối năm 2019, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 88,5%, tăng mạnh từ 32% vào năm 1999 Trong số đó, gần 51% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn QCVN 02:2009/BYT Khoảng 44% dân số nông thôn, tương đương hơn 28,5 triệu người, được cấp nước từ hệ thống cấp nước tập trung, trong khi 56% còn lại (36,3 triệu người) sử dụng công trình cấp nước quy mô nhỏ hộ gia đình Các tỉnh có tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100% bao gồm Thái Bình, Hải Dương, TP Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu.
Hiện nay, Việt Nam có 16.573 công trình cấp nước tập trung, trong đó hơn 80% có công suất dưới 300 m³/ngày đêm Các công trình này được đầu tư từ ngân sách nhà nước, cung cấp nước sạch cho 28,5 triệu người, chiếm 44% dân số nông thôn.
Về tiêu, thoát nước, cả nước hiện có hơn 30.000 cống, bọng tiêu các loại; hơn
Việt Nam hiện có 28.000 trạm bơm, bao gồm cả trạm bơm tưới và tiêu kết hợp, phục vụ cho việc tiêu thoát nước, đảm bảo tiêu cho 1,72 triệu ha đất nông nghiệp và một phần diện tích khu đô thị, công nghiệp thông qua hệ thống công trình thủy lợi Trong đó, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có 244 cống tự chảy và 67 trạm bơm tiêu thoát cho khoảng 265.000 ha, trong khi vùng Đồng bằng sông Hồng có 2.136 công trình tiêu.
935 cống và 1.201 trạm bơm phục vụ tiêu cho 879.955 ha; vùng Bắc Trung Bộ có 228 trạm bơm tiêu cho khoảng 70.000ha; vùng Đồng bằng sông Cửu Long có
Hệ thống thủy lợi bao gồm 954 cống, 28.304 bọng và 26.773 trạm bơm, phục vụ cho việc tưới tiêu, phòng chống ngập lụt và úng cho khoảng 5,39 triệu ha diện tích canh tác nông nghiệp hàng năm Trong đó, diện tích lúa chiếm 4,19 triệu ha, cây ăn trái 325.000 ha, mặt nước nuôi trồng thủy sản 789.000 ha và các cây trồng khác gần 100.000 ha Vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chủ yếu sử dụng hệ thống tiêu tự chảy.
NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN
Trong lĩnh vực tưới và cấp nước, tồn tại nhiều vấn đề nghiêm trọng do cả yếu tố khách quan như biến đổi khí hậu và yếu tố chủ quan như năng lực công trình không đảm bảo Các vấn đề này bao gồm thiếu công trình, công trình xuống cấp, hạ thấp mực nước trên các dòng sông, ô nhiễm nguồn nước, và hiệu quả tưới cho nông nghiệp chưa cao Những thách thức này diễn ra trên toàn quốc, ảnh hưởng đến hầu hết các vùng và lưu vực sông.
1) Biến đổi khí hậu dẫn đến hạn hán, thiếu nước
Theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ thiên tai do biến đổi khí hậu và nước biển dâng Những tác động này ảnh hưởng tiêu cực đến mọi khía cạnh của đời sống dân sinh và kinh tế, đặc biệt là khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, đặt ra thách thức lớn cho công tác phòng, chống thiên tai và quản lý thủy lợi.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã gây ra nhiều đợt hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại Việt Nam, ảnh hưởng lớn đến nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống Những tác động này đã làm giảm hiệu quả hoạt động của các công trình thủy lợi.
Miền núi phía Bắc, Trung du và đồng bằng Bắc bộ thường gặp tình trạng hạn hán và thiếu nước trong vụ sản xuất Đông Xuân và đầu vụ Mùa Điều này xảy ra khi lượng mưa không đủ và các hồ chứa thủy lợi, thủy điện có dung tích trữ thấp.
