1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM

92 22 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Rà Soát Quốc Gia Tự Nguyện Thực Hiện Các Mục Tiêu Phát Triển Bền Vững Của Việt Nam
Trường học Hà Nội
Thể loại báo cáo
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,16 MB

Cấu trúc

  • 1. GIỚI THIỆU (23)
  • 2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG BÁO CÁO RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN (23)
  • 3. NHẬN THỨC VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 2030: TỪ MDG TỚI SDG (24)
  • 4. LỒNG GHÉP SDG TRONG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN QUỐC GIA (25)
  • 5. THỂ CHẾ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CTNS 2030 VÀ SDG TẠI VIỆT NAM (25)
  • 6. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM (27)
    • 6.1. SDG 1: Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi (27)
    • 6.2. SDG 2: Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững (30)
    • 6.3. SDG 3: Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi (32)
    • 6.4. SDG 4: Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người (36)
    • 6.5. SDG 5: Đạt được bình đẳng về giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái (40)
    • 6.6. SDG 6: Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh (43)
    • 6.7. SDG 7: Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người (46)
    • 6.8. SDG 8: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người (50)
    • 6.9. SDG 9: Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa (54)
    • 6.10. SDG 10: Giảm bất bình đẳng trong xã hội (57)
    • 6.11. SDG 11: Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng (60)
    • 6.12. SDG 12: Đảm bảo mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững (63)
    • 6.13. SDG 13: Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai (68)
    • 6.14. SDG 14: Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững (71)
    • 6.15. SDG 15: Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất (73)
    • 6.16. SDG 16: Thúc đẩy xã hội hòa bình, công bằng, bình đẳng vì phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp (76)
    • 6.17. SDG 17: Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững (79)
  • 7. TÍNH GẮN KẾT TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC SDG (81)
  • 8. PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN (83)
    • 8.1. Nguồn lực tài chính (83)
    • 8.2. Năng lực thống kê (84)
    • 8.3. Khoa học, công nghệ (85)
  • 9. BÀI HỌC KINH NGHIỆM (85)
  • 10. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ CÁC BƯỚC TIẾP THEO (86)
  • KẾT LUẬN (22)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (88)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển bền vững sau hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) giai đoạn 2001-2015 Cụ thể, nước ta đã hoàn thành 3/8 mục tiêu trước thời hạn, bao gồm giảm nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học và bình đẳng giới Tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm 3/4, trong khi tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm gần 2/3 so với năm 1990 Ngoài ra, Việt Nam cũng đã có những thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của bệnh HIV/AIDS, lao và sởi Những kinh nghiệm từ việc thực hiện MDG sẽ rất hữu ích cho việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) sau năm 2015.

Việt Nam, với tư cách là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, đã tích cực tham gia vào quá trình thực hiện phát triển bền vững (PTBV) toàn cầu Quốc gia này thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về PTBV, đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), và tham gia vào cuộc chiến ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) Tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc diễn ra vào tháng

Vào năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã khẳng định cam kết huy động mọi nguồn lực và sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, tổ chức và cộng đồng để thực hiện thành công Chương trình Nghị sự 2030 và tất cả các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) Đến tháng 5 năm 2017, Việt Nam đã quốc gia hóa các SDG thông qua việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.

Việc xây dựng và tham gia trình bày VNR tại HLPF 2018 là một trong những nhiệm vụ quan trọng của

Kế hoạch hành động quốc gia của Việt Nam nhằm đánh giá kết quả thực hiện Chương trình nghị sự 2030 và các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) Báo cáo này không chỉ chia sẻ kinh nghiệm mà còn tạo cơ hội giao lưu với cộng đồng quốc tế.

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG BÁO CÁO RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN

Phương pháp luận xây dựng Báo cáo

Báo cáo được xây dựng thông qua nhiều phương pháp, bao gồm rà soát các báo cáo trong nước và quốc tế về phát triển bền vững, thu thập số liệu thống kê từ các nguồn chính thống và không chính thống về các chỉ tiêu của SDG, và tham vấn rộng rãi để huy động sự tham gia từ tất cả các bên liên quan Quá trình này cũng tham khảo các phương pháp và công cụ đánh giá do Liên Hợp Quốc đề xuất để xây dựng Rà soát quốc gia tự nguyện.

Quá trình xây dựng Báo cáo

Quá trình xây dựng Báo cáo VNR đã thu hút sự tham gia tích cực từ Quốc hội, các bộ ngành, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các nhà khoa học Đồng thời, Báo cáo cũng ghi nhận ý kiến của các nhóm yếu thế trong xã hội, như phụ nữ, người dân tộc thiểu số và người khuyết tật, nhằm đảm bảo nguyên tắc phát triển bền vững không để ai bị bỏ lại phía sau.

Quá trình xây dựng Báo cáo VNR bao gồm các bước chính sau đây:

Tổ chức hội thảo khởi động là bước đầu tiên quan trọng trong quá trình xây dựng Báo cáo, nhằm thảo luận về quy trình thực hiện, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của tất cả các bên liên quan.

- Bước 2: Thành lập Tổ công tác liên ngành về SDG, bao gồm đại diện của các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức và các bên có liên quan

- Bước 3: Các bộ, ngành, cơ quan báo cáo về các mục tiêu được giao chủ trì.

Bước 4: Hợp tác với các đối tác phát triển, tổ chức LHQ tại Việt Nam, các NGO trong nước và quốc tế, cũng như các tổ chức chính trị-xã hội và xã hội-nghề nghiệp, cùng với các viện nghiên cứu, nhằm huy động nguồn lực và thông tin cần thiết cho Báo cáo VNR.

- Bước 5: Dự thảo Báo cáo VNR

Bước 6 trong quá trình tham vấn Báo cáo được thực hiện qua các Hội thảo, văn bản lấy ý kiến và thư điện tử Ngoài các tham vấn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cùng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng tổ chức Hội thảo tham vấn cho dự thảo Báo cáo VNR Báo cáo này còn nhận được sự đóng góp từ nhiều NGO trong nước và quốc tế, các tổ chức LHQ tại Việt Nam, cũng như các đối tác phát triển như GIZ.

- Bước 7: Hoàn thiện Báo cáo VNR trên cơ sở các ý kiến góp ý nhận được.

- Bước 8: Chuẩn bị nội dung trình bày của Báo cáo VNR (xây dựng nội dung và hình thức trình bày; xây dựng video; dịch và in ấn Báo cáo).

NHẬN THỨC VỀ CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 2030: TỪ MDG TỚI SDG

Việt Nam, với tư cách là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, đang tích cực tham gia vào việc thực hiện phát triển bền vững (PTBV) toàn cầu Điều này được thể hiện qua việc ban hành Định hướng chiến lược PTBV tại Việt Nam, Chiến lược PTBV giai đoạn 2011-2020, và Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự PTBV Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký kết nhiều công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đặc biệt là các Công ước của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học.

Việt Nam đã triển khai Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện CTNS 2030 vì sự phát triển bền vững, tiếp nối thành công của MDG và cam kết quốc tế Kế hoạch này bao gồm 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể, phù hợp với điều kiện và ưu tiên phát triển của đất nước.

Trong quá trình thực hiện phát triển bền vững (PTBV), Việt Nam đã tích cực tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho các bên liên quan, bao gồm các bộ, ngành, tổ chức trong nước và quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp và tổ chức xã hội, nhằm tăng cường năng lực thực hiện PTBV, đặc biệt là cho các bộ, ngành và địa phương Tuy nhiên, nhận thức về các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) vẫn còn hạn chế, đặc biệt trong cộng đồng địa phương và thanh niên, những người đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu PTBV đến năm 2030 Do đó, việc nâng cao nhận thức về SDG cho thanh niên và cộng đồng địa phương là rất cần thiết Việt Nam đã thực hiện nhiều bước quan trọng để hỗ trợ thanh niên nhận thức rõ vai trò của mình trong việc đạt được các SDG, với sự hỗ trợ từ các tổ chức NGO trong và ngoài nước Ngoài ra, báo chí, phát thanh và truyền hình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và phổ biến thông tin về PTBV, góp phần nâng cao nhận thức của người dân.

Việt Nam đã xác định 2.115 mục tiêu cụ thể, trong đó phản ánh 150/169 mục tiêu toàn cầu Những mục tiêu không được lựa chọn chủ yếu là những mục tiêu mang tính toàn cầu không phù hợp với điều kiện phát triển và bối cảnh quốc gia.

Khảo sát thanh niên về Mục tiêu phát triển bền vững do UNDP thực hiện tại Việt Nam đã thu hút hơn 7.000 thanh niên từ 63 tỉnh thành, với gần 75% là nữ và 65% sống ở khu vực đô thị Đáng chú ý, gần ba phần tư người tham gia cho biết họ chưa từng nghe về Mục tiêu phát triển bền vững trước đây Mặc dù thanh niên thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này, nhưng họ vẫn chưa biết cách áp dụng vào cuộc sống hàng ngày để góp phần cải thiện xã hội Việt Nam.

LỒNG GHÉP SDG TRONG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN QUỐC GIA

Trong giai đoạn thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, bao gồm việc hoàn thành sớm 3/8 mục tiêu về giảm nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học và bình đẳng giới Đến năm 2015, tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm 3/4 và tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi gần giảm 2/3 so với năm 1990 Ngoài ra, Việt Nam cũng đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc ngăn chặn sự lây lan của các bệnh dịch như HIV/AIDS, lao và sởi, đồng thời hoàn thành mục tiêu nâng cao vị thế cho phụ nữ và đảm bảo bình đẳng giới.

Một bài học quan trọng từ thành công của Việt Nam là việc quốc gia này đã áp dụng các phương thức đúng đắn để "quốc gia hóa" MDG Việc lồng ghép MDG vào các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương và các ngành được coi là một bước đi sáng tạo Kinh nghiệm thực hiện MDG ở Việt Nam cho thấy rằng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm là cơ chế hiệu quả nhất để liên kết các mục tiêu phát triển với nguồn lực, từ đó hiện thực hóa các mục tiêu này.

Những bài học thành công từ việc triển khai các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) vẫn giữ nguyên giá trị quan trọng trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện CTNS 2030 của Việt Nam Quốc gia này đã quốc gia hóa CTNS 2030 toàn cầu, tạo ra một lộ trình cụ thể để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Đến năm 2030, Việt Nam đặt ra 17 mục tiêu phát triển bền vững (PTBV) cùng 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện và ưu tiên quốc gia Kế hoạch hành động quốc gia yêu cầu lồng ghép các mục tiêu PTBV vào quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, cũng như trong các chiến lược, chính sách và quy hoạch phát triển của các bộ, ngành, địa phương Mục tiêu là hoàn thành việc lồng ghép đầy đủ các mục tiêu PTBV vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, cùng các quy hoạch phát triển của ngành và địa phương trong giai đoạn 2021-2030.

Quan điểm phát triển bền vững (PTBV) đã được tích hợp vào Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 2011-2020 và Kế hoạch phát triển KT-XH 2016-2020 Nhiều Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) hiện đang được lồng ghép vào hệ thống chính sách phát triển quốc gia, bao gồm luật, chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH, cũng như chương trình hành động của các bộ, ngành và địa phương Các mục tiêu SDG sẽ tiếp tục được xem xét để tích hợp trong Chiến lược phát triển KT-XH 2021-2030, Kế hoạch phát triển KT-XH 2021-2025, cũng như trong Kế hoạch Phát triển KT-XH hàng năm của Việt Nam trong thời gian tới.

THỂ CHẾ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CTNS 2030 VÀ SDG TẠI VIỆT NAM

Kế hoạch hành động quốc gia phân công rõ ràng trách nhiệm cho các bên liên quan từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) Hội đồng Phát triển Bền vững quốc gia, được thành lập năm 2005 và hiện đã đổi tên thành Hội đồng quốc gia về Phát triển Bền vững và Nâng cao năng lực cạnh tranh, có nhiệm vụ tư vấn cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc triển khai các hoạt động phát triển bền vững tại Việt Nam.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và cơ quan liên quan để triển khai Kế hoạch hành động quốc gia Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm trước Thủ tướng về việc tổ chức thực hiện và kết quả của Kế hoạch hành động quốc gia cũng như các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.

Vụ Kế hoạch-Tài chính của các bộ, ngành và Sở Kế hoạch và Đầu tư địa phương là đơn vị đầu mối thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 Nhiều bộ, ngành và địa phương đã thành lập Ban chỉ đạo, Văn phòng Phát triển bền vững hoặc các cơ quan hỗ trợ về phát triển bền vững.

Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và phản biện xã hội trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc theo dõi, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời hàng năm báo cáo kết quả lên Chính phủ và Quốc hội Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, NGO và cộng đồng doanh nghiệp cũng tích cực tham gia vào việc triển khai các mục tiêu này theo chức năng và nhiệm vụ được phân công trong Kế hoạch hành động quốc gia, đồng thời gửi báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp.

Tổ công tác liên ngành về SDG đã được thành lập để tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan và tổ chức trong việc triển khai Kế hoạch hành động quốc gia và các mục tiêu phát triển bền vững (PTBV) của Việt Nam.

Việt Nam có Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững (VBCSD) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chủ trì, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động cộng đồng doanh nghiệp tham gia thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) Hội đồng này hướng tới việc tập hợp và liên kết các doanh nghiệp, chia sẻ những thông lệ tốt và mô hình kinh doanh bền vững, qua đó khẳng định vai trò tích cực của doanh nghiệp trong việc hiện thực hóa 17 SDG tại Việt Nam VBCSD cam kết xây dựng một thế giới tốt hơn thông qua các hoạt động kinh doanh có trách nhiệm và bền vững.

Nhóm công tác về SDG của hệ thống LHQ tại Việt Nam đã được thành lập để phối hợp với Chính phủ trong việc triển khai CTNS 2030 Các tổ chức NGO trong nước và quốc tế, cùng với các mạng lưới xã hội như phụ nữ, thanh niên, và Hội NKT Việt Nam, cũng đã tích cực tham gia thực hiện SDG và đóng góp cho Báo cáo VNR Để thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên liên quan, nhiều diễn đàn và đối thoại được tổ chức hàng năm, trong đó Hội nghị quốc gia về PTBV, Diễn đàn Doanh nghiệp vì sự PTBV và Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam (VDPF) là những sự kiện quan trọng.

Hình 1 Thể chế thực hiện SDG tại Việt Nam

Diễn đàn Đối thoại Chính sách Cao cấp 4 VDPF là cơ hội quan trọng để chính phủ Việt Nam và các Đối tác Phát triển thảo luận về các chính sách thiết yếu Mục tiêu của diễn đàn là thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội toàn diện và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân Việt Nam.

CÁC ĐỊA PHƯƠNG CỘNG ĐỒNG

BỘ KHĐT/ CÁC BỘ NGÀNH,

LIÊN HỢP QUỐC, CÁC ĐỐI TÁC PHÁT TRIỂN, CÁC

TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

VỀ PTBV VÀ NCNLCT TỔ CÔNG TÁC LIÊN NGÀNH

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM

SDG 1: Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 1

Hệ thống chính sách giảm nghèo ở Việt Nam rất toàn diện, với Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 mang lại những đổi mới về tổ chức thực hiện, chú trọng đến giới và nhóm yếu thế Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011-2020 thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện sản phẩm dịch vụ hỗ trợ cho người nghèo và hộ cận nghèo Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 cũng góp phần quan trọng vào việc giảm nghèo bền vững Đặc biệt, Chính phủ đã phê duyệt các chỉ tiêu phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số, với mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3% - 4% mỗi năm trong giai đoạn 2015-2025, gấp đôi so với mục tiêu chung của cả nước.

Hệ thống chính sách giảm nghèo hiện nay đã khá toàn diện trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội cho người nghèo Tuy nhiên, mức độ bao phủ và hỗ trợ vẫn chưa đạt yêu cầu, với các nội dung và đối tượng hỗ trợ còn phân tán trong nhiều văn bản khác nhau, do nhiều cơ quan khác nhau hướng dẫn thực hiện.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 1

Việt Nam đã đạt được thành tựu giảm nghèo ấn tượng nhờ vào sự kết hợp của nhiều yếu tố quan trọng Đầu tiên, mô hình tăng trưởng bao trùm đã tạo điều kiện cho nhiều người tham gia và hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế Thứ hai, hệ thống chính sách an sinh xã hội vững mạnh, bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội, đã hỗ trợ người dân Thứ ba, dịch vụ công như giáo dục và y tế dễ tiếp cận và phù hợp với khả năng chi trả của mọi người Cuối cùng, việc tiếp cận tài sản, đặc biệt là đất đai, diễn ra một cách công bằng, góp phần vào việc giảm nghèo hiệu quả.

Việt Nam đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói, với tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống dưới 5% vào năm 2015 Theo chuẩn nghèo quốc tế, tỷ lệ nghèo toàn quốc đã giảm từ 49,2% năm 1992 xuống 14,8% năm 2008 và chỉ còn 2,8% vào năm 2014 Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều cũng giảm từ 9,9% năm 2015 xuống 9,2% năm 2016 và dưới 7% năm 2017, cho thấy sự cải thiện trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo.

Trong giai đoạn 2011-2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 5 chuẩn nghèo quốc gia, theo đó hộ nghèo ở nông thôn được xác định là những hộ có mức thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng, trong khi hộ nghèo ở thành phố có mức thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng (theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011).

6 Chuẩn nghèo quốc tế về thu nhập là 1.9 USD/ngày, theo giá sức mua tương đương năm 2011.

Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới, tiếp cận bảo hiểm y tế tại Việt Nam đã tăng 11,7% và sử dụng dịch vụ viễn thông tăng 5,2% Mặc dù có nhiều phương pháp đo lường nghèo khác nhau, nhưng kết quả đều cho thấy tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm qua các năm Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận, với Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong những nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG).

Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp nhằm giảm nghèo bền vững cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), đồng thời thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm dân tộc và các vùng miền trong cả nước Từ năm 2014 đến 2016, tốc độ giảm nghèo của các DTTS đạt mức cao nhất trong hai thập kỷ qua, với tỷ lệ giảm hơn 13%, từ 57,8% xuống còn 44,6%.

So sánh chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều với chuẩn nghèo quốc gia về thu nhập cho thấy sự khác biệt rõ rệt: tỷ lệ nghèo thu nhập năm 2016 là 5,8%, trong khi tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều là 9,2% Tại khu vực nông thôn, tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều đạt 11,8%, và ở miền núi phía Bắc là 23%, Tây Nguyên là 18,5%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ nghèo quốc gia Điều này chứng tỏ rằng khi tính đến khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, các khía cạnh phi thu nhập của nghèo đói cần được cải thiện Theo khảo sát của Ủy ban Dân tộc năm 2015, tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều của cộng đồng dân tộc thiểu số là 35,7%, gấp 3,5 lần so với tỷ lệ chung của cả nước Tình trạng này làm gia tăng nguy cơ tảo hôn cho trẻ em gái và hạn chế cơ hội giáo dục, đồng thời họ phải gánh vác nhiều công việc gia đình và có ít lựa chọn về sinh kế.

