1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá hệ thống chính sách thúc đẩy tái chế chất thải rắn phục vụ mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam

15 357 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 15
Dung lượng 451,21 KB

Nội dung

Tuy nhiên, hệ thống chính sách này vẫn còn những bất cập, chưa thúc đẩy tái chế CTR phục vụ mục tiêu PTBV, đó là: sự thiếu khả thi của một số chính sách đặc biệt là chính sách mang tính

Trang 1

1

Đánh giá hệ thống chính sách thúc đẩy tái chế chất thải rắn phục vụ mục tiêu phát

triển bền vững tại Việt Nam

ThS Nguyễn Thị Diễm Hằng, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội

TS Hoàng Văn Thắng, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường

Tóm tắt

Bài báo phân tích vai trò, thực trạng hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển tái chế chất thải rắn (CTR) phục vụ mục tiêu phát triển bền vững (PTBV) tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ thống chính sách hỗ trợ tái chế CTR về cơ bản đã được xây dựng, bao gồm: chính sách phân loại CTR tạo nguồn nguyên liệu đầu vào, chính sách hỗ trợ sản xuất (ưu đãi mặt bằng, hộ trợ vay vốn, giảm thuế…), chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm (trợ giá và khuyến khích tiêu dùng sản phẩm tái chế) Tuy nhiên, hệ thống chính sách này vẫn còn những bất cập, chưa thúc đẩy tái chế CTR phục vụ mục tiêu PTBV, đó là: sự thiếu khả thi của một số chính sách (đặc biệt là chính sách mang tính định hướng, xây dựng chỉ tiêu tái chế CTR); thiếu một số chính sách quan trọng

hỗ trợ toàn diện cho các khâu tổ chức sản xuất của hoạt động tái chế (bao gồm chính sách tạo nguyên liệu, chính sách kiểm soát chất lượng sản xuất và sản phẩm, chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản

phẩm); hệ thống văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm thực hiện chính sách khung được xây dựng

chưa đầy đủ, chưa kịp thời (đặc biệt là các hướng dẫn của Bộ, ngành, hoạt động triển khai của các địa phương) và chưa có những chính sách riêng cho các loại nguyên liệu tái chế đặc thù (như chính sách tái chế chất thải hữu cơ)

Từ khoá: chính sách, tái chế, chất thải rắn, phát triển bền vững

1 Giới thiệu

Theo tổng hợp của Chương trình môi trường Liên hợp quốc UNEP (2010), sau việc giảm thiểu chất thải, tái chế là một hoạt động tạo ra các lợi ích về khí hậu cao nhất trong các hình thức

xử lý chất thải, góp phần chống biến đổi khí hậu [1] Báo cáo của UNEP cho biết, chính việc sử dụng các vật liệu tái chế đã làm giảm năng lượng phải sử dụng so với nguyên liệu nguyên chất Việc tái chế nhựa thay thế nhựa nguyên sinh tạo ra lợi ích khí hậu lớn hơn (tiết kiệm được 700 - 1.500 kg CO2/1 tấn chất thải nhựa); việc sản xuất từ nguyên liệu nhôm tái chế giảm 10-20 lần năng lượng so với nhôm nguyên chất…[1] Tại Mỹ, năm 2006 hoạt động tái chế đã dẫn đến việc tránh sử dụng khoảng 183 triệu tấn CO2 [2] Tại Hàn Quốc, bằng cách tái chế thay vì chôn lấp hoặc đốt, lượng khí thải CO2 đã giảm hàng năm trung bình khoảng 412.000 tấn và khoảng 23.532 tấn khí thải khí nhà kính (CO2) từ bãi rác nhựa hoặc đốt đã bị ngăn cản [5] Thực tế tại nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, khối các nước Châu Âu, Đài Loan, Hàn Quốc… đã chứng minh rằng việc phát triển ngành công nghiệp tái chế, với lợi ích tiết kiệm tài nguyên, đồng thời giảm thiểu tối đa diện tích đất sử dụng chôn lấp, là một giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện mục tiêu phát