Miền Trung Việt Nam đã trải qua nhiều đợt hạn hán và thiếu nước nghiêm trọng trong nhiều năm qua Đặc biệt, hiện tượng El-Niño đã gây ra hạn hán trên diện rộng, như vào năm 1998, ảnh hưởng đến 613.800 ha lúa trong vụ Đông Xuân và vụ Hè Thu.
Tại Việt Nam, 236.400 ha cây công nghiệp và cây ăn quả đang đối mặt với tình trạng thiếu nước sinh hoạt, ảnh hưởng đến 3,1 triệu dân Từ năm 2014 đến 2016, hơn 360.000 ha cây trồng bị hạn hán và thiếu nước, dẫn đến 125.000 ha phải ngừng canh tác, 24.000 ha phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng, và gần 178.000 hộ dân gặp khó khăn trong việc cung cấp nước sinh hoạt.
Từ năm 2019 đến 2020, tình trạng hạn hán đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho nông nghiệp và đời sống của người dân Cụ thể, năm 2019, hơn 44.700 ha cây trồng bị ảnh hưởng và khoảng 139.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt Trong vụ Đông Xuân 2019-2020, 2.800 ha cây trồng bị thiệt hại, 23.500 ha phải điều chỉnh hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, và hơn 31.400 hộ dân gặp khó khăn về nguồn nước Đến vụ Hè Thu năm 2020, 29.400 ha diện tích bị hạn hán, 34.200 ha cần điều chỉnh, và hơn 64.900 hộ dân tiếp tục thiếu nước sinh hoạt.
Khu vực Tây Nguyên, nằm trong vùng khí hậu Tây Trường Sơn, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, dẫn đến mùa Hè – Thu có mưa nhiều, trong khi mùa Đông – Xuân lại khô hạn Điển hình là đợt hạn hán đầu năm 2002 gây thiệt hại 14.380 ha cây trồng vụ Đông Xuân Từ năm 2014-2016, hạn hán do hiện tượng El-Niño đã ảnh hưởng đến 350.000 ha lúa và cây trồng khác, với 115.000 hộ dân chịu tác động từ tình trạng thiếu nước sinh hoạt.
Tình trạng xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung, đặc biệt là Nam Trung Bộ, đang diễn ra phức tạp và ngày càng nghiêm trọng Nguyên nhân chủ yếu là do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, gia tăng khai thác nguồn nước ở thượng nguồn sông và sự phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực.
Kể từ năm 2012, việc các hồ chứa lớn tại Trung Quốc trên sông Lan Thương và các thủy điện dòng nhánh đi vào hoạt động đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến dòng chảy về Đồng bằng sông Cửu Long, dẫn đến sự thay đổi trong diễn biến xâm nhập mặn Hiện tượng mặn có xu hướng xuất hiện sớm hơn trong khu vực này.
Từ năm 2012, thời gian xâm nhập mặn đã tăng từ 1-1,5 tháng, với ranh mặn 4 g/l xuất hiện thường xuyên hơn tại vị trí cách cửa sông Cửu Long 60 km, gây thiếu hụt nước ngọt và đe dọa nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp Trong 5 năm qua, đã xảy ra 2 kỳ xâm nhập mặn nghiêm trọng, trong đó kỳ năm 2015-2016 đã gây thiệt hại cho 405.000 ha đất nông nghiệp và ảnh hưởng đến việc cung cấp nước sinh hoạt cho 210.000 hộ dân.
2019-2020, tình trạng xâm nhập mặn còn nghiêm trọng hơn khi chiều sâu ranh mặn 4 g/l lớn nhất xâm nhập vào sâu hơn từ 3-9 km so với năm 2015-
Năm 2020, nhờ vào sự điều hành hiệu quả, ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thiếu nước lên sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh đã giảm đáng kể Tổng cộng có 74.300 ha diện tích gieo trồng bị thiệt hại, giảm 18,3% so với năm 2015-2016, trong khi 96.000 hộ dân gặp khó khăn về nguồn nước sinh hoạt, giảm 46% so với cùng kỳ.