Cộng đồng dân tộc thiểu số, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái, cần nhận được sự quan tâm đặc biệt để thoát nghèo bền vững và giảm bớt sự chênh lệch nghèo đói giữa các khu vực trong cả nước.

Hình 2 Tỷ lệ thiếu hụt tiếp cận đa chiều của người nghèo cả nước (%)

Nguồn: Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội

8 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

9 Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều năm 2016 được xác định như sau: Khu vực nông thôn: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ

700 nghìn đồng trở xuống hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700 nghìn đồng đến 1.000 nghìn đồng và thiếu hụt từ

Ba chỉ số quan trọng để đo lường mức độ thiếu hụt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm thu nhập bình quân đầu người Tại khu vực thành thị, những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 900 nghìn đồng trở xuống hoặc từ 900 nghìn đồng đến 1.300 nghìn đồng, đồng thời gặp khó khăn trong việc tiếp cận ít nhất ba chỉ số này, cho thấy tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng trong việc hưởng thụ các dịch vụ xã hội cần thiết.

10 Ủy ban Dân tộc, Kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 DTTS năm 2015.

11 Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015.

12 Tổng cục Thống kê và UNICEF, 2015, Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam năm 2014.

Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin

Sử dụng dịch vụ viễn thông

Hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh

Nguồn nước sinh hoạt Diện tích nhà ở Chất lượng nhà ở Tình trạng đi học của trẻ em

Trình độ giáo dục người lớn

Bảo hiểm y tế Tiếp cận dịch vụ y tế

Các chính sách an sinh xã hội đã được triển khai rộng rãi trên toàn quốc, mang lại nhiều kết quả tích cực Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2006, được sửa đổi vào năm 2014, đã giúp mở rộng phạm vi bảo hiểm Đến hết tháng 12 năm 2017, có hơn 13,9 triệu người tham gia BHXH, chiếm khoảng 29% lực lượng lao động trong độ tuổi, và 11,7 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tương đương 24,4% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, 100% người nghèo và các đối tượng chính sách được cấp thẻ BHYT miễn phí, trong khi tỷ lệ người cận nghèo có BHYT đạt khoảng 81% vào cuối năm 2015 Tuy nhiên, việc thiếu thống kê thường xuyên khiến khó khăn trong việc đánh giá tiến độ đảm bảo khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản cho tất cả mọi người, như mục tiêu đã đề ra trong SDG.

Từ năm 2002 đến 2016, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như điện và nước sạch đã có sự cải thiện rõ rệt, cho thấy đời sống của người dân ngày càng được nâng cao Đặc biệt, tỷ lệ hộ gia đình có nhà ở kiên cố đã tăng gần gấp ba lần, nhờ vào việc triển khai mạnh mẽ các chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo Tính đến tháng 3/2018, hơn 570.000 hộ nghèo ở khu vực nông thôn đã nhận được sự hỗ trợ về nhà ở.

Hình 3 Tiếp cận các điều kiện sống cơ bản (%)

Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) 2002-2014, Ước sơ bộ 2016

Trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng bảo trợ xã hội hiện đang được triển khai tại gần 60 tỉnh, thành phố, với mạng lưới 418 cơ sở trợ giúp xã hội trên toàn quốc, bao gồm 195 cơ sở công lập và 223 cơ sở ngoài công lập Hệ thống này cung cấp dịch vụ chăm sóc cho nhiều nhóm đối tượng, như người cao tuổi, người khuyết tật (NKT), trẻ em, và người tâm thần Cụ thể, có 33 cơ sở chăm sóc người cao tuổi, 74 cơ sở chăm sóc NKT, 144 cơ sở chăm sóc trẻ em, 102 cơ sở tổng hợp, 31 cơ sở chăm sóc người tâm thần và 34 trung tâm công tác xã hội Đặc biệt, đã có quy định rõ ràng về việc hỗ trợ và trợ cấp cho NKT cùng các nhóm tổn thương khác Hiện tại, trợ cấp xã hội hàng tháng đang được cung cấp cho 896.644 người bị khuyết tật nặng và rất nặng.

13 Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định về trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật và hỗ trợ dịch vụ, việc làm cho họ Bên cạnh đó, Nghị định 136/2013/NĐ-CP và Thông tư liên tịch 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC cũng cung cấp các quy định về hỗ trợ và trợ cấp xã hội cho các nhóm đối tượng đặc biệt khác.

15 Báo cáo đánh giá công tác trợ giúp xã hội năm 2016 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.

Tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố

Tỷ lệ hộ dùng điện sinh hoạt

Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh

Tỷ lệ hộ dùng nhà tiêu hợp vệ sinh

Tỷ lệ hộ có đồ dùng lâu bền

Hộp 1 Giảm nghèo tại Lào Cai

SDG 2: Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 2

Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách liên quan đến Mục tiêu Phát triển Bền vững số 2 (SDG 2), bao gồm Nghị quyết số 80/NQ-CP về giảm nghèo bền vững với mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2011-2020, và Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững Bên cạnh đó, Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020 cũng được thực hiện để tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp sạch, đồng thời nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 cũng góp phần quan trọng trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người dân.

Đến năm 2030, mục tiêu chính là nâng cao tình trạng dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG 2.

Các chính sách liên quan đến mục tiêu cụ thể 2.1 cần được lồng ghép và chú trọng nhiều hơn đến trẻ em, người cao tuổi, người nghèo và vấn đề bình đẳng giới.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 2

Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc giảm đói toàn diện trong giai đoạn thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) Đến năm 2015, số hộ thiếu đói đã giảm hơn 3 lần so với năm 2007, chỉ còn 227,5 nghìn hộ.

2 triệu người đã thoát khỏi tình trạng đói Sang năm 2016, số hộ thiếu đói có tăng hơn 16,7% so với năm

Năm 2015, tình trạng thiên tai, hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng đã ảnh hưởng đến nhiều khu vực trong cả nước Tuy nhiên, đến năm 2017, số hộ thiếu đói đã giảm 31,7% so với năm trước nhờ nỗ lực của Chính phủ trong việc thực thi các chính sách và công tác cứu trợ, an sinh xã hội Những hành động này đã góp phần quan trọng vào việc đạt được mục tiêu chấm dứt tình trạng thiếu đói theo SDG 2.

Hình 4 Số hộ gia đình và số người thiếu đói

Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cũng được cải thiện, đặc biệt trong giai đoạn từ 2010-

Từ năm 2015 đến 2017, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thấp còi ở Việt Nam đã giảm nhẹ, từ 24,6% xuống 24,5% và tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng từ 14,1% xuống 13,1% Tuy nhiên, tốc độ giảm này vẫn chậm, đặc biệt ở các khu vực như Miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ, nơi có tỷ lệ nghèo cao hơn Điều này cho thấy sự chênh lệch về tình trạng dinh dưỡng giữa các khu vực địa lý có thể là thách thức lớn cho Việt Nam trong việc đạt mục tiêu giảm suy dinh dưỡng ở trẻ em Để cải thiện sản xuất nông nghiệp và đảm bảo nguồn lương thực, Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình tái cơ cấu nông nghiệp, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng từ 18,9 triệu đồng năm 2012 lên khoảng 29,2 triệu đồng năm 2016 Năng suất lao động trong ngành nông nghiệp cũng đã tăng gần 4,5 lần từ 7,5 triệu đồng/người năm 2005 lên 32,9 triệu đồng/người năm 2016.

16 Viện Dinh dưỡng quốc gia, Số liệu thống kê về tình trạng dinh dưỡng trẻ em qua các năm.

Hộ thiếu đói (lượt hộ) Nhân khẩu thiếu đói (lượt nhân khẩu) Linear (Nhân khẩu thiếu đói (lượt nhân khẩu))

Hình 5 Năng suất lao động xã hội của nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (triệu đồng/người)

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu, với tình hình thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn và ô nhiễm môi trường diễn ra phức tạp, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp bền vững Các thiên tai thường dẫn đến nạn đói đột xuất, yêu cầu Chính phủ phải có chiến lược ứng phó nhanh chóng và hiệu quả Hơn nữa, dân số Việt Nam tiếp tục gia tăng và di cư tự do chưa được kiểm soát, tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, điều này có thể cản trở tiến độ đạt được mục tiêu xóa đói và cải thiện tình trạng thiếu dinh dưỡng đúng hạn.

Hộp 2 Các hoạt động nông nghiệp thông minh về khí hậu

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nông nghiệp chủ chốt của Việt Nam, đóng góp 55% sản lượng lúa và 70% sản phẩm thủy sản quốc gia Tuy nhiên, vùng này đang đối mặt với nguy cơ tổn thương cao do thiên tai và biến đổi khí hậu Sự suy thoái đất canh tác đã dẫn đến giảm sản lượng nông nghiệp Hơn nữa, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp hiện nay đang phải trả giá bằng việc gia tăng chi phí môi trường do việc sử dụng quá mức các đầu vào như đất, nước, phân bón hóa học và sản phẩm bảo vệ thực vật, góp phần vào sự suy thoái hệ sinh thái.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các sở tỉnh đã triển khai 61 mô hình sản xuất lúa thông minh và nuôi tôm bền vững, mang lại lợi ích cho khoảng 58.000 người Một trong những kỹ thuật nổi bật là sản xuất lúa thay thế và sấy khô, giúp nông dân tiết kiệm 30% nước và thuốc trừ sâu, đồng thời tăng thu nhập thêm 40% Kỹ thuật này đã được thử nghiệm trên 30 ha và hiện đã mở rộng lên khoảng 35.000 ha, tiếp tục phát triển mạnh mẽ.

Nguồn: Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP), Ban Quản lý các dự án Lâm nghiệp,

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

SDG 3: Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 3

Một số luật hiện hành liên quan đến việc thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững số 3 (SDG 3) bao gồm: Luật Bảo hiểm Y tế, Luật Khám chữa bệnh, Luật Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em, Luật Phòng, chống HIV/AIDS, Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá, và Luật Người cao tuổi.

Năng suất lao động xã hội của nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản Linear (Năng suất lao động xã hội của nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản)

Từ năm 2005 đến 2016, Việt Nam đã ban hành nhiều chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân Những chiến lược này bao gồm Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe giai đoạn 2011-2020, Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020, và Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam 2011-2020 Ngoài ra, còn có các chiến lược phòng chống bệnh sốt rét, lao, ung thư, bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và các bệnh không lây nhiễm khác cho giai đoạn 2011-2030, cùng với Kế hoạch phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015-2020 và Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Bên cạnh đó, các nghị quyết 17 cùng với các chương trình hành động của Bộ Y tế, các bộ ngành và địa phương đã xác định nhiều mục tiêu và chỉ tiêu đến năm 2025 và 2030, trong đó bao gồm mục tiêu phát triển bền vững (SDG) về y tế.

Hệ thống chính sách hiện tại không đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân do nhiều yếu tố Việc kiểm soát bệnh truyền nhiễm vẫn là thách thức lớn, trong khi các yếu tố nguy cơ như biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường vượt ngoài khả năng của ngành y tế Ngoài ra, sự bất bình đẳng giữa các vùng miền và nhóm dân cư về tình trạng sức khỏe và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cũng là vấn đề nghiêm trọng Hơn nữa, sự phối hợp liên ngành trong việc xây dựng chính sách còn hạn chế, và các chính sách thường chậm được thực thi trong thực tế.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 3

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong lĩnh vực y tế, với năng lực cung ứng và tiếp cận dịch vụ y tế được xếp hạng cao trong khu vực Tây Thái Bình Dương Đặc biệt, vào năm 2017, 73% dân số Việt Nam đã có khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế thiết yếu.

Hệ thống y tế Việt Nam đã được mở rộng và đầu tư mạnh mẽ, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho người dân Năng lực dự báo, giám sát và phòng, chống dịch bệnh đã được cải thiện, giúp ngăn chặn các dịch bệnh lớn Nguồn nhân lực y tế phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, nâng cao quy mô và khả năng cung ứng dịch vụ Công nghệ y tế cũng tiến bộ, nhiều bệnh nan y trước đây nay đã có thể phát hiện và điều trị kịp thời Việt Nam nằm trong số 39 quốc gia sản xuất vắc xin trên thế giới.

Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) đã tăng mạnh từ 5,4% vào năm 1993 lên 86,4% vào năm 2017, trong khi tỷ trọng chi tiêu từ tiền túi của người dân giảm từ 63% xuống khoảng 40% trong cùng thời gian Các nhóm đối tượng yếu thế như người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi, và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn được hỗ trợ tài chính trong việc khám chữa bệnh.

Chất lượng dân số Việt Nam đang được cải thiện đáng kể, với chỉ số phát triển con người (HDI) và tuổi thọ bình quân tăng nhanh Các chỉ số sức khỏe của người dân Việt Nam hiện cao hơn nhiều so với mức trung bình của các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người tương đương.

Việt Nam đã đạt được thành công trong việc hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 5 về giảm tỷ lệ tử vong mẹ Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng lo ngại về tỷ lệ tử vong mẹ giữa các vùng miền và các nhóm kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở phụ nữ dân tộc thiểu số.

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong bối cảnh mới Đồng thời, Nghị quyết số 21-NQ/TW cùng ngày cũng đề cập đến công tác dân số, nhấn mạnh sự cần thiết phải điều chỉnh và cải cách để phù hợp với tình hình hiện tại Cả hai nghị quyết đều hướng tới việc cải thiện chất lượng cuộc sống và sức khỏe cộng đồng, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Báo cáo thực hiện SDG của Bộ Y tế chỉ ra rằng tỷ lệ tử vong ở phụ nữ dân tộc thiểu số cao gấp 4 lần so với phụ nữ dân tộc Kinh Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải chú trọng nâng cao sức khỏe thai sản cho nhóm phụ nữ DTTS, nhằm đảm bảo họ không bị tụt lại phía sau trong các chỉ số sức khỏe.

Hình 6 Tỷ lệ dân số tham gia BHYT (%)

Nguồn: BHXH Việt Nam và Bộ Y Tế 20

Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam đã giảm từ 22,1 ca trên 1000 trẻ đẻ sống năm 2015 xuống 21,6 ca năm 2017 Tuy nhiên, nếu tiếp tục với mức giảm chậm như giai đoạn 2011-2015, dự kiến đến năm 2030, tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi sẽ là 11,7 ca và trẻ dưới 5 tuổi sẽ đạt 17,6 ca trên 1000 trẻ đẻ sống Điều này đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam trong việc hoàn thành SDG 3 về giảm thiểu tử vong ở trẻ em Đặc biệt, tỷ suất tử vong vẫn còn cao trong nhóm dân tộc thiểu số, do đó, cần có sự chú ý đặc biệt hơn đến nhóm yếu thế này trong các nỗ lực kiểm soát tử vong ở trẻ em.

Tính đến năm 2016, Việt Nam ghi nhận 9.912 ca nhiễm HIV mới, 5.976 bệnh nhân AIDS mới và 2.131 ca tử vong do AIDS Mặc dù số lượng ca nhiễm mới HIV trên toàn quốc đã giảm trong những năm gần đây, nhưng một số khu vực như Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ lại có xu hướng gia tăng số ca nhiễm mới.

Chương trình phòng chống lao Quốc gia tại Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong việc kiểm soát bệnh lao, đặc biệt là mục tiêu giảm tỷ lệ mắc lao theo MDG 6 Từ năm 2000, tỷ lệ ca nhiễm mới bệnh lao đã giảm đáng kể, từ 375/100.000 dân xuống còn 187/100.000 dân.

Vào năm 2015, Việt Nam đã đạt được thành công trong việc hoàn thành chỉ tiêu của MDG 6, cho thấy khả năng tiếp tục giảm số ca tử vong và mắc bệnh lao trong tương lai.

Theo kết quả Điều tra về tình hình sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành tại Việt Nam (GATS 2015) do

SDG 4: Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người

cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 4

Việt Nam coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, với 20% ngân sách nhà nước hàng năm được đầu tư cho giáo dục và đào tạo Các mục tiêu cụ thể của SDG 4 đã được thể hiện qua nhiều luật và chính sách như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới giáo dục Bên cạnh đó, nhiều chính sách quan trọng khác cũng đã được ban hành, bao gồm Chiến lược phát triển Dạy nghề giai đoạn 2011-2020, Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, và Nghị định số 20/2014/NĐ-CP về phổ cập giáo dục và xóa mù chữ, nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trong giáo dục giai đoạn 2016-2020.

Mục tiêu giáo dục giai đoạn 2012-2020 nhằm đạt tỷ lệ đi học đúng độ tuổi là 99% cho tiểu học, 95% cho trung học cơ sở và 80% thanh niên đạt trình độ trung học phổ thông Đặc biệt, 70% trẻ em khuyết tật sẽ được tạo điều kiện để đến trường Chính phủ đã thực hiện miễn giảm học phí cho trẻ mầm non 5 tuổi ở những vùng khó khăn từ năm 2018 Ngoài ra, Luật Người Khuyết Tật năm 2012 và Quy định về giáo dục hòa nhập năm 2006 đã được ban hành để đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật trong giáo dục.

Mặc dù các chính sách liên quan đến SDG 4 đã được triển khai, nhưng vẫn còn một số vấn đề cần khắc phục, bao gồm mức hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách còn thấp Hơn nữa, việc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục chưa đạt yêu cầu, và có sự thiếu thống nhất giữa các địa phương, đặc biệt là trong phân cấp nhân sự và tài chính Ngoài ra, hiện chưa có chương trình hay chính sách nào nhằm thúc đẩy việc học tập suốt đời, đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cao năng lực, kỹ năng cho người cao tuổi.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 4

Giáo dục mầm non đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị trẻ em cho cấp tiểu học, với tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi được chăm sóc tại các cơ sở mầm non tăng từ 11,0% năm học 2000-2001 lên 27,7% vào năm học 2016-2017 Đặc biệt, tỷ lệ trẻ 3-5 tuổi đi học tại trường mầm non đã tăng mạnh từ 49% lên 80,5% trong giai đoạn 2000-2013, với mức tăng trung bình 2,42% mỗi năm, và tiếp tục tăng đáng kể lên 92% trong năm học 2016-2017.

Hình 8 Tỷ lệ trẻ nhập học tại cơ sở mầm non (%)

Theo số liệu từ Bộ Giáo dục và Đào tạo và UNESCO, tỷ lệ trẻ 5 tuổi chuẩn bị vào lớp 1 đã tăng từ 72% trong năm học 2000-2001 lên 98% vào năm học 2016-2017 Hiện nay, trẻ em khuyết tật cũng được tạo điều kiện để tiếp cận giáo dục, với sự hỗ trợ từ các Trung tâm giáo dục hòa nhập tại địa phương, giúp can thiệp và cung cấp chuyên môn cho giáo dục trẻ khuyết tật tại các trường mầm non.