Trang 2

2

triển bền vững của mỗi quốc gia với điều kiện các hoạt động tái chế này phải có công nghệ không gây ô nhiễm môi trường, sản phẩm tái chế phải đạt chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng Mục đích ban đầu khi hình thành công nghiệp tái chế là lợi ích tiêu kinh tế đã dần được thay thế bằng việc phát triển công nghiệp tái chế nhằm mục đích hàng đầu là bảo vệ môi trường, đồng thời đạt được lợi ích kinh tế và các lợi ích về xã hội trong tạo việc làm, gia tăng thu nhập

Để đạt được mục đích phát triển tái chế phục vụ mục tiêu PTBV, tất cả các quốc gia đều phải có sự can thiệp của Nhà nước, điều chỉnh sự phát triển của ngành công nghiệp này theo mục tiêu đặt ra, tránh sự chi phối theo quy luật thị trường (lợi nhuận đặt lên hàng đầu) Các chính sách này đảm bảo tạo nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định (quy định về phân loại CTR, luật thu hồi bao

bì, sản phẩm đã qua sử dụng của Nhật, Mỹ ), hỗ trợ nhà sản xuất tái chế (chính sách vay vốn ưu đãi của Hàn Quốc, Nhật Bản đối với hoạt động tái chế), tiêu thụ sản phẩm (các chính sách quy định bắt buộc chính phủ phải sử dụng sản phẩm tái chế của Mỹ, Hàn Quốc…) [2,3,5]

Tại Việt Nam, các chính sách hỗ trợ phát triển hoạt động tái chế đã được quan tâm xây dựng từ lâu, đặc biệt gia tăng trong khoảng 10 năm trở lại đây Tuy nhiên, khối lượng CTR được tái chế tại các đô thị của Việt Nam mới chỉ chiếm từ 8-12% tổng lượng CTR thu gom được [18], chủ yếu là hoạt động tái chế quy mô hộ thủ công tại các làng nghề mà tiêu biểu là làng nghề Minh Khai (Hải Dương), Phong Khê (Bắc Ninh) với quy trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Liệu nguyên nhân có phải do hệ thống chính sách chưa hiệu quả? Để làm sáng tỏ vấn đề này, trong bài báo các tác giả tập trung phân tích hệ thống chính sách, chỉ rõ những nội dung đã đạt được và những vấn đề còn bất cập, chưa thực sự là động lực thúc đẩy phát triển hoạt động tái chế phục vụ mục tiêu PTBV của Việt Nam trong những năm qua

2 Đối tượng, phương pháp nghiên cứu

2.1 Đối tượng nghiên cứu: các chính sách liên quan đến tái chế chất thải rắn của Việt Nam: việc phân tích các chính sách sẽ tập trung vào nội dung chính sách liên quan đến hoạt động tái chế CTR (phân tích thể thức văn bản và các nội dung khác sẽ không thực hiện trong nghiên cứu này) 2.2 Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu về phát triển công nghiệp tái chế CTR, kinh nghiệm các nước trên thế giới trong hoạch định chính sách nhằm phát triển ngành công nghiệp tái chế CTR;

+ Phương pháp điều tra, khảo sát: Khảo sát, phỏng vấn trực tiếp một số cơ sở tái chế trên địa bàn Thành phố Hà Nội: Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội, Công ty cổ phẩn môi trường Thăng Long, Công ty TNHH Thủy lực máy, làng nghề Triều Khúc (H Thanh Trì), HTX môi trường Thành Công, làng nghề Trung Văn (Q Nam Từ Liêm) và Quỹ Môi trường Hà Nội nhằm đánh giá thực trạng triển khai chính sách của nhà nước vào thực tiễn Công tác khảo sát được tiến hành từ năm 2011- 2014;

Trang 3

3

+ Phương pháp phân tích, so sánh: phân tích nội dung chính sách, so sánh các chính sách trong các thời kỳ để đánh giá sự thay đổi của chính sách, tính khả thi của các chính sách