Các tỉnh miền Trung, giáp biển, đang đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng khi triều cường dâng cao và mực nước sông giảm thấp Nhiều lưu vực sông trong khu vực đã bị ảnh hưởng nặng nề, với các đợt xâm nhập mặn lịch sử như trên sông Vu Gia năm 2013 (độ mặn 7g/l cách cửa sông 14km), sông Thu Bồn năm 2020 (độ mặn 22g/l sâu 15km), và các sông khác như Trà Bồng và Kôn Tình trạng gia tăng xâm nhập mặn không chỉ diễn ra tại miền Trung mà còn lan rộng đến Bắc Trung Bộ và Đồng bằng Bắc Bộ, gây ảnh hưởng lớn đến nguồn nước và khả năng khai thác nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
2) Thiếu công trình thủy lợi:
Mặc dù đã đầu tư xây dựng hệ thống công trình thủy lợi trong hơn 70 năm, nhiều khu vực vẫn thiếu công trình phục vụ tưới và cấp nước Cụ thể, năng lực tưới ở Trung du miền núi Bắc Bộ chỉ đạt 86%, Đồng bằng Bắc Bộ đạt 96%, Bắc Trung Bộ 70%, Nam Trung Bộ 77%, Tây Nguyên chỉ đạt 28% (chủ yếu là diện tích cà phê, hồ tiêu khoảng 600.000 ha), và Đông Nam Bộ đạt 51,3%.
Thiếu hụt công trình trữ và cấp nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân như nguồn nước khó khăn, địa hình không thuận lợi và điều kiện kinh tế kỹ thuật chưa đảm bảo Hệ quả là nhiều diện tích canh tác nông nghiệp không được tưới chủ động, nhiều vùng nông thôn thiếu nước sinh hoạt, và các hoạt động phát triển kinh tế xã hội khác cũng không được cung cấp nước đầy đủ Đặc biệt, các công trình kết nối và điều hòa nguồn nước từ các khu vực dồi dào đến những vùng xa và thường xuyên gặp khó khăn do hạn hán chưa được chú trọng nghiên cứu và đầu tư xây dựng Nhiều vùng chỉ có các công trình nhỏ lấy nước tại chỗ, dẫn đến không đủ khả năng điều hòa nguồn nước phục vụ sản xuất, như ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và vùng cát ven biển miền Trung.
3) Hệ thống thủy lợi xuống cấp, không đảm bảo năng lực phục vụ:
DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ NGUỒN LỰC
2.3.1 Đánh giá xu thế, dự báo các tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng ứng dụng
2.3.1.1 Đánh giá kết quả ứng dụng khoa học và công nghệ cho đến nay
Theo Tổng cục Thủy lợi, việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ tiên tiến, bao gồm cả việc nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài, đã được triển khai từng bước trong lĩnh vực thủy lợi Sự tập trung chủ yếu vào ứng dụng công nghệ và thiết bị vật liệu tiên tiến trong khảo sát, thiết kế và thi công các công trình thủy lợi.
Nghiên cứu đã xác định tỷ lệ thành phần hạt và độ ẩm tối ưu cho việc xây dựng đập bằng vật liệu địa phương, được áp dụng hiệu quả cho các công trình hồ chứa ở Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Nghiên cứu về giải pháp nâng cao khả năng chống thấm cho tường hào bằng Bentonite đã được thực hiện trong thiết kế và thi công công trình thủy lợi từ năm 2009 đến 2012.