Trong năm học 2016-2017, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông lần lượt đạt 99%, 92,5% và 63,3%, trong khi tỷ lệ học sinh hoàn thành giáo dục tiểu học đạt 99,7% Sự gia tăng tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học và trung học cơ sở qua các năm cho thấy những tín hiệu tích cực từ các chính sách và chương trình giáo dục, cũng như sự đầu tư nguồn lực từ Nhà nước và xã hội.

25 Đã đề ra mục tiêu tỷ lệ biết chữ độ tuổi 15-60 đến năm 2020 đạt 98%, mục tiêu tỷ lệ người dân tộc biết chữ độ tuổi 15-60 đến năm

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, một số địa phương có tỷ lệ trẻ khuyết tật nhập học cao, bao gồm Hậu Giang (95%), Bắc Ninh (90%), Quảng Trị (87,6%), Nam Định (87,2%), Vĩnh Phúc (87%) và Phú Thọ (86,5%).

27 Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi được chăm sóc tại cơ sở mầm non

Tỷ lệ trẻ 3-5 tuổi đi học trường mầm non

Tỷ lệ trẻ 5 tuổi đi học trường mầm non

Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú đang được mở rộng cả về quy mô lẫn chất lượng nhằm phục vụ học sinh dân tộc thiểu số Bên cạnh việc giảng dạy văn hóa, các trường còn tích cực tổ chức nhiều hoạt động giáo dục bổ ích như thể dục thể thao, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp và dạy nghề.

Khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em thuộc hộ nghèo và ở vùng sâu, vùng xa vẫn gặp nhiều khó khăn Nhiều trẻ em từ 5 tuổi đến 14 tuổi, đặc biệt là trẻ em ở khu vực nông thôn, vùng núi cao, trẻ em nghèo, di cư, khuyết tật và trẻ em dân tộc thiểu số, vẫn chưa từng đi học hoặc đã bỏ học Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến trẻ em gái dân tộc thiểu số.

Trong nỗ lực xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại Việt Nam đã tăng mạnh, đạt 95% vào năm 2016, tăng hơn 7% so với năm 1989 Sự cải thiện này phản ánh những tiến bộ tích cực trong các chương trình xóa mù chữ Cụ thể, tỷ lệ nam giới biết chữ đạt 96,6%, trong khi tỷ lệ nữ giới cũng tăng lên 93,5%.

Đến năm 2030, khoảng cách về trình độ giáo dục giữa các dân tộc thiểu số (DTTS) và toàn quốc sẽ được thu hẹp Theo thống kê năm 2015 của CEMA, chỉ 72% người DTTS biết đọc, biết viết tiếng phổ thông, thấp hơn 29% so với mức trung bình toàn quốc Tuy nhiên, do thiếu số liệu thống kê thường xuyên và đầy đủ, việc đánh giá mức độ tiếp cận bình đẳng cho các nhóm yếu thế như người khuyết tật (NKT), đồng bào DTTS và trẻ em trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Một trong những thách thức lớn của ngành giáo dục hiện nay là cơ sở vật chất trường học ở nhiều vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vẫn còn thiếu thốn, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số Để cải thiện tình hình này, chính phủ cần tăng cường thu hút nguồn lực tài chính ngoài ngân sách nhằm phát triển giáo dục chất lượng Bên cạnh đó, các địa phương cần lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững trong giáo dục vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời xây dựng phương án phát triển tài chính và nguồn nhân lực phù hợp.

Việc xây dựng một môi trường học tập an toàn, phi bạo lực và toàn diện tại Việt Nam là một thách thức lớn trong việc đạt được Mục tiêu Phát triển Bền vững số 4 (SDG 4) Bạo lực trên cơ sở giới trong trường học đang trở thành vấn đề nghiêm trọng, nhưng các nghiên cứu cho thấy vấn đề bạo lực với trẻ em trong trường học, đặc biệt là liên quan đến giới tính, vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ Trẻ em gái có nguy cơ cao bị bạo lực và quấy rối, trong khi trẻ em trai thường phải đối mặt với bạo lực thể chất nhiều hơn.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo tại Việt Nam đã tăng đều qua các năm, từ 10,3% vào năm 2000 đến gấp đôi vào năm 2016 Năm 2017, có 2.690.000 người được đào tạo nghề, trong đó 600.000 là lao động nông thôn Theo thống kê năm 2015 từ CEMA, tỷ lệ lao động nam được đào tạo cao hơn nữ ở nhiều nhóm dân tộc thiểu số như Si La, Sán Dìu, Cơ Tu, Bố Y, với mức chênh lệch khoảng 3,5-6% Chỉ một số ít dân tộc như Tày, Lô Lô, Ngái và Pu Péo có tỷ lệ nữ lao động qua đào tạo cao hơn nam Sự chênh lệch này đặt ra yêu cầu về các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm thu hẹp khoảng cách giới trong tiếp cận đào tạo nghề.

28 Tính đến năm học 2015-2016, trường phổ thông dân tộc nội trú có ở 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với 314 trường, tăng

Năm học này, cả nước có 6 trường mới và tổng số học sinh đạt 91.193, tăng 103,3% so với năm trước Số lượng trường phổ thông dân tộc bán trú hiện có 975 trường, tăng 99 trường so với năm học 2014-2015, với quy mô học sinh lên đến 158.069, tăng 17.220 so với năm học trước, theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

SDG 5: Đạt được bình đẳng về giới, tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 5

Việt Nam cam kết thực hiện các cam kết quốc tế về bình đẳng giới, với nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều bộ luật quan trọng như Luật Bình đẳng giới, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đã đề ra các biện pháp nhằm thu hẹp khoảng cách giới cho phụ nữ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn Để tăng cường phòng chống bạo lực và xâm hại trẻ em, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg vào ngày 16/5/2017 Bên cạnh đó, Bộ Luật Lao động số 10/2012/QH13 cũng quy định các biện pháp cụ thể để xử lý hành vi quấy rối tình dục tại Điều 8 và Điều 183.

Việt Nam đang triển khai nhiều chương trình quan trọng nhằm phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới, bao gồm Đề án Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020 với tầm nhìn đến năm 2030, Chương trình hành động quốc gia phòng chống bạo lực gia đình 2014-2020, và Đề án Giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình tại khu vực nông thôn Việt Nam giai đoạn 2015-2020 Ngoài ra, còn có Kế hoạch hàng năm để giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số, cùng với Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025.

Các chính sách liên quan đến SDG 5 vẫn còn nhiều khoảng trống và thiếu sót cần được cải thiện Cụ thể, các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử hiện còn chung chung và chưa đồng bộ với Luật Bình đẳng giới Ngoài ra, việc lồng ghép các chính sách riêng vào Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nhằm bảo vệ quyền bình đẳng của người khuyết tật, đặc biệt là quyền của phụ nữ khuyết tật trong hôn nhân và quyết định về con cái, vẫn chưa được thực hiện đầy đủ theo Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) và Luật Người khuyết tật 2010 của Việt Nam Hơn nữa, một số chính sách trong Luật Bình đẳng giới chưa được Chính phủ ban hành kịp thời.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 5

Bình đẳng giới ở Việt Nam đã trở thành một yếu tố quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, với nhiều thành tựu đáng kể Tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,72%, tăng 2,62% so với nhiệm kỳ trước Tương tự, tỷ lệ nữ đại biểu tại các Hội đồng nhân dân cũng có sự gia tăng, với cấp tỉnh đạt 26,54%, cấp huyện 27,85% và cấp xã 26,59% trong cùng thời gian Đến hết tháng 8/2017, có 12/30 bộ, ngành có lãnh đạo chủ chốt là nữ, cho thấy sự tiến bộ trong việc nâng cao vị thế của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo.

Mặc dù tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội tại Việt Nam đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu 35% theo Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 Sự tham gia của phụ nữ trong Quốc hội chưa phản ánh đúng tỷ lệ nữ trong dân số và lực lượng lao động, đồng thời còn có sự phát triển không đồng đều qua các nhiệm kỳ.

Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) và Tuyên bố Bắc Kinh đã dẫn đến việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện khuyến nghị của Ủy ban Liên hợp quốc nhằm xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ Những nỗ lực này thể hiện cam kết toàn cầu trong việc bảo vệ quyền lợi và nâng cao vị thế của phụ nữ, đồng thời thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực xã hội.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định rõ ràng về quyền bình đẳng giới, trong đó khẳng định công dân nam, nữ có quyền bình đẳng về mọi mặt Nhà nước cam kết thực hiện các chính sách nhằm bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới, đồng thời tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển toàn diện và phát huy vai trò trong xã hội Ngoài ra, hiến pháp cũng nghiêm cấm mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới tính.

36 Quy định tỉ lệ nữ ứng cử viên ít nhất 35%.

37 Quy định ưu tiên chọn doanh nghiệp vừa và nhỏ do phụ nữ làm chủ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao đông nữ.

38 Quy định đầy đủ, chi tiết về lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

39 Báo cáo số 454/BC-CP của Chính phủ ngày 17/10/2017 về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

Tỷ lệ phụ nữ giữ chức vụ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vẫn chưa đạt yêu cầu theo Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới, đặc biệt là tỷ lệ nữ lãnh đạo ở các ngành và địa phương vẫn còn rất thấp.

Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp tại Việt Nam đã tăng lên 31,6% Đáng chú ý, 98% doanh nghiệp do phụ nữ điều hành thuộc quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 71,7% và doanh nghiệp vừa, nhỏ còn lại chiếm 28,3%.

Từ năm 2015, Việt Nam đã tổ chức tháng hành động quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới, thu hút sự tham gia của toàn xã hội và nâng cao nhận thức về thực thi pháp luật liên quan Trong 6 tháng đầu năm 2017, 61/63 tỉnh thành phố báo cáo có 9.228 nạn nhân bạo lực gia đình, trong đó 5.116 người được tư vấn và 4.628/8.396 người gây bạo lực cũng nhận được hỗ trợ Cuối năm 2017, Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111 ra đời, cùng với việc gia tăng thông tin truyền thông về pháp luật, giáo dục và kỹ năng bảo vệ trẻ em, nhằm lên án hành vi xâm hại trẻ em.

Việt Nam đã nỗ lực xóa bỏ kết hôn vị thành niên và bạo lực đối với trẻ em gái và phụ nữ, nhưng tình trạng kết hôn sớm vẫn phổ biến ở nông thôn và các vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số Đáng chú ý, hơn 58% phụ nữ từng kết hôn đã trải qua ít nhất một trong ba loại bạo lực thể xác, tình dục và tinh thần do chồng gây ra trong đời sống của họ.

Nghiên cứu của ActionAid và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho thấy phụ nữ trung bình dành 5 giờ (314 phút) mỗi ngày cho công việc chăm sóc không lương, nhiều hơn 2 giờ (125 phút) so với nam giới Nếu được trả tiền cho công việc này, phụ nữ sẽ đóng góp hơn 20% tổng GDP của Việt Nam Ở những khu vực có dịch vụ công kém chất lượng, thời gian chăm sóc không lương của phụ nữ có thể lên tới 9 tiếng Đặc biệt, phụ nữ ở vùng núi phía Bắc dành gần 2 giờ (107 phút) mỗi ngày để thu thập nhiên liệu và nước, trong khi phụ nữ ở các thành phố chỉ mất 3 phút, chủ yếu do hạn chế về cơ sở hạ tầng và dịch vụ.

Việt Nam đã cam kết đảm bảo mọi người dân đều có thể tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản Tỷ lệ tử vong mẹ năm 2016 ước tính là 58/100.000 trẻ sơ sinh sống, giảm nhẹ so với năm 2015 và dự kiến sẽ đạt chỉ tiêu vào năm 2020 Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức, như hơn 1/3 thanh niên thiếu thông tin và biện pháp tránh thai phù hợp Khả năng tiếp cận dịch vụ kế hoạch hóa gia đình còn hạn chế, đặc biệt đối với phụ nữ trẻ chưa lập gia đình, phụ nữ di cư và phụ nữ ở vùng sâu vùng xa Ngoài ra, nam giới cũng có thể cản trở việc sử dụng biện pháp tránh thai của phụ nữ, làm trầm trọng thêm bất bình đẳng giới Tỷ lệ mang thai vị thành niên đang gia tăng, với hơn 6% phụ nữ từ 15-19 tuổi đã sinh con, trong khi mang thai sớm tiềm ẩn nhiều nguy cơ cho sức khỏe.

40 Điều tra doanh nghiệp 2013, Tổng cục Thống kê.

41 Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch.

42 Theo khảo sát quốc gia đầu tiên về tình hình kinh tế xã hội 53 DTTS cho thấy tỷ lệ tảo hôn của 53 DTTS lên tới 26,59% (nam 26,04% và nữ 27,12%)-TCTK.

43 Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ ở Việt Nam năm 2010.

Công việc chăm sóc không lương là một chủ đề quan trọng, được nghiên cứu bởi ActionAid, AFV và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Bài viết "Công việc chăm sóc không lương: San sẻ là yêu thương?" nhấn mạnh vai trò của việc chia sẻ công việc chăm sóc trong xã hội Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, bạn có thể truy cập vào trang web của ActionAid.

45 UNFPA, 2013, Ngày dân số thế giới 2013: Mang thai ở tuổi vị thành niên http://vietnam.unfpa.org/public/pid/14588.

46 Bộ Y tế Việt Nam, 2014 Báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em.

47 Tổng cục Thống kê và UNICEF, 2015 Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014.

SDG 6: Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 6

Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách liên quan đến Mục tiêu Phát triển Bền vững số 6 (SDG 6), đặc biệt chú trọng đến quản lý, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên nước Các bộ luật như Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Xây dựng, Luật Đa dạng Sinh học, và Luật Tài nguyên nước đã nhấn mạnh vấn đề này Ngoài ra, Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương cũng đề ra các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 142/2016/QH13, đặt ra Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 Mục tiêu quan trọng trong kế hoạch này là nâng cao tỷ lệ sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh, với mục tiêu đạt 95% cho dân cư thành thị và 90% cho dân cư nông thôn vào năm 2020.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng liên quan đến Mục tiêu Phát triển Bền vững số 6 (SDG 6), bao gồm Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 và Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia Những chính sách này nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả tài nguyên nước và bảo vệ môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

2020, tầm nhìn đến năm 2030, Chương trình quốc gia bảo đảm cấp nước an toàn giai đoạn 2016-2025,

Kế hoạch hành động quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và sử dụng tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2014-2020, cùng với Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, đặt mục tiêu gia tăng hiệu quả sử dụng nước Để đạt được mục tiêu này, ngoài Luật Tài nguyên nước được thông qua năm 2012, Chính phủ đã phê duyệt 04 Nghị định 52.

Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước vẫn chưa được xây dựng, dẫn đến nhiều bất cập trong việc triển khai các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước Sự phối hợp giữa các bên liên quan trong quản lý các vấn đề về nước còn chồng chéo và chưa hiệu quả.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 6

Tính đến tháng 6/2017, khoảng 84,5% dân cư đô thị đã được cung cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung, tăng 1% so với cuối năm 2016, trong khi tỷ lệ thất thoát nước giảm xuống còn 23% Mặc dù công suất cấp nước đô thị đã tăng 1,6 lần trong 10 năm qua, nhưng do quá trình đô thị hóa gia tăng và sự hình thành của nhiều khu công nghiệp, khu đô thị mới, hệ thống cấp nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt của dân cư đô thị.

Về nguồn nước hợp vệ sinh 54 , tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh tăng liên tục trong giai đoạn 2002-

Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ hộ gia đình có nguồn nước hợp vệ sinh trên toàn quốc đạt 93,4% Trong giai đoạn 2010-2016, tỷ lệ này đã tăng 2,9%, từ 90,5% lên 93,4%, trung bình mỗi năm tăng 0,41% Nếu tiếp tục duy trì tốc độ này, dự kiến đến năm 2032 mới có thể đạt được mục tiêu 100% hộ gia đình có nguồn nước hợp vệ sinh.

Nghị định số 343/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 quy định về lập và quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, trong khi Nghị định số 54/2015/NĐ-CP ngày 08/6/2015 đưa ra các ưu đãi cho hoạt động sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản, và Nghị định số 82/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 quy định phương pháp tính và mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Theo Tổng cục Thống kê, nguồn nước sử dụng cho sinh hoạt an toàn và hợp vệ sinh bao gồm: nước máy, nước mưa, nước từ giếng khoan hoặc giếng xây có bơm, nước suối đã qua lọc và nước mưa.

Trong nhiều năm qua, việc cấp nước sạch cho nông thôn đã được ưu tiên đầu tư thông qua nhiều chương trình và dự án từ các nguồn kinh phí khác nhau Hiện tại, tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 43,5%.

Bảng 2 Hiện trạng hoạt động của các công trình cấp nước tập trung

TT Vùng Tổng số công trình

Hiện trạng hoạt động của các công trình cấp nước tập trung

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2017

Theo nghiên cứu năm 2016 về công việc chăm sóc không được trả lương tại Việt Nam, một người phụ nữ ở Hà Giang có thể tiết kiệm trung bình 54 ngày làm việc mỗi năm nếu được tiếp cận nước sạch Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng, đặc biệt ở các khu vực miền núi và vùng sâu vùng xa, về việc sử dụng và chi trả cho dịch vụ nước sạch còn hạn chế Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tích cực vận động xã hội hỗ trợ các hộ nghèo ở vùng nhiễm mặn do biến đổi khí hậu, giúp họ có dụng cụ trữ nước sạch phục vụ sinh hoạt.

Trong giai đoạn 2010-2016, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh tại Việt Nam đã tăng 7,6%, từ 75,7% lên 83,3%, trung bình mỗi năm tăng 1,08% Dự báo, với tốc độ này, Việt Nam sẽ cần đến năm 2032 để đạt tỷ lệ 100% hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh Hiện nay, Việt Nam đang chú trọng nghiên cứu các cơ chế và chính sách xã hội hóa dịch vụ vệ sinh công cộng, cũng như các mô hình kiến trúc và quy hoạch cho hệ thống này.

Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là một sáng kiến xã hội quan trọng, không chỉ cải thiện điều kiện sống và nâng cao nhận thức của người dân ở khu vực nông thôn, mà còn đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa Mục tiêu của chương trình này phù hợp với cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế và là một trong những tiêu chí quan trọng của Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới đến năm 2020.

Tổng số công trình cấp nước tập trung được xây dựng ở nông thôn đạt 16.342, cung cấp nước sinh hoạt cho hơn 28 triệu người, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

57 Action Aid và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, 2018, Nghiên cứu khảo sát Công việc chăm sóc không lương: tái phân bổ để phát triển bền vững.

Theo Tổng cục Thống kê, hố xí hợp vệ sinh được phân loại thành các loại như tự hoại, bán tự hoại, thấm dội nước và hai ngăn Tỷ lệ hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh đã tăng lên đáng kể trong các năm 2006 và 2008, phản ánh sự cải thiện trong điều kiện vệ sinh.