3 Kết quả nghiên cứu

3.1 Các nội dung chính sách cần thiết đối với hoạt động tái chế phục vụ PTBV

Ngành công nghiệp tái chế CTR có những đặc điểm nổi bật, cần có sự can thiệp của chính sách trong phát triển Cụ thể như sau:

+ Là ngành công nghiệp không những có đóng góp trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết một số vấn đề xã hội, mà còn mang ý nghĩa trong việc tham gia giải quyết các vấn đề môi trường đối với chất thải rắn, là một giải pháp nhằm đạt được mục tiêu một xã hội phát triển bền vững Như vậy, việc phát triển ngành công nghiệp tái chế CTR có thể coi như một giải pháp bảo vệ môi trường và cần được sự quan tâm khuyến khích phát triển từ phía Nhà nước, chứ không chỉ đơn thuần để thị trường quyết định theo quy luật của thị trường (yếu tố lợi nhuận được đặt lên hàng đầu)

+ Là ngành công nghiệp mà nguyên liệu đầu vào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động quản

lý, xử lý chất thải rắn của mỗi quốc gia Để tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, một trong những yếu tố quan trọng nguyên liệu đầu vào đã được phân loại, làm sạch để tránh lẫn tạp chất Tuy nhiên, trên thực tế nếu không vì mục tiêu kinh tế, người xả thải sẽ không tự phân loại CTR

Vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đã chú trọng xây dựng hệ thống chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động phân loại CTR tại nguồn [2,3]

+ Đa số lĩnh vực sản xuất trong công nghiệp tái chế mang lại lợi nhuận cao do giá thành đầu vào rẻ hơn so với nguyên liệu mới Tuy nhiên, một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp này không mang lại lợi nhuận cao (thậm chí không có lợi nhuận), nhưng lại mang ý nghĩa rất lớn trong việc giảm tải chất thải, bảo vệ môi trường như hoạt động sản xuất phân hữu cơ từ CTR Ngoài ra, kinh nghiệm thế giới cho thấy, để có một ngành công nghiệp tái chế thân thiện với môi trường, không gây ô nhiễm môi trường, đòi hỏi công nghệ sản xuất phải hiện đại, với chi phí đầu

tư không nhỏ Nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước, sẽ rất khó khăn trong việc kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực này Bên cạnh đó, để đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm tái chế, cần có những công cụ chính sách kiểm soát các sản phẩm tái chế để đảm bảo các sản phẩm này có chất lượng tốt [4]

+ Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nhiều sản phẩm của ngành công nghiệp tái chế, chất lượng và hình thức có thể không so sánh được với sản phẩm cùng loại nhưng sản xuất từ nguyên liệu mới; hoặc nhà sản xuất gặp khó khăn khi tìm kiếm thị trường của các sản phẩm tái chế Vì vậy việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cũng là một hoạt động được các quốc gia quan tâm Nhiều chính sách hỗ trợ như: quy định khối nhà nước cần ưu tiên sử dụng các loại sản phẩm tái chế, gắn logo xác định các sản phẩm từ tái chế và tuyên truyền, vận động người tiêu dùng ưu tiên sử dụng đã được các quốc gia như các nước EU, Mỹ, Nhật, Đài Loan sử dụng [1, 2, 3, 4, 6]

Trang 4

4

Như vậy, theo nhóm tác giả, cần có những chính sách thúc đẩy công nghiệp tái chế CTR theo từng công đoạn như sau:

Hình 1 Hệ thống chính sách cần thiết để thúc đẩy phát triển tái chế phục vụ mục tiêu PTBV

3.2 Đánh giá hệ thống chính sách thúc đẩy tái chế phục vụ mục tiêu PTBV

a Khái quát hệ thống các chính sách liên quan đến phát triển công nghiệp tái chế:

Các chính sách thúc đẩy tái chế được thể hiện khá cụ thể tại các chính sách liên quan đến quản lý CTR của Việt Nam Có thể phân làm 2 loại như dưới đây:

1) Các chính sách mang tính định hướng, giải pháp phát triển: Hệ thống các văn bản thể

hiện chủ trương, định hướng và các giải pháp của Nhà nước đối với thúc đẩy phát triển tái chế CTR đã khá đầy đủ Đáng chú ý là quy hoạch xây dựng khu xử lý chất thải rắn 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020 (2008), Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025 (2009), Đề án “Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường” (2009), đặc biệt

là “Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050” (12/2009) và “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (2012) Trong những văn bản này, quan điểm xử lý CTR chủ yếu theo hình thức giảm thiểu, tái

sử dụng, tái chế với những chỉ tiêu, giải pháp rất cụ thể đã được đề cập Có thể nhận thấy tất cả những giải pháp làm tiền đề cho sự phát triển ngành công nghiệp tái chế CTR đều đã được thể hiện trong các văn bản này

2) Các chính sách được ban hành dưới dạng công cụ điều hành: Hệ thống này bao gồm

các Luật, nghị định, quyết định, thông tư được ban hành để chỉ đạo, điều hành các hoạt động liên quan đến thúc đẩy tái chế CTR Có rất nhiều các văn bản đã được ban hành phục vụ nội dung

- Thúc đẩy phân loại CTR tại nguồn

- Thu hồi vỏ bao bì, các sản phẩm

đã qua sử dụng

- Chính sách ưu đãi: mặt bằng sản

xuất, thuế, hạ tầng cơ sở, vay vốn,

công nghệ…

- Chính sách kiểm soát công nghệ

sản xuất, chất lượng sản phẩm

Tạo nguồn nguyên liệu

Hoạt động tái chế

- Chính sách ưu đãi đối với nhà sản

xuất: trợ giá, hỗ trợ bán hàng…

- Chính sách khuyến khích/bắt buộc

người tiêu dùng sử dụng sản phẩm

tái chế

Tiêu th s n ph m

Trang 5

5

này Các hình vẽ dưới đây đề cập đến những văn bản quan trọng nhất, liên quan mật thiết đến việc thúc đẩy tái chế CTR được ban hành theo sự thay đổi của Luật bảo vệ môi trường (2005 và 2014)

Hình 2 Các văn bản chủ yếu thúc đẩy tái chế CTR (ban hành theo Luật BVMT 2005)

Hình 3 Các văn bản chủ yếu thúc đẩy tái chế CTR (ban hành theo Luật BVMT 2014)

Bảng dưới đây khái quát những nội dung liên quan đến thúc đẩy hoạt động tái chế CTR được thể hiện trong các văn bản điều hành của nhà nước:

Trang 6

6

Bảng 1 Hệ thống các chính sách thúc đẩy tái chế tại Việt Nam

Nội dung cần xây

dựng chính sách

Chính sách tiêu biểu Thực trạng thực hiện chính

sách

1 Xây dựng các chỉ

tiêu của hoạt động

tái chế

“Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm

2025, tầm nhìn 2050” (2009)

Chưa thực hiện được các chỉ tiêu theo lộ trình đã xác định trong chiến lược

2 Tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp tái chế CTR

a Quy định phân loại

CTR tại nguồn

- Luật Bảo vệ môi trường 2005, 2014;

- Các nghị định qua các thời kỳ (NĐ 59/2007/NĐ-CP; NĐ 38/2015/NĐ-CP )

Chỉ có hoạt động phân loại CTR y

tế và 1 phần CTR công nghiệp; chưa triển khai chính thức phân loại CTR sinh hoạt, mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm tại một số phường, xã của Tỉnh, Thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh

b Quy định về việc thu

hồi bao bì sản phẩm

(làm từ bìa, thuỷ

tinh, kim loại )

Chưa có quy định rõ ràng Chưa triển khai

c Quy định thu hồi, xử

lý sản phẩm thải bỏ

Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg

và Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg (Quy định về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ)