Các công nghệ vật liệu mới như bê tông tự đầm, bê tông đầm lăn và công nghệ lưới thép 3D đã được nghiên cứu và áp dụng thành công trong xây dựng và sửa chữa công trình thủy lợi Cấp Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và PTNT đã phát triển công nghệ dự báo bão, nước dâng và sóng tại Việt Nam với mô hình số, cho phép dự báo trước 3 ngày Ngoài ra, công nghệ dự báo lũ cho hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình cũng đã được triển khai, cùng với các giải pháp khoa học công nghệ cho hệ thống công trình chỉnh trị sông ở vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ Nghiên cứu cũng tập trung vào việc bảo đảm sự ổn định và độ bền của đê biển hiện có trước sóng triều cường, cũng như phân tích ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến tài nguyên thiên nhiên và đề xuất các giải pháp chiến lược phòng tránh, giảm nhẹ và thích nghi cho phát triển bền vững Hơn nữa, công nghệ điều hành hệ thống liên hồ chứa đã được nghiên cứu nhằm ngăn lũ, an toàn vận hành hồ chứa và sử dụng hợp lý tài nguyên nước trong mùa kiệt, đồng thời áp dụng các giải pháp sử dụng rừng để chắn sóng ven biển và giảm lũ.
Tổng cục Thủy lợi (2019) đã trình bày báo cáo thuyết minh về Chiến lược Thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, với tầm nhìn giải quyết các vấn đề nguy hiểm như: phát triển công nghệ dự báo và cảnh báo bão, xây dựng kịch bản hạn hán cho đồng bằng sông Hồng và Nam Trung bộ đến năm 2020, và nghiên cứu công nghệ điều hành liên hồ chứa Ngoài ra, báo cáo cũng đề xuất xây dựng tiêu chuẩn rừng chắn sóng ven biển, xác lập cơ sở khoa học về biến đổi khí hậu (BĐKH) cùng các kịch bản BĐKH tại Việt Nam Đặc biệt, cần chế tạo thiết bị SCADA để đo đạc và quan trắc chất lượng nước, cũng như nghiên cứu địa kỹ thuật và vật liệu xây dựng mới.
Nhiều địa phương tại Việt Nam đã chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc dự báo và cảnh báo thiên tai Tỉnh Cao Bằng đã tạo ra bản đồ cảnh báo về trượt, lở đất và lũ quét cho từng huyện Quảng Trị đã đầu tư 9 trạm thủy văn và 3 điểm đo mưa tự động, cùng với mô hình thủy lực dự báo ngập lũ cho hai lưu vực sông Bến Hải và Thạch Hãn, và xây dựng 90 tháp cảnh báo lũ Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ứng dụng phần mềm MIKE và ArcGIS để mô phỏng lũ và lập bản đồ ngập lụt cho lưu vực sông Hương, đồng thời xây dựng kế hoạch quản lý rủi ro thiên tai đến năm 2020 Quảng Ngãi cũng đã thực hiện nghiên cứu về cột mốc báo lũ và bản đồ phân vùng lũ quét, ứng dụng mô hình Sobek và MapInfo trong tính toán thủy lực và lập bản đồ ngập lụt.
Trang thiết bị tiên tiến, hiện đại phục vụ quản lý vận hành
Nghiên cứu ứng dụng thiết bị tiên tiến vào quản lý và vận hành đã giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào thiết bị nhập khẩu và tiết kiệm chi phí đầu tư Chẳng hạn, việc chế tạo thiết bị vớt rác tự động cho hệ thống bơm lớn đã giảm chi phí lên đến 40-50% so với các thiết bị tương tự nhập ngoại.
Nghiên cứu cho thấy việc ứng dụng công nghệ tiên tiến như hệ thống SCADA trong quan trắc và điều hành các công trình đầu mối và hệ thống thuỷ lợi đang được triển khai Điều này không chỉ đảm bảo an toàn trong vận hành mà còn nâng cao hiệu quả trong phân phối nước.
Giải pháp, công nghệ thủy lợi tiên tiến phục vụ các vùng núi cao, vùng ven biển, hải đảo
Nghiên cứu khoa học về đê biển và cửa sông ven biển là rất quan trọng cho quy hoạch và tính toán thủy hải văn Những nghiên cứu này hỗ trợ thiết kế, thi công và bảo vệ đê biển, từ đó làm cơ sở để ban hành Tiêu chuẩn kỹ thuật thiết kế cho Chương trình củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển đã được triển khai.