SDG 7: Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người

có khả năng chi trả cho tất cả mọi người

Để đạt được mục tiêu tiếp cận nguồn năng lượng bền vững theo SDG 7, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như Luật điện lực, nhằm phát triển điện lực bền vững phục vụ nhu cầu đời sống và phát triển kinh tế - xã hội Quy hoạch điện VII điều chỉnh đặt mục tiêu đến năm 2020, hầu hết hộ dân nông thôn sẽ được tiếp cận điện Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2050, xác định rõ tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp, ưu tiên phát triển thủy điện, điện mặt trời, điện gió và điện sinh khối Mục tiêu sản lượng điện từ nguồn năng lượng tái tạo đạt 7% vào năm 2020 và 10% vào năm 2030 cũng được đặt ra, cùng với việc ban hành Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 tập trung vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng Đặc biệt, chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 giúp các cơ sở sản xuất tiết kiệm từ 5-8% năng lượng, nguyên liệu và nhiên liệu Chính sách năng lượng hiện hành của Việt Nam đã thể hiện rõ các mục tiêu cụ thể của SDG 7.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 7

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt tỷ lệ dân số tiếp cận điện năng cao nhờ cải cách năng lượng và phát triển lưới điện quốc gia, với hơn 99% hộ gia đình có điện tính đến cuối năm 2016 Theo Ngân hàng Thế giới, chỉ số tiếp cận điện năng của Việt Nam đạt 78,69/100 điểm, tăng 32 bậc so với năm 2016, đứng thứ 64 trong số 190 quốc gia Đây là mức tăng hạng cao nhất từ năm 2013, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao vị trí xếp hạng Với chính sách đầu tư hạ tầng điện và hỗ trợ cho nhóm dân cư nghèo, Việt Nam có khả năng đạt mục tiêu tiếp cận điện toàn dân vào năm 2030.

Trong những năm gần đây, mức tiêu thụ điện bình quân đầu người tại Việt Nam đã tăng nhanh, tuy nhiên, Việt Nam vẫn có mức sản xuất và tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người thấp hơn so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực Mặc dù đã bắt đầu thực hiện các chính sách hướng tới sử dụng năng lượng bền vững và hiệu quả, Việt Nam vẫn chưa đạt được hiệu quả sử dụng năng lượng cao và khai thác năng lượng tái tạo ngoài thủy điện như nhiều quốc gia khác Theo dữ liệu, cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam tính theo KoE/1000 đô la GDP giá cố định 2005 đã tăng nhanh và hiện đã vượt mức trung bình thế giới, thậm chí cao hơn so với mức trung bình của các nước ASEAN.

Hình 10 Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam và các nước giai đoạn 2000-2014 (koE/1000

USD GDP cố định năm 2005)

Nguồn: Hiệp hội năng lượng Việt Nam (VEA)

62 Năm 2013, Việt nam chỉ được xếp hạng 156 cho chỉ số tiếp cận điện năng

Việt Nam Các nước OECD Các nước ASEAN Thế giới kOE/1000 USD 2005

Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức trong việc cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, bao gồm: cơ cấu kinh tế với tỷ trọng ngành công nghiệp tiêu thụ năng lượng lớn nhưng đóng góp cho GDP thấp; công nghệ lạc hậu và hiệu suất sử dụng năng lượng kém trong ngành công nghiệp; giá điện thấp và chưa khuyến khích tiết kiệm; hiệu quả sản xuất năng lượng chưa cao, đặc biệt là trong lĩnh vực nhiệt điện với tỷ lệ thất thoát lớn; và ý thức sử dụng năng lượng tiết kiệm của các ngành sản xuất và người dân còn hạn chế Những vấn đề này cần được giải quyết để Việt Nam đạt được mục tiêu SDG 7.3 trong tương lai.

Việt Nam gần đây đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, với nhiều dự án điện gió và điện mặt trời được triển khai Hiện cả nước có 77 dự án điện gió quy mô công nghiệp tại 18 tỉnh, tổng công suất lên tới 7.000 MW, nhưng chỉ 3 dự án đã hoàn thành và kết nối vào hệ thống điện quốc gia với công suất 48,2 MW Nếu tất cả các dự án đã đăng ký hoạt động, Việt Nam có thể đạt mục tiêu 6.200 MW từ năng lượng gió vào năm 2030 Ngoài ra, năng lượng sinh khối cũng đang phát triển mạnh mẽ ở vùng nông thôn và dự kiến đạt 2.000 MW vào năm 2030.

Mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo chưa được khai thác, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu sử dụng năng lượng cuối cùng hiện tại chỉ đạt khoảng 0,4%, thấp hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực.

Hình 11 Tiềm năng phát triển một số loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam (đơn vị tính MW)

Nguồn: Cục Điều tiết điện lực, Bộ Công Thương

Việt Nam có tiềm năng khai thác nguồn điện mặt trời với 4-6 kWh/m² tại nhiều địa phương, nhưng hiện chỉ sản xuất được 5MW điện mặt trời Việc phát triển năng lượng tái tạo gặp khó khăn do thiếu luật pháp cụ thể, cơ chế giá chưa hấp dẫn cho nhà đầu tư, và thiếu cơ chế linh hoạt cho sự tham gia của các nhà đầu tư vào thị trường điện, đặc biệt trong khâu chuyển tải và phân phối Những thách thức này cần được giải quyết để đạt được các mục tiêu SDG 7.2 và 7.4 vào năm 2030.

8000 Điện gió Sinh khối Rác thải đô thị Thủy triều Địa nhiệt

Tiềm năng đầu tư mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng năng lượng tại Việt Nam, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi và hải đảo, đã được Chính phủ chú trọng thông qua “Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2013-2020” từ năm 2013 Gần đây, Liên minh châu Âu (EU) đã hợp tác với Bộ Công Thương để triển khai “Chương trình hỗ trợ chính sách phát triển năng lượng và tăng cường tiếp cận năng lượng bền vững” cho khu vực này Chương trình sẽ đầu tư vào 23 tiểu dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia tại 23 tỉnh, cùng với hai tiểu dự án cấp điện từ nguồn năng lượng tái tạo tại tỉnh Cao Bằng và Đảo Bạch Long Vỹ.

Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, hiện vẫn gần 2% hộ dân ở vùng sâu vùng xa chưa được tiếp cận điện, cho thấy nhu cầu đầu tư cho khu vực nông thôn, miền núi còn rất lớn Theo Bộ Công Thương, ngân sách trung ương giai đoạn 2016-2020 chỉ đáp ứng khoảng 8% nhu cầu vốn cho Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo từ 2013-2020, phần còn lại chủ yếu phải huy động từ ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài và các nguồn khác Điều này là một thách thức lớn cần được giải quyết để Việt Nam đạt được mục tiêu SDG 7.4.

Để đạt được mục tiêu SDG 7, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào hạ tầng năng lượng, ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo Đồng thời, cần hoàn thiện hệ thống thể chế và chính sách hiện hành để thúc đẩy sản xuất và sử dụng năng lượng bền vững Điều này bao gồm việc xây dựng và thực hiện định mức sử dụng năng lượng cho các ngành công nghiệp cũng như thực hiện kiểm toán năng lượng cho tất cả các đối tượng sử dụng năng lượng.

Hộp 7 Chương trình cấp điện cho nông thôn, miền núi và hải đảo: Những kết quả bước đầu và khó khăn phía trước

Theo số liệu mới nhất từ TCTK, hệ thống cung cấp điện đã được mở rộng đến tất cả các xã và phần lớn các thôn bản nhờ vào những nỗ lực đầu tư và triển khai mạnh mẽ trong nhiều năm qua Vào năm 2011, cả nước vẫn còn 17 xã chưa có điện.

Đến nay, điện lưới đã phủ sóng 100% số xã trên toàn quốc, đánh dấu thành công của Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi và hải đảo giai đoạn 2013-2020 với tổng vốn đầu tư vượt qua nhiều con số ấn tượng.

28 nghìn tỷ đồng, chương trình dự kiến cấp điện cho 12.140 thôn, bản chưa có điện trên cả nước Sau

Sau 5 năm triển khai, nhiều hộ dân ở những thôn bản xa xôi đã được tiếp cận điện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Mặc dù đã có những nỗ lực, nhưng việc đưa ánh sáng văn minh đến các vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều thách thức Theo số liệu từ Bộ Công Thương, hiện có khoảng 251.308 hộ dân ở nông thôn, sống tại 6.162 thôn, bản trên cả nước vẫn chưa được tiếp cận điện lưới quốc gia Đặc biệt, Chương trình cấp điện cho nông thôn, miền núi và hải đảo chỉ còn chưa đầy hai năm để hoàn thành mục tiêu này.

SDG 8: Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 8

Những luật quan trọng thúc đẩy thực hiện SDG 8 bao gồm Bộ Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật An toàn và vệ sinh lao động, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, và Luật Quy hoạch Các văn bản này đóng vai trò thiết yếu trong việc tạo ra môi trường làm việc an toàn, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và đảm bảo quyền lợi cho người lao động.

Chính phủ đã triển khai các chính sách hỗ trợ cho SDG 8, bao gồm Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 với tầm nhìn đến năm 2050 và Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế, nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh từ năm 2013.

Năm 2020, Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình quan trọng như Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững, Chương trình khuyến công quốc gia, và Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm phát triển các cụm liên kết ngành trong chuỗi giá trị nông nghiệp Đồng thời, các chiến lược như Chiến lược Hội nhập quốc tế về lao động và xã hội, Chiến lược Phát triển thanh niên giai đoạn 2011-2020, và Chương trình hợp tác quốc gia Việt Nam - ILO về việc làm bền vững cũng được thực hiện Bên cạnh đó, phát triển du lịch bền vững được thúc đẩy thông qua Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2030.

Mặc dù các chính sách liên quan đến SDG 8 đã được triển khai, vẫn còn nhiều thiếu sót cần khắc phục Một số khái niệm của các mục tiêu LHQ chưa được đề cập đầy đủ trong văn bản của Việt Nam hoặc chưa được hiểu rõ Các mục tiêu hiện tại chủ yếu mang tính tổng hợp quốc gia, chưa phản ánh đầy đủ khía cạnh phát triển bao trùm và chưa chú trọng đến nhóm yếu thế Ngoài ra, một số chỉ tiêu giám sát do LHQ đề xuất chưa được thu thập một cách hệ thống và thiếu dữ liệu tại Việt Nam, như dấu chân nguyên liệu và tiêu dùng nguyên liệu nội địa theo các phân nhóm ngành.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 8

Việt Nam đã vượt mục tiêu SDG 8.1 về tăng trưởng GDP hàng năm từ 5-6% trong giai đoạn 2015-2017 với các mức tăng trưởng lần lượt là 6,7%, 6,2% và 6,8% Trong cùng thời gian này, năng suất lao động cũng tăng cao hơn so với giai đoạn 2011-2015, đạt 6,5%, 5,3% và 6,0% Đặc biệt, năm 2017 chứng kiến sự ra đời của 126.859 doanh nghiệp mới, tạo thêm 161.300 việc làm Đây là những kết quả tích cực từ quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cải thiện môi trường kinh doanh, góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp.

63 chương trình được ký kết nhằm thúc đẩy việc làm bền vững cho tất cả mọi người, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ hội kinh doanh bền vững Mục tiêu bao gồm giảm đói nghèo thông qua việc mở rộng bảo hiểm xã hội và giảm các hình thức việc làm không chấp nhận được, đặc biệt cho những đối tượng dễ bị tổn thương Đồng thời, các chương trình này cũng hướng tới xây dựng cơ chế quản trị thị trường lao động hiệu quả, tuân thủ các nguyên tắc và quyền lao động cơ bản.

Việt Nam thường tập trung vào mục tiêu tăng trưởng GDP mà ít chú trọng đến chỉ tiêu tăng trưởng GDP/người, một yếu tố quan trọng phản ánh khía cạnh xã hội và tăng trưởng dân số Mặc dù chỉ tiêu này chưa được đưa vào kế hoạch chính thức, nhưng có thể dễ dàng tính toán dựa trên số liệu về GDP và dân số.

Hình 12 Tăng trưởng GDP, tăng trưởng năng suất lao động và tăng trưởng số lao động có việc làm hàng năm giai đoạn 2006-2017 (%)

Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của TCTK

Kể từ khi thực thi Luật Đầu tư công vào năm 2015, việc kiểm soát chi tiêu công và hiệu quả đầu tư đã được cải thiện, tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước vẫn chưa đạt yêu cầu Từ năm 2010 đến nay, tỷ lệ vốn đầu tư so với tăng trưởng (hệ số ICOR) luôn trên 6, trong khi các nước trong khu vực chỉ từ 3 đến 4 Với tình hình ngân sách hiện tại, việc duy trì xu hướng đầu tư công cao để thúc đẩy tăng trưởng tại Việt Nam trở nên khó khăn Để đạt được tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần ưu tiên đổi mới và nâng cao hiệu quả đầu tư công.

Tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng là giải pháp quan trọng để giảm tác động của tăng trưởng kinh tế lên môi trường Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách nhằm phát triển năng lượng tái tạo và khuyến khích tiết kiệm năng lượng Việc áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và sinh hoạt được ưu tiên Nghị quyết số 142/QH13/2016 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KT-XH quốc gia giai đoạn 2016-2020 đã đưa ra chỉ tiêu giảm mức tiêu hao năng lượng trên GDP, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững.

Việc làm bền vững bao gồm các yếu tố như đầy đủ, năng suất và công bằng, thể hiện qua số lượng và chất lượng công việc Mặc dù số lượng việc làm trong nền kinh tế vẫn tăng, nhưng tỷ lệ tăng trưởng đã chậm lại từ 2,7% năm 2010 xuống 0,2% năm 2015 Tuy nhiên, trong hai năm 2016 và 2017, tăng trưởng việc làm đã cải thiện, đạt 0,9% và 0,8% tương ứng Đặc biệt, tỷ lệ tăng trưởng việc làm của nữ giới thường cao hơn nam giới, ngoại trừ năm 2015 khi lao động nữ giảm nhẹ 0,4% Năm 2017, cả nước ghi nhận khoảng 1.641.000 lao động được tạo việc làm, tăng 1,5% so với năm trước.

2016), trong đó số lao động được tạo việc làm trong nước khoảng 1.505.000 người.

Một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng việc làm là thu nhập của người lao động Thu nhập của người lao động làm công ăn lương trong khu vực Nhà nước đã và đang được cải thiện Cải thiện chất lượng việc làm còn thể hiện ở việc chuyển dịch lao động từ khu vực có năng suất và thu nhập thấp sang khu vực có thu nhập cao hơn Tuy nhiên, thị trường lao động Việt Nam vẫn duy trì tỷ lệ lao động phi chính thức cao, chiếm khoảng 33,8% tổng số việc làm.

65 Tiếng Anh là Increamental Capital-Output Ratio.

66 Tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê.

GDP Năng suất lao động Việc làm

Hình 13 Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức (%)

Đến cuối năm 2016, khoảng 17.000 người khuyết tật (NKT) đã nhận được hỗ trợ đào tạo nghề và tạo việc làm Trong số này, có khoảng 15.000 lao động khuyết tật làm việc tại 400 doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp do NKT sở hữu Ngoài ra, còn có khoảng 16.000 lao động khác làm việc tại gia đình hoặc tự làm chủ.

Đảm bảo môi trường làm việc an toàn cho người lao động đang ngày càng được chú trọng, với việc thanh tra và kiểm tra các sự cố tai nạn lao động nghiêm trọng để xác định nguyên nhân và xử lý trách nhiệm kịp thời, nhằm hạn chế tác động tiêu cực.

Trong thời gian gần đây, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam duy trì trên 2%, với tỷ lệ thất nghiệp thành thị trên 3% và tỷ lệ thiếu việc làm dưới 2%, chủ yếu tập trung ở nông thôn Giai đoạn 2015-2017 chứng kiến tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ổn định ở mức thấp, tuy nhiên, tính bền vững của việc làm vẫn còn hạn chế do nhiều công việc không mang tính lâu dài, năng suất và thu nhập thấp Đặc biệt, chênh lệch thù lao giữa nam và nữ trong cùng một loại công việc vẫn tồn tại, trong khi phụ nữ chủ yếu làm việc ở khu vực phi chính thức với thu nhập thấp, môi trường làm việc không đảm bảo và thiếu ổn định.

Ngành du lịch Việt Nam đã và đang đóng góp ngày càng tăng cho GDP từ 3,4% năm 2006 lên 3,6% năm

2010, 3,7% năm 2015 và 3,8% năm 2016 Tuy nhiên, mức đóng góp của ngành còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của Việt Nam.

Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc thực hiện SDG 8, bao gồm sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền và nhóm dân tộc, cũng như ảnh hưởng của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến quốc gia có trình độ phát triển còn hạn chế Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư nhà nước, nhưng hiệu quả đầu tư vẫn chậm cải thiện, trong khi năng suất và công nghệ sản xuất ở nhiều doanh nghiệp còn lạc hậu Việc sử dụng tài nguyên chưa hiệu quả và đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, khiến năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện đáng kể Để vượt qua những khó khăn này, Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế, đồng thời chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng.

67 Báo cáo năm 2016 về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt Nam.

Chung KVKT chính thức KVKT phi chính thức

Cả nước Thành thị Nông thôn

Chung KVKT chính thức KVKT phi chính thức

Cả nước Thành thị Nông thôn

Cả nước Thành thị Nông thôn

Chung KVKT chính thức KVKT phi chính thức

SDG 9: Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 9

SDG 9 được thể hiện rõ trong các chiến lược chính sách của Việt Nam, bao gồm Chiến lược Phát triển giao thông vận tải đến năm 2020 và Nghị quyết số 13-NQ/TW về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ Những chính sách này hướng tới việc hiện đại hóa hạ tầng giao thông, coi đây là một trong ba đột phá của Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và cơ cấu lại nền kinh tế Công nghiệp hóa bền vững cũng là nội dung quan trọng trong Chiến lược phát triển KT-XH và Chiến lược Phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.

Mặc dù chính sách liên quan đến SDG 9 đã được triển khai, vẫn còn nhiều thiếu sót cần khắc phục Nhiều khái niệm của các mục tiêu LHQ chưa được đưa vào nhóm chỉ tiêu phổ biến trong văn bản Việt Nam, hoặc chưa được hiểu rõ, chẳng hạn như khái niệm "bao trùm" Các nội dung của SDG như độ tin cậy, tính bền vững và sự tiếp cận công bằng chưa được đề cập đầy đủ trong các chiến lược chính sách của Việt Nam Hơn nữa, một số chỉ tiêu giám sát và đánh giá do LHQ đề xuất vẫn chưa được thu thập một cách hệ thống tại Việt Nam.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 9

Trong thời gian qua, Chính phủ đã ưu tiên đầu tư vào hệ thống kết cấu hạ tầng, chiếm khoảng 20% tổng chi đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước Các lĩnh vực giao thông như đường bộ, đường sắt, hàng không và hàng hải đều được chú trọng, giúp cải thiện kết nối trong nước và giao thương quốc tế, đồng thời đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng Hạ tầng tại Việt Nam, đặc biệt ở khu vực thành thị, đã đạt mức tương đương với nhiều quốc gia có trình độ phát triển tương tự Tuy nhiên, hệ thống hạ tầng vẫn chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển, còn thiếu tính đồng bộ và hiệu quả kết nối, dẫn đến tình trạng quá tải và ùn tắc, đặc biệt tại các đô thị lớn Ngoài ra, nhiều công trình ở vùng có khí hậu khắc nghiệt chưa đủ bền vững để chống chịu với thiên tai và thời tiết bất thường.