Theo QĐ 50/2013/QĐ-TTg, 1 số sản phẩm quy định bắt đầu thu hồi

từ 1/2015, nhưng hiện nay đã lùi lại sớm nhất là tháng 7/2016 theo

QĐ 16/2015/QĐ-TTg

3 Hỗ trợ hoạt động tái chế

a Các chính sách ưu

đãi: mặt bằng sản

xuất, thuế, hạ tầng

cơ sở, vay vốn, công

nghệ

- Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm

2025, tầm nhìn 2050

- Các Nghị định số: 04/2009/NĐ-CP; 19/2015/NĐ-CP

- Thông tư số 121/TT-BTC Hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư cho quản lý CTR

Hiện nay đã có các nhà máy sản xuất phân hữu cơ tại nhiều tỉnh, thành phố được ưu đãi, hỗ trợ về đất sạch, vốn, công nghệ Các nhà máy này đều thuộc cơ quan quản

lý nhà nước

Đã có một số doanh nghiệp được vay vốn ưu đãi từ Quỹ môi trường địa phương

b Các chính sách kiểm

soát chất lượng của

hoạt động tái chế

Chưa có chính sách cụ thể, riêng cho hoạt động này Đặc biệt là việc quy định chất lượng của các sản phẩm tái chế

Chưa thực hiện

4 Hỗ trợ sản phẩm từ

hoạt động tái chế

Nghị định số: 04/2009/NĐ-CP và

NĐ số 19/2015/NĐ-CP Chưa thực hiện

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ hệ thống chính sách hiện hành của Việt Nam

Trang 7

7

b/ Phân tích nội dung chính sách và hiệu quả thực hiện

- Việc xây dựng các chỉ tiêu, nội dung của hoạt động tái chế: được thể hiện tiêu biểu nhất

trong “Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050” (2009) Các chỉ tiêu về tái chế được xây dựng rất cụ thể đối với từng loại CTR, ví dụ như khối lượng CTR sinh hoạt được tái chế, tái sử dụng, thu hồi năng lượng hoặc sản xuất phân hữu cơ từ chiếm 60% năm 2015, 85% năm 2020 và 90% năm 2025 khối lượng CTR thu gom được Có thể thấy đây là những chỉ tiêu rất cao, thể hiện sự mong muốn của nhà quản lý đối với công tác tái chế CTR Tuy nhiên thực tế cho thấy các chi tiêu này không khả thi Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam (2011), tại các đô thị1, tỷ lệ tái chế chỉ đạt ở mức 8-12% khối lượng CTR thu gom được và chủ yếu là các hoạt động tái chế tự phát, vì mục tiêu kinh tế của một bộ phận dân cư tập trung chủ yếu tại các làng nghề Bên cạnh đó, trong những năm qua, nhiều tỉnh đã đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất phân hữu cơ từ CTR như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh,

Hồ Chí Minh… nhưng đến nay hiệu quả hoạt động của một số nhà máy này chưa cao, vẫn duy trì hoạt động cầm chừng như nhà máy chế biến phân hữu cơ Cầu Diễn, Hà Nội [18]

- Về tạo nguồn nguyên liệu đầu vào cho hoạt động tái chế: được thể hiện ở 2 nội dung:

+ Quy định phân loại CTR tại nguồn: Phân loại CTR là một hoạt động quan trọng nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp tái chế CTR Việt Nam đã sớm ban hành chính sách quy định thực hiện nhiệm vụ này, thể hiện ngay tại Luật Bảo vệ môi trường 2005 và 2014 Quy định phân loại đối với từng loại CTR cụ thể, trách nhiệm của đối tượng xả thải, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động phân loại CTR tại nguồn đều được hướng dẫn rất cụ thể tại Nghị định 59/2007/NĐ-CP ban hành năm 2007 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP Tuy nhiên, theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam (2011), trên thực tế hoạt động phân loại chỉ được thực hiện tương đối tốt đối với chất thải y tế (đặc biệt tại các bệnh viện lớn), chất thải từ các hoạt động công nghiệp (tại các khu công nghiệp) Riêng CTR sinh hoạt, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng khối lượng CTR, vẫn chưa có địa phương nào triển khai chính thức hoạt động này2[18]

Bên cạnh đó, các chế tài nhằm hạn chế việc không phân loại CTR tại nguồn chưa được ban hành, đây là giải pháp quan trọng để hoạt động này thành công và đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện3