Công nghệ ngăn sông mới bằng đập xà lan và đập trục đỡ đã được áp dụng thành công tại đập Thảo Long, đập Đò Điểm và nhiều công trình khác ở vùng phân ranh mặn ngọt bán đảo Cà Mau Hiện nay, nghiên cứu cũng đang được triển khai cho công nghệ đập trụ phao liên hợp nhằm ngăn các cửa sông lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng.
Công nghệ chế tạo trạm thủy điện nhỏ với công suất lên đến 200 KW và bơm thủy luân đã được phát triển để thay thế các sản phẩm nhập ngoại, phục vụ cho các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên Đồng thời, quy trình công nghệ tưới tiết kiệm nước đã được triển khai tại các vùng khan hiếm nước và khu vực cây ăn trái ở ĐBSCL, cũng như một số khu vực khô hạn tại miền núi phía Bắc và Trung Bộ Các nghiên cứu cũng đã hoàn thiện quy trình tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa áp lực thấp và cao cho cây rau màu, cũng như chế độ tưới cho cây mía và cà phê tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên Đến nay, 15 mô hình trình diễn về tưới tiên tiến đã được xây dựng từ nguồn vốn ODA, nhưng diện tích áp dụng phương pháp canh tác SRI vẫn còn hạn chế, với chỉ 10% diện tích lúa gieo thẳng được áp dụng Mặc dù tưới tiên tiến có nhiều ưu điểm, nhưng chi phí đầu tư ban đầu cao vẫn là rào cản đối với người dân trong việc áp dụng công nghệ này.
2.3.1.2 Tồn tại và hạn chế trong ứng dụng khoa học và công nghệ
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác phòng, chống thiên tai và thủy lợi, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục.
Đội ngũ cán bộ khoa học trong lĩnh vực thủy lợi hiện đang thiếu hụt, với số lượng cán bộ có trình độ trên đại học phân bố không đồng đều giữa các đơn vị và chuyên ngành Chất lượng cán bộ còn hạn chế, đặc biệt là về trình độ ngoại ngữ, điều này đang trở thành rào cản lớn trong quá trình hội nhập quốc tế.
Trong lĩnh vực thủy lợi, sản phẩm công nghệ vẫn còn hạn chế và chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ để hoàn thiện Mặc dù một số công nghệ tiên tiến đã được nghiên cứu và thử nghiệm thành công, nhưng chúng chưa được triển khai rộng rãi trong thực tế Nhiều công nghệ mới chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu ban đầu mà không được tiếp tục phát triển.
Nhiều tiến bộ kỹ thuật hiện nay chỉ dừng lại ở giai đoạn ý tưởng nghiên cứu ban đầu mà chưa được hoàn thiện hay nâng cấp Việc không đăng ký bản quyền và tiến bộ cũng khiến tuổi thọ của công nghệ trở nên ngắn ngủi và phạm vi ứng dụng bị hạn chế.
2.3.2 Dự báo tác động của tiến bộ khoa học, công nghệ và nguồn lực
- Nhiều công nghệ giúp xây dựng công trình lớn hơn, nhanh hơn, rẻ hơn để chứa nước và chuyển nước đi xa với giá thành rẻ hơn
- Công nghệ tưới: Ngày càng hoàn thiện, giúp thời gian thi công nhanh, giá thành hạ, tiết kiệm lượng nước tưới cho một đơn vị canh tác
XÂY DỰNG KỊCH BẢN PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ QUY HOẠCH
2.4.1 Xây dựng các kịch bản
Quy hoạch được xây dựng dựa trên việc phân tích và lựa chọn các kịch bản phát triển kinh tế xã hội và nguồn nước qua các giai đoạn Các kịch bản này được hình thành từ việc dự báo xu hướng và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đến năm 2030 và 2050, đồng thời xem xét biến động nguồn nước và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác phòng chống thiên tai và thủy lợi, bao gồm thách thức từ tự nhiên, yếu tố bên ngoài, nội tại và tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định tầm nhìn phát triển đất nước nhanh và bền vững trong những năm tới Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi giai đoạn 2021-2030, với tầm nhìn đến năm 2050, sẽ tập trung vào kịch bản phát triển chủ đạo là “nhanh và bền vững” Đồng thời, cần xem xét kịch bản phát triển nhanh hơn để khai thác tối đa tiềm năng về con người, kinh tế và khoa học kỹ thuật Tuy nhiên, cũng cần dự báo các yếu tố phát triển quá mức và những diễn biến cực đoan từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thiên tai cực đoan ảnh hưởng đến công tác phòng chống thiên tai và thủy lợi.