Trong giai đoạn 2011-2015, số lượt hành khách luân chuyển tăng trung bình 9,6% mỗi năm, trong đó ngành hàng không dẫn đầu với mức tăng 14,7% Khối lượng hàng hóa luân chuyển cũng ghi nhận sự tăng trưởng khi đạt 1,1% mỗi năm, với vận tải đường bộ dẫn đầu ở mức 7,3% Năm 2016, sản lượng vận tải đạt 1.160 triệu tấn hàng, tăng 10,9% so với năm trước, và đạt 3.313 triệu lượt hành khách, tăng 9,4% Đến 9 tháng đầu năm 2017, sản lượng vận tải ước tính đạt 1.066,17 triệu tấn hàng, tăng 10,4%, và 3.012,96 triệu lượt hành khách, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Công nghiệp hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, với tỷ trọng công nghiệp duy trì ở mức 26-28% tổng GDP từ năm 2010 đến nay Cơ cấu công nghiệp đang chuyển dịch tích cực, giảm tỷ trọng công nghiệp khai khoáng và tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo.

Tỷ lệ dân số nông thôn sống cách đường dưới 2 km và tỷ lệ phần trăm giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp quy mô nhỏ trong tổng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp cho thấy sự phát triển không đồng đều Ngành công nghiệp chế biến chế tạo đóng góp 13,7% GDP năm 2015, tăng lên 14,3% năm 2016 và 15,3% năm 2017, với tỷ trọng người làm việc trong ngành này cũng tăng từ 15,3% năm 2015 lên 17,3% năm 2017 Tuy nhiên, công nghiệp hóa ở Việt Nam còn thiếu bền vững, nhiều ngành chưa thân thiện với môi trường và chưa khai thác hiệu quả nguồn lực trong nước Năng suất lao động thấp và tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo chỉ duy trì khoảng 13% GDP trong giai đoạn 2011-2015, thấp hơn so với các nước trong khu vực Sự phát triển này còn dẫn đến ô nhiễm và hủy hoại môi trường với hậu quả nghiêm trọng.

Hạ tầng công nghệ thông tin tại Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, với mật độ phổ biến dịch vụ viễn thông cao so với các nước trên thế giới Đến tháng 12/2017, tỷ lệ hộ gia đình có truy cập Internet đạt 28,35%, và số người sử dụng Internet chiếm 54,19% dân số, tương đương khoảng 50 triệu người, tăng từ 30,8 triệu người vào năm 2013 Năm 2016, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 130 triệu, trong đó thuê bao di động đạt 121 triệu, tương đương 130,8% dân số Số thuê bao Internet băng rộng cố định cũng đạt 10,5 triệu, cho thấy sự phát triển vượt bậc so với nhiều quốc gia có trình độ phát triển tương tự.

2017, thông tin di động đã có bước phát triển mới với việc các nhà cung cấp dịch vụ triển khai mạng 4G-LTE trên băng tần 1800 MHz khắp cả nước

Từ giữa năm 2017, Việt Nam đã nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, tăng 12 bậc và lần đầu tiên đứng thứ 47 trên thế giới, với sự đóng góp quan trọng từ công nghệ thông tin Theo Điều tra về Chính phủ điện tử năm 2016 của Liên Hợp Quốc, Việt Nam xếp hạng 89/193 quốc gia, tăng 10 bậc so với năm 2014, chuyển từ nhóm các nước có chỉ số phát triển trung bình sang nhóm có chỉ số phát triển cao.

Chi đầu tư cho khoa học và công nghệ (KHCN) tại Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 0,6% GDP Số lượng cán bộ nghiên cứu khoa học trên 1 triệu dân duy trì ổn định khoảng 2.800 người từ năm 2012 đến nay.

Hình 15 Tỷ lệ chi tiêu cho KHCN (%) và số cán bộ khoa học công nghệ/1 triệu dân

Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu trang web của TCTK

69 Bộ Thông tin và Truyền thông.

Tỷ lệ chi thường xuyên của nhà nước cho khoa học và công nghệ (KHCN) chỉ chiếm dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước, cụ thể là 0,83% vào năm 2015 và giảm nhẹ xuống còn 0,77% vào năm 2016.

2015 Đầu tư cho khoa học & công nghệ/GDP (%) Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp khoa học, công nghệ (% tổng chi ngân sách)

Số người làm nghiên cứu khoa học trên 1 triệu người dân

Cán bộ nghiên cứu KH/1 triệu dân

Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ (KHCN) hiện nay còn dàn trải và hiệu quả chưa cao Tiềm lực KHCN chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, trong khi cơ chế quản lý KHCN, đặc biệt là về tài chính, vẫn chậm đổi mới Các vấn đề như tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài chưa được giải quyết triệt để Ngoài ra, năng lực của đội ngũ KHCN còn hạn chế và thiếu vắng các nhà khoa học đầu ngành.

Việt Nam cần tăng cường số lượng sáng chế và công trình khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín để thực hiện thành công SDG 9 Để đạt được điều này, cần cải thiện tính đồng bộ, đáng tin cậy và bền vững của hệ thống giao thông, đồng thời nâng cao khả năng kết nối giữa các phương tiện giao thông trên toàn quốc Ngoài ra, việc duy trì tăng trưởng công nghiệp bền vững và xây dựng nền “công nghiệp xanh” cũng rất quan trọng Cuối cùng, cần sửa đổi và bổ sung các cơ chế chính sách để khuyến khích mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy cung - cầu công nghệ.

Hộp 9 Ngân hàng xanh và bền vững tại Việt Nam

Việc tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam nhằm tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu cần nguồn lực tài chính lớn Theo Bộ Kế hoạch Đầu tư, ngân sách nhà nước chỉ có khả năng đáp ứng hạn chế nhu cầu vốn Do đó, tài chính tư nhân trở nên quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách này, đóng góp khoảng hai phần ba nhu cầu tài chính xanh.

Trong bối cảnh hiện nay, nguồn vốn bên ngoài của các doanh nghiệp địa phương chủ yếu đến từ ngân hàng, chiếm 70-80% Do đó, cải cách hệ thống ngân hàng xanh là yếu tố then chốt để mở rộng nguồn vốn này, giúp chuyển hướng dòng vốn tư nhân vào các khoản đầu tư xanh và bền vững Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện các bước quan trọng nhằm thiết lập khung chính sách cho hoạt động ngân hàng xanh và các sản phẩm tài chính xanh Những nỗ lực này góp phần trực tiếp vào mục tiêu 9.3a trong SDG 9 của Việt Nam, nhằm nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ tín dụng xanh từ ngân hàng và tiếp nhận từ doanh nghiệp.

Chiến lược ngân hàng của NHNN tập trung vào phát triển ngân hàng xanh và bền vững, với chỉ thị thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản trị rủi ro môi trường xã hội được ban hành từ năm 2015 Năm 2017, NHNN giới thiệu danh mục dự án xanh, phân loại 6 ngành/lĩnh vực xanh, áp dụng tự nguyện tại 23 ngân hàng để sàng lọc các khoản vay Phân loại xanh cung cấp định nghĩa rõ ràng về các khoản đầu tư xanh, làm cơ sở báo cáo cho NHNN theo yêu cầu tín dụng xanh NHNN sử dụng dữ liệu này để giám sát và phát triển chính sách tín dụng xanh, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao Các chương trình tín dụng xanh trong năng lượng và quản lý chất thải cũng đã được lên kế hoạch Những nỗ lực cải cách hệ thống ngân hàng xanh của Việt Nam đã được ghi nhận trong Báo cáo toàn cầu của Mạng lưới Ngân hàng bền vững, cho thấy Việt Nam đang trong giai đoạn thực thi phát triển tài chính bền vững bên cạnh các nước như Trung Quốc, Brazil, Indonesia và Colombia.

Nguồn: Tổng hợp từ các thông cáo báo chí của NHNN và Chương trình Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh tài trợ bởi

BMZ và được hợp tác thực hiện bởi GIZ và NHNN

SDG 10: Giảm bất bình đẳng trong xã hội

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 10

Trong quá trình cải cách thể chế, Việt Nam cam kết đảm bảo quyền và bình đẳng cơ hội cho mọi người, điều này được ghi nhận rõ ràng trong Hiến pháp Cụ thể, Điều 16 của Hiến pháp 2013 nêu rõ rằng "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật" và "Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".

Để thực hiện Hiến pháp về bảo vệ quyền con người và giảm bất bình đẳng xã hội, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng như Bộ luật dân sự, Luật Tiếp cận thông tin, và Luật Đầu tư công Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 về cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 nhằm thúc đẩy sự minh bạch và tham gia của người dân trong các vấn đề kinh tế - xã hội Nhiều nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chính sách hỗ trợ giáo dục, y tế, tín dụng ưu đãi, và phát triển sản xuất cũng đã được ban hành.

Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Người Khuyết Tật (CRPD) vào tháng 2 năm 2015, đồng thời ban hành Kế hoạch thực hiện Công ước và Đề án trợ giúp Người Khuyết Tật giai đoạn 2012-2020 Quốc gia này đặc biệt quan tâm và đã triển khai nhiều đề án, chính sách cụ thể nhằm thu hẹp khoảng cách về kinh tế - xã hội giữa các dân tộc.

Các chính sách liên quan đến SDG 10 hiện vẫn còn thiếu sót, đặc biệt trong việc giải quyết bất bình đẳng và đảm bảo tiếp cận công bằng các dịch vụ cơ bản chất lượng cho nhóm dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người cao tuổi đơn thân và người nhập cư Cần có các chính sách bao trùm về an sinh xã hội, mở rộng chương trình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế cho nhóm lao động phi chính thức Chính phủ cần nỗ lực thực hiện mục tiêu mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội lên 50% vào năm 2020, đồng thời xóa bỏ sự phân biệt về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu và công thức tính lương hưu, cũng như thiết lập chính sách bảo trợ xã hội cho người cao tuổi.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 10

Chính phủ Việt Nam đang triển khai chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 nhằm hạn chế sự gia tăng bất bình đẳng Từ năm 1993 đến 2014, tỷ lệ giảm nghèo của 40% dân số có thu nhập thấp nhất đạt trung bình 6,8% mỗi năm Đặc biệt, chỉ số Gini về bất bình đẳng thu nhập đã cải thiện, đạt 0,43 vào năm 2016.

Các chính sách nhằm giảm bất bình đẳng bao gồm miễn giảm học phí cho trẻ em học tại các cơ sở giáo dục công lập, hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo và cung cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi.

Chính phủ đã ban hành quyết định bỏ hộ khẩu và giấy tờ công dân trong thủ tục hành chính nhằm giảm khoảng cách và phân biệt về khả năng tiếp cận dịch vụ giữa người có đăng ký tạm trú và đăng ký hộ khẩu thường trú, đặc biệt trong khu vực lao động phi chính thức và vấn đề dân di cư Luật Trợ giúp pháp lý (2017) quy định rõ các đối tượng được trợ giúp pháp lý, bao gồm nạn nhân của bạo lực gia đình, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo và người khuyết tật.

Theo số liệu mới nhất, khoảng 32% trẻ khuyết tật một phần và 90% trẻ khuyết tật trong độ tuổi từ 5-17 chưa từng đi học hoặc đã bỏ học, theo báo cáo của Bộ GDĐT và UNICEF năm 2013 Đặc biệt, vào năm 2011, Bộ GDĐT ước tính có khoảng 1,2 triệu trẻ khuyết tật tại Việt Nam.

Trong giai đoạn 2016-2025, Chính phủ đã triển khai 74 đề án nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội cho các dân tộc thiểu số rất ít người Đặc biệt, từ năm 2017 đến 2020, chính sách đặc thù đã được áp dụng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi Bên cạnh đó, đề án "Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025" cũng được thực hiện nhằm nâng cao vị thế và quyền lợi của phụ nữ trong cộng đồng dân tộc thiểu số.

75 Tổng cục Thống kê Điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS), 2014.

Hình 16 Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (Hệ số GINI)

Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc giảm nghèo, nhưng chênh lệch mức sống giữa các nhóm dân cư đang gia tăng, đặc biệt là bất bình đẳng giới tại khu vực Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số Tình trạng này sẽ tạo ra thách thức lớn cho việc giảm nghèo bền vững và phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.

Việt Nam cam kết tăng cường sự tham gia chính trị, kinh tế và xã hội cho mọi người, bất kể tuổi tác, giới tính, khuyết tật, sắc tộc, dân tộc, nguồn gốc, tôn giáo hay điều kiện kinh tế.

Việt Nam đang triển khai các chính sách an sinh xã hội nhằm giảm thiểu rủi ro cho những nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm người nghèo và cận nghèo Các chính sách này tập trung vào việc tăng cường tiếp cận dịch vụ công và bảo hiểm, cũng như phát triển các chương trình an sinh xã hội để hỗ trợ các nhóm yếu thế.

Người dân tộc thiểu số (DTTS) được khuyến khích tham gia vào hệ thống chính trị và quản lý xã hội Trong Quốc hội khóa XIV (2016-2021), có 86 đại biểu DTTS, chiếm 17,3% tổng số ghế Chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho vùng DTTS đã đạt nhiều kết quả tích cực, với tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tiếp cận đa chiều giảm khoảng 2% vào năm 2016 so với năm 2015, trong khi cả nước chỉ giảm từ 1,3% đến 1,5% Đặc biệt, 98% số người thoát nghèo không bị tái nghèo.

Việt Nam đã đóng góp tích cực trong việc nâng cao vai trò và tiếng nói của các nước đang phát triển tại các cơ chế đa phương toàn cầu và khu vực Với vị thế ngày càng cao, Việt Nam đã trúng cử vào nhiều cơ quan quan trọng của Liên Hợp Quốc, như Hội đồng Nhân quyền (2014-2016), Hội đồng Kinh tế Xã hội (ECOSOC) (2016-2018), và Ủy ban Di sản cùng Hội đồng chấp hành UNESCO (2015-2021).

Năm 2019, Việt Nam, với vai trò là thành viên Hội đồng nhân quyền, đã chủ động đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng, trong đó có Nghị quyết về Biến đổi khí hậu và Quyền trẻ em, được Hội đồng nhân quyền thông qua bằng đồng thuận vào tháng 7 năm 2016.

SDG 11: Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn; phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 11

Hệ thống pháp luật và chính sách thực hiện SDG 11 tại Việt Nam bao gồm các văn bản quan trọng như Luật Nhà ở và Chiến lược Phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, nhằm đảm bảo mọi người dân đều có quyền tiếp cận dịch vụ nhà ở phù hợp Quyết định điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2030 và Đề án Tái cơ cấu ngành giao thông vận tải cũng hướng tới xây dựng một hệ thống giao thông bền vững Luật Phòng, chống thiên tai và Đề án Quy hoạch tổng thể ứng phó thiên tai giúp cụ thể hóa công tác phòng chống và cứu hộ Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2030 tập trung vào việc giảm thiểu tác động môi trường đối với con người Định hướng phát triển thoát nước đô thị và khu công nghiệp đến năm 2050 cũng góp phần vào việc quản lý nước thải hiệu quả Để thúc đẩy đô thị phát triển bền vững và tăng khả năng chống chịu, Việt Nam đã ban hành Luật Quy hoạch và Luật Quy hoạch đô thị.

Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) đến năm 2025 và tầm nhìn 2050 đã xác định các nhiệm vụ chiến lược nhằm thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH Đề án phát triển đô thị Việt Nam giai đoạn 2013-2020 cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển nông thôn bền vững, được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020, và được cụ thể hóa qua Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn 2010-2020.

Các chính sách liên quan đến SDG 11 tại Việt Nam chưa đầy đủ trong việc đề cập đến một số chỉ tiêu giám sát đánh giá được LHQ đề xuất, và các chỉ tiêu này cũng chưa được thu thập một cách hệ thống.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 11

Việt Nam đang trải qua giai đoạn phát triển đô thị mạnh mẽ với hơn 770 thành phố, thị xã và thị trấn trên toàn quốc Diện tích nhà ở bình quân đầu người đã tăng từ 16,7 m² năm 2009 lên 23,4 m² năm 2017, trong khi tỷ lệ hộ có nhà ở thiếu kiên cố giảm từ 9,2% năm 2014 xuống 7,8% năm 2016, cho thấy khả năng thực hiện SDG 11.1 Tuy nhiên, vấn đề nhà ở an toàn và trong khả năng chi trả vẫn là thách thức lớn đối với hộ nghèo và cận nghèo, do giá nhà quá cao so với thu nhập, mặc dù Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ Theo số liệu của Bộ Xây dựng năm 2017, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số địa phương có khoảng 2.500 khối nhà chung cư cũ, trong đó hơn 600 khối nhà đang trong tình trạng hư hỏng nặng và nguy hiểm.

Việt Nam đã triển khai chính sách khuyến khích phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị, nhằm thúc đẩy người dân sử dụng phương tiện công cộng thay vì phương tiện cá nhân, hướng tới một hệ thống giao thông bền vững và thân thiện với môi trường Gần đây, hệ thống giao thông đã được cải thiện đáng kể, giúp người dân dễ dàng tiếp cận các loại hình giao thông Trong giai đoạn 2011-2015, số lượt hành khách tăng trung bình 9,6% mỗi năm, với ngành hàng không dẫn đầu đạt 14,7% Hạ tầng giao thông đã đáp ứng yêu cầu cho người khuyết tật (NKT), với khoảng 65% công trình hàng không, 30% bến xe đường bộ và 100% xe buýt có ghế ưu tiên Tuy nhiên, diện tích đất dành cho giao thông đô thị ở các thành phố lớn chưa đạt tiêu chuẩn quốc gia, và hệ thống giao thông Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn an toàn, dễ tiếp cận và bền vững.

77% dân số thành thị sống trong các khu ổ chuột hoặc nơi cư trú không hợp pháp, trong khi tỷ lệ dân số tiếp cận giao thông công cộng được phân loại theo nhóm tuổi, giới tính và người khuyết tật Ngoài ra, có một phần trăm các thành phố cho phép sự tham gia trực tiếp và đều đặn của người dân vào quy hoạch và quản lý đô thị một cách dân chủ.

Xe máy vẫn là phương tiện giao thông chính của người dân Việt Nam do hệ thống giao thông công cộng còn hạn chế và chưa tiện lợi, chủ yếu là xe buýt Hệ thống này chưa phát triển thành một mạng lưới đa phương tiện rộng khắp, trong khi dịch vụ logistics cũng gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai và kết nối.