+ Quy định thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ: Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 50/2013/QĐ-TTg quy định về việc thu hồi, xử lý một số sản phẩm thải bỏ, trong

đó việc thu hồi sẽ được thực hiện từ tháng 1/2015 Quyết định đã nêu rõ được tên sản phẩm cần thu hồi, nhưng một số vấn đề còn chưa rõ ràng như: quy định về thời hạn sử dụng của sản phẩm;

1 Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam – Chất thải rắn (2011), tỷ lệ phát sinh CTR tại các đô thị chiếm 46% tổng lượng CTR toàn quốc.

2

Thành phố Hà Nội là 1 trong những địa phương đầu tiên triển khai thí điểm phân loại CTR sinh hoạt

từ năm 2007 tại 4 phường nội thành Nhưng đến nay hoạt động vẫn chưa được nhân rộng

3

Có thể với hình thức phạt nếu không phân loại CTR được áp dụng ở Nhật, 1 số nước Châu Âu, hoặc tính phí thu gom rác dựa trên khối lượng rác thải ra tại Hàn Quốc (không tính phí với rác có thể tái chế)

Trang 8

8

cách thức thu hồi và chế tài để thực hiện Với những khó khăn trên, đến đầu năm 2015 hoạt động thu hồi sản phẩm chưa được triển khai và tiến trình này đã được lùi lại đến tháng 7/2016 theo Quyết định số 16/2015/QĐ-TTg Theo Quyết định này, phương thức thu hồi sản phẩm đã được quy định rõ hơn, linh hoạt hơn với sự tham gia của cả nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ thu hồi, người sử dụng dịch vụ Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng là các chính sách tài chính để thực hiện hoạt động này như: chế tài đối với nhà sản xuất, ưu đãi tài chính đối với người sử dụng lại chưa được đề cập đến Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cần thiết xây dựng những chính sách này thì kế hoạch thu hồi sản phẩm qua sử dụng mới có tính khả thi4[2,3,5]

- Về hỗ trợ hoạt động tái chế: các chính sách hỗ trợ hoạt động tái chế bao gồm: chính

sách đất đai, chính sách thuế, vay vốn được quy định khá cụ thể trong Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050; Các Nghị định số: 04/2009/NĐ-CP; 17/2015/NĐ-CP và cụ thể hóa trong thông tư số 121/TT-BTC Hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư cho quản lý CTR

Điều đáng quan tâm ở đây là, hoạt động tái chế không được quan tâm khuyến khích nhiều như các hoạt động xử lý chất thải – bao gồm: đốt (không thu hồi năng lượng) và chôn lấp Những khác biệt này thể hiện trong việc giải phóng mặt bằng và bồi thường5, huy động vốn đầu tư6 và trên thực tế tại các địa phương như Hà Nội hoạt động chôn lấp CTR đang được chi trả hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước, còn hoạt động tái chế không được hưởng ưu đãi này (trừ hoạt động sản xuất phân hữu cơ từ CTR) [15, 16, 17] Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngay cả những hỗ trợ cho sản xuất phân hữu cơ từ CTR cũng chưa đảm bảo thu đủ bù chi cộng lãi suất hợp lý Trong giai đoạn trước tháng 01/2015, mặc dù cùng thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội, nhưng hoạt động chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn, Sóc Sơn được nhà nước chi trả toàn bộ theo khối lượng CTR đưa đến xử lý tại bãi rác này, còn hoạt động sản xuất phân hữu cơ tại nhà máy Cầu Diễn lại không được hỗ trợ như vậy [15,16] Khi trả lời phỏng vấn của nhóm nghiên cứu, Lãnh đạo công

ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội cho biết vì không được trợ giá hợp lý nên nhà máy đã

4

Nhiều nước trên thế giới như các nước thành viên EU, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ, Nhật… đã áp dụng nhiều chính sách, trong đó phổ biến là cơ chế đặt cọc-hoàn trả đối với nhà sản xuất để bắt buộc nhà sản xuất phải thu hồi sản phẩm Các doanh nghiệp tiếp tục áp dụng cơ chế này với người sử dụng hoặc áp dụng cơ chế thưởng tiền đối với người sử dụng

5

Theo NĐ 19/2015/NĐ_CP: Đối với hoạt động xử lý chất thải: được hưởng ưu đãi về tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai như các đối tượng thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư và được Nhà nước hỗ trợ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng Đối với hoạt động tái chế: được hưởng ưu đãi về tiền thuê đất theo quy định của pháp luật đất đai như các đối tượng thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.