Trên cơ sở định hướng nêu trên, quy hoạch này sẽ nghiên cứu, tính toán các kịch bản gồm:
1) Kịch bản nền: được lập trên cơ sở hiện trạng các ngành dùng nước chính, hiện trạng điều kiện nguồn nước tại thời điểm nghiên cứu và hiện trạng kết cấu của các ngành thủy lợi, giao thông, xây dựng hiện có
2) Kịch bản phát triển nhanh và bền vững: Đáp ứng các mục tiêu phát triển đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng các cấp tại các địa phương hướng tới phát huy, khai thác các tiềm năng nhằm phát triển nhanh nền kinh tế xã hội nhưng vẫn đảm bảo yếu tố bền vững trong khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường và ổn định dân sinh, xã hội Yêu cầu đặt ra là cung cấp đủ nước cho dân sinh và các ngành kinh tế theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các ngành, các địa phương, đáp ứng yêu cầu chủ động ứng phó với thiên tai, BĐKH và các yếu tố tác động khác
3) Kịch bản phát triển cao (ở mức cao hơn Kịch bản nhanh và bền vững):
Kịch bản phát triển "nhanh và bền vững" tập trung vào yếu tố phát triển nhanh hơn, tuy nhiên lại có xu hướng ít bền vững hơn Một số ngành kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ ở những vùng có tiềm năng và lợi thế phát triển, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc nhu cầu sử dụng nước và yêu cầu bảo vệ trước thiên tai do nước gia tăng, dẫn đến sự kém bền vững trong phát triển.
4) Kịch bản cực đoan: Xây dựng dựa trên giả thiết có sự biến động cực đoan về nguồn nước, nhu cầu của các ngành dùng nước chính vượt hơn so với mức có thể đáp ứng của điều kiện nguồn nước, tác động cực đoan của, thiên tai, BĐKH ở mức cao với tổ hợp thiên tai cực đoan, thiên tai vượt quá tần suất thiết kế, các tác động khác theo xu thế bất lợi, cực đoan hơn
Bảng 2 Xây dựng các kịch bản
TT Hạng mục Kịch bản nền
Kịch bản PT nhanh và bền vững Kịch bản PT cao Kịch bản cực đoan
Như hiện trạng Đáp ứng đủ nhu cầu phát triển theo định hướng Đáp ứng đủ nhu cầu phát triển theo diễn biến bình thường
- Thiếu nước phục vụ nhu cầu phát triển
-Thiếu nước trầm trọng phục vụ nhu cầu phát triển
TT Hạng mục Kịch bản nền
Kịch bản PT nhanh và bền vững Kịch bản PT cao Kịch bản cực đoan
- Xảy ra thiên tai cực đoan
- Xảy ra thiên tai cực đoan
II Nhu cầu dùng nước
Theo xu thế bền vững, đảm bảo theo các kế hoạch phát triển
Theo xu thế nhanh hơn, kém bền vững hơn kế hoạch phát triển
Vượt quá/phá vỡ KH
PT của vùng/địa phương
III Cơ sở hạ tầng
Theo xu thế bền vững, đảm bảo theo các kế hoạch phát triển
Theo xu thế nhanh hơn, kém bền vững hơn kế hoạch phát triển
Vượt quá/phá vỡ KH
PT của vùng/địa phương
IV Khoa học công nghệ
Như hiện trạng Được cải thiện tốt hơn Được cải thiện tốt hơn Được cải thiện tốt hơn
VI Quản lý vận hành
Như hiện trạng Được cải thiện tốt hơn Được cải thiện tốt hơn Được cải thiện tốt hơn
2.4.2 Xác định yêu cầu phục vụ theo các kịch bản tại các vùng
2.4.2.1 Vùng Trung du và miền núi phía Bắc a) Đối với tưới, cấp nước
Dựa trên kết quả tổng hợp và phân tích các chỉ tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội từ Nghị quyết đại hội Đảng, cùng với các chiến lược và quy hoạch phát triển ngành tại địa phương, các ngành sử dụng nước chính ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc đã được xác định theo các kịch bản tổng hợp trong bảng dưới đây.