Các thành phố và thị xã đang tích cực nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường, cầu, hệ thống nước sạch, thoát nước, điện và chiếu sáng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cư dân đô thị Hạ tầng nông thôn cũng được cải thiện rõ rệt, với hơn 99% xã trên cả nước có đường ô tô đến trung tâm, mạng lưới điện quốc gia phủ sóng, trường tiểu học và mẫu giáo, cùng với trạm y tế xã Hệ thống thủy nông được xây dựng và hoàn thiện, trong khi hệ thống cung cấp nước sạch nông thôn cũng được đầu tư, với 4.498 xã có công trình nước sạch tập trung tính đến cuối năm 2016.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai và biến đổi khí hậu, đặc biệt là bão, lũ quét, sạt lở đất và hạn hán, với cường độ và tần suất gia tăng từ 1990 đến 2017, gây ra nhiều tổn thất về người và thiệt hại kinh tế Tuy nhiên, khả năng ứng phó kịp thời và hiệu quả với những thách thức này vẫn còn hạn chế.

Hình 17 Thiệt hại do thiên tai giai đoạn 2011-2016

Việc thu gom và xử lý chất thải rắn thông thường đã có những cải thiện đáng kể, đạt khoảng 80% vào năm 2016 Khu vực Đông Nam Bộ dẫn đầu trong việc xử lý chất thải rắn, với hầu hết lượng chất thải được thu gom đều đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia Đồng bằng Sông Hồng cũng ghi nhận khoảng 90% chất thải rắn được xử lý hiệu quả.

Tỷ lệ chất thải rắn thông thường được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia là yếu tố quan trọng trong việc quản lý chất thải Việc đảm bảo rằng một phần lớn chất thải rắn thông thường được xử lý đúng cách không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn nâng cao hiệu quả trong công tác thu gom và xử lý chất thải.

Thiệt hại do thiên tai gây ra (%GDP) Số người chết và mất tích

Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

CẢ NƯỚC Đồng bằng sông Hồng Trung du và miền núi phía Bắc

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

Các đô thị Việt Nam hiện chưa có quy hoạch toàn diện và bền vững, dẫn đến năng lực lập kế hoạch và quản lý định cư có sự tham gia của cộng đồng còn yếu Mặc dù Việt Nam đã kiểm soát khí thải đối với xe ô tô lưu hành, tiêu chuẩn khí thải hiện tại vẫn còn thấp và chưa đủ để giảm ô nhiễm không khí tại các đô thị Nghiên cứu đang được tiến hành để nâng cao mức tiêu chuẩn khí thải Tại các đô thị lớn như Hà Nội, số ngày ô nhiễm bụi PM 10 và PM 2,5 vượt quá giới hạn quy định của Việt Nam ở mức cao.

Hình 19 Diễn biến nồng độ bụi PM 10 tại một số trạm quan trắc tự động, liên tục

Để thực hiện thành công SDG 11, Việt Nam cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển nhà ở cho mọi thành phần kinh tế và người dân Cần khuyến khích sử dụng vật liệu xây dựng mới, thân thiện với môi trường và công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng và giảm giá thành Đồng thời, nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch ở các cấp Cần hoàn thiện thể chế quản lý phát triển đô thị bền vững, xây dựng hệ thống thu gom và xử lý chất thải hiệu quả Đặc biệt, xử lý nước thải tập trung tại các đô thị loại IV trở lên và thực hiện kiểm tra, quan trắc chất lượng nước thải sau xử lý Cuối cùng, cần thúc đẩy và giám sát chặt chẽ việc thực hiện Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn.

Hộp 11 Các chính sách hỗ trợ phát triển nhà ở cho các nhóm đối tượng chính sách xã hội khó khăn về nhà ở nhưng không đủ khả năng thanh toán theo cơ chế thị trường và kết quả ban đầu

Luật Nhà ở 2014 và Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đã xác định rõ cơ chế ưu đãi và trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong phát triển nhà ở xã hội Việc thực hiện các chính sách này đã giúp hàng triệu hộ gia đình và cá nhân nhận được hỗ trợ từ Nhà nước để cải thiện điều kiện nhà ở Tính đến năm 2017, cả nước đã hoàn thành hỗ trợ cho 121.361 hộ gia đình có công với cách mạng, trong đó 63.417 hộ được xây mới và 57.623 hộ được sửa chữa, cải tạo nhà ở.

Cừ - Hà Nội Trạm Lê Duẩn Đà Nẵng Trạm Hùng Vương

Việt Trì Trạm Hồng Hà

Hạ Long Trạm Hùng Vương

HuếQCVN 05:2013 BTNMT (TB năm) àg/m 3

SDG 12: Đảm bảo mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 12

Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách quan trọng liên quan đến SDG 12, bao gồm Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Những chính sách này tạo nền tảng cho các hoạt động cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững Ngoài ra, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cũng đã được ban hành, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các cơ sở ban đầu Đặc biệt, Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020 với tầm nhìn đến năm 2050 đã được Chính phủ phê duyệt.

Đến năm 2030, Việt Nam sẽ hướng tới sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua việc thực hiện các nội dung của SDG 12 Văn bản này tổng hợp các định hướng quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững cho đất nước.

Các văn bản chính sách và luật pháp của Việt Nam đã tích hợp nội dung chính của SDG 12, xác định các mục tiêu cần đạt được vào năm 2020, 2025 và 2030 Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đặt ra mục tiêu tham vọng là chuyển đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng sang hướng bền vững vào năm 2030 Điều này thể hiện quyết tâm và cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc hướng tới một tương lai bền vững.

Nhìn chung, các chiến lược, chính sách Việt Nam, nhất là các văn bản liên quan đến PTBV đều có các nội dung tương thích với SDG 12.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 12

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã mang lại nhiều kết quả tích cực, thúc đẩy quá trình xanh hóa sản xuất và tiêu dùng bền vững Nhận thức của các bên liên quan, bao gồm chính quyền, doanh nghiệp và người dân, về việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh đã có sự chuyển biến rõ rệt, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu SDG 12.

Sau 10 năm triển khai tích cực các dự án thúc đẩy sản xuất sạch hơn trong các doanh nghiệp công nghiệp thông qua các chương trình của Chính phủ và với sự hỗ trợ của đối tác phát triển, hàng ngàn doanh nghiệp Việt Nam đã được tiếp cận với dự án sản xuất sạch hơn và sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đã được triển khai rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, với sự tham gia của hơn 9000 doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp như khai khoáng, sản xuất thép, công nghiệp thực phẩm và nước giải khát, công nghiệp hóa chất, xây dựng và các ngành công nghiệp chế biến khác Nhiều mẫu hình sản xuất bền vững trong công nghiệp, thiết kế sản phẩm bền vững cũng đã bước đầu được thực hiện, tuy nhiên, trên thực tế, còn ở phạm vi hẹp, đa phần nhờ sự hỗ trợ của các dự án có sự hỗ trợ của đối tác phát triển

Trong giai đoạn 2011-2015, Việt Nam đã tiết kiệm được 5,6% năng lượng, tương đương với gần 11,3 triệu tấn dầu quy đổi (TOE) Cường độ năng lượng trong các ngành sản xuất công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng như thép, xi-măng và dệt sợi đã giảm lần lượt 8,1%, 6,3% và 7,3% Kết quả này cho thấy Việt Nam đã đạt được tiến độ theo mục tiêu của Chính phủ trong Chiến lược quốc gia về sản xuất sạch hơn trong công nghiệp.

Bảng 3 Kết quả thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn

Mục tiêu của Chiến lược SXSH

Tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp hiểu biết về SXSH

Tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng SXSH và giảm mức sử dụng năng lượng và nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm (%)

Tỷ lệ các Sở Công Thương có cán bộ chuyên trách về SXSH (%) 70 90 73

Nguồn: Trung tâm sản xuất sạch hơn Việt Nam

Việt Nam đang triển khai một số dự án tái chế và tái sử dụng chất thải công nghiệp để sản xuất vật liệu xây dựng và năng lượng, nhưng các dự án này vẫn còn hạn chế và chưa phổ biến Quản lý chất thải rắn, đặc biệt là chất thải công nghiệp, chưa được thực hiện theo phương thức tổng hợp, khiến doanh nghiệp chưa chú trọng đến các giải pháp giảm thiểu và tái chế Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững SDG 12, cần nỗ lực nâng cao nhận thức và hành động của doanh nghiệp về sản xuất và tiêu dùng bền vững Đồng thời, 29 tỉnh đã áp dụng hệ thống thâm canh tổng hợp trong sản xuất lúa trên diện tích 395 ngàn ha, mang lại hiệu quả cao và giảm phát thải khí nhà kính Công nghệ trong khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản cũng đã được đổi mới với nhiều mô hình phát triển bền vững được triển khai và chuẩn hóa.

Việt Nam đã triển khai chương trình dán nhãn xanh từ năm 2009 để khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hiệu quả tài nguyên và năng lượng Đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cấp nhãn xanh cho 9 nhóm sản phẩm, nhưng chỉ có 4 nhóm thực sự được cấp nhãn nhờ sự hỗ trợ của các dự án Từ năm 2011, việc dán nhãn tiết kiệm năng lượng cho sản phẩm điện và điện tử trở thành yêu cầu bắt buộc, và đến năm 2017, danh sách sản phẩm cần dán nhãn đã được mở rộng sang 4 nhóm khác, bao gồm thiết bị gia dụng và phương tiện giao thông Việt Nam cũng đã áp dụng dán nhãn năng lượng bắt buộc cho ô tô từ 7 chỗ ngồi trở xuống từ năm 2015 và cho xe ô tô từ 7 đến 9 chỗ ngồi từ năm 2018, cùng với lộ trình dán nhãn năng lượng cho xe mô tô từ năm 2020.

Dán nhãn sinh thái là công cụ hiệu quả giúp người tiêu dùng nhận diện sản phẩm xanh và bền vững, từ đó thay đổi thói quen tiêu dùng theo hướng bền vững hơn Tuy nhiên, tiêu dùng bền vững chưa được chú trọng đúng mức bởi doanh nghiệp, người dân và một số cơ quan Chính phủ Các hoạt động triển khai còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào nâng cao nhận thức mà chưa kết nối chặt chẽ, dẫn đến phạm vi tác động chỉ giới hạn trong một dự án hoặc nhóm đối tượng cụ thể, thiếu tính phổ biến và bền vững.

Cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu SDG 12, đặc biệt là sản xuất và tiêu dùng bền vững Trong những năm gần đây, nhiều sáng kiến đã được triển khai, với một số công ty áp dụng các thông lệ bền vững và tích hợp thông tin về bền vững vào báo cáo định kỳ Các mô hình doanh nghiệp phát triển bền vững (PTBV) đã được tôn vinh tại Diễn đàn doanh nghiệp PTBV hàng năm Để thúc đẩy PTBV, Bộ chỉ số Doanh nghiệp bền vững (CSI) do VCCI xây dựng được sử dụng để đánh giá các doanh nghiệp tại Việt Nam Chỉ số PTBV trên thị trường chứng khoán Việt Nam (VNSI) cũng đã được giới thiệu nhằm đo lường hiệu quả PTBV của 20 công ty niêm yết Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức đầy đủ về lợi ích của báo cáo bền vững, dẫn đến tỷ lệ doanh nghiệp có báo cáo này còn thấp.

79 Xem thêm tại trang: http://vea.gov.vn/vn/khoahoccongnghe/nhanxanh/nhanxanhvn/Pages/default.aspx

Quyết định số 51/2011/QĐ-TTg, ban hành ngày 12/9/2011 bởi Thủ tướng Chính phủ, quy định danh mục phương tiện và thiết bị bắt buộc phải dán nhãn năng lượng Quyết định này cũng áp dụng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và xác định lộ trình thực hiện các yêu cầu này nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các sản phẩm tiêu dùng.

Chỉ một số sản phẩm trong danh sách dưới đây cần phải dán nhãn năng lượng Để biết thêm chi tiết, bạn có thể tham khảo tại trang web Thư viện Pháp luật.

Hiện nay, nhiều công ty lớn và đa quốc gia như Unilever, Heineken và Bảo Việt đã áp dụng các thực hành bền vững, đồng thời tích hợp thông tin về bền vững vào các báo cáo định kỳ của họ.

83 Kết quả một cuộc điều tra của VCCI cho thấy chỉ có 3,9% số doanh nghiệp thực sự có Báo cáo bền vững.

Việt Nam đang tích cực áp dụng các thông lệ mua sắm công bền vững, đặc biệt là mua sắm công xanh, được quy định bởi Quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 2011 Theo đó, các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước phải ưu tiên mua sắm thiết bị điện, điện tử có dán nhãn tiết kiệm năng lượng Tuy nhiên, tác động của quy định này đến việc thay đổi thói quen tiêu dùng bền vững còn hạn chế, do tỷ trọng mua sắm công xanh trong tổng chi tiêu của các cơ quan này quá nhỏ Hiện tại, vẫn chưa có quy định bắt buộc về mua sắm công xanh chung cũng như hệ thống tiêu chuẩn cho đầu tư và chi tiêu công xanh.

Để thúc đẩy tiêu dùng bền vững, Việt Nam đã triển khai một số công cụ kinh tế như thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản và nguồn nước, cùng với thuế và phí bảo vệ môi trường (BVMT) đối với nước thải Luật Thuế BVMT, có hiệu lực từ năm 2010, đã xác định 08 nhóm hàng hóa thiết yếu chịu thuế, nhưng vẫn còn nhiều sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường chưa được đưa vào danh sách này Ngoài ra, Luật thuế tài nguyên cũng đã được ban hành nhằm quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

SDG 13: Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 13

Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước khí hậu ngày 11/06/1992, phê chuẩn ngày 16/11/1994 và ký Nghị định thư Kyoto ngày 03/12/1998, phê chuẩn ngày 25/09/2002

Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) nhằm thực hiện cam kết quốc tế Các văn bản quan trọng như Nghị quyết 24-NQ/TW về ứng phó chủ động với BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH, và Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long đã được ban hành Hệ thống chính sách này được hỗ trợ bởi các chương trình như Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, cùng với Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH Mục tiêu của các chính sách này là bao trùm, đặc biệt chú trọng đến thích ứng với BĐKH, và đã được cụ thể hóa qua các dự án quan trọng và nguồn lực thực hiện đến năm 2020 Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến ứng phó BĐKH cũng đã được quy định trong nhiều văn bản luật như Luật Phòng chống thiên tai, Luật Thủy lợi, và Luật Tài nguyên nước.

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là một phần quan trọng trong Luật Bảo vệ Môi trường Các bộ ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, và Bộ Xây dựng đã ban hành các văn bản điều hành cụ thể hóa các chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia, nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của từng bộ ngành.

Các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay còn nhiều bất cập, chủ yếu do các giải pháp thường được đề xuất riêng lẻ cho từng lĩnh vực và vùng miền mà thiếu tính tích hợp, điều này làm giảm khả năng chống chịu cho các đối tượng bị ảnh hưởng, như đã nêu trong SDG 13 Mặc dù việc lồng ghép các yếu tố BĐKH và thiên tai vào chiến lược phát triển đã được pháp lý hóa, quy trình này vẫn chưa thống nhất và thiếu hướng dẫn cụ thể, đặc biệt đối với nhóm dễ bị tổn thương Hơn nữa, việc xây dựng chính sách và chiến lược về BĐKH và quản lý rủi ro chưa dựa trên phân tích giới, dẫn đến thiếu sót trong việc xác định tác động của BĐKH đến nam, nữ và các nhóm dễ bị tổn thương, cũng như việc đề xuất giải pháp cụ thể cho từng nhóm Cuối cùng, các hoạt động nâng cao năng lực, đặc biệt là trong tổ chức và quản lý ứng phó với BĐKH, vẫn chưa được chú trọng đúng mức.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 13

Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia về Biến đổi Khí hậu, với Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý chính Hầu hết các bộ, ngành và địa phương đều có đơn vị chuyên trách về biến đổi khí hậu Chính phủ đã ban hành các chủ trương và chính sách đồng bộ, tạo hệ thống định hướng quan trọng cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.

Việt Nam đã phát triển các kịch bản về tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) tại các khu vực khác nhau và liên tục cập nhật chúng Kịch bản BĐKH chi tiết năm 2016 được xây dựng dựa trên dữ liệu khí tượng thủy văn và mực nước biển cập nhật đến năm 2014, cùng với thông tin địa hình được cập nhật đến tháng 3 năm 2016 Các kịch bản này có mức độ chi tiết đến từng đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng như các đảo và quần đảo của Việt Nam.

Nhóm 89 cần được chú trọng đặc biệt trong việc tiếp nhận thông tin dự báo và cảnh báo thiên tai Họ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ứng phó với các tình huống thiên tai, tham gia tìm kiếm và cứu nạn tại khu vực bị ảnh hưởng, cũng như thực hiện các hoạt động cứu trợ cần thiết.

Năng lực ứng phó của cộng đồng, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và người dân tộc thiểu số, là rất quan trọng trong việc đối phó với thiên tai và biến đổi khí hậu.

Trong công tác cảnh báo và dự báo thiên tai, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể về năng lực cán bộ và trang thiết bị trong giai đoạn 2011-2016, với việc nâng cấp và xây dựng mới 69 trạm khí tượng thủy văn (KTTV), 353 điểm đo mưa, 22 điểm đo mặn và 7 Đài KTTV tỉnh Theo Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, với tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu xây dựng hệ thống quan trắc hiện đại, đạt tiêu chuẩn hàng đầu khu vực Đông Nam Á Tuy nhiên, hiện tại, chỉ có 119/696 trạm khí tượng tự động được đầu tư, mới đạt 17% so với quy hoạch, trong khi số trạm tự động đo mưa và mực nước chỉ đạt 236/461 trạm thủy văn.

51 % so quy hoạch Số trạm đo mưa tự động được đầu tư là 437/4.304 trạm, đạt 10% so với Quy hoạch

Việt Nam hiện có 8/21 trạm ra đa thời tiết, đạt 38% so với quy hoạch, và 19/119 trạm quan trắc tự động, chỉ đạt 16% Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư, hệ thống dự báo khí tượng thủy văn vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn, đặc biệt là trong công nghệ dự báo cực ngắn và dự báo biển Để đạt được mục tiêu về hệ thống quan trắc đến năm 2030, cần có nguồn vốn đầu tư tập trung hơn nữa.

Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005, có hiệu lực từ năm 2006, biến đổi khí hậu đã được tích hợp vào hầu hết các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch thông qua công cụ đánh giá môi trường chiến lược.

Việt Nam đang tích cực huy động tài trợ từ nước ngoài để đầu tư vào các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là những công trình cấp bách tại các địa phương Tính đến nay, khoảng 4.000 tỷ đồng đã được đầu tư cho các hoạt động này.