6

Theo NĐ 19/2015/NĐ_CP: việc huy động từ Quỹ BVMT Đối với hoạt động xử lý chất thải thì chủ đầu tư

dự án nếu áp dụng công nghệ xử lý có tỷ lệ chất thải phải chôn lấp sau xử lý dưới 30% trên tổng lượng chất thải rắn thu gom thì được vay vốn với lãi suất ưu đãi tối đa không quá 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền công bố tại thời điểm cho vay, tổng mức vay vốn không quá 80% tổng mức đầu tư xây dựng công trình; được ưu tiên hỗ trợ sau đầu tư hoặc bảo lãnh vay vốn; đối với hoạt động tái chế: Chủ đầu tư dự án được vay vốn với lãi suất ưu đãi tối đa không quá 50% mức lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền công bố tại thời điểm cho vay, tổng mức vay vốn không quá 70% tổng mức đầu tư xây dựng công trình; được

ưu tiên hỗ trợ sau đầu tư hoặc bảo lãnh vay vốn

Trang 9

9

gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, sản phẩm chất lượng chưa tốt, giá thành cao không cạnh tranh được với các loại phân bón khác trên thị trường

Một số doanh nghiệp tái chế trên toàn quốc đã tận dụng được các ưu đãi như: vay vốn với lãi suất thấp từ Quỹ môi trường, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được cung cấp mặt bằng để phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp tại các tỉnh phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn vay, chính sách ưu đãi của đại bộ phận doanh nghiệp vẫn còn khó khăn bởi một số nguyên nhân như việc vay vốn đòi hỏi tài sản thế chấp trong khi doanh nghiệp khó khăn về tài sản (đặc biệt là các hộ sản xuất và doanh nghiệp nhỏ tại làng nghề), số tiền được vay quá nhỏ so với nhu cầu đầu tư rất lớn của công nghệ tái chế thân thiện môi trường (nguồn vốn từ các Quỹ môi trường luôn thiếu do các địa phương chưa ưu tiên cho BVMT), thiếu quỹ đất sạch (nhiều doanh nghiệp không có khả năng tự giải phóng mặt bằng)

- Về hỗ trợ sản phẩm tái chế: Trợ giá và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm tái chế là 2 nội dung được đề cập đến từ rất sớm trong Nghị định 04/2009/NĐ-CP và tiếp tục được nhắc đến trong Nghị định 19/2015/NĐ-CP

+ Về trợ giá: nếu Nghị định số 04/2009/NĐ-CP quy định sản phẩm tái chế được Nhà nước hỗ trợ về giá theo nguyên tắc bảo đảm thu đủ bù chi cộng lãi suất hợp lý thì nghị định 19/2015/NĐ-CP lại quy định chặt hơn, nếu sản phẩm đáp ứng các tiêu chí về sản phẩm, dịch vụ công ích thì được trợ giá theo quy định của pháp luật về sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích Với quy định mới, số lượng sản phẩm tái chế được hỗ trợ sẽ giảm đi so với trước