Bảng 3 Quy mô các đối tượng sử dụng nước theo các giai đoạn, kịch bản, toàn vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Hạng mục Đơn vị tính
KB phát triển nhanh và bền vững KB phát triển cao KB cực đoan Năm
1 Dân số 12.570.000 14.300.000 17.800.000 14.300.000 17.800.000 14.300.000 17.800.000 Thành thị người 2.325.450 4.290.000 8.010.000 4.290.000 8.010.000 5.720.000 8.900.000
Hạng mục Đơn vị tính
KB phát triển nhanh và bền vững KB phát triển cao KB cực đoan Năm
Cây công nghiệp, án quả dài ngày ha 39.770 50.000 110.000 56.505 126.022 256.903 411.045
Trâu, bò con 1.471.850 1.500.000 1.600.000 1.4932.000 1.632.000 2.000.000 4.000.000 Lợn, dê con 1.935.000 2.100.000 2.200.000 2.295.000 2.317.000 3.000.000 6.000.000 Gia cầm con 36.408.460 46.400.000 85.200.000 58.542.000 100.242.000 65.000.000 110.000.000
Nuôi trồng thủy sản ha 12.341 13.233 15.161 13.233 15.161 17.094 19.700
* Kết quả tính nhu cầu dùng nước
Tổng nhu cầu sử dụng nước hàng năm cho toàn vùng đạt 7,15 tỷ m³, trong đó nước phục vụ cho trồng trọt chiếm 88%, trong khi nhu cầu nước cho sinh hoạt và công nghiệp chỉ chiếm 9%.
- Kịch bản phát triển nhanh và bền vững: Tổng nhu cầu nước theo các giai đoạn đến năm 2030 và 2050 tăng từ 2% đến 14% so với hiện tại Trong đó:
Nhu cầu nước cho trồng trọt đã giảm lần lượt 5% và 1% do hạn chế trong việc mở rộng diện tích Đông Xuân và phát triển cây trồng cạn Cơ cấu sử dụng nước cho trồng trọt hiện chỉ còn 82% và 77% ở các giai đoạn khác nhau.
+ Nhu cầu nước cho dân sinh và công nghiệp tăng nhanh Cơ cấu dùng nước theo các giai đoạn là 14% và 19%
- Kịch bản phát triển cao: Tổng nhu cầu nước theo các giai đoạn đến năm
2030 và 2050 tăng từ 9 đến 20% so với hiện tại Trong đó:
Nhu cầu nước cho nông nghiệp tăng từ 3 đến 6% do mở rộng diện tích lúa Đông Xuân và phát triển cây trồng cạn Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng nước cho trồng trọt đã giảm xuống còn 83% và 78% trong các giai đoạn khác nhau.