Việt Nam đã triển khai 26 dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, bao gồm nâng cấp đê biển, đê sông, và các biện pháp chống ngập và xâm nhập mặn Đất nước cũng đầu tư vào nghiên cứu và áp dụng giải pháp phòng chống thiên tai, đạt được nhiều kết quả quan trọng Cụ thể, đã xây dựng bản đồ phân vùng nguy cơ lũ quét cho 14 tỉnh miền núi phía Bắc với tỷ lệ 1:100.000, phân loại thành 5 cấp độ nguy cơ Ngoài ra, hoàn thành bản đồ lũ quét cho 5 tỉnh Tây Nguyên và 14 tỉnh miền Trung với tỷ lệ 1:50.000, cùng với việc lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá cho 15 tỉnh miền núi phía Bắc và bản đồ cảnh báo cho 4 tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Lào Cai, Yên Bái.

Việt Nam cam kết giảm 8% tổng lượng phát thải khí nhà kính (KNK) đến năm 2030, với mục tiêu giảm 20% cường độ phát thải trên mỗi đơn vị GDP so với năm 2010 và tăng độ che phủ rừng lên 45% Mức giảm 8% có thể nâng lên 25% nếu nhận được hỗ trợ quốc tế Để bảo vệ và phát triển hệ sinh thái tự nhiên, Việt Nam đã triển khai Chương trình hành động quốc gia về giảm nhẹ phát thải KNK, bao gồm nỗ lực hạn chế mất rừng thông qua REDD+ Đến cuối năm 2016, tổng diện tích rừng đạt 14.377.682 ha, với độ che phủ rừng 41,19%, tăng 0,35% so với năm 2015, và đạt 41,5% vào năm 2017 Từ năm 2011 đến nay, diện tích rừng tăng thêm 989.607 ha, trung bình 160.000 ha/năm Tuy nhiên, chất lượng rừng có xu hướng giảm, với diện tích rừng tự nhiên giảm 62.675 ha trong giai đoạn 2011-2017, chủ yếu ở các vùng Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng.

Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức Mặc dù BĐKH là vấn đề liên vùng, nhưng phương pháp tiếp cận hiện tại chủ yếu dựa trên tư duy địa giới hành chính, dẫn đến hạn chế trong việc đề xuất và triển khai các dự án liên vùng BĐKH cũng mở ra cơ hội phát triển, tuy nhiên, việc tận dụng những cơ hội này còn gặp nhiều rào cản, đặc biệt là trong việc tiếp cận quỹ khí hậu, công nghệ, đổi mới mô hình tăng trưởng và sự tham gia của khu vực tư nhân trong công tác ứng phó.

91 Trung tâm Khí tượng thủy văn quốc gia, 2017, Báo cáo tình hình triển khai và kết quả thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/11/2017.

92 Đề án “Điều tra, khảo sát, phân vùng và cảnh báo khả năng xuất hiện lũ quét ở miền núi Việt Nam”.

93 Đề án “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam”.

94 Bộ TN&MT, Báo cáo kỹ thuật đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định của Việt Nam (INDC), 2015.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang thiếu sự đột phá trong các chính sách và hành lang pháp lý, khiến cho hoạt động ứng phó với BĐKH chưa rõ ràng Việc tích hợp yếu tố BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển còn hạn chế, dẫn đến sự thiếu hụt trong ngân sách trung ương cho BĐKH, chỉ đạt 71% so với tổng nhu cầu vốn Do đó, một số mục tiêu đề ra không thể hoàn thành.

SDG 14: Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 14

Việt Nam tích cực tham gia các hiệp ước môi trường đa phương, đặc biệt là những hiệp ước liên quan đến bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.

Để thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, Việt Nam đã ban hành và triển khai nhiều chính sách và biện pháp nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo Các luật quan trọng bao gồm Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, cùng với Luật Thủy sản, đã được xây dựng và kèm theo nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết để đảm bảo việc thực hiện các quy định này.

Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã đề ra các mục tiêu quan trọng nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường, phù hợp với SDG 14 Các chiến lược liên quan đến khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên biển, bảo tồn đa dạng sinh học, và phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 đã được triển khai Những văn bản này nhằm xây dựng hệ thống khu bảo tồn biển và nội địa, khuyến khích mô hình quản lý cộng đồng, phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý khai thác thủy sản bền vững và hiệu quả.

Việt Nam đã luật hóa các nội dung liên quan đến chống đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) thông qua Luật Thủy sản được Quốc hội thông qua vào ngày 21/11/2017 Đồng thời, quốc gia cũng đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn chặn, giảm thiểu và loại bỏ khai thác hải sản IUU đến năm 2025.

Việt Nam hiện vẫn thiếu các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt và hệ thống cho việc quản lý và kiểm soát chất thải trên biển, dẫn đến tình trạng quy định trùng lặp và mâu thuẫn trong quản lý đa dạng sinh học biển Chính sách và thể chế quản lý nghề cá còn nhiều hạn chế, hiệu quả thực thi pháp luật chưa cao, và năng lực kiểm soát sản lượng thủy sản cũng như chứng nhận xuất xứ sản phẩm chưa đạt yêu cầu Một số mục tiêu cụ thể của SDG 14 vẫn chưa khả thi hoặc chưa được quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 14

Việt Nam đang tích cực thực hiện kiểm soát ô nhiễm biển, quản lý và bảo vệ hệ sinh thái biển và ven biển, đồng thời phát triển thủy sản theo các mục tiêu trong các chiến lược và chính sách đã đề ra.

Chất lượng nước biển ven bờ và biển khơi vẫn duy trì ở mức tốt, tuy nhiên, khu vực cửa sông và ven bờ có nguy cơ ô nhiễm do tiếp nhận chất thải từ cư dân và hoạt động sản xuất.

95 Đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) 1982, Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra (MARPOL) 1973/1978, Công ước về ĐDSH (CBD) 1992

Mục tiêu SDG 14.1 nhằm ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm biển, cùng với mục tiêu 14.3 giảm thiểu tác động của a-xít hóa đại dương, đang gặp khó khăn tại Việt Nam, đặc biệt là với mục tiêu 14.3 do chưa có văn bản quy định nào liên quan Mặc dù các chiến lược và chương trình phát triển thủy sản đã đề ra mục tiêu giảm số lượng tàu khai thác hải sản và chống đánh bắt bất hợp pháp, nhưng vẫn thiếu sự nhấn mạnh vào việc chấm dứt các hình thức khai thác tài nguyên biển quá mức.

Khu vực cảng biển Khu vực bãi tắm

Cảng Liên Chiểu Âu thuyền Thọ Quang Đà Nẵng

Cảng Dung Quất Quảng Ngãi

Cảng Quy Nhơn Bình Định

Vịnh Hạ Long - Bái Tử Long

Biển Bãi Rạng Quảng Nam

Vịnh Việt Thanh Quảng Ngãi

Biển Quy Nhơn Bình Định

Hình 20 Diễn biến hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình trong nước biển ven bờ tại một số khu vực đô thị ven biển giai đoạn 2012-2016

Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2016

Công tác điều tra và đánh giá đa dạng sinh học (ĐDSH) tại các vùng biển, đảo Việt Nam đã được chú trọng, tuy nhiên, hệ sinh thái thảm cỏ biển đang đối mặt với nguy cơ suy thoái Hiện có khoảng 100 loài sinh vật biển quý hiếm và có nguy cơ đe dọa đã được ghi vào Sách đỏ Việt Nam cũng như Danh mục đỏ IUCN, yêu cầu cần có các biện pháp bảo vệ kịp thời (năm 2015).

Hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Việt Nam đang đối mặt với tình trạng suy thoái nghiêm trọng, thể hiện qua sự giảm sút nhanh chóng về diện tích và chất lượng Kể từ năm 1943, Việt Nam đã mất 67% diện tích rừng ngập mặn, điều này cho thấy sự khẩn cấp trong việc bảo vệ các hệ sinh thái biển Với nguồn lực hạn chế hiện nay, việc đạt được mục tiêu SDG 14.2 vào năm 2030 trở nên rất khó khăn.

Việt Nam đã thành lập 10 khu bảo tồn biển với tổng diện tích 270.272 ha, chiếm khoảng 0,24% tổng diện tích vùng biển của cả nước Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu quy hoạch và mục tiêu SDG 14.5, yêu cầu đến năm 2030 diện tích khu bảo tồn biển và ven biển đạt 3-5% diện tích tự nhiên, đang gặp nhiều khó khăn Bên cạnh đó, việc duy trì hoạt động của các khu bảo tồn biển hiện có cũng là một thách thức lớn do nguồn tài chính hạn chế.

Hơn 70% tàu thuyền ở Việt Nam hoạt động chủ yếu ở vùng nước ven bờ, chiếm 35% tổng lượng khai thác hải sản, mặc dù khu vực này chỉ chiếm 11% diện tích vùng đặc quyền kinh tế Đây là vùng khai thác truyền thống của Việt Nam, nhưng đang phải chịu áp lực khai thác quá mức Sự gia tăng số lượng tàu thuyền, cùng với tình trạng tự do đánh bắt của các tàu nhỏ, đã dẫn đến mất cân đối giữa năng lực khai thác và khả năng tái tạo nguồn lợi Kết quả là hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác ngày càng giảm, mặc dù tổng sản lượng khai thác biển đã tăng từ 2.220 nghìn tấn năm 2010 lên 3.191 nghìn tấn năm 2017, năng suất bình quân lại có xu hướng giảm.

Hộp 14 Sáng kiến liên minh Hạ Long-Cát Bà: Thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức địa phương và cộng đồng

Vịnh Hạ Long và Khu dự trữ Sinh quyển Quần đảo Cát Bà là hai di sản thiên nhiên thế giới quan trọng của Việt Nam, nổi bật với vẻ đẹp cảnh quan và giá trị đa dạng sinh học Sáng kiến Liên minh Vịnh Hạ Long - Cát Bà được thành lập nhằm bảo vệ và phát huy giá trị kinh tế, sinh thái của khu vực này.

Năm 2014, chúng tôi đã khởi xướng việc xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng nhằm thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và bảo vệ Vịnh Hạ Long cùng với Quần đảo Cát Bà.

Sáng kiến do Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) điều phối nhằm vận động các bên liên quan tham gia bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) tại khu vực, thông qua Ban Lãnh đạo Liên minh cấp cao với sự tham gia của doanh nghiệp Ban Lãnh đạo bao gồm đại diện từ các doanh nghiệp, NGO trong và ngoài nước, chính quyền địa phương tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng, cùng các cơ quan Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ Liên minh sẽ xây dựng tầm nhìn và kế hoạch hoạt động, tập trung vào việc nâng cao nhận thức công chúng về môi trường, thúc đẩy chương trình tiêu chuẩn chứng nhận xanh cho tàu du lịch nghỉ đêm, cải thiện chất lượng nước ở Hạ Long-Cát Bà, và đề cử khu Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long mở rộng, bao gồm cả Quần đảo Cát Bà.

SDG 15: Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 15

Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách nhằm thực hiện SDG 15, bao gồm Luật ĐDSH 2008, Luật BVMT 2014, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, cùng với Luật Lâm nghiệp 2017 Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng phó với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên Các chiến lược như Chiến lược BVMT và Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã đề ra nhiều mục tiêu cụ thể về bảo vệ và phát triển rừng bền vững, cũng như bảo tồn đa dạng sinh học Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia Công ước chống sa mạc hóa của LHQ và ban hành chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa vào năm 2006.

Luật ĐDSH ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hệ thống hóa bảo vệ đa dạng sinh học, vốn trước đây còn phân tán trong nhiều luật khác Tuy nhiên, sự không rõ ràng trong việc phân định giữa Luật này và các luật khác đã dẫn đến chồng chéo và khó khăn trong quá trình thực thi.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 15

Việt Nam đã triển khai Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 Dựa trên quy hoạch này, 18 tỉnh thành đã phát triển và phê duyệt kế hoạch bảo tồn ĐDSH cấp tỉnh, trong đó có 13 địa phương đã hoàn thành việc xây dựng quy hoạch.

Từ năm 2011 đến 2016, Việt Nam đã nỗ lực xây dựng và phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ môi trường Đến nay, Việt Nam đã thành lập 164 khu rừng đặc dụng, bao gồm 31 vườn quốc gia và 57 khu bảo tồn thiên nhiên, với tổng diện tích khoảng 2,2 triệu ha Mục tiêu trong tương lai là đạt 10 Khu Ramsar và 10 Vườn Di sản ASEAN được quốc tế công nhận Theo quy hoạch tổng thể, hệ thống khu bảo tồn sẽ mở rộng lên 2,4 triệu ha với 176 khu bảo tồn, bao gồm 16 khu bảo tồn biển và 45 khu bảo vệ nước nội địa Nhiều khu bảo tồn của Việt Nam đã được công nhận quốc tế theo các tiêu chuẩn như Dự trữ sinh quyển.

Di sản thế giới (02), Ramsar (08) và Di sản châu Á (05).

Công tác trồng rừng tại Việt Nam diễn ra tích cực, với trung bình 225.000 ha rừng được trồng mỗi năm, trong đó hơn 90% là rừng sản xuất và năng suất rừng trồng ngày càng được cải thiện Diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý bền vững đạt khoảng 225.000 ha, bao gồm 86.000 ha rừng tự nhiên và 139.000 ha rừng trồng Việc khai thác rừng tự nhiên được quản lý chặt chẽ hơn, với việc đóng cửa rừng tự nhiên toàn quốc vào năm 2017, giúp độ che phủ rừng tăng nhanh lên 41,5% Việt Nam có khả năng đạt mục tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 42% vào năm 2020 theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII Ngoài ra, Việt Nam và Liên minh Châu Âu đã ký kết Hiệp định Đối tác Tự nguyện về Thực thi Lâm luật vào năm 2017.

Hình 21 Diễn biến độ che phủ rừng qua các năm

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Việt Nam đã thành công trong việc triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, giúp tạo nguồn thu cho các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng và nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp Mỗi năm, quốc gia thu được trên 1.200 tỷ đồng, chi trả cho hơn 5 triệu ha rừng Năm 2017, tổng thu đạt hơn 1.675,581 tỷ đồng, vượt 101,5% kế hoạch và tăng 130% so với cùng kỳ năm 2016.

Việt Nam đã thành lập Ban Điều phối quốc gia để thực hiện Công ước chống sa mạc hóa của Liên Hợp Quốc từ năm 2003 Quốc gia này đã tích cực triển khai việc lồng ghép chống sa mạc hóa với các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai Đặc biệt, Việt Nam đã xây dựng thành công các chiến lược tài chính lồng ghép, phối hợp với cơ chế toàn cầu tại địa phương.

“nóng” nhất về sa mạc hóa ở Việt Nam là Ninh Thuận và Bình Thuận

Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm bảo tồn các loài động vật quý hiếm, nhưng kết quả vẫn còn hạn chế Nơi cư trú của động vật hoang dã đang bị thu hẹp do sự thay đổi trong phương thức sử dụng đất, dẫn đến nhiều loài đang ở mức báo động và có nguy cơ tuyệt chủng cao Hiện tại, Việt Nam đang xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn gen và tri thức truyền thống liên quan, đồng thời phát triển hướng dẫn để tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích một cách hiệu quả.

Việt Nam đã nỗ lực xây dựng chính sách và hoàn thiện bộ máy quản lý để kiểm soát buôn bán động, thực vật hoang dã, nhưng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn trong việc ngăn chặn nạn buôn bán động thực vật hoang dã trái phép Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp mang lại lợi nhuận cao, cùng với năng lực hạn chế của các cơ quan thực thi pháp luật bảo vệ động vật hoang dã, đã gây ra nhiều cản trở cho Việt Nam trong việc thực hiện SDG 15.5.

Công tác phòng, chống các loài ngoại lai xâm hại đã đạt được nhiều kết quả tích cực, bao gồm việc thực hiện hiệu quả các biện pháp diệt trừ và tuyên truyền để người dân không nuôi và phóng sinh tự do các loài thủy sinh gây hại Ngoài ra, quy trình kiểm dịch động, thực vật nhập khẩu được kiểm soát chặt chẽ nhằm ngăn ngừa sự xâm hại của các loài ngoại lai Đặc biệt, đã thực hiện đánh giá nguy cơ dịch hại của 8 loài có khả năng trở thành ngoại lai xâm hại và xây dựng bản đồ phân bố của 7 loài dịch hại tại Việt Nam Bên cạnh đó, 04 loại ngô biến đổi gen đã được cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học.

Việc thực hiện SDG 15 đang gặp nhiều khó khăn, bao gồm sự chậm trễ trong việc ban hành văn bản dưới Luật thực thi Luật ĐDSH và những khó khăn trong triển khai Có sự phân tách trong hướng dẫn thực thi giữa các luật liên quan đến bảo tồn ĐDSH, thiếu sự phối hợp trong phân công trách nhiệm quản lý nhà nước Tài chính cho bảo tồn ĐDSH còn hạn chế và không đáp ứng được yêu cầu quản lý Việc khai thác, buôn bán động, thực vật hoang dã nguy cấp vẫn diễn ra không kiểm soát, dẫn đến sự suy giảm của các loài hoang dã, trong khi nhiều quy định về quản lý sinh vật ngoại lai xâm hại chưa được triển khai.

Trong thời gian tới, cần tiến hành rà soát và chỉnh sửa các luật liên quan đến đa dạng sinh học (ĐDSH) một cách đồng bộ Đồng thời, cần tăng cường hệ thống tổ chức quản lý và phân công trách nhiệm trong quản lý nhà nước về ĐDSH Việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật liên quan đến ĐDSH cũng là điều cần thiết để bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên này.

Hộp 15 Các VNGO hỗ trợ công tác bảo vệ rừng và phát triển sinh kế người dân sống dựa vào rừng

Mạng lưới VNGO-FLEGT, được thành lập vào tháng 1/2012 với sự tham gia của 61 tổ chức xã hội và phi chính phủ tại Việt Nam, nhằm nâng cao tiếng nói của các cộng đồng phụ thuộc vào rừng trong việc thực thi Hiệp định Đối tác tự nguyện về Thực thi Lâm Luật, Quản trị rừng và Thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) Mạng lưới đã thực hiện nhiều tham vấn cộng đồng, đánh giá và nghiên cứu thực địa để đóng góp ý kiến cho các nội dung của VPA/FLEGT trong quá trình đàm phán, nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng hiệu quả hơn.

Tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ đã được thực hiện tại 33 cộng đồng thuộc 6 tỉnh, bao gồm Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Bình Định và Bà Rịa Vũng Tàu.

Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA/FLEGT đối với sinh kế của cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng tại 10 tỉnh, bao gồm Thái Nguyên, Yên Bái, Hòa Bình, Phú Thọ, Hà Nội, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Đồng Nai, là một nghiên cứu quan trọng nhằm hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của chính sách này đến đời sống của người dân Việc phân tích này không chỉ giúp xác định các cơ hội và thách thức mà VPA/FLEGT mang lại, mà còn góp phần vào việc xây dựng các chiến lược phát triển bền vững cho các cộng đồng này.