+ Về hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm: theo nghị định 04/2009/NĐ-CP, Nhà nước khuyến khích

cơ quan nhà nước sử dụng sản phẩm nếu đạt tiêu chuẩn và thuộc diện mua sắm của cơ quan nhà nước Sự “khuyến khích” này không bắt buộc nên khó khả thi nếu các cơ quan Nhà nước không thực

sự quan tâm đến thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường Nội dung này đã được đề cập rõ hơn trong Nghị định 19/2015/NĐ-CP Theo Nghị định này, người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước có trách nhiệm ưu tiên mua sắm công sản phẩm từ hoạt động tái chế khi mua sắm loại sản phẩm đó và tổ chức, cá nhân ưu tiên mua sắm các sản phẩm thân thiện với môi trường theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Mặt khác, mặc dù trong Nghị định cũng nêu rõ việc giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn cụ thể về điều kiện trợ giá, mức trợ giá và thời gian trợ giá đối với sản phẩm từ hoạt động bảo vệ môi trường, trong đó có sản phẩm tái chế Nhưng cho đến hết năm 2014 vẫn chưa có các hướng dẫn của các Bộ ngành và chính sách này chưa được triển khai trên thực tế Và trên thực tế hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm chưa phát huy hiệu quả

Kết quả phỏng vấn của nhóm tác giả đối với một số đối tượng về đánh giá chính sách thúc đẩy tái chế CTR trong bảng sau nhằm minh hoạ thêm những nhận định về hiệu quả của chính sách hiện nay

Trang 10

10

Bảng 2 Kết quả phỏng vấn một số đối tượng tại Hà Nội về chính sách thúc đẩy tái chế

phỏng vẩn

Ngành nghề

Ý kiến về chính sách

1 Công ty TNHH MTV

Môi trường đô thị Hà Nội

(282 Kim Mã, Ba Đình

Hà Nội)

tháng 9/2011, tháng 4/2013 và tháng 5/2014

Xử lý CTR

- Các chính sách chung khá đủ, đặc biệt

là Nghị định 04/NĐ-CP Nhưng hướng dẫn thực hiện không có nên DN không thực hiện được

- Chính sách trợ giá chủ yếu tập trung cho chôn lấp, tái chế chưa được các địa phương quan tâm như chôn lấp (nhà máy sản xuất phân compost tại Cầu Diễn chưa được trợ giá như hoạt động chôn lấp tại Nam Sơn)

- Chưa có chính sách quyết liệt trong phân loại CTR tại nguồn và các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm

2 Công ty cổ phần môi

trường Thăng Long (48

Bích Câu, Quốc Tử

Giám, Ba Đình, Hà Nội)

Tháng 9/2011

Xử lý CTR

- Doanh nghiệp khó tiếp cận vay vốn ưu đãi từ ngân hàng do thủ tục rườm rà, không có hướng dẫn cụ thể Doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp nhưng chưa có chính sách bảo lãnh tín dụng

- Nguồn vốn từ Quỹ môi trường quá ít

so với nhu cầu của hoạt động tái chế

- Chưa có chính sách đối với công nghệ tái chế, chưa có công nghệ mẫu, chưa có khung giá đối với từng công nghệ tái chế Chưa ban hành đơn giá đối với các sản phẩm tái chế

- Thiếu các thông tư hướng dẫn cụ thể đối với Nghị định 04/NĐ-CP

3 Công ty TNHH Thuỷ

Lực Máy (187 La Thành,

Đống Đa, Hà Nội)

Tháng 11/2012

Sản xuất dây chuyền

xử lý

và tái chế CTR

- Các chính sách đã có tương đối đầy

đủ, nhưng việc thực hiện chưa mềm dẻo

- Chưa có chính sách thúc đẩy tiêu thu sản phẩm tái chế

- Chưa có chính sách hỗ trợ trong cung cấp quỹ đất sạch (không cần giải phóng mặt bằng) Doanh nghiệp đủ năng lực

để thực hiện việc này

4 HTX Môi trường Thành

Công (Nhân Chính,

Thanh Xuân, Hà Nội)

Tháng 8/2013

Xử lý CTR

- Các dự án xử lý CTR nói chung và tái chế CTR chưa được ưu tiên, chưa có chính sách cụ thể hướng dẫn cho doanh nghiệp

- Việc tiếp cận vay vốn rất khó khăn Lĩnh vực này đòi hỏi đầu tư lớn, trong khi các ngân hàng, quỹ đòi có tài sản thế

Ngày đăng: 30/10/2016, 15:16

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w