+ Nhu cầu nước cho dân sinh và công nghiệp tăng nhanh Cơ cấu dùng nước theo các giai đoạn là 13% và 18%
- Kịch bản cực đoan: Tổng nhu cầu nước theo các giai đoạn đến năm 2030 và
2050 tăng từ 15% đến 29% so với hiện tại Trong đó:
Nhu cầu nước cho trồng trọt đang gia tăng từ 7% đến 10% nhờ vào việc mở rộng diện tích lúa Đông Xuân và phát triển cây trồng cạn Mặc dù vậy, tỷ lệ sử dụng nước cho trồng trọt đã giảm còn 82% và 76% theo các giai đoạn khác nhau.
+ Nhu cầu nước cho dân sinh và công nghiệp tăng cao hơn so với các kịch bản khác Cơ cấu dùng nước theo các giai đoạn là 15% và 21%
Bảng 4 Tổng nhu cầu dùng nước theo các kịch bản Đơn vị: triệu m 3
TT Đối tượng KB nền
KB phát triển nhanh và bền vững KB phát triển cao KB cực đoan
* Kết quả tính toán cân bằng nước
*Theo kịch bản nền (hiện trạng)
Tổng lượng nước thiếu khoảng 245 triệu m 3 , các khu vực thiếu nước
+ Lưu vực sông Đà - Thao và phụ cận thiếu nước ở 10/23 tiểu khu;
+ Lưu vực Lô - Gâm thiểu nước ở 6/16 tiểu khu dùng nước;
+ Lưu vực sông Cầu - Thương thiếu nước ở 5/9 tiểu khu;
+ Lưu vực Bằng Giang - Kỳ Cùng thiếu nước ở 4/7 tiểu khu
+ Tiểu khu Lục Ngạn, Thác Huống thuộc tỉnh Bắc Giang;
+ Tiểu khu hữu sông Thao thuộc tỉnh Phú Thọ
- Vùng Miền núi: Lượng nước thiếu hụt không tập trung, được phân bố ở nhiều lưu vực sông suối nhỏ
*Theo các kịch bản phát triển
Khả năng thiếu nước cao hơn hiện trạng cả về tổng lượng và phạm vi thiếu nước:
- Kịch bản phát triển nhanh và bền vững thiếu nước theo các giai đoạn là từ -
- Kịch bản phát triển cao thiếu nước theo các giai đoạn là từ -320 triệu m 3 đến -549 triệu m 3
- Kịch bản cực đoan thiếu nước theo các giai đoạn là từ -533 triệu m 3 đến -
Thiếu nước ngày càng gia tăng, đặc biệt tại các khu vực dự kiến phát triển cây trồng cạn và những vùng canh tác thâm canh tập trung nhưng lại thiếu các công trình điều tiết nguồn nước.
Nhu cầu sử dụng nước cho đô thị và công nghiệp đang gia tăng mạnh mẽ Mặc dù vậy, các khu đô thị và khu công nghiệp thường được xây dựng gần các con sông, suối, giúp đảm bảo nguồn cung cấp nước cơ bản không bị thiếu hụt.
Bảng 5 Tổng hợp kết quả tính toán cân bằng nước Đơn vị triệu m 3
Tiểu vùng Nhu cầu KB nền
KB phát triển nhanh và bền vững
KB phát triển cao KB cực đoan
Nhu cầu nước 3.015 3.156 3.467 3.387 3.669 3.524 3.937 Thiếu nước -58 -95 -132 -115 -153 -194 -230
Nhu cầu nước 2.251 2.105 2.291 2.257 2.376 2.348 2.610 Thiếu nước -77 -88 -122 -106 -141 -179 -212
Kết quả tính toán cân bằng nước đã bao gồm sự tham gia cấp nước từ các hồ thủy lợi hiện có Đối với tiêu thoát nước, cần chú ý đến các yếu tố ảnh hưởng để đảm bảo hiệu quả trong quản lý nguồn nước.
Dựa trên các giả thiết về sự gia tăng lượng mưa và sự mở rộng của đô thị cũng như ngành công nghiệp, kết quả tính toán sơ bộ cho thấy cần bổ sung năng lực tiêu thoát nước.