SDG 16: Thúc đẩy xã hội hòa bình, công bằng, bình đẳng vì phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 16

Việt Nam đã phê chuẩn 7 Công ước nhân quyền, bao gồm 5 Công ước liên quan đến lĩnh vực lao động-xã hội Trong khuôn khổ Tổ chức Lao động quốc tế, Việt Nam đã gia nhập 21 Công ước.

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam đã khẳng định quyền con người và quyền công dân thông qua một chương riêng, thể hiện cam kết về khả năng tiếp cận công bằng Để đảm bảo tối ưu các quyền cơ bản này, Việt Nam đã tiến hành nội luật hóa và sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan.

2013, nghiêm túc thực thi các nghĩa vụ và cam kết quốc tế về đảm bảo quyền con người 99

Bộ Luật Hình sự, Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật Hộ tịch, Luật Căn cước, Luật Trẻ em, Luật Tiếp cận thông tin và Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi SDG 16 Luật Trợ giúp pháp lý và các chính sách liên quan đảm bảo mọi người dân được tiếp cận thông tin và bảo vệ các quyền tự do cơ bản theo pháp luật Việt Nam và các hiệp ước quốc tế Chính phủ đang đề xuất bổ sung vào Chương trình xây dựng luật dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu 16.7, đảm bảo quá trình ra quyết định mang tính phản hồi, bao trùm, có sự tham gia của người dân và mang tính đại diện ở tất cả các cấp.

Việt Nam đã phê chuẩn nhiều Công ước và Nghị định thư quốc tế nhằm chống buôn bán người và tham nhũng, bao gồm Nghị định thư về Phòng ngừa, Trấn áp và Trừng trị nạn Buôn bán người, Công ước ASEAN và Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tra tấn Để thực hiện các cam kết này, nước ta đã ban hành Luật Phòng, chống mua bán người và Chương trình phòng chống mua bán người giai đoạn 2016-2020, cũng như Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 với định hướng đến năm 2030 Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng đã được sửa đổi để bổ sung các Điều luật mới, và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12 nhằm tăng cường công tác phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng.

Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 217-QĐ/MT về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận

Nghị quyết liên tịch 403 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến công tác giám sát, phản biện xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội Những tài liệu này nhằm nâng cao hiệu quả và trách nhiệm trong việc giám sát, phản biện xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 16

Việt Nam đã nỗ lực đáng kể trong việc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong tiếp cận công lý, thể hiện cam kết quốc tế về quyền dân sự, chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa Các cải cách tư pháp và luật pháp quan trọng như Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng, Luật Thi hành tạm giữ, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật tiếp cận thông tin và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được thực thi nhằm bảo vệ và thực hiện đầy đủ quyền con người cho công dân, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.

Công ước 97 về các quyền dân sự và chính trị, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước Quyền trẻ em, Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, và Công ước Quyền người khuyết tật đều là những văn kiện quan trọng nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi của các nhóm dân cư khác nhau, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong xã hội.

Việt Nam đã phê chuẩn 5 trong số 8 Công ước về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, cùng với 3 trong 4 Công ước về quản trị thị trường lao động Hiện tại, nước ta đang tiến hành rà soát và nghiên cứu để phê chuẩn 3 công ước cơ bản còn lại, bao gồm công ước số 98 về thương lượng tập thể, công ước số 87 về tự do liên kết và công ước số 105 về xóa bỏ lao động cưỡng bức.

Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 5/9/2017, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển bền vững vì lợi ích của nhân dân.

Việt Nam đã triển khai hiệu quả công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về hòa nhập cộng đồng Ngày 30/7 đã được Chính phủ phê duyệt là "Ngày toàn dân phòng, chống mua bán người" từ năm 2016 Từ năm 2011 đến 2016, Tòa án nhân dân các cấp đã tiếp nhận và xét xử 1.193 vụ án liên quan đến tội phạm mua bán người, trong đó đã xử lý 1.130 vụ.

Năm 2017, các cơ quan chức năng Việt Nam đã xác minh và giải cứu hơn 1.500 trường hợp, trong đó có 600 nạn nhân bị mua bán Tất cả các nạn nhân xác định đều cần được hỗ trợ ban đầu, tư vấn tâm lý, khám sức khỏe và trợ giúp pháp lý Nhiều nạn nhân còn được hưởng trợ cấp khó khăn, học nghề, tạo việc làm và ổn định cuộc sống để hòa nhập cộng đồng.

Vào tháng 5/2017, Tháng hành động vì trẻ em được phát động trên toàn quốc với chủ đề “Triển khai Luật trẻ em và phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em” Cùng năm, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quốc gia về Trẻ em và tổng đài điện thoại quốc gia 111 để hỗ trợ trẻ em Mặc dù có những nỗ lực này, tình trạng bạo hành trẻ em vẫn diễn ra, gây ra mối quan tâm lớn trong cộng đồng Bạo hành trẻ em không chỉ xảy ra trong gia đình mà còn diễn ra tại trường học, cơ sở nuôi dưỡng và trong cộng đồng.

Việt Nam đã nỗ lực bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho trẻ em liên quan đến pháp luật, với tỷ lệ đăng ký khai sinh cho trẻ dưới 5 tuổi đạt 100% Tỷ lệ này không có sự chênh lệch đáng kể giữa trẻ em trai và gái Tuy nhiên, trẻ em ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên vẫn có tỷ lệ đăng ký khai sinh thấp hơn so với các khu vực khác, đặc biệt là trẻ em sống trong các hộ nghèo.

Từ tháng 7 năm 2011 đến tháng 3 năm 2015, các luật sư đã tham gia tố tụng hơn 87.604 vụ, trong đó có 42.342 vụ án hình sự Năm 2016, số vụ luật sư tham gia hoạt động tố tụng đạt trên 23.670 vụ Đặc biệt, đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn và một số đối tượng khác không đủ khả năng thuê luật sư, hệ thống trợ giúp pháp lý đã được triển khai để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

Từ năm 2007 đến 2016, các tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước đã tham gia bào chữa trong 51.721 vụ án Đặc biệt, 100% các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng đều có sự tham gia của luật sư và trợ giúp viên pháp lý.

SDG 17: Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững

(1) Rà soát những chính sách chính có liên quan tới SDG 17

Việt Nam đã ban hành Luật Đầu tư và các chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2030, tạo nền tảng cho chính sách hợp tác và phát triển thương mại toàn cầu Quốc gia này cam kết thúc đẩy hệ thống thương mại đa phương, tuân thủ quy định của WTO và tham gia vào chương trình nghị sự Phát triển Doha Nhờ vào ngoại thương, Việt Nam đã tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do như CPTPP và FTA, gia tăng khả năng cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Bộ Công Thương đang xây dựng Chiến lược phát triển thương mại trong nước đến năm 2025, với tầm nhìn đến năm 2035, tập trung vào bốn lĩnh vực chính: cải cách thể chế từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, chuyển dịch từ nông nghiệp sang chế biến và dịch vụ, giải quyết vấn đề di cư dân số từ nông thôn ra thành phố, và chuyển đổi từ nền kinh tế xuất khẩu sang nền kinh tế hội nhập sâu.

Việt Nam đã phát triển khung pháp lý cho đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) từ năm 1992 với sự ra đời của hình thức BOT và Luật Đầu tư 1992, trải qua 3 lần sửa đổi Năm 2010, Quy chế thí điểm đầu tư PPP được ban hành nhưng còn thiếu sự nhất quán Đến năm 2015, Nghị định 15 của Chính phủ đã làm rõ cơ chế BOT và BTO, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào hạ tầng và phù hợp với thông lệ quốc tế Tháng 5/2018, Nghị định 63 được ban hành để giải quyết các vấn đề còn tồn tại của Nghị định 15, tập trung vào quy định dự án PPP, nguồn lực tài chính và năng lực tổ chức thực hiện dự án.

(2) Những kết quả chính trong thực hiện SDG 17

Chính phủ Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và xây dựng chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác quan trọng Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 quốc gia, trong đó có 26 nước là đối tác chiến lược và toàn diện, đồng thời có mối quan hệ kinh tế, thương mại với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ Việt Nam hiện là trung tâm của liên kết kinh tế khu vực với 59 đối tác FTA, bao gồm 5 nước thành viên thường trực của Hội đồng bảo an LHQ và 15 nước thuộc nhóm G20, tạo ra sự đan xen lợi ích và hợp tác sâu rộng với các đối tác quan trọng.

Tính đến cuối năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán 16 FTA Trong số 16 FTA này có

Việt Nam hiện đã thực thi 10 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 6 FTA với tư cách là thành viên ASEAN và 4 FTA với các đối tác như Chile, Nhật Bản, Hàn Quốc và EEC Ngoài ra, 2 FTA đã hoàn tất đàm phán, bao gồm TPP và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) Hiện tại, 4 FTA khác đang trong quá trình đàm phán, nổi bật là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

101 Văn bản số 311/VPCP-TH ngày 09 tháng 02 năm 2017 của Văn phòng Chính phủ về Chương trình công tác của Chính phủ.

Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng, bao gồm FTA với ASEAN, Hồng Kông, Israel và Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA) Đặc biệt, vào ngày 8/3/2018, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng với 11 quốc gia khác.

Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan trong việc tự do hoá thuế quan thông qua các FTA và hợp tác kinh tế quốc tế Nhờ vào Nghị quyết 19 của Chính phủ, môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh đã được cải thiện, dẫn đến những cải cách đáng kể trong thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu quốc tế Thời gian thực hiện thủ tục hải quan đã được rút ngắn nhờ 100% quy trình được tự động hóa qua Hệ thống thông quan điện tử, cùng với việc thanh toán thuế xuất nhập khẩu bằng phương thức điện tử Tuy nhiên, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện các giải pháp hiệu quả để thúc đẩy và tạo thuận lợi cho xuất khẩu trong khuôn khổ các FTA.

Việt Nam đã thành công trong việc tổ chức Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về thuận lợi hóa trung chuyển và thương mại, đồng thời thực hiện Chương trình nghị sự 2030 cho phát triển bền vững Sự kiện này đã đóng góp tích cực vào các vấn đề quan tâm chung của khu vực và quốc tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường thuận lợi hóa thương mại nhằm hướng tới phát triển bền vững.

Việt Nam đã đẩy mạnh việc huy động tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là từ khu vực tư nhân thông qua hình thức đối tác công tư (PPP) Đến cuối năm 2016, đã có ba dự án PPP hoàn thành với tổng giá trị đạt 667 triệu đô la.

Quốc hội Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), đã tích cực tham gia vào các hoạt động thúc đẩy triển khai Chương trình nghị sự 2030 tại diễn đàn IPU 104 Qua các diễn đàn này, Quốc hội đã góp phần thực hiện mục tiêu SDG 17 về tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững Đồng thời, Quốc hội cũng nghiêm túc xem xét và cụ thể hóa các khuyến nghị dành cho các Nghị viện thành viên của IPU, phù hợp với bối cảnh chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội và quy định pháp luật Việt Nam.

Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực tạo ra một môi trường thuận lợi để khuyến khích sự tham gia của tất cả tổ chức xã hội và người dân trong việc thực hiện, theo dõi và đánh giá các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG).

Trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung vào việc cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực thông quan thương mại quốc tế, đồng thời chủ động nêu ra các rào cản kỹ thuật tại các diễn đàn khu vực và đa phương Bên cạnh đó, cần triển khai hiệu quả công tác tuyên truyền và phổ biến thông tin về các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng như các khuôn khổ hợp tác quốc tế, đồng thời tăng cường cung cấp thông tin về thị trường và ngành hàng xuất khẩu Cuối cùng, việc thiết lập cơ chế quản trị nguồn lực hiệu quả và minh bạch sẽ giúp nâng cao uy tín của Chính phủ và thu hút đầu tư.

103 Quốc lộ 20, Cầu Phú Mỹ và Đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng.

Vào tháng 5 năm 2017, trong khuôn khổ Hội nghị IPU khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Việt Nam, Bộ tiêu chí tự đánh giá thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG) đã được công bố bởi Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) và UNDP Tiếp theo, vào tháng 10 năm 2017 và tháng 3 năm 2018, Quốc hội Việt Nam đã cử đại diện tham gia xây dựng Nghị quyết về việc thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện các mục tiêu SDG, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo Quốc hội cũng tích cực tham gia các diễn đàn nghị viện khu vực như Diễn đàn Nghị viện châu Á-Thái Bình Dương (APPF) và Hội đồng Liên Nghị viện Đông Nam Á (AIPA).

Hộp 17 Việt Nam trong vai trò chủ nhà APEC 2017

Trong vai trò chủ nhà Năm APEC 2017 với chủ đề “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”, Việt Nam đã đề xuất 4 ưu tiên lớn liên quan đến các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), bao gồm thúc đẩy tăng trưởng bền vững, sáng tạo và bao trùm, tăng cường liên kết kinh tế khu vực, nâng cao năng lực cạnh tranh của MSME, và cải thiện an ninh lương thực cũng như nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu Việt Nam đã khuyến khích nhiều sáng kiến hợp tác APEC nhằm thực hiện SDGs, với cam kết mạnh mẽ về thương mại và đầu tư tự do, đồng thời bảo đảm phát triển bao trùm, liên quan đến SDG 8 và SDG 10 về việc làm và tăng trưởng kinh tế Đặc biệt, APEC đã thông qua “Chương trình hành động phát triển bao trùm về kinh tế, tài chính và xã hội”, hướng tới xây dựng một cộng đồng APEC bền vững và tự cường đến năm 2030.

PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN

Ngày đăng: 15/09/2021, 23:02

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT (Trang 8)
Hình 1. Thể chế thực hiện SDG tại Việt Nam - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 1. Thể chế thực hiện SDG tại Việt Nam (Trang 26)
Hình 2. Tỷ lệ thiếu hụt tiếp cận đa chiều của người nghèo cả nước (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 2. Tỷ lệ thiếu hụt tiếp cận đa chiều của người nghèo cả nước (%) (Trang 28)
Khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (Hình 3) như sử dụng điện, nguồn nước hợp vệ sinh… có xu hướng đi lên đồng đều, đồng nghĩa là có sự cải thiện trong đời sống của các hộ dân giai đoạn 2002-2016 - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
h ả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (Hình 3) như sử dụng điện, nguồn nước hợp vệ sinh… có xu hướng đi lên đồng đều, đồng nghĩa là có sự cải thiện trong đời sống của các hộ dân giai đoạn 2002-2016 (Trang 29)
Hình 4. Số hộ gia đình và số người thiếu đói - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 4. Số hộ gia đình và số người thiếu đói (Trang 31)
Hình 5. Năng suất lao động xã hội của nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (triệu đồng/người) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 5. Năng suất lao động xã hội của nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (triệu đồng/người) (Trang 32)
Hình 6. Tỷ lệ dân số tham gia BHYT (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 6. Tỷ lệ dân số tham gia BHYT (%) (Trang 34)
Hình 7. Thống kê số người thiệt mạng do tai nạn giao thông tại Việt Nam giai đoạn 2007-2017 - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 7. Thống kê số người thiệt mạng do tai nạn giao thông tại Việt Nam giai đoạn 2007-2017 (Trang 35)
Hình 8. Tỷ lệ trẻ nhập học tại cơ sở mầm non (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 8. Tỷ lệ trẻ nhập học tại cơ sở mầm non (%) (Trang 37)
Hình 9. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 9. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (%) (Trang 39)
Bảng 1. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính và thành thị-nông thôn (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Bảng 1. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo giới tính và thành thị-nông thôn (%) (Trang 42)
Bảng 2. Hiện trạng hoạt động của các công trình cấp nước tập trung - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Bảng 2. Hiện trạng hoạt động của các công trình cấp nước tập trung (Trang 44)
Hộp 6. Mô hình Quản lý nguồn nước nuôi tôm dựa vào cộng đồng - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
p 6. Mô hình Quản lý nguồn nước nuôi tôm dựa vào cộng đồng (Trang 46)
Hình 10. Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam và các nước giai đoạn 2000-2014 (koE/1000 USD GDP cố định năm 2005) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 10. Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam và các nước giai đoạn 2000-2014 (koE/1000 USD GDP cố định năm 2005) (Trang 47)
Hình 11. Tiềm năng phát triển một số loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam (đơn vị tính MW) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 11. Tiềm năng phát triển một số loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam (đơn vị tính MW) (Trang 48)
Hình 12. Tăng trưởng GDP, tăng trưởng năng suất lao động và tăng trưởng số lao động có việc làm hàng năm giai đoạn 2006-2017 (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 12. Tăng trưởng GDP, tăng trưởng năng suất lao động và tăng trưởng số lao động có việc làm hàng năm giai đoạn 2006-2017 (%) (Trang 51)
Hình 13. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chínhthức (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 13. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chínhthức (%) (Trang 52)
Hình 14. Thay đổi trong Chỉ số Tăng trưởng bao trùm, 2004-2012 - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 14. Thay đổi trong Chỉ số Tăng trưởng bao trùm, 2004-2012 (Trang 53)
Hình 15. Tỷ lệ chi tiêu cho KHCN (%) và số cán bộ khoa học công nghệ/1 triệu dân - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 15. Tỷ lệ chi tiêu cho KHCN (%) và số cán bộ khoa học công nghệ/1 triệu dân (Trang 55)
Hình 16. Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (Hệ số GINI) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 16. Hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập (Hệ số GINI) (Trang 58)
Hình 17. Thiệt hại do thiên tai giai đoạn 2011-2016 - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 17. Thiệt hại do thiên tai giai đoạn 2011-2016 (Trang 61)
Hình 18. Tỷ lệ chất thải rắn thông thường thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia so với chất thải rắn thông thường được thu gom (%) - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 18. Tỷ lệ chất thải rắn thông thường thu gom được xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia so với chất thải rắn thông thường được thu gom (%) (Trang 61)
Hình 19. Diễn biến nồng độ bụi PM10 tại một số trạm quan trắc tự động, liên tục - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 19. Diễn biến nồng độ bụi PM10 tại một số trạm quan trắc tự động, liên tục (Trang 62)
Bảng 3. Kết quả thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Bảng 3. Kết quả thực hiện Chiến lược sản xuất sạch hơn (Trang 64)
Hình 20. Diễn biến hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình trong nước biển ven bờ tại một số khu vực đô thị ven biển giai đoạn 2012-2016 - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 20. Diễn biến hàm lượng dầu mỡ khoáng trung bình trong nước biển ven bờ tại một số khu vực đô thị ven biển giai đoạn 2012-2016 (Trang 72)
Hình 21. Diễn biến độ che phủ rừng qua các năm - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 21. Diễn biến độ che phủ rừng qua các năm (Trang 74)
Hình 22. Tính gắn kết giữa SDG 11 với các SDG khác ở Việt Nam - RÀ SOÁT QUỐC GIA TỰ NGUYỆN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM
Hình 22. Tính gắn kết giữa SDG 11 với các SDG khác ở Việt Nam (Trang 82)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w